Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.9 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

1
1
2
2
2
2
4
4
6
7
15
17
17



18

0


1. Mở đầu:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong
4 dạng hoạt động, tương ứng với chúng là 4 kĩ năng: nghe, đọc, nói, viết. Đọc là
một phân môn của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Dạy tập đọc là dạy một trong
bốn kĩ năng cơ bản của môn Tiếng Việt. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan
trọng trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học
sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu
tiên. Đọc tốt sẽ tạo tiền đề để học sinh học tốt các môn học khác. Vì thế, phân
môn Tập đọc có vị trí rất quan trọng trong chương trình Tiếng Việt của bậc Tiểu
học vì ngôn ngữ là công cụ của tư duy và giao tiếp của con người, khả năng sử
dụng ngôn ngữ là biểu hiện trình độ của người đó. Chính vì thế, đọc góp phần
vào việc trau dồi kiến thức văn học, kiến thức ngôn ngữ, kiến thức đời sống,
giáo dục tình cảm, thẩm mĩ, phát triển năng lực trí tuệ hỗ trợ tốt các phân môn
khác như: Tập làm văn, Chính tả, Luyện từ và câu và nhiều môn học khác nữa.
Đọc diễn cảm là hình thức đọc có tính đặc thù. Đây là hình thức đọc nghệ
thuật. Người đọc chuyển các văn bản viết (thường là văn bản nghệ thuật, chính
luận,...) thành văn bản âm thanh nhằm chuyển đến người nghe không chỉ nội
dung thông tin mà cả cảm xúc chủ quan của mình về giá trị nghệ thuật của văn
bản. Đối với người đọc, đọc diễn cảm vừa là hoạt động nhận tin vừa là hoạt
động phát tin trong đó mặt phát tin có phần nổi trội hơn, người đọc trở thành
nhân vật môi giới nối liền tác phẩm với người nghe. Đối với người nghe, đọc
diễn cảm vừa tác động tới lí trí, vừa tác động tới cảm xúc.

Đọc diễn cảm là bước thể hiện sự hiểu biết đầy đủ về tư tưởng và nghệ thuật
của tác phẩm. Nếu học sinh không hiểu biết tác phẩm, không nắm được tư tưởng
của tác giả thì rất khó “diễn cảm”, khi đó cũng khó thể hiện thái độ của mình.
Ngược lại, khi học sinh hiểu tác phẩm, các em sẽ dễ dàng bộc lộ thái độ của
mình vào việc đọc. Thông qua việc đọc, các em càng hiểu đầy đủ hơn về tác
phẩm và con đường tốt nhất để nhận thức tác phẩm chính là đọc diễn cảm. Đọc
diễn cảm được thực hiện trong tất cả các giờ Tập đọc ở lớp 4. Đọc diễn cảm tốt
tức là truyền được tới người nghe một phần lớn nội dung và cảm xúc bài văn,
bài thơ, bài ca dao... mà chưa cần giảng giải. Thông qua các bài tập đọc trong
chương trình, học sinh được tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật, cảm thụ được cái
hay, cái đẹp của văn chương.
Dạy học sinh đọc diễn cảm ở lớp 4 có một nguyên tắc riêng của nó, đọc để
hiểu, hiểu để mà cảm thụ. Như vậy, dạy học sinh đọc diễn cảm thông qua môn
Tập đọc ở nhà trường không những là một đòi hỏi mà còn phải khơi dậy ở học
sinh những tri thức đã có mà thiếu nó thì không hiểu được nghệ thuật ngôn từ;
đồng thời còn phải phát triển khả năng cảm thụ, suy nghĩ, bình giá và vận dụng
một cách sáng tạo những điều đã tiếp thu được vào cuộc sống riêng của các em.
Dạy đọc cho học sinh điều đó là hướng cho các em một năng lực nghệ thuật và
mở cho các em một con đường đến với tác phẩm văn học.
Trong thực tế giáo dục, rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh, bên
cạnh những thành công vẫn còn những hạn chế, học sinh chưa đọc được như
1


mong muốn, kết quả đọc diễn cảm của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của
việc hình thành kĩ năng đọc nói chung và đọc diễn cảm nói riêng. Các em chưa
nắm chắc được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của
người khác chứa đựng trong văn bản được đọc, chưa làm tròn nhiệm vụ là người
truyền cảm xúc từ tác phẩm sang người nghe. Giáo viên tiểu học cũng còn lúng
túng khi hình thành kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh: Cần được bài Tập đọc

này với giọng như thế nào? Làm thế nào để chữa lỗi ngắt giọng biểu cảm; đọc
đúng kiểu câu? Làm thế nào để học sinh đọc hay hơn, diễn cảm hơn; làm thế nào
để các em hiểu được “văn”; làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào
chính cuộc sống của các em?... Đó là những trăn trở của giáo viên trong mỗi giờ
dạy Tập đọc, trong quá trình hình thành và rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho
học sinh.
Thực chất vấn đề cảm thụ văn học ở nhà trường là vấn đề giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh bằng văn học. Đọc diễn cảm và cảm thụ văn học là hai vần đề quan
trọng nhất trong tiết dạy tập đọc, luôn có quan hệ mật thiết với nhau. Cảm thụ
tốt giúp đọc diễn cảm tốt và ngược lại đọc diễn cảm tốt giúp ta cảm nhận bài văn
một cách sâu sắc.
Nhưng làm thế nào để học sinh biết đọc diễn cảm và đọc diễn cảm tốt? Điều
đó đã thôi thúc tôi tiến hành nghiên cứu “Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc
diễn cảm cho học sinh lớp Bốn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng đọc nói
riêng và hiệu quả giáo dục nói chung.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này, tôi nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học phân
môn Tập đọc – phần đọc diễn cảm, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học các môn
học cho học sinh lớp 4.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Với sáng kiến “Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp
Bốn”, tôi tập trung nghiên cứu các yêu cầu cơ bản để đảm bảo nâng cao việc kĩ
năng đọc diễn cảm đạt chất lượng; cách phát âm chuẩn, ngắt nghỉ hơi đúng;
cách thể hiện đúng ngữ điệu của câu khi đọc diễn cảm để từ đó tìm ra biện pháp
rèn luyện cho học sinh cách đọc đúng, đọc diễn cảm các bài tập đọc trong sách
giáo khoa Tiếng Việt lớp 4, từ đó góp phần nâng cao kĩ năng đọc và hiểu của học
sinh trong quá trình học tập.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu
sau:

- Phương pháp nghiên cứu lí luận: tiến hành nghiên cứu các văn bản, các tài
liệu, bài viết có nội dung về cách thức rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh
tiểu học nói chung, học sinh lớp 4 nói riêng.
- Nghiên cứu thực tiễn: Thực hiện các phương pháp: thực nghiệm, quan sát,
điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin; thống kê, xử lí số liệu.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
- Thêm một số ví dụ về cách phát âm trong mục 3.1 (Luyện phát âm chuẩn;
đọc đúng, ngắt nghỉ đúng).
- Hình thức hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm trong mục 3.6 (Tạo môi trường
2


luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản).
- Các hình thức trò chơi và trò chơi minh họa trong mục 3.7 (Tạo lập hứng
thú, say mê rèn đọc diễn cảm cho học sinh bằng qua các trò chơi học tập trong
quá trình luyện đọc).

3


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1. Cơ sở tâm lí học
Quá trình dạy học sinh đọc diễn cảm sẽ mang lại kết quả khả quan nếu như
giáo viên biết tổ chức đúng đắn và gợi được những hoạt động nhận thức cần
thiết ở các em, vì tư duy của trẻ ở lứa tuổi Tiểu học thường thiên về tính cụ thể.
Ở lứa tuổi này đã có những yếu tố của tư duy trừu tượng nhưng còn hạn chế
nhiều so với học sinh thuộc các lớp trên.
Quá trình nhận thức của học sinh lớp 4 khi học các tác phẩm văn học đều
được thông qua việc đọc diễn cảm của các em về tác phẩm đó. Các bài Tập đọc

trong chương trình đều hướng tới hai việc dạy ngôn ngữ và dạy văn chương
nhằm thực hiện ba chức năng cơ bản của văn học là nhận thức, giáo dục và thẩm
mĩ. Các bài tập đọc theo từng chủ đề: nhà trường, gia đình, thiếu nhi, đất nước,..
đem lại cho các em tình yêu thương con người, lòng yêu quê hương đất nước và
tình yêu thương bạn bè thông qua hình tượng văn học do ngôn ngữ dựng nên,
Qua đó, các em sẽ thấm nhuần cái hay, cái đẹp của tiếng mẹ đẻ.
Đó chính là cơ sở cho những tình yêu lớn sau này để phát triển lên trong khối
óc và con tim mỗi người. Hơn thế nữa, người giáo viên cần phải quan tâm đúng
mức tới khả năng diễn đạt của từng học sinh theo sự nhận thức khác nhau của
các em. Các em chỉ có thể đọc diễn cảm theo những mức nhất định. Nếu giáo
viên dùng bài học quá khó, quá dài, hoặc phương pháp dạy học thiếu linh hoạt
thì sẽ cản trở nhiều cho việc tiếp nhận của các em. Do đó, giáo viên cần tạo cho
các em một tâm lí hết sức thoải mái, tự tin khi đọc và thể hiện tác phẩm.
2.1.2. Cơ sở ngôn ngữ học:
Những chỉ dẫn của lí luận văn học về đặc điểm của tác phẩm nghệ thuật và
vai trò của phương tiện diễn đạt đã được xác định cho phương pháp dạy học sinh
đọc diễn cảm thông qua phân môn Tập đọc là phải phân tích tác phẩm, phải có
cách thức tiến hành riêng đối với từng thể loại để giảng dạy ngôn ngữ của các
tác phẩm văn học. Việc giảng dạy từ trong các bài Tập đọc bao gồm việc tách và
giải thích cho học sinh nghĩa của từ và cách sử dụng linh hoạt vốn từ của các em
đều phần lớn dựa vào khoa học về từ vựng. Tất cả các hoạt động đều phát triển
kĩ năng đọc, phát triển lời nói của học sinh, đều đòi hỏi người thầy phải có kiến
thức đầy đủ về ngữ âm từ vựng và ngữ pháp Tiếng Việt.
Trong giờ dạy học sinh đọc diễn cảm, giọng nói của giáo viên là công cụ trực
quan vô cùng quan trọng, không có giọng đọc tốt sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến
chất lượng và hiệu quả của giờ dạy. Giọng đọc của mỗi người (kể cả giáo viên
và học sinh) đều phụ thuộc vào cấu tạo và hoạt động của bộ máy phát âm đồng
thời là kết quả của quá trình học tập và rèn luyện mà có được, đó là tích lũy của
trau dồi kiến thức, kĩ năng đa dạng về ngôn ngữ học, về cuộc sống, âm nhạc, hội
họa,... Chính vì vậy, việc chú ý rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh, nhất là kĩ

năng đọc diễn cảm rất quan trọng, năng lực đọc diễn cảm chính là thước đo tri
thức của học sinh lớp 4.
2.1.3. Cơ sở văn học:
Nội dung các tác phẩm văn học đưa vào giảng dạy trong chương trình Tiểu

4


học nói chung và ở lớp 4 nói riêng là những phương tiện, là bức tranh sinh động
để học sinh nhận thức về thiên nhiên, về đời sống của con người trong quá khứ
và hiện tại, về những dự cảm tương lai, về phong tục văn hóa của các dân tộc
trong nước và trên thế giới. Khi văn học đã thực sự tác động đến tình cảm và lí
trí người đọc, nó sẽ làm nảy nở những ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp được
mọi người quý trọng và khơi dậy năng lực lao động, sức mạnh sáng tạo cho mỗi
con người.
Đọc tác phẩm văn học có trình độ nghệ thuật cao, người đọc sẽ được bồi
dưỡng nhiều về vốn hiểu biết, khiếu thẩm mĩ, sẽ tiếp cận được với cái đẹp trong
cuộc sống và càng yêu quý tiếng mẹ đẻ.
Nhờ đọc các tác phẩm văn học qua các bài tập đọc mà khả năng nhận thức
của học sinh sẽ phát triển, khả năng ấy sẽ giúp các em nhìn nhận và đánh giá có
cơ sở đối với các hiện tượng thiên nhiên và các điển hình của đời sống xã hội.
Trong quá trình phân tích tác phẩm, người đọc sẽ tìm ra các quan hệ nhân quả,
tự giải thích cái đã đọc và rút ra những kết luận cần thiết từ cái đã đọc để áp
dụng vào đời sống riêng. Đọc một cách có ý thức sẽ ảnh hưởng tốt tới trình độ
ngôn ngữ của học sinh. Ngôn ngữ phong phú đa dạng, giàu tính nghệ thuật sẽ
giúp cho lời nói của học sinh có nội dung, có hình ảnh và lô-gíc hơn. Vì vậy,
việc đọc diễn cảm đối với các em mang ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát
triển rất lớn.
Hầu hết các bài tập đọc ở lớp 4 cung cấp cho học sinh những kiến thức về
miêu tả, kể chuyện, tường thuật. Thông qua các bài tập đọc, học thuộc lòng sẽ

hình thành dần cho học sinh các khái niệm bước đầu về văn vần, văn xuôi, các
thể loại thơ, nhân vật văn học, hình tượng văn học.
2.1.4. Những yêu cầu cần đạt khi đọc diễn cảm:
Ở lớp 4, học sinh phải nắm thành thạo các hình thức đọc đó chính là đọc
thành tiếng và đọc thầm, đồng thời có các kĩ năng đọc đúng, phát âm đúng,
chính xác, đọc nhanh, bao quát được toàn bộ bài đọc, biết ngừng nghỉ theo các
dấu câu, không vấp váp, ê-a, đọc có ý thức xác định rõ nội dung, ý nghĩa và mối
quan hệ trong bài đọc, đọc diễn cảm có nghĩa là đọc được cái “thần thái” của bài
văn, bài thơ, diễn tả đúng như tình ý mà nhà văn, nhà thơ kí thác. Những kĩ năng
này chính là cơ sở để tạo nên chất lượng đọc diễn cảm.
Trong quá trình đọc diễn cảm, các em sẽ dần dần hình thành các khái niệm về
ngôn ngữ và văn học. Vốn từ vựng của các em cũng ngày càng phong phú và
vững vàng, có tác dụng tích cực cho việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt gọn gàng,
trong sáng. Các khái niệm về thể loại văn học (thơ, văn, truyện) về bố cục, về
nhân vật văn học cũng dần dần đến với các em qua việc đọc các tác phẩm cụ thể
và cũng thông qua việc đọc diễn cảm, học sinh được khám phá thêm những điều
mới mẻ về thiên nhiên, đất nước, con người, tri giác về không gian được mở
rộng và do đó vốn sống của các em sẽ ngày càng phong phú, sâu sắc hơn. Đó
chính là việc:
- Khám phá đường nét đặc sắc của các hình tượng, các bức tranh thể hiện
trong bài.
- Thể hiện được thái độ của tác giả đối với sự kiện, các hành vi của nhân vật.
- Truyền đạt được những điệu cảm xúc cơ bản của tác phẩm.
5


- Đạt được các kĩ năng cơ bản khi đọc diễn cảm là tôn trọng các dấu câu, có
sắc thái ngữ điệu đúng, thể hiện rõ ràng những hiểu biết về những điều mình
đọc.
Nếu chúng ta thực hiện tốt các bước, yêu cầu trên thì việc dạy học sinh đọc

diễn cảm các tác phẩm văn học ở lớp 4 sẽ đạt hiệu quả cao.
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Nội dung, chương trình, sách giáo khoa, tài liệu:
Phần lớn các tác phẩm văn học (bài văn, bài thơ, ca dao, tục ngữ) được đưa
vào chương trình của sách Tiếng Việt lớp 4 đều phù hợp với lứa tuổi và vừa sức
đối với học sinh. Hệ thống bài học được nâng dần từ dễ đến khó. Các bài đọc
được tuyển chọn vào chương trình phần lớn là viết cho thiếu nhi có chất lượng
cao về nghệ thuật, được sắp xếp theo 3 chủ đề lớn: Măng non, Đất nước và
Nhân dân.
Sách giáo khoa đã trình bày rõ các kiến thức lí thuyết cơ bản về tiếng Việt,
đảm bảo tính khoa học, hệ thống và dễ hiểu đối với học sinh Tiểu học. Số lượng
các bài tập đọc phong phú, đa dạng, hay về nội dung, hấp dẫn về hình thức, có
hiệu quả thiết thực và được sắp xếp một cách hợp lí nhằm giúp cho giáo viên và
học sinh dễ dạy, dễ đọc.
Tuy nhiên, phần hướng dẫn học sinh đọc ở sách giáo khoa chưa cụ thể, rõ
ràng, khiến học sinh còn lúng túng khi ngắt giọng và giải nghĩa một số từ chưa
đầy đủ, một số bài có hệ thống câu hỏi chưa thật sự phù hợp với nội dung từng
giai đoạn trong bài. Tài liệu phục vụ cho việc dạy của giáo viên và việc học của
học sinh (như đồ dùng, sách tham khảo...) hầu như không có hoặc thiếu quá
nhiều dẫn đến hiệu quả chất lượng chưa thật cao so với yêu cầu đặt ra của giáo
viên.
2.2.2. Công tác dạy và học
a. Thuận lợi:
Hầu hết các giáo viên đều rất nhiệt tình trong dạy học, luôn cố gắng tìm biện
pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Đa số học sinh đều tích cực học tập, ham tìm hiểu, thích đọc, thích đọc hay,
thích biểu lộ mình.
b. Khó khăn
- Về phía giáo viên
Nhìn chung, trình độ giáo viên chưa đồng đều, một số giáo viên bị ảnh hưởng

của phương ngữ, phát âm chưa chuẩn dẫn đến đọc diễn cảm chưa hay, thiếu
chính xác, chưa linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp, biện pháp, hình
thức tổ chức dạy học, chưa thấy được tầm quan trọng của việc dạy đọc diễn cảm
cho học sinh. Mặt khác, các sách dù biên soạn tỉ mỉ đến mấy nhưng người giáo
viên không tinh thông trong việc vận dụng các phương pháp và biện pháp dạy
học thì kết quả cũng không thể mĩ mãn được. Người giáo viên có thể tìm thấy
mọi điều cần thiết ở sách học sinh, sách giáo viên và sách tham khảo nhưng phải
biết lựa chọn để dạy cái gì và dạy như thế nào cho phù hợp với đối tượng học
sinh ở từng vùng khác nhau đó mới thực sự quan trọng. Do ảnh hưởng của
phương pháp dạy học theo lối truyền thụ một chiều, giáo viên là người chủ động

6


nên trong quá trình giảng dạy thường ép buộc học sinh làm theo mẫu, học sinh
thụ động trong học tập.
- Về phía học sinh
Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, các em phát âm tiếng địa
phương là chủ yếu nên đọc diễn cảm chưa đạt yêu cầu, hay sai lỗi chính âm. Do
điều kiện đời sống gia đình còn nhiều khó khăn nên thời gian các em dành cho
học tập rất ít, tài liệu học thêm không có đã làm cho chất lượng học tập của các
em chưa cao. Học sinh còn thụ động trong học tập, chưa có ý thức tìm tòi, khám
phá, khả năng tư duy sáng tạo còn hạn chế.
Hoạt động chính của học sinh là nghe giáo viên đọc mẫu, giảng giải và trả lời
các câu hỏi của giáo viên, câu hỏi trong sách giáo khoa nên tư duy sáng tạo còn
hạn chế, không có điều kiện để tự bộc lộ mình, môi trường rèn luyện ít.
2.2.3. Thực trạng chất lượng đọc diễn cảm của học sinh lớp 4A
Năm học 2018 - 2019, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4A với sĩ số 34
em. Đây là một lớp “khá” của trường, học sinh đã “biết” đọc, biết thể hiện văn
bản viết bằng lời nói, song cách ngắt nhịp, nghỉ hơi, nhấn giọng hoặc sắc thái

giọng đọc chưa phù hợp, dẫn đến việc cảm nhận giá trị của văn bản còn nhiều
hạn chế. Đôi khi học sinh chỉ “vô tình” đọc làm đi mất giá trị của văn bản.
Kết quả khảo sát chất lượng “đọc diễn cảm” của lớp đầu năm học như sau:
Mức độ
Tổng số
học sinh

34

Đọc trôi chảy,
Đọc diễn cảm
phát âm tương
tốt
đối đúng
SL
3

TL

SL

8,8

13

TL
38,2

Đọc chậm
nhiều chỗ còn

sai
SL
11

TL
32,4

Chưa được
lưu loát, đọc
bé, ngắc ngứ,
nhiều từ còn
phải đánh vần
SL
TL
7

20,6

Nhìn chung chất lượng đọc tương đối thấp, dẫn đến hạn chế tới việc cảm
nhận giá trị nội dung bài đọc, học sinh chưa thật hứng thú trong học tập.
2. 3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Để thực hiện việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh, tôi đã thực hiện một
số biện pháp sau:
Biện pháp1: Luyện phát âm chuẩn; đọc đúng, ngắt nghỉ đúng.
Học sinh lớp tôi ngoài lỗi những từ khó phát âm ra, các em còn mắc lỗi về
tiếng địa phương như lẫn lộn: ch/tr; s/ x; ân/âng; iên/iêng; ăn/ăng; iêt/iêc,...
Để học sinh đọc đúng, tôi hướng dẫn học sinh rất kĩ về cách phát âm như: Khi
hướng dẫn học sinh phát âm ch/tr, tôi đặc biệt chú ý đến cách phát âm và bộ máy
phát âm.
- Khi phát âm âm “x”: Hai môi có chiều hướng căng ra như muốn cười và tì sát

vào hàm răng. Đầu lưỡi tì vào đỉnh đầu răng của hàm dưới. Hơi đưa lên khoang
miệng, tạo âm “xì” kéo dài. Bật hơi và phát tiếng.
- Khi phát âm âm “s”: - Cắn nhẹ hai hàm răng vào nhau. Tạo một âm “sì” kéo

7


dài. Há miệng và phát tiếng (chú ý âm “sì” kéo dài liền với việc phát tiếng,
không được đứt quãng).
Với các lỗi phát âm khác, tôi cũng hướng dẫn kĩ về cách phát âm. Từ đó, khi
gặp những từ có cấu tạo như thế, học sinh có thể tự luyện phát âm hoặc sửa lỗi
phát âm cho bạn.
Việc ngắt nghỉ đúng góp phần rất lớn trong việc rèn đọc diễn cảm. Để đọc
đúng ngữ điệu, trước hết tôi hướng dẫn các em ngắt, nghỉ đúng. Như vậy, khi
đọc văn bản, học sinh phải biết mức độ ngắt nghỉ ở các dấu câu như ngắt hơi khi
gặp dấu phẩy, nghỉ hơi khi gặp dấu chấm. Ngoài ra, học sinh cần có vốn hiểu
biết về từ để ngắt các cụm từ trong câu.
Ví dụ: Câu: “Thỉnh thoảng,/ hai chị em lại cười phá lên/ khi nhắc lại chuyện
nó rủ bạn vào rạp chiếu bóng chọc tức tôi,/ làm tôi tỉnh ngộ”.//
(Bài Chị em tôi -Tiếng Việt 4, tập I)
- Việc ngắt nghỉ đúng và đọc đúng giúp các em hiểu đúng nội dung của văn
bản và cùng với việc xác định và đọc đúng từ ngữ gợi tả, các câu cảm, câu hỏi sẽ
giúp học sinh cảm thụ tốt nội dung bài đọc.
Ví dụ: Đoạn thơ:
Nhác trông vắt vẻo trên cành/
Anh chàng Gà Trống /tinh nhanh lõi đời,/
Cáo kia đon đả ngỏ lời:/
“Kìa anh bạn quý/ xin mời xuống đây/
Để nghe cho rõ tin này/
Muôn loài mạnh yếu/ từ rày kết thân/

Lòng tôi sung sướng muôn phần/
Báo cho bạn hữu/ xa gần đều hay/
Xin đừng e ngại,/ xuống đây /
Cho tôi hôn bạn/ tỏ bày tình thân.//
(Bài Gà trống và Cáo - Tiếng Việt 4, tập I)
Sau khi học sinh đã luyện đọc đúng, tôi cho các em đọc thầm và giao nhiệm
vụ:
- Xác định ngắt giọng đoạn thơ.
- Xác định những từ ngữ gợi tả hình ảnh: vắt vẻo, lõi đời, đon đả, sung sướng,
hôn bạn. Ngoài ra, chúng ta cần chú ý đọc nhấn giọng các từ ngữ: kìa anh bạn
quý, báo cho bạn hữu, xin đừng e ngại xuống đây.
Biện pháp 2: Luyện đọc đúng ngữ điệu câu:
Ngoài việc đọc đúng, ngắt nghỉ đúng, việc đọc đúng kiểu câu là rất cần thiết
đối với các em nên tôi chú ý hướng dẫn đọc đúng ngữ điệu câu.
Chẳng hạn: Ngữ điệu xuống (hạ giọng), ngữ điệu treo (lên giọng), ngữ điệu
mạnh và ngữ điệu yếu.
- Ngữ điệu yếu (đọc nhỏ và lơi giọng): Thường xuất hiện ở cuối đoạn thì có
nghĩa là lời nói chưa kết thúc, còn bỏ lửng.
Ví dụ: Câu: “- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi”.
(Bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Tiếng Việt 4, tập II)
- Ngữ điệu mạnh (đọc to hoặc nhấn giọng): Tôi hướng dẫn học sinh nhận diện
những câu có ngữ điệu mạnh là các kiểu câu cảm, câu cầu khiến (những câu
8


biểu thị bằng dấu chấm cảm, đôi khi dùng dấu chấm).
Ví dụ: Câu: “- Xin thần cho mọi vật tôi chạm tay vào đều biến thành vàng!”
(Bài Điều ước của vua Mi- đát – Tiếng Việt 4, tập I)
Câu: “Con đừng tưởng vẽ trứng là dễ!”
(Bài Vẽ trứng – Tiếng Việt 4, tập I)

Hoặc những câu có hình thức là câu hỏi mà mục đích thông báo thực chất là
câu cầu khiến cũng đọc với ngữ điệu mạnh.
Ví dụ: Câu: - Có câm mồm không?
(Bài Khuất phục tên cướp biển – Tiếng Việt 4, tập II)
- Ngữ điệu xuống (hạ giọng): Dùng để kết thúc câu kể hoặc bộ phận giải thích
trong câu.
Ví dụ: Câu: “Sáo đơn, rồi sáo kép, sáo bè,... như gọi thấp xuống những vì
sao sớm.”
(Bài Cánh diều tuổi thơ – Tiếng Việt 4 - Tập I)
- Ngữ điệu lên: Là ngữ điệu có giọng đọc lên cao ở cuối câu. Đối với ngữ điệu
này thường sử dụng khi đọc câu hỏi, nhất là câu hỏi không có từ để hỏi, những
câu mệnh lệnh có yêu cầu mạnh.
Ví dụ: Đoạn:
“- Làm sao mặt trăng lại chiếu sáng trên trời trong khi nó đang nằm trên cổ
công chúa nhỉ?- Chú hề hỏi.
Công chúa nhìn chú hề, mỉm cười:
- Khi ta mất một chiếc răng, chiếc mới sẽ mọc ngay vào chỗ ấy. Khi ta cắt
những bông hoa trong vườn, những bông mới sẽ mọc lên. Có đúng không
nào?”.
(Bài Rất nhiều mặt trăng - TV4, Tập I)
Biện pháp 3. Rèn luyện kĩ thuật diễn cảm ngôn ngữ:
Đọc diễn cảm là việc đọc thể hiện ở kĩ năng làm chủ ngữ liệu để biểu đạt
đúng ý nghĩa, tình cảm mà tác giả gửi gắm vào tác phẩm. Đọc diễn cảm ở đây là
phản ánh cách hiểu bài văn, bài thơ. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình
độ cao và chỉ thực hiện được trên cơ sở (đọc đúng, ngắt nghỉ đúng, đọc đúng các
kiểu câu, biểu thị sắc thái tình cảm, cảm xúc, giọng điệu chung của bài).
Để giúp học sinh đọc diễn cảm tốt, tôi hướng dẫn học sinh một số kĩ thuật như:
* Ngắt giọng biểu cảm:
Bên cạnh việc hướng dẫn các em ngắt giọng, thể hiện đúng quan hệ ngữ
nghĩa, ngữ pháp như đã hướng dẫn còn cần phải ngắt giọng biểu cảm là cách

ngắt giọng thiên về tình cảm, về sự rung động nội tâm mà không phụ thuộc vào
dấu câu. Cách ngắt giọng này phụ thuộc vào tâm hồn người đọc, nhằm gây ấn
tượng về cảm xúc.
Ví dụ: Câu “Biển cả,/ muốn nuốt tươi con đê mỏng manh /như con mập/ đớp
con cá chim nhỏ bé”//.
(Bài Thắng biển - Tiếng Việt 4, tập II)
Tôi đã hướng dẫn các em ngắt giọng và ngấn giọng ở một số từ “nuốt tươi,
đớp” để tạo sự gây cấn trước sự đe doạ của cơn bão biển và chờ đợi xem chuyện
gì đến với con đê mỏng manh.
Ngắt giọng biểu cảm còn thể hiện ở sự lựa chọn ngắt nhịp đúng, một cách
9


ngắt nhịp có hiệu quả và nghệ thuật hơn.
Ví dụ: Đoạn thơ:
“ Sông La/ ơi Sông La
Trong veo/ như ánh mắt
....... . .... ...
Bè đi/ chiều thầm thì
Gỗ lượn đàn thong thả
Như bầy trâu/ lim dim
Đằm mình/ trong êm ả”
(Bài Bè xuôi sông La - Tiếng Việt 4, tập II)
Cách ngắt giọng như thế để tiếng “ơi” được ngân dài thiết tha, thể hiện được
tình cảm tha thiết của tác giả với dòng sông quê hương.
* Chọn ngữ điệu thích hợp:
Tiếng Việt có kho ngữ điệu vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là sắc thái khi
đọc thể hiện sự vui buồn, trang trọng, dịu dàng, nhẹ nhàng, hồn nhiên,ngây thơ.
Ngoài ra còn dùng nét mặt, nụ cười, ánh mắt và các yếu tố phi ngôn ngữ có tác
động đến người nghe.

Ví dụ: Câu: “Ở vương quốc nọ có một cô bé xinh xinh chừng năm, sáu tuổi.
Bé xíu như vậy, nhưng cô lại là công chúa”.
(Bài Rất nhiều mặt trăng - Tiếng Việt 4, tập I)
Đây là lời đọc của người dẫn chuyện nhưng ở câu đầu, ta đọc với giọng bình
thường nhưng sang câu thứ hai cần đọc nhấn giọng từ “bé xíu” và đọc cao giọng
ở cuối câu làm tăng sức hấp dẫn và tạo được sự tò mò muốn biết thêm về cô
công chúa này.
Ví dụ: Câu: “Xin thần tha tội cho tôi! Xin Người lấy lại điều ước để cho tôi
được sống! ”
(Bài Điều ước của vua Mi-đát - TV4, tập I)
Tôi cho học sinh xác định nhân vật đang nói là ai, vì sao lại phải nói những
lời đó. Học sinh tự lựa chọn giọng đọc cho phù hợp với tâm trạng nhân vật là
đang van xin, cầu khẩn có được sự giúp đỡ. Ngoài ra, học sinh còn phải sử dụng
đến các yếu tố khác như nét mặt bộc lộ sự sợ hãi...
* Chọn giọng đọc và thay đổi giọng đọc:
Việc chọn giọng đọc phụ thuộc vào việc cảm thụ tác phẩm. Trong một bài tập
đọc có thể có nhiều cách đọc khác nhau: đoạn đọc nhanh, đoạn đọc chậm, giọng
đọc thay đổi theo diễn biến của bài, giọng đọc phải phù hợp với từng nhân vật.
Ví dụ: Đoạn văn:
“Nhưng đáp lại sự giận giữ của tôi, nó chỉ thủng thẳng:
- Em đi tập văn nghệ.
- Mày tập văn nghệ ở rạp chiếu bóng à ?
Nó cười giả bộ ngây thơ:
- Ủa chị cũng ở đó sao? Hồi nãy chị bảo đi học nhóm mà!
Tôi sững sờ đứng im như phỗng. Ngước nhìn ba, tôi đợi một trận cuồng
phong. Nhưng ba tôi chỉ buồn rầu bảo:
- Các con ráng bảo ban nhau mà học cho nên người.”
(Bài Chị em tôi - TV4, tập I)
10



Qua phần tìm hiểu bài, học sinh đã nắm được nội dung của bài đọc, từ đó các
em biết đây là một đoạn hội thoại gồm bốn nhân vật: người cha, cô chị, cô em
người dẫn chuyện. Giọng đọc thay đổi theo từng nhân vật, ngữ điệu đọc cũng
phải thay đổi theo tính cách của từng nhân vật.
- Người cha: Đọc với giọng trầm buồn.
- Người chị: Đọc với giọng gay gắt, cao giọng ở cuối câu và nhấn giọng ở từ
dùng để hỏi.
- Người em: Đọc giọng hồn nhiên, tinh nghịch.
Xác định được giọng đọc, kĩ thuật đọc và năng lực cảm thụ văn học, tìm hiểu
thật kĩ bài văn, bài thơ để cảm thụ sâu sắc nhất, tinh tế nhất, từ đó sẽ tìm ra cách
đọc hấp dẫn.
* Đọc đúng tốc độ, cao độ và cường độ:
Tốc độ đọc chi phối sự rung cảm, có ảnh hưởng đến việc thể hiện ý nghĩa,
cảm xúc (tốc độ đọc chỉ được đặt ra khi đã đọc đúng).
Khi đọc văn bản có nội dung miêu tả một số công việc dồn dập phải đọc với
giọng nhanh.
Ví dụ: Câu văn:
“Một tiếng reo to nổi lên, rồi ầm ầm, hai chục thanh niên cả nam lẫn nữ, mỗi
người vác một bó củi vẹt, nhảy xuống dòng nước đang cuộn dữ.”
(Bài Thắng biển – Tiếng Việt 4 - Tập II)
Cường độ đọc không nên quá to hay quá nhỏ mà cần đọc với giọng vừa phải,
làm sao cho mọi người trong lớp đều nghe thấy.
Cao độ được sử dụng khi đọc câu khiến, câu hỏi. Vậy việc đọc đúng tốc độ,
cao độ và cường độ là cần thiết có ảnh hưởng lớn đến mức độ diễn cảm của một
bài đọc.
Trên đây là một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm mà tôi đã nghiên cứu
và áp dụng các biện pháp trên vào quá trình dạy học.
Biện pháp 4. Nâng cao năng lực đọc diễn cảm của học sinh thông qua việc
tìm hiểu nội dung bài đọc:

- Việc học sinh hiểu nội dung bài đọc sẽ giúp các em hiểu được nội dung
thông báo của văn bản mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc. Qua việc hiểu
đúng, học sinh sẽ có cách ngắt nhịp đúng, thể hiện đúng nội dung thông báo của
văn bản. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài, tôi luôn hướng tới
mục đích nhằm giúp học sinh trao đổi kĩ năng đọc - hiểu, góp phần năng cao
năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho luyện đọc diễn cảm.
- Trong quá trình tìm hiểu nội dung bài đọc, tôi luôn có ý thức giúp học sinh
nắm được nội dung chính của bài, tạo điều kiện cho các em xác định giọng đọc
chung của đoạn, của bài. Ví dụ: Bài đọc với giọng đọc dồn dập, căng thẳng hay
nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi,…
Biện pháp 5. Giúp học sinh đọc diễn cảm tốt hơn thông qua việc đọc mẫu
diễn cảm của giáo viên:
Đọc mẫu diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc.
Người đọc phải hoà nhập tâm hồn với nội dung bài đọc, với văn cảnh thì mới có
cảm xúc, mới tìm thấy ngữ điệu phù hợp từ đó mới có thể đọc tốt, đọc hay.

11


Trong quá trình đọc mẫu đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, rõ ràng, ngữ điệu
đọc phù hợp với nội dung văn bản. Đó chính là việc thể hiện giọng đọc, ngắt
giọng biểu cảm, thể hiện tốc độ, cường độ, cao độ để biểu đạt đúng ý nghĩa và
tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu,
cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm mà tác giả muốn nhắn nhủ, gửi gắm
thông điệp tới người nghe, người đọc.
- Việc đọc mẫu của giáo viên có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhằm minh hoạ, gợi ý
hoặc nêu “tình có vấn đề” cho học sinh nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc,
cách xử lí giọng đọc. Ví dụ: Hãy lắng nghe và phát hiện cách đọc của cô xem cô
đã đọc như thế nào? Trong quá trình đọc, cô đã nhấn giọng như thế nào, ở tiếng,
từ ngữ nào, ngắt nhịp ở đâu, nhấn giọng, kéo dài giọng ra sao?... Từ đó giúp mỗi

học sinh suy nghĩ và tìm ra cách đọc diễn cảm riêng, bộc lộ sự sáng tạo, bản sắc
của cá nhân.
Nhận thức được vai trò của việc đọc mẫu diễn cảm, tôi luôn coi trọng việc
đọc mẫu để từ đó thường xuyên rèn luyện giọng đọc của mình, có ý thức tự điều
chỉnh mình đọc đúng hơn, hay hơn, trở thành một “trực quan sinh động” trong
các giờ dạy Tập đọc.
Biện pháp 6. Tạo môi trường luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản:
Muốn đọc diễn cảm tốt, học sinh phải có môi trường rèn luyện, tích lũy kinh
nghiệm rồi quay trở lại vận dụng vào quá trình đọc diễn cảm. Để học sinh đọc
đúng, đọc diễn cảm tốt, tôi luôn ý thức tạo điệu kiện cho từng học sinh được
thực hành luyện đọc diễn cảm (theo cặp, theo nhóm) để rút kinh nghiệm. Tôi
tiến hành cho học sinh thực hành theo các cách sau:
- Hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm các câu tiêu biểu trong bài: Phần
luyện đọc này góp phần tạo điều kiện cho nhiều học sinh được tham gia nhất,
được tiến hành theo các bước sau:
+ Xuất hiện tình huống luyện đọc (câu cần luyện đọc) đã ghi ở bảng phụ hoặc
trên màn hình ti vi, máy chiếu.
+ Hướng dẫn học sinh đọc thầm, tìm hiểu nghĩa, xác định giọng đọc của câu
văn (câu thơ).
+ Gọi học sinh đọc mẫu (hoặc giáo viên đọc mẫu, nếu là câu quá khó) – Cả
lớp trao đổi, nhận xét về giọng đọc của giáo viên, của bạn mà mình cho là đúng
nhất, hay nhất.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh luyện đọc theo nhóm (tổ), cá nhân.
- Hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm đoạn văn hoặc khổ thơ (đoạn thơ).
+ Học sinh nhắc lại cách thể hiện giọng đọc, cách ngắt giọng, nhấn giọng ở
những từ ngữ biểu cảm trong đoạn hoặc khổ thơ.
+ Giáo viên đọc mẫu – Học sinh nghe, thảo luận, nhận xét về giọng đọc của
giáo viên.
+ Học sinh luyện đọc theo cặp.
+ Giáo viên tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm trước lớp, nhận xét, đánh

giá.
- Học sinh luyện đọc diễn cảm cả bài (tiến hành như trên, sau đó cho học sinh
đọc cá nhân).
* Ngoài ra, tôi còn tổ chức cho học sinh thể hiện giọng đọc theo nhân vật của
12


văn bản hoặc cho học sinh đọc phân vai (đối với những văn bản có từ hai nhân
vật trở lên) nhằm giúp các em biết thay đổi giọng đọc khi nhập vai các nhân vật,
biết phân biệt được lời của tác giả và lời của nhân vật; phân biệt được lời của
nhân vật khác (thông qua lời nói, hành động của nhân vật,... được thể hiện trong
văn bản).
Biện pháp 7. Tạo lập hứng thú, say mê rèn đọc diễn cảm cho học sinh bằng
qua các trò chơi học tập trong quá trình luyện đọc.
Nhằm nâng cao hiệu quả của tiết dạy Tập đọc, kích thích hứng thú luyện đọc
của học sinh, tôi thường xuyên tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh trong
quá trình luyện đọc. Các trò chơi sẽ góp phần tạo lập ở các em hứng thú đọc; rèn
tư duy linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư tưởng,
tình cảm tốt đẹp, tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp.
Các trò chơi học tập trong tiết Tập đọc thường được tôi tổ chức trong quá
trình luyện đọc hoặc đọc diễn cảm tuỳ thuộc nội dung bài đọc, dung lượng bài
tập đọc (dài hay ngắn, thơ hay văn xuôi), khả năng học sinh tham gia,... Các trò
chơi thường được tôi sử dụng trong quá trình luyện đọc diễn cảm cho học sinh
như: Ô cửa (bông hoa) bí mật, thi đọc nối tiếp từng đoạn (theo nhóm, tổ); nhìn
một từ đọc cả câu (hoặc nhìn một câu đọc cả đoạn); thi đọc truyện theo vai; nghe
nội dung – đọc đúng đoạn, mảnh ghép thích hợp,…
Dưới đây là một trong những trò chơi tôi đã tổ chức trong quá trình rèn kĩ
năng đọc diễn cảm cho học sinh:
Trò chơi: Ô cửa bí mật:
* Chuẩn bị: Sách giáo khoa, tranh ảnh tương ứng với nội dung bài đọc (được

che lấp bởi các ô cửa – có thể làm thủ công hoặc sử dụng trên bài dạy ứng dụng
Microsoft Office PowerPoint).
* Tiến hành:
- Giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn cách chơi, luật chơi:
Học sinh xung phong lựa chọn ô cửa, xem tranh (ảnh) ẩn đằng sau, nhận
diện đoạn cần đọc tương ứng, đọc diễn cảm.
- Giáo viên cùng cả lớp nhận xét, chọn và tuyên dương học sinh đọc đúng
đoạn ứng với nội dung tranh, đọc diễn cảm tốt nhất.
Mục đích của trò chơi này tạo hứng thú cho học sinh tham gia đọc thi, tạo sự
hồi hộp gây hứng thú thi đua đối với học sinh trong quá trình luyện đọc diễn
cảm.
Biện pháp 8. Rèn kĩ năng ở một số dạng bài cụ thể:
Trong phân môn Tập đọc của lớp Bốn có 3 thể loại: Văn miêu tả, truyện và
thơ. Dưới đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi khi hướng dẫn các kiểu
bài đọc này:
* Hướng dẫn đọc diễn cảm bài đọc là thơ:
Thơ là tiếng nói tình cảm, là sự phản ánh cuộc sống con người một cách cao
đẹp. Thơ rất giàu hình ảnh và đượm tính trữ tình. Ngôn ngữ thơ thường cô đọng,
xúc tích. Vì vậy, khi đọc cần thể hiện được tình cảm của tác giả trong thơ để
truyền đạt cảm xúc tới người nghe.
Thơ có tính truyền cảm sâu sắc vì nó vừa có tiếng, vừa có hình, vừa lắng đọng
vừa ngân nga. Cho nên khi đọc cần phải làm cho mỗi tiếng thơ như có hồn, mỗi
13


câu thơ như hiện lên một hình ảnh. Nghe đọc một bài thơ hay, chúng ta có thể
hình dung ra một bức tranh sinh động và giàu màu sắc, âm thanh.
Ví dụ: Bài Tuổi ngựa (Tiếng Việt 4 - Tập I)
Khi hướng dẫn đọc diễn cảm khổ thơ 1 và 2 (từ “Mẹ ơi, con tuổi gì?” đến
“Ngọn gió của trăm miền”, tôi chú trọng một số kĩ năng sau:

- Ngắt giọng biểu cảm: Ngoài việc ngắt, nghỉ theo dấu câu, học sinh cần ngắt
giọng biểu cảm (dựa vào cảm xúc) thông qua việc cảm thụ bài thơ trong phần
tìm hiểu bài.
Đoạn:
Mẹ ơi, /con sẽ phi/
Qua bao nhiêu ngọn gió/
Gió xanh/ miền trung du/
Gió hồng/ vùng đất đỏ/
Gió đen/ hút đại ngàn/
Mấp mô triền núi đá/
- Đọc đúng kiểu câu :
Câu: “Mẹ ơi, con tuổi gì”? (Là dạng câu hỏi).
Đọc cao giọng từ “Mẹ ơi”, đọc nhấn giọng ở từ dùng để hỏi “tuổi gì”.
- Ngữ điệu: Khổ thơ 1 là lời hội thoại của hai mẹ con nên khi đọc, ngữ điệu
cần được học sinh thay đổi cho phù hợp với lời nhân vật.
+ Lời người con (đọc với giọng vui tươi, nhí nhảnh).
+ Lời người mẹ (đọc với giọng chậm rãi, thể hiện đây là lời giải thích của mẹ
cho con nghe).
+ Đọc nhấn giọng vào các từ ngữ: bao nhiêu, xanh, hồng, đen, hút.
- Tốc độ: Khổ thơ 2 đọc với tốc độ hơi nhanh, chậm dần ở cuối khổ thơ.
* Hướng dẫn đọc diễn cảm thể loại văn miêu tả:
Thơ phản ánh hiện thực bằng phương thức trữ tình còn văn xuôi phản ánh
hiện thực bằng phương thức tự sự.
Ví dụ: Bài: Trung thu độc lập (Tiếng Việt 4- Tập I)
Đoạn: “Anh nhìn trăng... với các em” (Gồm đoạn 1 và đoạn 2).
Khi hướng dẫn bài này, tôi đã chú ý những điểm sau:
- Đọc đúng, ngắt nghỉ đúng:
Hướng dẫn học sinh ngắt nghỉ theo dấu câu, ngoài ra còn ngắt giọng theo cụm
từ biểu cảm.
Câu: “Trăng của các em/ sẽ soi sáng những ống khói nhà máy chi chít/ cao

thẳm/ rải trên đồng lúa bát ngát vàng thơm/ cùng với nông trường to lớn/ vui
tươi//”
- Hướng dẫn đọc đúng kiểu câu:
Trong bài có câu: “Trăng đêm nay sáng quá!”
Đây là câu cảm thể hiện cảm xúc vui sướng có một chút ngạc nhiên nên đã
bật lên lời khen. Khi đọc, ta cần đọc cao giọng ở cuối câu và nhấn giọng từ
“sáng quá”.
- Tốc độ đọc: giọng đọc ngân dài, chậm dãi.
Đoạn 2: Từ “Ngày mai…Vui tươi”.
Là đoạn văn miêu tả một loạt hình ảnh xuất hiện đồng loạt dưới ánh trăng nên
ta đọc với giọng hơi nhanh.
14


Đoạn 3: Từ “Trăng đêm nay…….với các em”.
Là đoạn văn thể hiện niềm mong ước, tình cảm của anh chiến sĩ về một ngày
mai tươi đẹp nên học sinh cần đọc với giọng vui vẻ, cao giọng ở hai câu đầu, hơi
chậm và thấp dần ở câu cuối.
* Hướng dẫn đọc diễn cảm thể loại văn bản truyện:
Ngoài những biện pháp như thể loại văn xuôi, ta còn chú ý đến lời của nhân
vật. Vì vậy, đối với chuyện, tôi còn hướng dẫn học sinh đọc phân vai. Phần đọc
phân vai thể hiện mức độ cảm thụ bài đọc ở mức độ cao hơn.
Để rèn kĩ năng đọc diễn cảm văn bản truyện cho học sinh, tôi đã thực hiện các
biện pháp sau:
- Đọc đúng, ngắt nghỉ đúng.
- Nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả hình ảnh.
- Đọc đúng ngữ điệu các kiểu câu.
- Đọc với tốc độ, cường độ, cao độ phù hợp với từng đoạn, từng bài.
- Chọn giọng đọc và thay đổi giọng đọc cho phù hợp với tính cách của từng
nhân vật, phù hợp với nội dung biểu đạt của bài.

- Phần đọc mẫu của giáo viên phải đạt chuẩn để học sinh đọc theo.
Ví dụ: Khi đọc câu chuyện: Bốn anh tài (Phần 1, Tiếng Việt 4- Tập II), giáo
viên hướng dẫn học sinh cần đọc với giọng kể khá nhanh; nhấn giọng vào những
từ ngữ ca ngợi tài năng, sức khỏe, nhiệt thành làm việc của bốn cậu bé: chín chõ
xôi, lên mười, mười lăm tuổi, tinh thông võ nghệ, tan hoang, không còn ai, quyết
chí, giáng xuống, thụt sâu hàng gang tay, sốt sắng, ầm ầm, hăm hở, hăng hái.
Chú ý những chỗ ngầm nghỉ hơi giữa các cụm từ trong câu văn khá dài (để
không gây hiểu lầm hoặc mơ hồ về nghĩa):
+ Đến một cánh đồng khô cạn, Cẩu Khây thấy một cậu bé vạm vỡ đang dùng
tay làm vồ đóng cọc / để đắp đập dẫn nước vào ruộng.
+ Họ ngạc nhiên / thấy một cậu bé đang lấy vành tai tát nước suối/ lên một
thửa ruộng cao bằng mái nhà.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt đọng giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Qua việc tìm tòi, đúc rút và vận dụng “Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc
diễn cảm cho học sinh lớp Bốn” trong dạy học phân môn Tập đọc ở lớp 4 của
bản thân đã cho thấy kết quả dạy học được nâng lên. Giờ học được tiến hành nhẹ
nhàng, các giờ học bảo đảm tính sư phạm, đạt hiệu quả cao, giúp học sinh nắm
vững và vận dụng tốt các kiến thức vừa học, đặc biệt nâng cao kĩ năng đọc diễn
cảm bài đọc. Từ đó, học sinh có cách cảm và hiểu nội dung bài đọc sâu sắc hơn,
tiến tới vận dụng học tốt các phân môn khác của môn Tiêng Việt nói riêng và
các môn học khác nói chung. Mặt khác, việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học
sinh trong các tiết thao giảng của bản thân, tôi đã động viên các đồng nghiệp
tích cực tìm hiểu, trao đổi để có những tiết dạy học đạt hiệu quả cao. Từ đó,
phong trào học hỏi, trao đổi kinh nghiệm dạy học được hưởng ứng một cách tích
cực giữa các đồng nghiệp trong trường; các em học sinh cũng có ý thức hơn, tích
cực hơn trong quá trình rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm. Điều đó được thể hiện
qua bảng số liệu khảo sát học sinh lớp 4A (tính đến thời điểm ngày 15 tháng 4
năm 2019) do tôi giảng dạy dưới đây:
15



Tổng số
học sinh
34

Đọc diễn cảm tốt
SL
TL
14

41,2

Mức độ
Đọc trôi chảy
SL
TL
17

Đọc chậm
SL
TL
50

3

8,8

Một số em được chọn làm nòng cốt của lớp là em: Phương Anh, Quốc Anh,
Nguyệt, Đức, Minh, Quân, Tùng, Bùi Linh, Phạm Linh... Tuy nhiên trong đó

vẫn còn một số em còn mắc phải lỗi phát âm, đặc biệt là tiếng địa phương như:
ch/tr, s/x, iêc/iêt, ân/âng,... Lỗi phát âm tiếng địa phương rất khó sửa cần phải có
thời gian và sự kiên trì của cả cô và trò.

16


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Để rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh trong các tiết Tập đọc thì:
- Giáo viên cần thực hiện tốt việc chuẩn bị bài ở nhà có chất lượng, giao
nhiệm vụ đọc, nêu câu hỏi định hướng hoặc có biện pháp kiểm tra, đánh giá cụ
thể đối với học sinh.
- Việc đọc mẫu diễn cảm của giáo viên là khâu quan trọng giúp học sinh luyện
tập thể hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bài đọc qua giọng đọc, đồng
thời các em có thể học tập cách đọc của giáo viên.
- Đọc đúng giúp học sinh hiểu đúng nội dung văn bản, giúp các em đi vào tìm
hiểu bài thơ, bài văn một cách hiệu quả. Từ việc hiểu được cái hay, cái đẹp của
bài đọc sẽ giúp các em có cảm hứng để đọc hay hơn.
- Việc nắm nội dung bài đọc và xác định giọng đọc của cả bài, đoạn, câu là
một yếu tố cơ bản giúp học sinh đọc diễn cảm tốt.
- Việc rèn học sinh có thói quen học ở nhà là một việc làm cần thiết trong
khâu đọc diễn cảm, bởi vì ở lớp thời gian học tập rất ít. Các em chuẩn bị bài ở
nhà tốt thì đến lớp tiếp thu bài nhanh hơn, đọc tốt hơn.
- Một số học sinh có năng lực đọc còn hạn chế (do cấu tạo bộ máy phát âm
nên không đọc rõ tiếng, đọc ngọng, không đúng), giáo viên cần kiên trì luyện
đọc từng bước: phát âm rõ tiếng, luyện đọc từ, sau đó cả câu, đoạn rồi cả bài.
- Việc cho học sinh thảo luận tập thể cách đọc diễn cảm một bài cũng có kết
quả vì nó sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh. Các em có thể không dám
nói với cô nhưng trước bạn bè các em sẽ dễ dàng bộc bạch ý kiến. Việc cho học

sinh nhận xét cách đọc của bạn cũng rất tốt vì các em không những nắm vững
cách đọc mà còn có khả năng sáng tạo khi đọc.
- Về kĩ thuật đọc và cách biểu thị tình cảm, giáo viên cần cho học sinh chủ
động, không áp đặt. Từ những câu đề xướng cách đọc của học sinh, giáo viên
dựa vào đấy để bổ sung và lựa chọn cách đọc giúp các em sẽ dễ dàng tiếp thu.
- Mức độ rèn đọc diễn cảm có thể tiến hành từ thấp đến cao, từ đọc đúng ngữ
điệu các kiểu câu đến việc thay đổi giọng đọc khi gặp câu đối thoại.
- Trong khi các em đọc, giáo viên cần uốn nắn sửa chữa kịp thời. Động viên
các em đọc tốt hơn, khuyến khích cách đọc biểu đạt tình cảm riêng, sáng tạo,
không rập khuôn máy móc.
- Giờ Tập đọc - Học thuộc lòng, giáo viên cần dành thời gian khuyến khích
học thuộc, tổ chức chơi các trò chơi sẽ thay đổi không khí, các em sẽ có hứng
thú hơn trong học tập. Việc kiểm tra, ôn luyện để học sinh học thuộc, nhớ lâu,
đọc tốt nhiều bài văn sẽ giúp làm giàu vốn ngôn ngữ cho các em và học sinh sẽ
yêu thích môn Tiếng Việt hơn.
- Để thúc đẩy việc đọc diễn cảm tốt, giáo viên nên thường xuyên tổ chức cho
các em thi nhóm. Tổ chức đọc phân vai theo nhóm như thế, học sinh có thể được
đọc nhiều hơn và học thêm từ bạn mình cách đọc.
- Chất lượng đọc diễn cảm của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
vai trò của người giáo viên rất quan trọng. Vì học sinh không thể tự mình cảm
thụ được cái hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ mà các em chỉ nhìn thấy cái hay,
cái đẹp dưới sự hướng dẫn, tìm hiểu từ giáo viên. Vì thế, người giáo viên phải
17


thật sự tận tụy, chịu khó tìm tòi để có phương pháp tốt, giúp các em tiếp thu bài
tốt hơn, tạo ra phương pháp phù hợp để áp dụng trong giảng dạy. Trong tiết dạy,
giáo viên chỉ đóng vai trò là người chỉ đạo, giám sát, học sinh chủ động thi công.
- Dạy đọc diễn cảm tốt, người giáo viên như giúp thêm phương tiện để học
sinh khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương và áp dụng vào cuộc sống. Như

vậy, người giáo viên góp phần khám phá những năng lực sáng tạo còn tiềm ẩn
trong tâm hồn thơ ngây, bé bỏng, đáng yêu của trẻ em.
- Những kinh nghiệm của bản thân ở trên có khả năng ứng dụng vào thực tế
nhà trường và địa phương rất tốt, góp phần nâng cao chât lượng dạy học. Đồng
thời có thể phát triển mở rộng, kế thừa, áp dụng đối với phân môn Tập đọc ở tất
cả các lớp của bậc tiểu học.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với giáo viên và các nhà trường:
- Mỗi giáo viên cần phải thường xuyên dành nhiều thời gian để nghiên cứu tài
liệu giảng dạy, tra cứu thông tin trên mạng Internet, tự tìm tòi và cập nhật tri
thức nói chung, các kiến thức về cách đọc diễn cảm nói riêng nhằm nâng cao
năng lực chuyên môn, đáp ứng những đòi hỏi của xã hội đang đặt ra đối với giáo
dục nói chung, đối với mỗi giáo viên nói riêng.
- Để giáo viên có thể tiếp cận và thực hiện soạn giảng lên lớp đạt hiệu quả
cao, nhà trường cần tăng cường tổ chức những buổi hội thảo, sinh hoạt chuyên
môn, cung cấp tài liệu tham khảo về nội dung và phương pháp dạy môn Tập đọc
kịp thời để giáo viên học hỏi lẫn nhau và thực hiện giảng dạy đạt kết quả.
* Đối với các cấp quản lí giáo dục:
- Cần tăng cường khuyến khích viết đề xuất sáng kiến kinh nghiệm các cấp,
ứng dụng, triển khai rộng rãi những sáng kiến về rèn đọc diễn cảm cho học sinh
vào thực tế dạy học.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo cần thường xuyên tổ chức
các lớp tập huấn các chuyên đề về dạy học môn Tiếng Việt nói chung, phân môn
Tập đọc nói riêng để bổ sung kiến thức, cập nhật những kĩ thuật phương pháp mới
cho giáo viên, tạo điều kiện cho giáo viên giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của đồng
nghiệp nhằm nâng cao chuyên môn; làm tốt công tác thi đua khen thưởng để
khuyến khích giáo viên sáng tạo trong quá trình dạy học nói riêng.
Một vài kinh nghiệm nhỏ trên đây, tôi đã mạnh dạn áp dụng vào thực tế quá
trình dạy học của mình, chắc chắn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Rất mong được
sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp, các cấp quản lí giáo dục để sáng

kiến ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Ngọc Lặc, ngày 15 tháng 4 năm 2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Bùi Thị Hải Đường
18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt 4, tập 1 – 2, NXB Giáo dục 2016.
2. Tiếng Việt 4, tập 1 – 2 (Sách giáo viên), NXB Giáo dục 2006.
3. Đọc và cảm thụ những bài thơ hay trong sách Tiếng Việt Tiểu hoc, Tạ
Đức Hiền – TS. Nguyễn Việt Nga – TS Phạm Minh Tú, NXB Hà Nội, 2011.
4. CGD Công nghệ giáo dục, tập 1 – 2, Hồ Ngọc Đại, NXB Giáo dục 1995.
5. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, PTS Lê Phương Nga, Nguyễn
Trí, NXB Giáo dục 1995.

19



×