SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO
GIẢNG DẠY MÔN GDCD LỚP 8 Ở TRƯỜNG THCS
Người thực hiện: Nguyễn Văn Huân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Hiền Kiệt
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): GDCD
THANH HÓA, NĂM 2017
Mục lục
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Đề mục
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3.Các giải pháp giải quyết vấn đề
2.3.1 Các biện pháp để tổ chức thực hiện
2.3.2Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực...
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
3
4
6
15
16
16
16
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục công dân là một môn học có vị trí quan trọng trong trường trung
học, giúp học sinh hiểu được những chuẩn mực đạo đức và pháp luật cơ bản, phổ
thông, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS trong các mối quan hệ với
bản thân, với người khác, với công việc và với môi trường sống. Hiểu ý nghĩa của
các chuẩn mực đối với sự phát triển của cá nhân, xã hội và cách thức rèn luyện để
đạt được các chuẩn mực đó.
Không những thế môn Giáo dục công dân còn được khẳng định bởi chính
nhiệm vụ và chức năng mà môn học đảm nhiệm. Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ giáo
dục và đào tạo đã chỉ rõ “Môn Giáo dục công dân có vị trí hàng đầu trong việc
định hướng phát triển nhân cách học sinh”.
Trong giảng dạy bài mới ở các trường THCS giáo viên bộ môn hầu như chỉ sử
dụng phương phương pháp giảng giải cho học sinh. Do đó những kiến thức mà học
sinh tiếp thu không sâu sắc, không biến những tri thức của Sách giáo khoa thành tri
thức của mình dẫn đến tình trạng học “vẹt”. Không ít giáo viên chỉ “phát thanh lại
Sách giáo khoa”. Nguyên nhân của tình trạng này là do giáo viên giảng dạy bộ
môn Giáo dục công dân không biết kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống
với các phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp nêu vấn đề, phương pháp
trực quan, phương pháp đàm thoại…nên bài giảng tẻ nhạt, đơn điệu. Vì vậy ảnh
hưởng đến việc truyền thụ kiến thức.
Tuy nhiên hạn chế không chỉ ở giáo viên mà còn biểu hiện ở Sách hướng dẫn
giảng dạy môn học cũng chưa thật sự được quan tâm đến việc vận dụng đa dạng
các phương pháp dạy học mới. Sách hướng dẫn chủ yếu nêu lên mục đích yêu cầu
của bài giảng, một số gợi ý về nội dung và phương pháp mà giáo viên cần quan
tâm. Sách không hướng dẫn cụ thể các phương pháp dạy học nêu ra trên đây. Vì
vậy giáo viên chỉ vận dụng phương pháp giảng giải hoặc một vài phương pháp
truyền thống khác.
Trong thực tế giảng dạy phương pháp giảng giải được giáo viên sử dụng phổ
biến nhất. Các phương pháp dạy học khác như phương pháp luyện tập học sinh còn
chưa định hình một cách rõ ràng. Đương nhiên mục đích luyện tập cho học sinh mà
môn Giáo dục công dân thực hiện không nằm ngoài mục đích giáo dục của môn
học này. Đó là giúp cho học sinh nắm vững tri thức của môn học và vận dụng tri
thức đó vào cuộc sống. Nhiệm vụ giúp học sinh biết vận dụng tri thức môn học vào
đời sống đúng là nhiệm vụ đặc trưng của bài tập thực hành. Tuy vậy, nhiều tiết
luyện tập, bài tập Giáo dục công dân mới chỉ dừng lại ở nhận thức nội dung bài
học. Không nhất thiết bài tập nào cũng phải nêu yêu cầu vận dụng, nhưng mỗi tiết
luyện tập nên có các bài tập thực hành.
Là một giáo viên đang giảng dạy môn Giáo dục công dân tại trường THCS
Hiền Kiệt. Từ thực trạng trên tôi mong muốn góp thêm một phần nhỏ bé vào việc
hiểu sâu hơn việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
1
Chính vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp dạy học tích
cực vào giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 8 ở trường THCS – Hiền Kiệt” làm
nội dung nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề này mục đích giúp cho giáo viên THCS thấy được việc
vận dụng phương pháp dạy học mới vào thực tế giảng dạy môn GDCD sẽ đem lại
hiệu quả cao hơn trong công tác giảng dạy.
Qua đó học sinh sẽ hiểu bài nhanh hơn, khắc sâu kiến thức hơn so với các
phương pháp dạy học truyền thống.
Vì vậy hiện nay đổi mới phương pháp dạy học có ý nghĩa như một cuộc cách
mạng về phương pháp. Chính cuộc cách mạng về phương pháp dạy học sẽ đem lại
bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục trong đó có giáo dục ở bậc THCS, đáp ứng
yêu cầu của thời đại mới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 8 trường THCS Hiền Kiệt-Quan Hóa
-Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế thu thập thông tin
Phương pháp thực hành vận dụng thực tế
1.5. Những điểm mới trong sáng kiến kinh nghiệm “Vận dụng phương pháp
dạy học tích cực vào giảng dạy môn Giáo dục công dân lớp 8 ở trường THCS –
Hiền Kiệt” đó là gây được sự hứng thú cho học sinh, từ đó học sinh tiếp thu kiến
thức một cách chủ động và đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận Lý luận
Trong lịch sử giáo dục thế giới đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cao vai trò tích
cực của người học, xem người học là chủ thể của quá trình học tập.
Ở thế kỷ XVII Akômexki đã viết “giáo dục có mục đích đánh thức năng lực
nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách…Hãy tìm ra phương pháp
cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn”. [1]
Gần đây người ta thường nhắc đến phương pháp dạy học “tích cực” tức là
phương pháp dạy học “lấy người học làm trung tâm”. Khi phương pháp dạy học này
được sử dụng thì đã tạo ra một cuộc “cách mạng” về đổi mới phương pháp dạy học.
Các nhà khoa học nước ta nói chung ủng hộ quan điểm “lấy học sinh làm
trung tâm” vì nó phù hợp với phương châm hoạt động giáo dục nổi tiếng của nước
ta “tất cả vì học sinh thân yêu”. Đó là phương châm đúng đắn và tiến bộ, lấy học
sinh làm trung tâm tức là coi trọng chủ thể học tập là người học, coi trọng việc tự
học, tự thân vận động, độc lập suy nghĩ, rèn luyện óc sáng tạo để thực hiện mục
đích học tập của mình. Trong thực tiễn điều mà phương pháp dạy học tích cực
quan tâm nhất là làm sao cho người học có đầy đủ động lực, hứng thú học tập, xem
2
đó là hạnh phúc trong học hành. K.D.Liskinsky cho rằng “sự học tập mà không có
hứng thú nào, chỉ do cưỡng bức phải làm, dù sự cưỡng bức đó được khai thác từ
một nguồn tốt đẹp nhất là lòng yêu quý của giáo viên, cũng sẽ giết chết hứng thú
học tập, ở học sinh mà thiếu cái đó thì học sinh không thể đi xa được, còn học tập
chỉ dựa trên hứng thú sẽ không tạo khả năng rèn luyện tính tự chủ và ý chí học
sinh. Bởi vì không phải mọi cái học tập đều thích thú cả và sẽ có nhiều điều cần
đến sức mạnh của ý chí mới được”. Có như vậy giáo dục mới đáp ứng được nhu
cầu của xã hội hiện đại.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong những năm qua, quá trình giảng dạy môn Giáo dục công dân ở trường
THCS, giáo viên chủ yếu sử dụng hệ thống phương pháp dạy học truyền thống.
- Thầy (người trao) cho học sinh.
- Trò (người nhận) thụ động tiếp thu những gì thầy truyền đạt.
- Khách thể: tái hiện, lặp lại, học thuộc lòng.
Khách thể tái hiện
Thầy chủ thể
Trò thụ động
Về phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân hiện nay phần nhiều còn
mang tính thụ động, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo nên hiệu
quả dạy học chưa cao.
Qua khảo sát 1 lớp 34 học sinh thu được kết quả như sau:
- Chủ động tìm hiểu kiến thức 6.
- Thụ động tiếp thu kiến thức 28
- Học thuộc và hiểu bài 6.
- Học thuộc nhưng chưa hiểu bài “Học vẹt” 20.
- Không hiểu bài là 8
2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề
Từ những thực trạng nêu trên, để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Giáo dục
công dân đòi hỏi giáo viên phải vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực,
tập trung vào những giải pháp chủ yếu sau:
Một là. Giáo viên phải nắm vững đặc điểm học sinh cả về tâm lí và khả năng trí
tuệ, học lực để vận dụng các phương pháp dạy học tích cực. Những vấn đề khó hoặc
quá dễ đều dẫn đến việc học sinh chán học, không có hứng thú tìm tòi, tư duy.
Hai là. Giáo viên nắm vững mục đích, yêu cầu, những nội dung của bài giảng
để xác định nội dung trọng tâm và chọn lựa những tình huống đưa học sinh vào vấn
đề cần tìm hiểu. Bởi vì trong một bài giảng hoặc cùng một nội dung cần giảng
nhưng có thể có nhiều tình huống khác nhau…Giáo viên phải đầu tư thời gian,
công sức để nghiên cứu bài giảng, lựa chọn tình huống, hình dung trước các giai
3
đoạn của việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, lường trước những khó
khăn có thể xảy ra.
Ba là. Đội ngũ giáo viên phải được đào tạo chính quy để có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ vững vàng. Phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi ở giáo viên trình
độ lành nghề, óc sáng tạo để đáp ứng vai trò là người khởi xướng, động viên, xúc
tác, hướng dẫn, trợ giúp để đảm bảo sự nổ lực của học sinh trong học tập cũng như
có định hướng phát triển cho các em.
Bốn là.Sách giáo viên cần giảm bớt những câu trả lời sẵn về các vấn đề nêu
ra, giảm bớt phần tóm tắt bài học làm sẵn cho học sinh, tăng phần gợi ý để học sinh
tự nghiên cứu bài học.
Năm là. Một nguyên tắc dạy học mà giáo viên phải tuân thủ khi vận dụng
phương pháp dạy học tích cực là phải vận dụng kết hợp với các phương pháp dạy
học truyền thống, dẫu rằng phương pháp dạy học tích cực có ưu thế nhưng cũng
không vì vậy mà chúng ta tuyệt đối hoá nó tách ra khỏi hệ thống các phương pháp
dạy học môn Giáo dục công dân. Mà muốn tạo nên sự uyển chuyển bài giảng, tính
sinh động của bài học giáo viên phải kết hợp hài hoà các phương pháp dạy học để
phát huy được ưu điểm khắc phục những hạn chế của chúng. Có như vậy bài giảng
mới thực sự lôi cuốn học sinh, khơi dậy được những tiềm năng, trí sáng tạo, khả
năng tư duy nhạy bén của các em.
Sáu là. Việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn Giáo
dục công dân đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu toàn diện, đó là yêu cầu đối với
giáo viên và học sinh.
Bảy là. Ngoài kiến thức đặc thù của bộ môn người giáo viên cần phải có sự
am hiểu thêm về các bộ môn khác vì đó là điều kiện cơ bản để làm sáng tỏ một số
vấn đề lên quan đến môn giáo dục công dân, đồng thời cũng góp phần làm sinh
động, phong phú thêm cho giờ dạy, tạo hứng thú cho học sinh.
2.3.1. Các biện pháp để tổ chức thực hiện
Để vận dụng tốt phương pháp dạy học tích cực cần thực hiện tốt các biện
pháp sau:
a. Đối với giáo viên
Việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi một số điều kiện trong đó
quan trọng là giáo viên.
Giáo viên phải được đào tạo chu đáo đúng chuyên môn, vừa có tri thức liên
môn sâu rộng, vừa có trình độ sự phạm lành nghề, biết vận dụng các phương pháp
dạy học, có thể định hướng sự phát triển của học sinh nhưng cũng đảm bảo sự chủ
động của học sinh trong hoạt động học tập. Phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi
giáo viên phải chủ động tổ chức giờ giảng, sử dụng phương pháp gợi mở, tạo tình
huống có vấn đề…đưa học sinh vào công việc nhằm tập dượt khả năng khám phá
ra các tri thức mới của các em. Những phương pháp dạy học này sẽ kích thích tính
năng động, sáng tạo của học sinh và do vậy không khí lớp học sẽ rất sôi động. Qua
việc nêu, giải quyết vấn đề, phản biện vấn đề, học sinh sẽ động não, sẽ tham gia
4
đóng góp ý kiến, tranh luận, khi vấn đề được kết luận thì học sinh đã am hiểu, tiếp
thu tri thức mới với hiệu quả chất lượng cao.
Phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ
sự phạm giỏi. Giáo viên phải làm thức tỉnh được các sức mạnh của học sinh hướng
theo ý đồ sư phạm của giáo viên, nâng cao tính tự giác, say mê học tập của học
sinh.
Đồng thời giáo viên phải biết vận dụng kết hợp các phương pháp dạy học tích
cực như phương pháp nêu vấn đề, động não, thảo luận…với các phương pháp
truyền thống. Giáo viên không được tuyệt đối hoá bất cứ một phương pháp dạy học
nào, bởi vì không có phương pháp nào là vạn năng trong quá trình dạy học.
Giáo viên phải làm cho học sinh ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ tự
học đối với bộ môn Giáo dục công dân, từ đó tự giác học tập.
Rèn luyện cho học sinh cách tự học tài liệu, Sách giáo khoa trước khi nghe
giảng, như vậy học sinh sẽ tiếp thu bài nhanh hơn.
Giáo viên giao nhiệm vụ cho từng học sinh và từng nhóm, nhiệm vụ giao phải
cụ thể, yêu cầu phải rõ ràng. Khi giao nhiệm vụ giáo viên có những gợi ý cần thiết
để học sinh suy nghĩ, tìm cách giải quyết vấn đề được giao.
Kiểm tra đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ. Trong đó quá trình học sinh thực
hiện công việc được giao, cần theo dõi xem học sinh có làm không? làm như thế
nào? có gặp khó khăn gì không?
Tăng cường tổ chức các phương pháp luyện tập, thực hành, các hoạt động
ngoài giờ lên lớp cho học sinh.
b. Đối với học sinh
Học sinh dưới sự chỉ đạo của giáo viên phải dần dần có những phẩm chất và
năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực, giác ngộ mục tiêu học tập, phải
xác định học tập là học tập cho mình. Từ đó các em học một cách tự nguyện, tự giác,
có ý thức trách nhiệm với kết quả học tập. Các em biết học hỏi ở mọi nơi, mọi lúc,
mọi cách, biết tiếp cận tri thức và chiếm lĩnh nó bằng khả năng của chính mình.
c. Đối với Sách giáo khoa
Chương trình Sách giáo khoa phải giảm bớt những thông tin buộc học sinh
phải thừa nhận, những nội dung rườm rà, đã lạc hậu với hiện tại hoặc quá cao so
với trình độ hiểu biết của học sinh. Đặc biệt môn Giáo dục công dân, một môn học
thuộc khoa học xã hội gắn liền với chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
pháp luật của Nhà Nước, của thực tiễn sôi động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải
có những sửa đổi bổ sung kịp thời khi chương trình nội dung sách không còn phù
hợp nữa. Đồng thời phải đặt ra những vấn đề tập dượt cho học sinh giải quyết,
giảm bớt phần tóm tắt bài. Khối lượng thông tin trong mỗi bài nên vừa phải để thầy
trò có thời gian tổ chức và công tác độc lập, tăng cường nhịp độ, cải tiến nội dung,
hình thức kiểm tra, đánh giá. Các dạng bài tập cần đưa nhiều tình huống có vấn đề
của cuộc sống thực tại, để học sinh suy nghĩ tìm ra các phương án giải quyết, nên
giảm dần dạng bài tập dưới dạng trắc nghiệm ( có, không, đúng, sai, đồng ý, không
5
đồng ý vv..). Vì như vậy vừa tạo ra tính thiếu suy nghĩ, mặt khác lại tạo ra sự ỷ lại
của một bộ phận học sinh.
d. Đồ dùng dạy học
Để thực hiện tốt phương pháp dạy học tích cực thì một yêu cầu đặt ra nữa
cũng không kém phần quan trọng đó là phải có phương tiện đồ dùng dạy học.
Trong thời đại khoa học và công nghệ phát triển thì việc trang bị các phương tiện
đồ dùng phục vụ cho công tác giảng dạy là cần thiết. Đồ dùng dạy học có tác dụng
minh hoạ cụ thể cho nội dung bài học, giúp học sinh tin tưởng sâu sắc vào nội
dung bài học. Ví dụ như tranh, ảnh minh họa, đồ dùng dạy học sẽ mô phỏng bài
học làm cho bài học thêm sinh động. Đồ dùng phương tiện dạy học đòi hỏi giáo
viên phải không ngừng tìm tòi, sưu tầm.
2.3.2. Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực môn giáo dục công dân lớp 8
a. Phương pháp thảo luận nhóm
Đây là phương pháp tổ chức cho học sinh học tập theo những nhóm nhỏ để
các em cùng chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến nhằm giải quyết các vấn đề có
liên quan đến nội dung học tập, tạo cơ hội cho các em được giao lưu học hỏi lẫn
nhau, cùng hợp tác với nhau để giải quyết những nhiệm vụ chung. Khi giáo viên
vận dụng phương pháp này nó sẽ có một số tác dụng như. Kiến thức của học sinh
sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học, kiến
thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu học hỏi
giữa các thành viên trong nhóm, nhờ không khí thảo luận cởi mở nên học sinh, đặc
biệt là những em nhút nhát trước tập thể, hoặc chỗ đông người trở nên mạnh dạn
hơn, các em học được cách trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe có phê phán ý
kiến của bạn, từ đó giúp học sinh dễ hoà nhập vào cộng đồng nhóm, tạo cho các
em sự tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt. Cũng từ phương pháp này sẽ
giúp vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội của học sinh thêm phong phú các kĩ năng
giao tiếp và hợp tác được phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn.
Khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần tiến hành theo các bước sau đây:
- Giáo viên giới thiệu chủ đề thảo luận.
- Chia nhóm, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm, quy định thời gian và phân công
vị trí làm việc cho mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận giải quyết nhiệm vụ được giao.
- Đại diện từng nhóm thảo luận trình bày kết quả thảo luận của nhóm, các
nhóm khác lắng nghe, quan sát, bình luận và bổ sung ý kiến.
- Giáo viên nhận xét và tổng kết nội dung thảo luận.
Tuy nhiên khi giao viên sử dụng phương pháp này cần lưu ý một số điểm sau.
- Nhiệm vụ thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau, khi câu hỏi
thảo luận của các nhóm có tính độc lập với nhau.
- Cần quy định rõ thời gian thảo luận nhóm và thời gian trình bày kết quả thảo
luận cho các nhóm.
6
- Kết quả thảo luận của các nhóm có thể được trình bày dưới nhiều hình thức
như bằng lời, tranh vẽ, tiểu phẩm, văn bản viết ra giấy to…..Có thể do một người
thay mặt nhóm hoặc do nhiều người trình bày.
- Mỗi nhóm cử một nhóm trưởng để điều khiển và một thư kí ghi lại kết quả
thảo luận của cả nhóm.
- Trong quá trình học sinh thảo luận giáo viên cần đến các nhóm để quan sát,
lắng nghe, gợi ý hoặc giúp đỡ học sinh khi cần thiết.
Ví dụ 1:
Khi dạy bài 15 “ Phòng ngừa tai nạn vũ khí cháy, nổ, và các chất độc hại”
GDCD 8 tôi đã tiến hành sử dụng phương pháp thảo luận nhóm như sau:
- Lớp học có 34 học sinh
- Chia lớp thành 3 nhóm, giáo viên chỉ định 11 học sinh một nhóm.
- Cử đại diện của nhóm làm nhóm trưởng và thư kí.
- Giao nhiệm vụ thảo luận cho từng nhóm như sau.
Nhóm 1. Em có cảm nghĩ gì khi đọc các thông tin trên.
Nhóm 2. Tai nạn do vũ khí, cháy, nổ và thực phẩm không an toàn đã để lại
những hậu quả như thế nào?
Nhóm 3. Cần phải làm gì để hạn chế, loại trừ những tai nạn đó?
Thời gian thảo luận là 3 phút.
Sau đó đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình, các nhóm
khác quan sát, lắng nghe và bổ sung ý kiến.
Giáo viên tổng kết, nhận xét đồng thời nêu ra định hướng kiến thức cần đạt
được trong các câu hỏi thảo luận là:
Nhóm 1. Em có cảm nghĩ gì khi đọc các thông tin trên.
- Đó là những số liệu thực về người bị chết, thương tích do bom mìn, các vụ
cháy cũng như ngộ độc thực phẩm gây ra trong cuộc sống hàng ngày.
- Mặc dù đất nước không còn chiến tranh nhưng qua các số liệu trên cho thấy
những cái chết thương tâm vẫn đang rình rập con người.
Nhóm 2. Tai nạn do vũ khí, cháy, nổ và thực phẩm không an toàn đã để lại
những hậu quả như thế nào?
- Tổn thất to lớn về người và tài sản cho nhà nước, tổ chức và cá nhân.
- Ảnh hưởng đến môi trường sống.
Nhóm 3. Cần phải làm gì để hạn chế, loại trừ những tai nạn đó?
- Nhà nước cần phải ban hành một số luật và những quy định liên quan về
việc quản lí, sử dụng vũ khí, chất cháy, nổ, chất phóng xạ và độc hại.
- Mọi công dân cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm của mình đối với các
chất cháy, nổ, chất phóng xạ và độc hại trong cuộc sống hàng ngày.
- Nhà nước cần phải xử lí nghiêm khác các trường hợp vi phạm trong thực tế.
7
Thông qua các câu hỏi thảo luận giáo viên hình thành cho học sinh ý thức bản
thân phải không ngừng học tập để nâng cao hiểu biết về tác hại, cách phòng tránh,
sử dụng vũ khí các chất cháy, nổ, chất phóng xạ và độc hại.
Ví dụ 2:
Khi dạy bài “phòng, chống tệ nạn xã hội” GDCD 8 Tôi đã sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm như sau:
- Lớp học có 34 học sinh
- Chia lớp thành 3 nhóm, giáo viên chỉ định 11 học sinh một nhóm, có thay
đổi vị trí để học sinh được giao lưu với nhau.
- Cử đại diện của nhóm làm nhóm trưởng và thư kí.
- Giao nhiệm vụ thảo luận cho từng nhóm như sau.
Nhóm 1. Tệ nạn xã hội có tác hại như thế nào đối với cá nhân?
Nhóm 2. Tệ nạn xã hội có tác hại như thế nào đối với gia đình?
Nhóm 3. Tệ nạn xã hội có tác hại như thế nào đối với xã hội?
Thời gian thảo luận là 3 phút.
Sau đó đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình, các nhóm
khác quan sát, lắng nghe và bổ sung ý kiến.
Giáo viên tổng kết, nhận xét đồng thời nêu ra định hướng kiến thức cần đạt
được trong các câu hỏi thảo luận là:
Nhóm 1. Tệ nạn xã hội có tác hại như thế nào đối với cá nhân?
- Sức khoẻ, tinh thần, đạo đức -> Ốm yếu, liều lĩnh, trộm cắp, cướp giật, thậm
chí giết người, đối xử tàn nhẫn với vợ con…
Nhóm 2. Tệ nạn xã hội có tác hại như thế nào đối với gia đình?
- Kinh tế, tan vỡ hạnh phúc gia đình ( Người nghiện rượu thường hay đánh
đập, chửi mắng vợ con …)
Nhóm 3. Tệ nạn xã hội có tác hại như thế nào đối với xã hội?
- Rối loạn xã hội, suy thoái giống nòi, ảnh hưởng kinh tế, giảm sút sức lao
động, ảnh hưởng đến các giá trị đạo đức truyền thống…
Thông qua phần thảo luận học sinh hiểu được tác hại và đưa ra được cách
phòng tránh tệ nạn xã hội để bảo vệ bản thân, gia đình và xã hội có hiệu quả cao
nhất.
* Ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm: Học sinh được học cách cộng
thác trên nhiều phương diện; Học sinh được nêu quan điểm của mình, được nghe
quan điểm của bạn khác trong nhóm, trong lớp; được trao đổi, bàn luận về các ý
kiến khác nhau và đưa ra lời giải tối ưu cho nhiệm vụ được giao cho nhóm; Các
thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết của
bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới và học hỏi lẫn nhau; Nhờ
không khí thảo luận cởi mở nên hs, đặc biệt là những em nhút nhát, trở nên bạo
dạn hơn; các em học được trình bày ý kiến của mình tạo cho các em sự tự tin, hứng
thú trong học tập và sinh hoạt; Vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội của hs thêm
phong phú; kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác của hs được phát triển.
8
* Nhược điểm của phương pháp thảo luận nhóm: Một số học sinh do nhút
nhát hoặc vì một lí do nào đó không tham gia vào hoạt động chung cuả nhóm, nên
nếu GV không phân công hợp lí có thể dẫn đến tình trạng chỉ có một vài học sinh
khá tham gia còn đa số hs khác không hoạt động; Ý kiến các nhóm có thể quá phân
tán hoặc mâu thuẫn gay gắt với nhau (nhất là đối với các môn Khoa học xã hội);
Thời gian có thể bị kéo dài; Với những lớp có sĩ số đông hoặc lớp học chật hẹp,
bàn ghế khó di chuyển thì khó tổ chức hoạt động nhóm. Khi tranh luận, dễ dẫn tới
lớp ồn ào, ảnh hưởng đến các lớp khác.
* Hướng giải quyết trong thời gian tới: Khi tổ chức phương pháp thảo luận
nhóm bản thân sẽ chú ý nhiều đến đối tượng học sinh nhút nhát, động viên khích lệ
các em tham gia. Đối với lớp có sĩ số đông giáo viên cần phối hợp với nhà trường
và giáo viên chủ nhiệm lớp sắp xếp tổ nhóm lớp sao cho hợp lí.
b. Phương pháp tổ chức trò chơi
Phương pháp tổ chức trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu
một vấn đề hay thể hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông
qua một trò chơi nào đó. Đây là một phương pháp sử dụng có hiệu quả cao đối với
một số bài để thu hút sự tham gia của học sinh. Trong trò chơi mọi học sinh đều
bình đẳng và đều cố gắng thể hiện hết khả năng của mình. Vì vậy tổ chức trò chơi
một mặt để tăng cường hứng thú trong học tập, nâng cao sự chú ý, thay đổi trạng
thái tâm lí mệt mỏi trong quá trình nhận thức mặt khác còn là biện pháp rèn luyện
các kĩ năng ứng xử, giao tiếp, củng cố và phát triển khả năng tự tin của học sinh
trong học tập và các hoạt động khác. Bằng trò chơi việc học tập được tiến hành
một cách sinh động không khô khan, học sinh được lôi cuốn vào quá trình học tập
một cách tự nhiên giải toả được mệt mỏi căng thẳng trong quá trình học tập, qua đó
giúp học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên giao tiếp, hiểu biết, thân thiện và
gần gủi nhau hơn.
Khi tổ chức trò chơi giáo viên cần chú ý những điểm sau đây.
- Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phù hợp với chủ đề bài GDCD cũng
như đặc điểm và trình độ của học sinh.
- Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi.
- Phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi.
- Phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh tạo điều kiện
cho học sinh tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu.
- Sau khi chơi giáo viên cần cho học sinh thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo
dục của trò chơi.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 6 lớp 8 “Xây dựng tình bạn trong sáng lành mạnh” để
củng cố hiểu biết của học sinh về tình bạn tôi đã tổ chức trò chơi phóng viên cho
cả lớp trong thời gian 4 phút.
Một số học sinh đóng vai phóng viên báo Thiếu niên tiền phong, Hoa học trò,
Phóng viên đài truyền hình Việt Nam….phỏng vấn các bạn trong lớp về các câu
hỏi có liên quan đến tình bạn như:
9
- Theo bạn thế nào là tình bạn?
- Tình bạn trong sáng lành mạnh có đặc điểm gì?
- Ý nghĩa của tình bạn trong sáng, lành mạnh?
- Hãy kể một câu chuyện về tình bạn trong sáng, lành mạnh mà bạn biết hoặc
của chính bạn?
- Chúng ta cần làm gì để xây dựng tình bạn trong sáng, lành mạnh?
- Hãy đọc một số câu ca dao tục ngữ nói về tình bạn?
- Hãy hát hoặc đọc thơ về tình bạn?
Ví dụ 2: Khi dạy bài 10 lớp 8 tôi đã tổ chức cho học sinh chơi trò chơi tiếp sức.
Tôi đã chia lớp thành 2 đội chơi, phổ biến luật chơi và tổ chức trò chơi trong 3 phút.
Đội thứ nhất: Tìm những bông hoa ghi biểu hiện của tính tự lập gián vào cột
thể hiện tính tự lập.
Đội thứ hai: Tìm những bông hoa ghi biểu hiện trái với tính tự lập gián vào
cột thể hiện trái với tính tự lập.
Học sinh lần lượt từng em một lên gián hoa, hết thời gian đội nào gián được
nhiều bông hoa hơn và tìm đúng những biểu hiện là đội chiến thắng.
* Nhược điểm của phương pháp tổ chức trò chơi: Trò chơi học tập là một
hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn HS do đó duy trì tốt hơn sự chú ý của
các em với bài học; Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ
năng học tập hợp tác cho HS; Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng
hoạt động trí tuệ, đo đó giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học
kiến thức lý thuyết mới
* Nhược điểm của phương pháp tổ chức trò chơi: Khó củng cố kiến thức, kỹ
năng một cách có hệ thống; Học sinh dễ sa đà vào việc chơi mà ít chú ý đến tính
chất học tập của các trò chơi.
* Hướng giải quyết trong thời gian tới: Đối với phương pháp tổ chức trò
chơi thì sau mỗi một hoạt động thì giáo viên cần nhận xét, đánh giá sau đó chốt lại
kiến thức ngay đẻ các em thấy được việc chơi để mà học.
c. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử”một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm giúp
học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể
mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không phải là phần
chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Phương pháp này học sinh được rèn luyện, thực hành những kỹ năng ứng xử
và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn, gây
hứng thú và chú ý cho học sinh, tạo điều kiện làm phát triển óc sáng tạo của học
sinh, khích lệ sự thay đổi thái độ hành vi của học sinh theo hướng tích cực, có thể
thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
Khi vận dụng phương pháp này có thể tiến hành theo các bước sau:
10
- Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho từng
nhóm.Trong đó có quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Các nhóm lên đóng vai.
- Lớp thảo luận nhận xét về cách ứng xử và cảm xúc của các vai diễn, về ý
nghĩa của các cách ứng xử.
- Giáo viên kết luận: Tuy nhiên, khi tổ giáo viên cần chú ý tính mục đức của
tình huống phải thật rõ ràng, tình huống dễ đóng vai, moi học sinh đều được tham
gia vào quá trình thảo luận, xây dựng kịch bản, được đóng vai hoặc phục vụ cho
việc đóng vai của các bạn trong nhóm nên khích lệ những học sinh nhút nhát hoặc
tiếp thu bài chậm cùng tham gia.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 13 “Phòng, chống tệ nạn xã hội” GDCD 8 tôi đã tổ chức
cho học sinh đóng vai tình huống.
Em sẽ làm gì trong những tình huống sau:
a. Một người bạn rủ em vào quán chơi điện tử ăn tiền.
b. Một người rủ em đi hít thử hê - rô - in.
c. Một người nhờ em mang hộ gói đồ đến địa điểm nào đó. [2]
- Giáo viên tổ chức cho học sinh xung phong đóng vai theo 3 nhóm.
- Giáo viên yêu cầu nhóm 1 thảo luận, xây dựng lời thoại và chuẩn bị đóng
vai tình huống a, nhóm 2 thảo luận, xây dựng lời thoại và chuẩn bị đóng vai tình
huống b, nhóm 3 thảo luận, xây dựng lời thoại và chuẩn bị đóng vai tình huống c.
Các nhóm lần lượt lên đóng vai.
- Lớp nhận xét, bổ sung, bình chọn nhóm thể hiện cách ứng xử hay nhất.
Giáo viên nhận xét về nội dung và hình thức thể hiện của từng nhóm và nhấn
mạnh các ý cần đạt được.
+ Cần phải kiên quyết từ chối không chơi điện tử ăn tiền, không dùng thử ma tuý.
+ Cần phải báo cho người có trách nhiệm biết mọi hiện tượng lên quan đến
đánh bạc, ma tuý.
+ Xem người đó là ai trong mối quan hệ như thế nào với mình, hỏi rõ gói đồ
đó là gì, mang đến đâu.
Qua các tình huống trên để học sinh thấy được tác hại của tệ nạn xã hội. Do
đó mỗi người phải có trách nhiệm tham gia phòng, chống tệ nạn xã hội vì hạnh
phúc của gia đình mình và sự bình yên, ổn định của xã hội.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 15 “Phòng ngừa tai nạn vũ khí, cháy, nổ và các chất độc
hại” GDCD 8 tôi đã tổ chức cho học sinh đóng vai tình huống.
Em sẽ làm gì khi thấy:
a. Bạn bè hoặc các em nhỏ chơi, nghịch các vật lạ, các chất nguy hiểm?
b. Có người định cưa, đục, tháo chốt bom, mìn, đạn pháo để lấy thuốc nổ?
c. Có người định hút thuốc lá, nấu ăn hoặc đốt lửa sưởi gần nơi chứa xăng, dầu?
d. Có người tàng trữ, vận chuyển, buôn bán vũ khí và các chất độc hại? [2]
11
- Giáo viên tổ chức cho học sinh xung phong đóng vai theo 4 nhóm.
- Giáo viên yêu cầu nhóm 1 thảo luận, xây dựng lời thoại và chuẩn bị đóng
vai tình huống a, nhóm 2 thảo luận, xây dựng lời thoại và chuẩn bị đóng vai tình
huống b, nhóm 3 thảo luận, xây dựng lời thoại và chuẩn bị đóng vai tình huống c.
Các nhóm lần lượt lên đóng vai. nhóm 4 thảo luận, xây dựng lời thoại và
chuẩn bị đóng vai tình huống d.
- Lớp nhận xét, bổ sung, bình chọn nhóm thể hiện cách ứng xử hay nhất.
- Giáo viên nhận xét về nội dung và hình thức thể hiện của từng nhóm nhấn
mạnh ý cơ bản cần đạt được.
+ Tình huống (a), (b), (c): Cần khuyên ngăn mọi người.
+ Tình huống (d): Cần báo ngay cho người có trách nhiệm.
Qua các tình huống trên để học sinh thấy được sự nguy hiểm của các chất
cháy, nổ và các chất độc hại. Vì vậy mọi người cần phải nâng cao ý thức trách
nhiệm trong việc vận chuyển, sử dụng đồng thời trong trường hợp nguy hiểm cần
báo cáo ngay chơ cơ quan có chức năng xử lí kịp thời.
* Ưu điểm của phương pháp đóng vai: Học sinh được rèn luyện thực hành
những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực
hành trong thực tiễn; Gây hứng thú và chú ý cho học sinh; Tạo điều kiện làm nảy
sinh óc sáng tạo của học sinh; Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh
theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị – xã hội
* Nhược điểm của phương pháp đóng vai: Tình huống quá dài và phức tạp,
sẽ vượt quá thời gian cho phép; Tình huống có nhiều cách giải quyết sẽ khó lựa
chọn; Tốn thời gian
* Hướng giải quyết trong thời gian tới: Nếu tình huống quá dài và phức tạp,
sẽ vượt quá thời gian cho phép thì giáo viên cần lựa chọn tình huống ngắn và đơn
giản sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, qua đó hướng các em chọn ra cách
giải quyết tối ưu nhất.
d. Phương pháp giải quyết vấn đề
Giải quyết vấn đề là xem xét, phân tích tình huống cụ thể thường gặp phải
trong đời sống hàng ngày và xác định cách giải quyết, xử lý vấn đề, tình huống đó
một cách hiệu quả. Quá trình giải quyết vấn đề bao gồm các bước:
- Nêu vấn đề hay phát hiện vấn đề.
- Đặt học sinh vào vấn đề phải giải quyết.
- Giúp học sinh tìm hiểu những nguyên nhân cần phải giải quyết.
- Phân tích ưu, nhược điểm của các giải pháp khác nhau.
- Quyết định chọn giải pháp tốt nhất.
Tình huống vấn đề trong môn giáo dục công dân cần thoả mãn những yêu cầu
sau:
- Vấn đề lựa chọn phải phù hợp với mục tiêu chủ đề bài học và gắn với thực tế.
12
- Phải phát huy được sự suy nghĩ, sáng tạo của học sinh.
- Cách giải quyết vấn đề phải là giải pháp có lợi nhất.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 13 “Phòng, chống tệ nạn xã hội” GDCD 8 tôi đã sử
dụng phương pháp giải quyết vấn.
Tình huống:
Hoàng đã trót dùng tiền học phí mẹ cho để chơi điện tử. Hoàng đang lo lắng
không biết làm thế nào thì bà hàng nước ở gần nhà dụ dỗ Hoàng mang một túi nhỏ
hê - rô - in đi giao cho một người hộ bà, bà sẽ cho tiền đóng học phí và không nói
gì với mẹ Hoàng.
Hoàng tự nhủ “ Làm theo lời bà hàng nước cũng được còn hơn là bị mẹ mắng;
với lại mình chỉ làm một lần này thôi, không bao giờ làm như thế nữa”
Theo em ý nghĩ của Hoàng đúng hay sai? Nếu em là Hoàng, em sẽ làm gì? [2]
Từ tình huống trên học sinh có thể đưa ra nhiều ý kiến khác nhau như:
- Ý nghĩ của Hoàng là sai.
- Nếu em là Hoàng em sẽ không dùng tiền học phí để chơi điện tử.
- Nói thật với Mẹ hứa sẽ không bao giờ vi phạm nữa và em sẽ cố gắng học tập
tốt, sống lành mạnh, biết nghe lời cha mẹ , thầy cô để lấy lại lũng tin của Mẹ.
- Không làm theo lời của bà bán nước, theo dõi và thấy dấu hiệu phạm pháp
sẽ báo cho người lớn biết.
Từ tình huống trên đây để nâng cao ý thức trách nhiệm của cá nhân hãy nói
không và tránh xa ma tuý nói riêng các tệ nạn xã hội nói riêng dù chỉ là một lần.
Cần phải chăm ngoan học giỏi, nghe lời ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo để trở thành
người công dân có ích cho xã hội.
Ví dụ 2: Với phương pháp giải quyết vấn đề tôi sử dụng bài tập.
Tình huống : Trên đường đi học về, Hằng thường bị một người đàn ông lạ
mặt bám theo sau. Người này làm quen với Hằng; rủ Hằng đi chơi với ông ta và
hứa sẽ cho Hằng nhiều tiền và những gì Hằng thích.
a. Theo em, điều gì sẽ xảy ra với Hằng nếu Hằng đi theo người đàn ông lạ?
b. Nếu em là Hằng, em sẽ làm gì trong trường hợp đó?
Từ tình huống trên học sinh có thể đưa ra nhiều ý kiến như:
a. Hằng có thể bị lợi dụng để mại dâm.
- Bán ra nước ngoài.
- Buôn bán ma tuý…
b. Nếu là Hằng em sẽ.
- Từ chối không đi theo người đàn ông lạ mặt đó.
- Nếu không ta cứ theo thì báo cho người lớn hoặc cơ quan chức năng biết để
xử lí kịp thời. [2]
Qua tình huống này nhằm giáo dục học sinh phải nâng cao cảnh giác với với
những người lạ mặt có thể lợi dụng mình để tham gia hoặc tiếp tay cho các tệ nạn
xã hội.
13
* Ưu điểm của phương pháp giải quyết vấn đề: Phương pháp này góp phần
tích cực vào việc rèn luyện tư duy phê phán, tư duy sáng tạo cho HS. Trên cơ sở sử
dụng vốn kiến thức và kinh nghiệm đã có HS sẽ xem xét, đánh giá, thấy được vấn
đề cần giải quyết; Đây là phương pháp phát triển được khả năng tìm tòi, xem xét
dưới nhiều góc độ khác nhau; Thông qua việc giải quyết vấn đề, HS được lĩnh hội
tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức.
* Nhược điểm của phương pháp giải quyết vấn đề: Phương pháp này đòi hỏi
GV phải đầu tư nhiều thời gian và công sức, phải có năng lực sư phạm tốt mới suy
nghĩ để tạo ra được nhiều tình huống gợi vấn đề và hướng dẫn tìm tòi để phát hiện
và giải quyết vấn đề; Việc tổ chức tiết học hoặc một phần của tiết học theo phương
pháp phát hiện và giải quyết vấn đề đòi hỏi phải có nhiều thời gian hơn so với các
phương pháp thông thường.
* Hướng giải quyết trong thời gian tới: Để vận dụng phương pháp này có
hiệu quả thì trong thời gian tới giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức,
trau dồi lực sư phạm tốt suy nghĩ để tạo ra được nhiều tình huống gợi vấn đề và
hướng dẫn tìm tòi để phát hiện và giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng vào giảng dạy ở trường
THCS Hiền Kiệt, cho thấy khi thực hiện phương pháp dạy học tích cực, đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân đã có sự thay đổi theo
hướng tiến bộ, đáng ghi nhận. Điều đó thể hiện ở những kết quả sau:
Thứ nhất. Trong tiết dạy giáo viên đã chú ý động viên học sinh tích cực học
tập theo lối “hoạt động hoá người học”. Đây là sự chuyển biến cơ bản về việc vận
dụng hệ phương pháp dạy học tích cực. Chẳng hạn giáo viên đã vận dụng những
phương pháp: nêu vấn đề, thảo luận, luyện tập thực hành cho học sinh…Trong đó
là người hướng dẫn tổ chức học sinh chủ thể chiếm lĩnh tri thức một cách sáng tạo.
Thứ hai. Trong quá trình tiết dạy đã có sơ đồ, bảng biểu, phim ảnh…do giáo
viên tự làm, có tranh ảnh do học sinh sưu tầm một số giờ giảng, giáo viên đã sử
dụng máy chiếu hiện đại. Việc sử dụng những phương tiện, đồ dùng dạy học, hiện
đại này đã tạo nên hứng thú cho học sinh học tập, giờ học sinh động và như vậy
giúp học sinh tiếp thu tốt hơn.
Thứ ba. Ngoài việc sử dụng các phương pháp nêu trên giáo viên còn quan tâm
tổ chức một số tiết luyện tập, xêmina, tổ chức những tiết ngoại khoá cho học
sinh…nó giúp nâng cao trình độ tư duy của học sinh, giúp các em biết phát huy ý
kiến, biết lắng nghe ý kiến của bạn, biết giải quyết vấn đề mà môn học và thực tiễn
đặt ra. Qua đó thấy trong giảng dạy môn Giáo dục công dân đã có những chuyển
biến tích cực đáng ghi nhận. Tuy nhiên đó không phải là thực trạng thường xuyên
của mọi giờ giảng, không phải là phổ biến đối với mọi giáo viên bộ môn. Như vậy,
cùng với sự tiến bộ trên, phương pháp dạy môn học này còn nhiều khiếm khuyết
quan trọng mà nếu không được khắc phục một cách triệt để thì không thể nâng cao
hiệu quả giảng dạy của môn học.
14
Từ thực tế quá trình giảng dạy của bản thân tôi thấy đối với các môn học nói
chung môn GDCD nói riêng việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực là một
yêu cầu cần thiết và cấp bách, tuỳ vào từng phần, bài học cụ thể mà giáo viên có
thể linh động, sáng tạo lựa chọn một phương pháp hoặc nhiều phương pháp sao
cho hiệu quả nhất.
Sau khi vận dụng phương pháp dạy học tích cực môn GDCD lớp 8 tôi đã thu
được kết quả như sau:
Năm học
2015-2016
Tổng số
HS
70
Giỏi
6
2016-2017
70
12
Khá
22
Loại
TB
36
Yếu
6
Kém
0
36
22
0
0
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra vào những thập niên cuối thế
kỉ XX đầu thế kỉ XXI có những bước phát triển kì diệu tác động mạnh mẽ đến mọi
lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự phát triển của khoa học và
công nghệ vừa đòi hỏi đổi mới giáo dục, vừa tạo điều kiện cho sự đổi mới đó.
Trong đó, đổi mới phương pháp dạy học có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực lấy người học làm trung tâm, đề
cao vai trò tự học của người học trong học tập.
Vì vậy việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn Giáo
dục công dân rõ ràng có tính cấp thiết. Nếu được vận dụng có hiệu quả nó sẽ nâng
cao hiệu quả giảng dạy ở trường THCS, trong đó môn Giáo dục công dân, góp
phần đào tạo ra những thế hệ công dân đáp ứng yêu cầu của đất nước.
Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn
Giáo dục công dân cũng đặt ra một số vấn đề đó là:
Đề cao phương pháp dạy học mới, không nên đi đến phủ nhận hoàn toàn
phương pháp dạy học truyền thống, mà trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải
biết kết hợp các phương pháp dạy học khác.
Đề cao vai trò học sinh, không nên đi đến coi nhẹ vai trò của giáo viên, vì với
môn Giáo dục công dân vai trò của người thầy là vô cùng quan trọng.
Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung
tâm phát huy tính tích cực tự giác, kích thích tư duy và óc sáng tạo của học sinh.
Do vậy giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, có nghiệp vụ sư phạm
giỏi, biết xử lí linh hoạt, mềm dẻo các tình huống dạy học và đặc biệt phải biết sử
dụng và phối hợp một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực với
phương pháp dạy học truyền thống. Có như vậy, người giáo viên môn Giáo dục
công dân mới có khả năng cuốn hút học sinh vào bài học, khơi dậy lòng ham hiểu
biết ở các em, kích thích được khả năng tư duy, sáng tạo và định hướng những giá
trị làm người cho học sinh.
3.2. Kiến nghị
15
Một là, cần được trang bị ngày càng đầy đủ hệ thống tư liệu môn Giáo dục
công dân cho giáo viên môn Giáo dục công dân. Chúng ta không thể hình dung
được dạy học theo phương pháp mới mà học sinh không đủ Sách giáo khoa, giáo
viên thì không đủ sách hướng dẫn, các tài liệu cập nhật có liên quan đến bộ môn.
Hai là, tăng cường các thiết bị phục vụ việc dạy – học theo hướng phát hiện
tri thức. Cụ thể là bên cạnh các thiết bị dạy học trực quan chủ yếu như: biểu đồ,
biểu bảng, sơ đồ, tranh ảnh…thì cần phải bổ sung các loại phương tiện dạy học
hiện đại như: màn hình, máy chiếu, băng đĩa…Xây dựng phòng dụng cụ dạy học
trực quan của môn Giáo dục công dân, trong đó sưu tầm những sáng kiến cải tiến
công cụ dạy học của giáo viên và học sinh.
Ba là, biên soạn các tài liệu sách, tài liệu nhằm bổ sung nâng cao kiến thức và
hướng dẫn phương pháp dạy học cho giáo viên, đồng thời viết các sách phù hợp
với tâm lí học sinh để kích thích các em tham khảo.
Bốn là, cần mở các lớp tập huấn, hội thảo bàn về vấn đề đổi mối phương pháp
dạy học cho giáo viên môn Giáo dục công dân. Qua đó giáo viên có thể trao đổi,
học tập kinh nghiệm.
Năm là, các cấp lãnh đạo, quản lí cần thật sự chú ý đến việc đào tạo, sử dụng
và bồi dưỡng đúng đắn đội ngũ giáo viên giảng dạy môn học, có tri thức khoa học
chuyên ngành, có trình độ nghiệp vụ vững vàng.
Sáu là, cần xoá bỏ quan niệm coi môn Giáo dục công dân chỉ là môn học phụ
trong hệ thống các môn học, để từ đó giúp giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công
dân không cảm thấy bi quan, từ đó giúp họ có tâm huyết hơn đối với môn học.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Quan Hóa, ngày 12 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết,không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết
Nguyễn Văn Huân
16
Tài liệu tham khảo
1. Nguồn thông tin từ mạng internet.
2. Sách giáo khoa môn GDCD 8: Nhà xuất bản Giáo dục
17