Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp phụ đạo HS chưa hoàn thành phân môn học vần tiếng việt 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TP. THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
PHỤ ĐẠO HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH
PHÂN MÔN HỌC VẦN - TIẾNG VIỆT LỚP 1

Người thực hiện: Trịnh Thị Cử
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Lý Tự Trọng
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2018


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1.1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 2
1.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM....................................................4
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm..................................................... 4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm...................... 4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết các vấn đề ..................................... 5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,


với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường............................................................14
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..............................................................................15
3.1. Kết luận ......................................................................................................15
3.2. Kiến nghị.....................................................................................................16

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ở bậc Tiểu học môn Tiếng Việt có vị trí đặc biệt quan trọng đó là hình
thành 4 kỹ năng: Nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. Học vần là một phân môn
của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí vô cùng
quan trọng trong chương trình vì nó là “Viên gạch đặt nền móng đầu tiên” cho
sự phát triển Tiếng Việt của học sinh. Nó đảm nhiệm việc hình thành và phát
triển kỹ năng: Nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. Kỹ năng quan trọng hàng đầu
của học sinh ở bậc Tiểu học. Để học tốt môn Tiếng Việt nói chung và phân môn
học vần nói riêng, trên cơ sở đó để tiếp thu và diễn đạt tốt các môn học khác.
Nắm vững được kiến thức Tiếng Việt và rèn luyện thành thạo các kỹ năng đọc,
nghe, nói, viết các em sẽ suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt trong sáng, có khả năng
làm chủ được tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Cũng như các môn học khác,
muốn học tốt phân môn học vần lớp 1, trước hết mọi học sinh phải có lòng say
mê, hứng thú học tập. Bên cạnh đó giáo viên đặc biệt chú ý đến tâm sinh lí của
học sinh cũng như khả năng tiếp thu kiến thức của các em. Do vậy giáo viên
phải làm sao ngay từ những ngày đầu cắp sách đến trường các em phải nhận biết
sơ giản nhất những kiến thức cơ bản chữ cái ghi âm; tiếp theo đọc, viết được các
chữ cái ghi âm đó, tiến đến các em ghép và đọc được vần, tiếng, từ ngữ và câu
ứng dụng. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy, mỗi học sinh có trình độ nhận thức
không giống nhau dẫn đến việc tiếp thu kiến thức không đồng đều. Đối với bất
kì một lớp học nào thì việc có nhiều đối tượng học sinh như: hoàn thành, chưa

hoàn thành vẫn là chuyện bình thường. Vì thế, để chất lượng giảng dạy các môn
học nói chung, phân môn Học vần nói riêng được tốt, không những không còn
học sinh chưa hoàn thành việc đọc mà chất lượng học sinh hoàn thành cũng
được nâng lên nên tôi đã nghiên cứu thực hiện và đã đúc kết thành đề tài: “Một
số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành phân môn Học vần - Tiếng
Việt lớp 1”.

3


1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài này giúp tôi nắm vững được vai trò, mục đích của việc
hình thành và phát triển ở học sinh Tiểu học những kiến thức Tiếng Việt và rèn
luyện thành thạo về các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt: Nghe, nói, đọc, viết. Các
em sẽ suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt trong sáng, có khả năng làm chủ được tiếng
nói, chữ viết của dân tộc mình.
Cho nên có thể nói nhiệm vụ cơ bản của việc phụ đạo học sinh chưa hoàn
thành phân môn Học vần - Tiếng Việt lớp 1 là một yêu cầu rất quan trọng nhằm
giúp cho học sinh sau một quá trình luyện tập lâu dài các em đều nắm vững
được chữ, âm, vần, tiếng, từ và có thể đọc được vần, tiếng, từ một cách chắc
chắn, say mê hứng thú trong học tập.
Đề ra những biện pháp, phương pháp dạy học phù hợp áp dụng vào thực tế
để hình thành cho học sinh kỹ năng học tập ngày càng tốt hơn.
Trên cơ sở đó người giáo viên có thể rèn luyện cho mình các kỹ năng cơ
bản trong quá trình dạy học và từng bước nâng cao chất lượng môn học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Phân môn Học vần - Tiếng Việt lớp 1 là nhằm giúp cho học sinh sau một
quá trình luyện tập lâu dài các em đều nắm vững được chữ, âm,vần, tiếng, từ và
có thể đọc được vần, tiếng, từ một cách chắc chắn, say mê hứng thú trong học
tập.

- Đối tượng nghiên cứu là 32 học sinh lớp 1A - Trường Tiểu học Lý Tự
Trọng
- Tài liệu:
+ SGK Tiếng Việt 1
+ Sách hướng dẫn giáo viên
+ Thiết kế dạy học Tiếng Việt 1
+ Vở bài tập Tiếng Việt 1.
- Là những bài tập thuộc mạch kiến thức phân môn “Học vần - Tiếng Việt”
trong chương trình lớp 1 ở Tiểu học.
4


1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
- Tổng hợp lý luận thông qua các tài liệu, sách giáo khoa và thực tiễn dạy
học của lớp 1A - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng - Thành phố Thanh Hóa.
- Đánh giá quá trình dạy phân môn Học vần - Tiếng Việt từ những năm
trước và những năm gần đây.
- Dự giờ trao đổi với ý kiến với đồng nghiệp về nội dung phân môn Học
vần - Tiếng Việt.
- Tổng kết rút kinh nghiệm qua quá trình dạy học.
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề
tài.

5



2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Một trong những mục tiêu quan trọng mà môn Tiếng Việt ở Tiểu học cần
phải hướng đến là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng hoạt động
ngôn ngữ như: nghe, nói, đọc, viết. Đó là những kĩ năng cơ bản, nền tảng, có
tính chất công cụ giúp các em học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học
khác trong nhà trường phổ thông. “Đối với Tiểu học, Tiếng Việt là tất cả !”.
Đọc thông, viết thạo là một trong những kĩ năng cơ bản của học sinh Tiểu học
nói chung và của học sinh lớp 1 nói riêng. Học sinh đọc thông, viết thạo nếu có
sự giúp đỡ, động viên, khen ngợi và sửa sai kịp thời của giáo viên. Học sinh đọc
đúng đó là biểu hiện của kết quả rèn đọc.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Kết quả khảo sát chất lượng học sinh lớp 1A.
Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp 1A Trường Tiểu
học Lý Tự Trọng với nội dung sau:
+ Tìm hiểu số học sinh học mẫu giáo và số học sinh không học mẫu giáo
hoặc học không đều và tìm hiểu lý do học sinh không học mẫu giáo.
+ Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái đã học ở trường mầm non
Kết quả thu được như sau:
+ Kết quả khảo sát số học sinh học mẫu giáo, không học mẫu giáo
hoặc học không đều
Sĩ số
32 học sinh

Học sinh
không học mẫu giáo
5 học sinh


Học sinh
đi học không đều
13 học sinh

Học sinh
đi học đều
14 học sinh

+ Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái đã học ở trường mẫu giáo

Sĩ số

Học sinh
biết từ 2 - 3 chữ cái

Học sinh
biết từ 5- 10 chữ cái

32 học sinh

6 học sinh

16 học sinh

Học sinh
nhận biết hết bảng
chữ cái
10 học sinh

6



Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện chữ cái một cách chắc chắn chính xác
bảng chữ cái quá thấp dẫn đến kết quả học tập chưa cao.
2.2.2. Nguyên nhân
Vào những ngày đầu tiên đến trường, các em được làm quen với các chữ
cái ở lớp mẫu giáo và khi ở nhà. Nhưng học sinh nhập tâm và ghi nhớ một cách
máy móc. Nhiều em mới vào học đã đọc bài trong sách một cách thành thạo.
Song khi giáo viên hỏi chỉ xem âm, vần, tiếng đó nằm ở đâu thì các em lúng
túng không chỉ ra được. Như vậy các em đã học vẹt, từ chỗ học vẹt, không nắm
vững nội dung yêu cầu sẽ dẫn đến khả năng sai kiến thức. Từ đó sẽ có tình trạng
học sinh chưa hoàn thành về môn Tiếng Việt. Vậy để nâng cao chất lượng học
tập của học sinh lớp 1A ngay từ đầu năm học, tôi đã đề ra một số biện pháp giúp
các em nắm vững âm, vần, tiếng, từ một cách chính xác, tạo điều kiện cho các
em học tốt môn học này và làm nền tảng cho các môn học khác.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Căn cứ vào các nguyên nhân trên, tôi đã áp dụng một số giải pháp và tổ
chức thực hiện như sau:
2.3.1. Biện pháp tác động giáo dục
- Từ những thực trạng đã khảo sát các em tôi tiến hành họp phụ huynh học
sinh và đề nghị, yêu cầu phụ huynh trang bị đầy đủ sách, vở, dụng cụ học tập
cần thiết để phục vụ cho các môn học.
- Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở, uốn nắn kịp thời việc học, làm bài
ờ nhà và rèn luyện cho các em sự tự giác học tập của người học sinh.
- Tham mưu với nhà trường kịp thời để giáo viên có đủ đồ dùng dạy học
như tranh ảnh, tài liệu tham khảo,… cần thiết để phục vụ cho việc giảng dạy
được tốt và có chất lượng cao. Đồng thời đề nghị nhà trường cho học sinh nghèo
mượn sách, vở, đồ dùng học tập,… để tiếp tục học tập, theo đuổi ước mơ của
mình.
- Xây dựng “Đôi bạn cùng tiến”, “Đôi bạn hoàn thành - chưa hoàn thành”

kèm cặp nhau để cùng tiến bộ. Đồng thời sắp xếp chỗ ngồi hợp lý để các học
sinh hoàn thành tốt thực hiện giúp đỡ các học sinh chưa hoàn thành.

7


- Đưa ra các tiêu chuẩn thi đua cho từng nhóm. Thực hiện “Truy bài đầu
giờ” giữa các học sinh trong tổ với nhau. Vào giờ sinh hoạt lớp cuối tuần, các tổ
sẽ báo cáo việc thực hiện thi đua của tổ mình. Qua đó, giáo viên sẽ tổng kết vào
cuối tháng và trao các phần thưởng nhỏ như phấn, bảng, bút chì, gôm tẩy, vở,
chì màu, … cho các tổ, cá nhân thực hiện tốt các tiêu chuẩn thi đua nhằm
khuyến khích tinh thần học tập của các em.
2.3.2. Rèn kỹ năng đọc.
Để tránh tình trạng học vẹt và giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ
bản của phân môn Học vần: Đọc, viết thành thạo đúng chính xác, nghe phát âm
chuẩn, nói rõ ràng tròn câu, viết đẹp… Ngay từ đầu năm học giáo viên cần dạy
kĩ cho học sinh nắm vững các nét cơ bản và sau đó nắm vững âm và chữ ghi âm.
Vì nếu học sinh nắm vững chắc được phần này thì sang phần vần học sinh học
sẽ dễ dàng hơn.
a. Đối với học các nét chữ cơ bản (Tuần 1)
*Giúp học sinh nắm chắc các nét cơ bản.
- Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp lớp, tôi cho học sinh học các nét cơ
bản, dạy thật kỹ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Nhằm giúp học sinh dễ
hiểu, dễ nhớ những nét cơ bản, tôi phân các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống
nhau thành từng nhóm, để các em dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ
bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái.
Các nét chữ cơ bản và tên gọi:
Nét sổ thẳng
Nhóm 1
Nét ngang

Nét xiên trái (giống dấu thanh huyền)
Nét xiên phải (giống dấu thanh sắc)
Nét móc ngược (chữ l)
Nét móc xuôi (chữ n, m)
Nhóm 2

Nét móc hai đầu (chữ h, p, ph)
Nét móc hai đầu có nét thắt ở giữa (chữ k)
Nét thắt (chữ b, v, r)
Nét cong hở phải (chữ c)

Nhóm 3

Nét cong hở trái
Nét cong kín (chữ o, ô, ơ)
8


Nhóm 4

Nét khuyết trên (chữ h, l, b)
Nét khuyết dưới (chữ g, y)

Trên tiết dạy giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm được các nét cơ bản,
bằng cách đọc gắn liền với nhận dạng trên bảng lớp, trong vở đặc biệt là các đồ
vật có thực tế ở lớp, ở trường
Ví dụ:
Nét sổ ( | ) giống như cây thước để đứng hay cạnh thẳng đứng của khung
cửa lớp ra vào, nét móc xuôi ( ) giống như lưỡi câu cá, nét cong kín (O) giống
như chiếc vòng đeo tay…

Bên cạnh đó nhằm giúp học sinh tránh nhầm lẫn giữa nét này với nét khác,
để khắc sâu kiến thức cơ bản giáo viên gợi ý hướng dẫn học sinh so sánh để
nhận biết điểm giống nhau giữa các nét.
Ví dụ:
Nét cong hở - phải (C) và nét cong hở - trái ( ) đều giống nhau là nét cong
khác nhau là nét cong hở phải thì hở bên phải, nét cong hở trái thì hở bên trái
b.Đối với dạy học âm (Tuần 2 - Tuần 6)
* Học sinh phân biệt sự khác nhau giữa chữ in trong sách giáo khoa
với chữ viết thường.
- Sau khi học sinh đã học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét cơ bản một cách
vững vàng thì tiếp theo là phần học âm. Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô
cùng quan trọng. Các em có nắm chắc từng chữ cái thì mới ghép được các chữ
vào với nhau để tạo thành tiếng, các tiếng ghép lại với nhau tạo thành từ và câu.
Trong giai đoạn này, tôi chú ý cho các em phân tích từng nét chữ cơ bản của
từng chữ cái vì một số em chưa nhớ mặt chữ. Để học sinh đọc được chữ và ghi
được con chữ, tôi cho các em phân biệt chữ in thường trong sách giáo khoa với
chữ viết thường.
*Ví dụ:
Âm a - a Chữ ghi âm a gồm nét cong kín và nét móc.
Âm b - b Chữ ghi âm b gồm có nét khuyết trên kết hợp với nét thắt.
Âm g - g Chữ ghi âm g gồm có nét cong kín và nét khuyết dưới.
Âm h - h Chữ ghi âm h gồm có nét khuyết trên và nét móc hai đầu.

9


Âm k - k Chữ ghi âm k gồm có nét khuyết trên và nét móc hai đầu có thắt
ở giữa
Âm l - l Chữ ghi âm l gồm có nét khuyết trên nối liền nét móc xuôi.
Âm p - p Chữ ghi âm p gồm có nét thẳng ngắn hơi chéo về bên phải,

nét thẳng đứng và nét móc hai đầu.
Âm r - r Chữ ghi âm r gồm có nét thắt và nét móc xuôi.
Âm s - s Chữ ghi âm s gồm có nét thắt nối liền nét cong hở trái.
Âm v - v Chữ ghi âm v gồm có nét móc ngược nối liền với nét thắt.
Âm x - x Chữ ghi âm x gồm có nét cong hở phải và nét cong hở trái.
- Từ việc học kỹ các nét cơ bản, sẽ giúp các em phân biệt được sự khác
nhau cả về cấu tạo và tên gọi của 4 âm sau: d và b; p và q.
Ví dụ:
- Âm d có nét cong kín nằm bên trái, nét sổ thẳng.
- Âm b có nét cong kín nằm bên phải, nét sổ thẳng.
- Âm p có nét cong kín nằm bên phải, nét sổ thẳng xuống dưới.
- Âm q có nét cong kín nằm bên trái, nét sổ thẳng xuống dưới.
- Để giúp học sinh khắc sâu kiến thức đi sâu vào trọng tâm bài, giáo viên
gọi học sinh so sánh để nhận biết điểm giống và khác nhau giữa âm này với âm
khác.
Ví dụ: Khi dạy: d và đ giáo viên hỏi học sinh:
+ Giáo viên: giữa âm d và đ giống và khác nhau ở điểm nào?
+ Học sinh: âm d và đ giống nhau là d, khác nhau là đ thêm dấu ngang. Để
học sinh nhớ một cách chắc chắn hơn, giáo viên hướng dẫn học sinh học thuộc
câu:
“d, đ hai chữ giống nhau
Chữ đ khác bởi trên đầu gạch ngang”
Tương tự như trên GV hướng dẫn học sinh nhận biết giữa âm e, ê giống
nhau là e, khác nhau là ê có thêm dấu mũ. Hay Gv hướng dẫn học sinh học
thuộc câu.
“e, ê giống tựa như nhau
ê thì đội mũ, e thì trống trơn”

10



Mặc dù những âm - chữ ghi âm đã học xong đã được nhận dạng trên bảng
lớp, nắm được cấu tạo qua phân tích hay nhận dạng trên bộ chữ thực hành …
Nhưng tôi vẫn còn nhận thấy học sinh nhầm lẫn âm này với âm khác.
Ví dụ: Như âm d, q để giúp học sinh khác khắc phục tình trạng trên vào
các tiết ôn tập (âm chữ ghi âm) tôi đố học sinh một câu đố để giúp các em
thư giãn trong giờ học, đồng thời củng cố lại các âm và các nét cơ bản:
“Quả gì ở tận trên cao
Chẳng phải giếng đào mà có nước trong”
(là quả gì?)
+ Học sinh trả lời: là” quả dừa” ơ’ trên cao, giáo viên hỏi tiếp:
+ Hỏi: tiếng dừa có âm gì đứng trước đã học rồi? Trả lời: âm d giáo viên
hỏi tiếp: Am d gồm mấy nét? Đó là những nét nào? Học sinh trả lời: có 2 nét:
nét cong kín và nét thẳng; đến đây giáo viên hướng dẫn học sinh nhận biết dừa
có chữ d, như vậy nét thẳng đứng sẽ lên cao trên nét cong, q thì ngược lại .
c. Đối với dạy học vần (tuần 7 - tuần 24)
* Hướng dẫn đọc cho học sinh.
- Phần Học vần tiếp tục rèn đọc cho các em, nhất là học sinh chưa hoàn
thành. Qua nhiều năm giảng dạy khối lớp 1, tôi thấy việc học sinh ghép chữ ở
bài khóa không có hiệu quả mà lại tốn thời gian, nên tôi tập trung cho học sinh
đánh vần vần ở phần bài khóa và đọc trơn từ và câu ứng dụng. Gọi học sinh
chưa hoàn thành đọc cá nhân (1- 2 em cùng đọc) và xen kẽ đồng thanh, không
cho các em đọc cá nhân bài khóa hoặc câu khóa dài, như thế dẫn đến lớp học
mất trật tự. Kéo dài thời gian đánh vần vần, giúp học sinh chưa hoàn thành khắc
sâu vần, đọc và viết đúng vần. Để học sinh chưa hoàn thành đọc - viết được, tôi
đã chú trọng việc đánh vần vần nhiều lần trong tiết học, tạo một đường mòn
trong bộ nhớ học sinh.
* Ví dụ: Khi dạy bài: en - ên, trong bài ứng dụng: Nhà Dế Mèn ở gần bãi
cỏ non. Còn nhà Sên thì ở ngay trên tàu lá chuối. Cho học sinh chưa hoàn
thành việc đánh vần vần lại hai câu đó từ 10 - 20 lần. Sau đó, tôi cho học sinh

đọc trơn tiếng ngược từ cuối câu lên đầu câu khoảng 10 lần, lần sau nhanh hơn
lần trước. Nếu học sinh chưa đọc trôi chảy thì cho đánh vần lại. Tiếp theo, cho
các em đọc xuôi chỉ cần 3-5 lần, khi thấy học sinh đọc được rồi thì cho các em
nhớ - viết hoặc nhìn viết hai câu đó vào vở.

11


- Để tránh đọc vẹt, trong phần câu và bài ứng dụng, tôi cho học sinh “đọc
vỡ” từng chữ trước khi đọc cả câu. Cho học sinh đọc không theo thứ tự, quan sát
phát hiện em nào “nhắp miệng” hoặc không đọc kịp thì gọi em đó đọc trơn. Nếu
không đọc được thì cho đánh vần lại, cho học sinh đọc ngược từ cuối câu lên
đầu câu.
Ví dụ:
Gió từ tay mẹ
Ru bé ngủ say
Thay cho gió trời
Giữa trưa oi ả.
Hướng dẫn học sinh đọc như sau:
ả/oi/trưa/giữa/trời/gió/cho/thay/say/ngủ/bé/ru/mẹ/tay/từ/gió
- Sau khi học sinh đọc tiếng, từ, câu không theo thứ tự và đọc ngược thì tôi
cho các em đọc xuôi, bây giờ bắt đầu chú ý đến nghĩa của câu. Học sinh đọc
xuôi ở giai đoạn này để không “bị thuộc lòng sớm”.
- Khi dạy bài mới trong phần kiểm tra bài cũ, tôi đã đưa những vần mà học
sinh dễ nhầm lẫn để củng cố kiến thức cũ và đồng thời so sánh với vần mới học,
như vậy các em sẽ nắm vững vần hơn.
Ví dụ: ay - ai, eo - oe, ao - oa, iu - ui, uôn - un, ong - on, ăng - ăn, âng ân, ung - un, eng - en, iêng - iên, uông - uôn, ương - ươn, ang - an, inh - in,
ênh - ên, ôm - om, uôm - ôm, ôt - ot, ươt - ưt, ac - at, ăc - ăt, âc - ât, uc - ut,
ưt - ưc, uôc - uôt, iêc - iêt, ach - ac, ôp - op…
- Cứ tiếp tục như vậy đến tuần 13 cho học sinh đọc sách giáo khoa, báo,

truyện thay cho bìa vàng. Còn bảng bin gô luôn sử dụng trong phần học âm và
học vần để tạo điều kiện giúp đỡ các em chưa hoàn thành. Tôi thường xuyên
mượn truyện tranh cho học sinh chưa hoàn thành đọc để nhớ mặt chữ.
- Không những cho học sinh đọc, viết trong môn Học vần mà các môn học
khác như: Đạo đức, Tự nhiên và xã hội,… tôi lấy bài học đó, cho học sinh chưa
hoàn thành rèn đọc và viết nhiều lần để các em nhớ lâu mặt chữ.
- Phần giải lao giữa tiết cũng là sân chơi của học sinh chưa hoàn thành, rèn
cho các em tính mạnh dạn, hoạt bát, đồng thời rèn kỹ năng giao tiếp cho các em.
- Học sinh đọc bài khóa xong, tôi hướng dẫn các em viết, dành nhiều thời
gian để giúp các em yếu tái hiện được con chữ vừa học. Trong câu lệnh tôi đã
dùng yếu tố “Zêrô ngôn ngữ” để học sinh tập trung chú ý trong khi viết. Khi

12


hướng dẫn viết vần mới học, nếu hai vần tương đồng về mẫu chữ, ví dụ như:
(ung - ưng, ăng - âng, ong - ông, inh - ênh….) thì tôi chỉ viết mẫu một vần
không viết mẫu tiếng và từ nhưng chủ yếu là quán xuyến lớp để mọi học sinh
theo dõi lúc viết mẫu. Tôi vừa viết, vừa nói kĩ thuật viết, tạm dừng để quan sát
học sinh thử có em nào lơ đãng không, sau đó cho học sinh viết bóng rồi viết
bảng con nhiều lần, dành nhiều thời gian viết cho học sinh nhất là các em chưa
hoàn thành.
- Trong phần luyện nói, tôi vận dụng phương pháp “luyện theo mẫu”
thường xuyên chỉ định học sinh chưa hoàn thành nhắc lại lời học sinh hoàn
thành vừa nói. Trong bài học tôi chuẩn bị thêm câu hỏi phụ dành cho học sinh
chưa hoàn thành.
d. Thường xuyên ôn âm, vần trong tiết học.
Sang phần âm ghép, tôi sắp xếp các âm, có âm h đứng sau thành một nhóm,
để các em dễ phân biệt sự giống nhau và khác nhau của các âm đó.
* Ví dụ:

ch - c
nh - n
th - t
kh - k
gh - g
ph - p
ngh - ng
- Còn các âm gi, tr, qu, tôi cho học sinh đọc kỹ cấu tạo và cách ghép chữ.
* Ví dụ: âm gi, tr (o, ô, a, e, ê..); âm qu (a, e, ê)
- Để học sinh phát âm chính xác và hỗ trợ cho phân môn chính tả, tôi phân
từng cặp như sau: ch - tr, ng - ngh, c - k, g - gh, s - x, … cho các em nắm qui tắc
chính tả, ví dụ: ngh, gh, k thường đi với 3 âm: e, ê, i
c, ng, g, … thường đi với các âm: a, o, ô, u, ư, …
- Sau khi học xong phần đọc cho các em viết chính tả đưa vào ngữ cảnh, ví
dụ: ch (chó), nh (nhà) th (thỏ), kh (khỉ), gh (ghế), g (gà), ph (phố), ngh (nghệ),
ng (ngừ)…
- Trong từng tiết học, tôi đều cho học sinh đọc kỹ trong bìa vàng, đọc theo
chiều mũi tên là: “Đọc giải mã chữ thành tiếng” chưa chú ý đến nghĩa, đọc

13


đúng và nhanh mới thật sự biết đọc chứ không phải đọc vẹt. Đọc xuôi là đọc
“hiểu”.
- Để củng cố và khắc sâu kiến thức về âm cho học sinh, hàng ngày tôi
thường cho các em đọc ở bảng bin gô, nhất là học sinh chưa hoàn thành cho đọc
nhiều lần không theo thứ tự, để giúp các em nhớ âm một cách chắc chắn, chống
tình trạng đọc vẹt không nhớ mặt chữ.
- Tăng cường củng cố những kiến thức đã học trên từng trang sách và qua
từng bài, nhằm rèn luyện tốt cả hai kĩ năng đọc, viết cho học sinh, học đến đâu

các em có khả năng đọc, viết được một cách chắc chắn ngay đến đó.
- Thường xuyên ôn âm ngay trong tiết học, ôn tập có địa chỉ - địa chỉ về
âm. Trong số các âm đã học, âm nào học sinh trong lớp chưa được học do vắng
học hoặc chưa nắm chắc thì mới ôn âm đó. Điều này yêu cầu tôi phải thường
xuyên theo dõi sát từng đối tượng học sinh, để xác định âm nào cần ôn chứ
không ôn tập tràn lan.
Ví dụ 1: Khi dạy âm t - th: Lớp 1A có em Quỳnh Trang, Văn Nguyên chưa
thuộc âm th. Hôm sau học bài âm u - ư có tiếng thư, thu, thứ, gọi các em đó
đánh vần lại tiếng “thư”, tiếng “thu” trong từ “cá thu”, tiếng ‘thứ” trong từ
“thứ tự” để học sinh nắm được âm th.
Ví dụ 2: Khi dạy bài âm ph - nh có em Anh Tài, Nguyên, Cương chưa
thuộc âm nh, cho các em đó đánh vần lại bài học sau, tiếng “nhà” trong từ “nhà
ga”, tiếng “nhớ” trong từ “ghi nhớ” để học sinh nắm vững âm nh.
Với cách ôn âm như vậy, tôi thực hiện thường xuyên trong từng tiết lên lớp,
xong phần học âm tất cả học sinh chưa hoàn thành của lớp đã nắm vững các âm.
2.3.3. Vận dụng chuyên đề: “Đổi mới phương pháp dạy môn Tiếng Việt ở
lớp 1”.
- Để tránh tình trạng đọc vẹt và nâng cao chất lượng học tập của lớp, tôi áp
dụng chuyên đề: “Đổi mới phương pháp dạy môn Tiếng Việt cho học sinh
lớp 1” xem đây là sân chơi dành cho học sinh chưa hoàn thành. Các em học sinh
chưa hoàn thành được gọi đọc nhiều lần, sao cho ở phần âm mỗi em học sinh
chưa hoàn thành được đọc từ 5 - 7 lượt nhằm cho các em nắm vững được âm,
nhớ lâu mặt chữ.
- Khi cài từ ứng dụng lên bảng, tôi không đọc mẫu mà chỉ định học sinh
đồng thanh không theo thứ tự. Áp dụng cách: “đồng thanh trễ một nhịp”, đây là

14


việc làm hết sức quan trọng để tất cả học sinh đều tập trung chú ý ở bảng, có

thời gian các em chưa hoàn thành “truy xuất kiến thức” và cũng để có thời
gian tôi quay xuống quan sát miệng học sinh chưa hoàn thành. Sau ½ phút đồng
thanh, phát hiện em nào “nhắp miệng” thì chỉ định em đó đọc lại âm, tiếng rồi
cho các em đọc trơn đồng thanh lại từ ứng dụng. Để áp dụng phương pháp này
hình thành thói quen và rèn nề nếp của lớp, tôi qui định tiếng gõ thước cụ thể
như sau:
- Gõ một tiếng: học sinh chú ý lên bảng.
- Gõ hai tiếng: học sinh đọc đồng thanh.
Với cách đọc: “đồng thanh trễ một nhịp”, tôi nhận thấy chất lượng học tập
của học sinh lớp 1A tiến bộ rõ rệt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
- Sau thời gian sử dụng các biện pháp trên trong dạy Học vần lớp một, tôi
thấy không khí lớp học vui tươi, rất nhiều HS tham gia học tập tích cực, giúp
được nhiều học sinh chưa hoàn thành phân môn Học vần tiến bộ; giúp các em
mạnh dạn, tự tin trong học tập, tinh thần đồng đội, tình thầy trò, tình bạn bè
được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là khắc phục được những hạn chế trong việc
đọc, viết giai đoạn học vần của HS lớp tôi phụ trách, được quý đồng nghiệp ghi
nhận sự tiến bộ của thầy và trò; góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy
học theo chương trình Tiểu học hiện hành và đạt được yêu cầu về chuẩn kiến
thức, kĩ năng mà BGD&ĐT quy định
- Nhờ áp dụng những biện pháp nêu trên nên chất lượng học môn Tiếng
Việt của học sinh lớp 1A được nâng lên rõ rệt.
- Hết phần học âm (chữ) đa số học sinh lớp 1A đều nắm vững chữ, âm và
đọc được tiếng, từ một cách chắc chắn.
+ Học sinh hoàn thành đã đọc được sách, báo một cách lưu loát.
+ Học sinh chưa hoàn thành cũng bước đầu đã đọc trơn tốt. Song cũng có
tiếng đôi lúc còn phải đánh vần.

15



Chất lượng các bài kiểm tra có kết quả cụ thể như sau:
Học lực
Thời gian

Sĩ số

Hoàn thành
tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn
thành

32

SL

TL

SL

TL

SL

TL


Khảo sát đầu năm

32

8

25%

8

25%

16

50%

Kiểm tra giữa kì I

32

15

46,9%

15

46,9%

2


6,2%

Kiểm tra cuối kì I

32

22

68,7

9

28,2

1

3,1%

Kiểm tra giữa kì II

32

28

87,5%

4

12,5%


0

0%

Nói chung, đến nay hầu hết học sinh trong lớp đều đọc thông, viết thạo,
khắc phục được số học sinh chưa hoàn thành. Bên cạnh đó vẫn còn một vài em
đọc còn chậm, có tiếng đôi lúc còn phải đánh vần. Dự kiến tiếp tục rèn luyện
đến cuối năm học này, 100% HS lớp tôi đều đạt được yêu cầu về chuẩn kiến
thức, kĩ năng cơ bản môn Tiếng Việt theo quy định của Bộ GD&ĐT.

16


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
- Trong quá trình giảng dạy, thực hiện các biện pháp trên, tôi nhận thấy rằng
để đạt hiệu quả cao, phải trải qua một quá trình luyện tập thường xuyên và lâu dài.
- Trong khi rèn đọc, học sinh được hoạt động cá nhân nhiều nhằm phát huy
tính tích cực chủ động tự giác của các em để hoàn thành bài học. Phương tiện
hoạt động đúng mức sẽ góp phần lớn trong việc hình thành nhân cách cho các em,
rèn cho trẻ những phẩm chất đạo đức như: tính cẩn thận, tinh thần kỉ luật và thẩm
mĩ để sau này lớn lên các em sẽ trở thành những con người có ích cho xã hội.
- Ở trường Tiểu học, việc rèn đọc cho học sinh phải được coi trọng ngay từ
lớp 1 để làm nền tảng cho các lớp sau.
- Muốn giúp học sinh đọc tốt thì nhà trường và gia đình cần chuẩn bị những
điều kiện thuận lợi ban đầu về cơ sở vật chất để giúp các em được thoải mái khi
học tập, đồng thời giáo viên cần phải kết hợp và sử dụng các phương pháp một
cách linh hoạt, có sự sáng tạo trong giảng dạy và một điều kiện không thể thiếu
với mỗi giáo viên đó là sự kiên trì, tính cẩn thận và lòng yêu nghề mến trẻ.
- Các phương pháp phải được áp dụng một cách đồng bộ, thường xuyên và

linh hoạt. Không có phương pháp nào là ngu dốt và chẳng có phương pháp nào
là tối ưu cả mà tối ưu hay không là phụ thuộc chủ yếu vào cách sử dụng của GV
vào điều kiện cụ thể của đối tượng HS lớp mình, tùy nội dung từng bài mà quyết
định áp dụng một hay một số phương pháp thích hợp. GV cần lưu ý làm mới
cách tổ chức các hoạt động học để luôn hấp dẫn các em.
- Giáo viên phải tận tụy, nhiệt tình, theo dõi sát sao từng HS, qua đó phát
hiện những yếu kém của từng em, tìm nguyên nhân, hướng khắc phục cho từng
nhóm để có biện pháp giúp đỡ kịp thời; đôi trường hợp phải sử dụng phương
châm “mưa lâu thấm đất” mới có hiệu quả, không nôn nóng, không vội vã để rồi
quở trách HS.
- Cần có sự đánh giá, rút kinh nghiệm qua từng tháng, học kỳ để kịp thời
điều chỉnh phương pháp nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
- Phải có sự hỗ trợ, phối hợp giúp đỡ từ phía phụ huynh HS để việc áp dụng
các biện pháp được thuận lợi, có hiệu quả.
Trên đây là “Một số biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành trong
phân môn Học vần - Tiếng Việt lớp 1” mà tôi đã nghiên cứu và vận dụng để
giúp học sinh rèn đọc đúng và nhanh. Song không tránh khỏi những hạn chế

17


nhất định. Vì vậy, tôi mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và Hội
đồng NCKH các cấp để đề tài được hoàn hảo hơn.
3.2. Kiến nghị
* Đối với phụ huynh
- Cần trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập cần thiết phục vụ cho môn
học.
- Cần nhắc nhở, uốn nắn kịp thời việc học bài,làm bài ở nhà và rèn luyện
cho các em tính tự giác học tập của người học sinh.
* Hội khuyến học:

- Kết hợp với giáo viên địa phương thường xuyên tổ chức các đợt kiểm tra
góc học tập của học sinh.
- Có biện pháp khích lệ, động viên kịp thời khi học sinh tiến bộ và có thành
tích cao trong học tập.
* Đối với Nhà trường
- Cần tổ chức các tiết thao giảng - dạy đối chứng chuyên đề vào các buổi
sinh hoạt chuyên môn thường kì để nâng cao chất lượng giờ dạy.
- Bổ sung các thiết bị, đồ dùng dạy học để đáp ứng cho việc dạy và học
hiện nay.
- Tổ chức cho giáo viên đi tham quan các trường điển hình để học tập và
đúc rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
* Đối với Phòng giáo dục: cần tổ chức cho giáo viên được tham gia các đợt
chuyên đề để nâng cao chất lượng dạy học
Xin chân thành cảm ơn !
Thanh Hóa, ngày 8 tháng 4 năm 2018
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của ngườikhác

Người viết

Trịnh Thị Cử
TÀI LIỆU THAM KHẢO

18


1. Giáo trình Giáo dục học của trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng;

2. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học - NXB Giáo dục;
3. Tài liệu bồi dưỡng chuyên môn theo chuẩn kiến thức, kĩ năng hè 2009;
4. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III;
5. Vũ Khắc Tuân, Trò chơi thực hành Tiếng Việt lớp một - NXB Giáo dục.
6. Tài liệu hướng dẫn tăng cường Tiếng Việt cho HS Dân tộc lớp 1 của Ban chỉ
đạo thử nghiệm chương trình Tiếu học năm 2000 thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo;
7. Tâm lí giáo dục học - NXB Giáo dục;

19



×