Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Sử dụng yếu tố văn học và hình ảnh nhằm nâng cao hiệu quả bài học trong dạy học lịch sử việt nam giai đoạn 1945 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.23 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG YẾU TỐ VĂN HỌC VÀ HÌNH ẢNH NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀI HỌC TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945-1954

Người thực hiện : Trần Thị Lan
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường THCS Trần Mai
Ninh
SKKN thuộc môn : Lịch sử

1


MỤC LỤC
Nội dung
Mục lục
1. Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận.
2.2. Thực trạng vấn đề


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sang kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
1
2
2
2
3
3
4
4
4
5
19
20
20
20
22

2


1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài :

Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phải đào tạo những
con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Mỗi môn học ở nhà trường với đặc trưng của mình đều phải góp phần
đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, trong đó có Lịch sử.
“ Lịch sử là những gì diễn ra trong quá khứ ; Lịch sử loài người mà chúng ta
học là toàn bộ những hoạt động của con người từ khi xuất hiện đến nay” (SGK
Lịch sử 6- trang 3- NXB Giáo dục năm 2002)
Như vậy, qua khái niệm trên chúng ta đều thấy rằng : Việc học lịch sử có
nét đặc trưng riêng, có cái khó riêng. Đó là người học không thể tri giác trực
tiếp ; không thể “sờ” hay làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm... mà buộc phải
tư duy, phải trừu tượng hóa, khái quát hóa để dựng lại những gì đã diễn ra trong
quá khứ, thông qua các sự kiện, niên đại, nhân vật...Để làm được điều đó ngoài
việc sử dụng các nguồn tư liệu sử học (hiện vật, văn tự cổ...) thì việc sử dụng
các tác phẩm văn học cũng có tác dụng rất lớn trong việc “dựng lại lịch sử”
Mặt khác, trong quá trình giảng dạy môn lịch sử, ngoài truyền đạt cho học
sinh kênh chữ, hình ảnh trong sách giáo khoa, giáo viên cần cung cấp thêm
những hình ảnh ngoài sách giáo khoa hoặc những mẫu chuyện kể về những con
người đã góp phần xây dựng đất nước để có được những thành tựu của hôm nay
mà trong sách giáo khoa không đề cập đến nhằm giúp học sinh hứng thú học tập,
phát huy tính tích cực của học sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung
kiến thức trọng tâm đã học.
Như vậy, giữa tri thức lịch sử và tri thức văn học có mối quan hệ với nhau
rất chặt chẽ. Để cho bài giảng lịch sử không phải rơi vào tình trạng “khô, khó,
khổ”, người giáo viên lịch sử phải linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp đổi mới
trong dạy học, trong đó thiết nghĩ sử dụng tài liệu văn học kết hợp với kênh hình
là một trong những phương pháp hữu hiệu, nâng cao chất lượng bài giảng được
tốt hơn. Vì vậy, tôi xin trình bày một số vấn đề về việc: “ sử dụng yếu tố văn
học và hình ảnh nhằm nâng cao hiệu quả bài học trong dạy học lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1945-1954 ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu :

Những kiến thức lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc từ cổ chí kim đều có tác
động không chỉ đến trí tuệ mà cả trái tim học sinh. Những con người thực, việc
thực trong quá khứ sẽ khơi dậy trong học sinh những tư tưởng, tình cảm đúng
đắn, mà những tư tưởng, tình cảm này là hành trang tối cần thiết cho thế hệ trẻ
trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới. Song muốn phát huy tốt chức
năng, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử trong việc giáo dục học sinh cần phải nâng
cao hiệu quả bài học. Muốn nâng cao hiệu quả bài học người thầy phải biết nêu
ra một số vấn đề có tính hấp dẫn trong nội dung học tập và khơi gợi hứng thú
học tập của học sinh, khiến họ khát khao muốn biết, kích thích tính tích cực học
tập của các em.
3


Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo
viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác,
chủ động, ngày càng yêu thích môn học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
“ Sử dụng yếu tố văn học và kênh hình nhằm nâng cao hiệu quả bài học
trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 ” cho học sinh lớp 9
Trường THCS Trần Mai Ninh- Thành phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp thu thập thông tin,
phương pháp điều tra khảo sát thực tế.

4


2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận:
Trong thực tiễn dạy học, các tác phẩm văn học dân tộc cũng như thế giới
có vai trò to lớn đối với việc dạy học lịch sử ở trường THCS. Trước hết các tác

phẩm văn học bằng những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng,
tình cảm người đọc, trình bày những nét đặc trưng điển hình của các hiện tượng
kinh tế, chính trị những qui luật của của đời sống xã hội. Trong khi sáng tác một
tác phẩm nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử, không ít tác phẩm văn học
tự nó là tư liệu lịch sử.
Do đặc điểm lịch sử của dân tộc, tài liệu văn học ở nước ta có khả năng
biểu hiện nội dung lịch sử rất sâu sắc. Nó không chỉ có giá trị như những tài liệu
lịch sử, mà còn phản ánh được bản chất của từng sự kiện lịch sử cụ thể. Trong
đó nếu giáo viên biết vận dụng một số câu trích dẫn, câu văn, câu thơ, đoạn trích
để miêu tả tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động của nhân vật, một
cuộc cách mạng…sẽ làm phong phú tri thức học sinh, giúp học sinh yêu thích,
hứng thú say mê học tập môn lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học
môn lịch sử.
Các tác phẩm văn học khi kết hợp với hình ảnh cụ thể sẽ có tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận kiến
thức, khắc sâu kiến thức một cách dễ dàng hơn.
Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diến ra các sự kiện lịch sử sẽ có
ý nghĩa rất lớn đối với việc khôi phục lại hình ảnh quá khứ- Nó làm quá khứ của
sự kiện lịch sử trở nên sống động hơn, chân thật hơn. Sự kiện trở nên có sức
sống hơn và thu hút học sinh hơn khi theo dõi bài giảng.
Nói tóm lại, khi sự giảng dạy, phân tích có tính chất lý luận không đủ để
học sinh hiểu đầy đủ một vấn đề và sự kiện lịch sử thì tài liệu văn học kết hợp
với hình ảnh cụ thể, sinh động sẽ phát huy được tác dụng tích cực của nó. Bởi
vì, nhận thức lịch sử không chỉ có một hướng, một nội dung mà là sự kết hợp,
bổ sung sâu sắc giữa cảm thụ và tư duy lý trí, giữa nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính. Hiểu được như vậy, người giáo viên lịch sử mới thấy rõ sự cần thiết
của tài liệu văn học và kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THCS hiện nay.
2.2.Thực trạng của vấn đề.
Thực trạng của việc dạy và học lịch sử ở nhiều trường học hiện nay, đặc
biệt là bậc học THCS đang gặp rất nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận

học sinh đang “xa lánh” môn Lịch sử, không còn hứng thú với việc học tập môn
Lịch sử. Đây là thực trạng đáng buồn. Bởi vì, môn Lịch sử ở trường THCS có
vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm và hình thành nhân
cách của học sinh.
Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân như:
Nội dung SGK nặng về lịch sử chiến tranh chống xâm lược, nội dung về
tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa được lặp lại ở các cấp học. Nhiều thành tựu
nghiên cứu mới về lịch sử chưa được cập nhật. Một số bài trong SGK, đặc biệt
5


là phần lịch sử Việt Nam còn “nặng", mang tính hàn lâm, dung lượng bài chưa
phù hợp với thời lượng dạy học. Cách trình bày của SGK còn ít kênh hình, tư
liệu lịch sử...
Bên cạnh đó, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập
môn lịch sử chậm đổi mới, chưa thực sự chuyển biến trong ý thức của từng giáo
viên và cán bộ quản lý. Đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu diễn ra trong các
kỳ thi, hội giảng, dự giờ hoặc những đợt kiểm tra, thanh tra của các cấp quản lí.
Chưa có nhiều biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Một bộ
phận giáo viên chưa chú trọng rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy độc lập.
Đặc biệt trong xu thế hiện nay, học sinh chỉ chú trọng học các môn tự
nhiên còn các môn xã hội đặc biệt là môn lịch sử gần như không chú ý, chỉ xem
đây là môn phụ thì cũng gây tâm lí không nhiệt tình giảng dạy của giáo viên dạy
lịch sử, tư tưởng “học sinh không học” đã làm cho phần đa các giáo viên chỉ
cung cấp nội dung bài học theo sách giáo khoa, hoặc đưa ra câu hỏi để các em
suy nghĩ rồi tự soạn bài ra vở xem như hết bài học. Việc “học lệch” nặng về các
“môn chính”, xem các “môn phụ” ( mà trong thực tiễn giáo dục không có “môn
chính”, “môn phụ” vì các môn đều góp phần như nhau vào giáo dục thế hệ trẻ)
đã gây những hậu quả nghiêm trọng trong việc giáo dục truyền thống dân tộc,
lòng tự hào dân tộc, đạo đức, phẩm chất cách mạng nổi bật là lòng yêu nước.

Trong các nguyên nhân đó, theo tôi nguyên nhân quan trọng dẫn tới thực
trên là giáo viên dạy sử còn để giờ dạy sử quá khô khan, nặng nề nên thiếu sự
thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục hiện tượng này, theo tôi ngoài việc
đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan... thì chúng ta nên
sử dụng nhiều hơn nữa nguồn tài liệu văn học trong giờ học lịch sử để làm bài
giảng thêm sinh động hấp dẫn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Trong việc dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở, đặc biệt là phần lịch
sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954, tùy thuộc vào nội dung từng phần, từng bài
mà tôi đưa vào bài giảng các loại tài liệu văn học khác nhau như: Văn học dân
gian, tác phẩm văn học ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử, Hồi kí cách
mạng...Mỗi loại lại có ý nghĩa khoa học riêng do đó, khi sử dụng phải phù hợp
với yêu cầu bài giảng, với từng sự kiện lịch sử mà giáo viên lựa chọn đưa vào.
Văn học dân gian là một phần của sáng tác dân gian, phát triển trong đời
sống của nhân dân theo phương thức truyền miệng và tập thể. Là sáng tác nghệ
thuật của nhân dân, tác phẩm dân gian phản ánh và biểu hiện đời sống nhân dân,
thế giới tinh thần và tình cảm của nhân dân. Đó là cuộc sống lao động, những sự
kiện, vấn đề của đời sống xã hội, cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân
chống áp bức và cuộc chiến đấu của toàn dân chống ngoại xâm. Hiện thực lịch
sử đã được phản ánh trong tác phẩm văn học dân gian như là bộ bách khoa toàn
thư về đời sống nhân dân. Vì lẽ đó, nó là “những hòn ngọc quý”, là vũ khí tinh
thần mạnh mẽ của nhân dân. Việc sử dụng những câu ca dao, truyền thuyết,
truyện cổ tích,… trong một bài giảng sẽ làm tăng sự “cảm thụ lịch sử” cho học
sinh thêm phần tinh tế và sâu sắc hơn.
Từ đặc điểm này, tài liệu văn học dân gian đã cơ bản phản ánh được “cái
thần” của sự kiện, của mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể.
6


Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử có ý

nghĩa rất lớn trong việc khôi phục lại hình ảnh quá khứ- Nó làm cho quá khứ
của sự kiện lịch sử trở nên sinh động hơn, chân thật hơn. Sự kiện trở nên vừa có
sức sống hơn và thu hút học sinh hơn khi theo dõi bài giảng.
Với ý nghĩa đó, sử dụng văn học kết hợp với kênh hình trong giảng dạy
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 được tôi thể hiện qua các bài và ở từng
mục cụ thể như sau:
1. Khi dạy bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ
nhân dân(1945-1946).
Tiết 1. Mục II. Bước đầu xây dựng chế độ mới.
Trước tiên tôi nêu vấn đề: Sau cách mạng Tháng tám thành công, chính
quyền cách mạng còn non trẻ và mới là chính phủ lâm thời. Vì vậy, vấn đề xây
dựng chính quyền cách mạng được đặt hàng đầu đòi hỏi Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh cần phải giải quyết.
Sau đó tôi đặt câu hỏi: Để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng,
Đảng ta đã làm gì? Kết quả và ý nghĩa của việc làm ấy?
Để gợi ý tôi cho các em quan sát các hình ảnh sau:

7


Chủ tịch Hồ Chí Minh- công dân số 1 bỏ phiếu bầu cử QH khóa I

Cử tri ngoại thành Hà Nội bỏ phiếu bầu đại biểu QH khóa I ngày 6/1/1946
Đồng thời đọc cho các em nghe 2 câu thơ của Tố Hữu kêu gọi bầu cử:
Tất cả chúng ta cùng nhau đi bỏ phiếu
Hãy cử đúng những người đại biểu
(Thưa các ông nghị)

8



Dựa vào các hình ảnh và ý thơ, học sinh đễ dàng trả lời câu hỏi tôi nêu:
Để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đi bầu cử Quốc hội. Hưởng ứng lời kêu gọi đó,
toàn dân ta từ khắp mọi miền đất nước đã tham gia bầu Quốc hội của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Dựa vào SGK các em có thể nêu tiếp được kết quả của
bầu cử Quốc hội.
Sau khi học sinh trả lời tôi kết luận để khắc sâu kiến thức cho các em:
Nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền là nhiệm vụ quan trọng, bức thiết
của cách mạng nước ta sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Để giải quyết
nhiệm vụ này, ngày 6-1-1946, toàn dân đã tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc
hội trong cả nước. Kết quả, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu được
333 đại biểu khắp Bắc- Trung- Nam vào Quốc hội, tượng trưng cho khối đoàn
kết dân tộc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện
quyền công dân, bầu những đại biểu chân chính của mình vào cơ quan quyền lực
cao nhất của Nhà nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đã phá tan âm mưu
chia rẽ và lật đổ chính quyền cách mạng của kẻ thù, tạo điều kiện tiên quyết ban
đầu để Đảng ta đấu tranh đưa đất nước nước vượt qua được tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc” lúc bấy giờ.
Đến phần III. Diệt giặc đói, giặc dốt và giải quyết khó khăn về tài
chính.
Để học sinh trả lời biện pháp diệt giặc dốt, tôi đọc cho học sinh nghe hai
câu thơ trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan...”
Và bài ca dao:
Này bà, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu
I tờ chắp tiếng, chắp câu
Quanh bàn xúm xít bảo nhau học bài.

Kết hợp cho các em quan sát các hình ảnh sau:

9


Sau đó tôi đặt câu hỏi nhận thức cho các em : Lớp học i tờ là gì? Tham gia
lớp học ấy là ai? Lớp học ấy diễn ra trong điều kiện như thế nào?
HS dễ dàng nêu được: Lớp học i tờ là phong trào bình dân học vụ và tất
10


cả mọi người dân từ già đến trẻ đều tham gia. Lớp học diễn ra vào ban đêm dưới
ánh đèn dầu, ngoài trời...
Để nêu lên được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc biết chữ, tôi đọc cho
học sinh nghe tiếp mấy câu ca dao:
Cô kia vừa đẹp vừa giòn
Cô không biết chữ cô còn lấy ai.
Hoặc:
Lấy chồng biết chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên nợ nần.
Tôi kết luận: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu...”. Vì vậy, xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân
là một trong những nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết. Ngày 8-9-1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, kêu gọi mọi người
tham gia phong trào xóa nạn mù chữ với tinh thần “người biết nhiều dạy cho
người biết ít, người biết ít dạy cho người chưa biết”. Với tinh thần hiếu học của
người dân Việt Nam, dù trong hoàn cảnh khó khăn (
Thể hiện qua các hình ảnh trên: Ban ngày tăng gia sản xuất, buổi tối tham
gia lớp học bình dân dưới ánh đèn dầu; lớp học ngoài trời đơn sơ, tự nhiên
nhưng vẫn rất đông các em tham gia...) nhưng mọi người dân từ già đến trẻ đều

nghiêm túc và hăng hái tham gia phong trào bình dân học vụ để xóa nạn mù chữ
Qua cách thể hiện như thế này, học sinh nắm được biện pháp chính để xóa
nạn mù chữ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như tinh thần học tập của
người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Tiếp theo, tôi yêu cầu các em dựa vào Sách giáo khoa nêu kết quả cụ thể
của biện pháp giải quyết nạn dốt.
Sau khi học sinh nêu được kết quả: Cuối năm 1946, cả nước có 76.000
lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người... để tạo không khí sôi nổi cho lớp
học, tôi cho các em nghe tiếp bài ca dao sau thể hiện sinh động quá trình học “i
tờ” đến kết quả cụ thể:
Lần trước tôi đi sang sông
Gặp người con gái ngồi trông con đò
Miệng cô nhẩm đọc i... tờ
Ven sông tiếng sóng vỗ bờ hòa theo...
Lần này tôi lại sang sông
Cũng cô gái ấy ngồi trông con đò
Nhưng cô không đọc i... tờ
Mà cô đọc báo khi chờ khách sang!
Với cách làm này, vừa gây được sự chú ý, hứng thú cho học sinh, giúp
học sinh chủ động nắm bắt kiến thức, dễ nhớ bài vừa giáo dục cho học sinh
truyền thống hiếu học của người dân Việt Nam cũng như vai trò tri thức hiện nay
từ đó, các em sẽ nâng cao nhận thức về tầm quan trọng việc học của mình.
2. Khi dạy bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp (1946-1954).

11


Bài này được học trong 2 tiết, mỗi tiết dạy để làm nổi bật trọng tâm của
bài học, tôi lồng ghép văn học và kênh hình như sau:

Tiết 32. Mục 1 (phần I). 1. Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bïng
næ.
Để nói về hành động bội ước của Pháp- trắng trợn khiêu khích ta ở Hà
Nội, Hải phòng và nhiều nơi khác gây nên nhiều tội ác, tôi đọc cho các em nghe
mấy câu thơ:
“ Lửa reo, lửa thét
Lửa xuống cửa ga
Xe tăng giẫy chết
Lửa vào Cát Bi
Máy bay tan tành
Hải phòng khu bảy tay ôm lửa
Một mái nhà thiêu một đạo binh”
Tôi đặt câu hỏi: Tội ác của giặc pháp đã gây nên hậu quả gì?
HS sẽ trả lời được: Chính ngọn lửa đốt nhà, đốt làng, đốt xóm của kẻ thù
đã trở thành ngọn lửa hận thù, mất mát, thương đau dội lên đầu thiêu đốt chúng.
Tiếp theo để nói lên lòng căm thù của nhân dân ta đối với giặc Pháp, tôi
đọc tiếp mấy câu ca dao:
Chúng tao chỉ có câu này
Thề cùng giặc Pháp có mày không tao
Một lời nói, một nhát dao
Thề cùng giặc Pháp có tao không mày.
Qua mấy câu thơ này, các em thấy rõ hơn lòng căm thù của toàn thể dân
tộc ta trước hành động xâm lược và tội ác của thực dân Pháp. Và lúc này nhân
dân ta chỉ có một con đường duy nhất là đứng lên chiến đấu để bảo vệ chính
quyền cách mạng, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ Quốc. Từ đó, học sinh sẽ lí giải
được vì sao toàn thể dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy hưởng ứng lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cũng với cách thể hiện như vậy, khi vào phần phân tích nội dung đường
lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng học sinh sẽ hiểu, phân tích và
nhớ sâu sắc: thế nào là kháng chiến toàn dân, toàn diện và vì sao phải kháng

chiến toàn dân, toàn diện.
Đến tiết 33. Mục III: Chiến dịch Việt Bắc thu- đông năm 1947.
Khi nêu âm mưu của Pháp: 3-1947, Bôlae sang làm Cao ủy Pháp ở Đông
Dương đã thực hiện kế hoạch tấn công căn cứ đại Việt Bắc nhằm nhanh chóng
kết thúc chiến tranh.
Tôi đặt câu hỏi: Vì sao thực dân Pháp lại chọn đánh Việt Bắc? Chủ trương của
Đảng ta là gì?
Sau đó, tôi gợi ý cho học sinh bằng mấy câu thơ trong bài thơ Việt Bắc
của Tố Hữu:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền”

12


HS sẽ trả lời được: Việt Bắc là nơi các cơ quan Trung Ương của Đảng,
Chính phủ ta đang lấy làm căn cứ. Đánh vào Việt Bắc là đánh vào cơ quan đầu
não kháng chiến của ta.Vì vậy, khi Pháp vừa tiến công lên Việt Bắc, Đảng ra chỉ
thị “Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”.
3.Khi dạy bài 26: Bước phát triển mới của của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1950-1953). Mục I. Chiến dịch Biên Giới thu- đông
năm 1950.
Đây là chiến dịch quân sự chủ động lớn đầu tiên của bộ đội ta nên rất
quan trọng. Để các em hiểu được tầm quan trọng của chiến dịch cũng như quyết
tâm giành thắng lợi của ta tôi cho các em quan sát các hình ảnh sau:

Bác Hồ thăm một đơn vị tham gia chiến dịch Biên Giới thu – đông 1950


13


Bác Hồ quan sát trận địa Đông Khê
Đồng thời nêu bài thơ của Bác Hồ viết tặng Đại tướng Trần Canh (Trung Quốc):
Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy
Tôi đặt câu hỏi: Hai bức tranh và bài thơ trên thể hiện điều gì?
HS trả lời: Đây là chiến dịch quan trọng nên Bác Hồ trực tiếp ra mặt trận
cùng Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo và động viên bộ đội chiến đấu. Nhờ vậy,
tăng thêm tinh thần quyết chiến của bộ đội ta để chiến dịch đi đến thắng lợi cuối
cùng.
Về không khí chuẩn bị cho trận Đông Khê- trận mở màn chiến dịch Biên
Giới, vừa chỉ trên lược đồ vị trí Đông Khê tôi vừa trích dẫn cho học sinh đoạn
hồi kí của nhà báo lão thành cách mạng Trúc Kì ghi lại như sau: “chiến dịch
đang được chuẩn bị rất khẩn trương. Bộ đội và dân quân ngược xuôi hối hả.
Lừa ngựa, rồi xe vận tải, xe kéo pháo...ùn ùn chạy như một dòng suối. Chưa bao
giờ đường ra mặt trận lại đông vui, nhộn nhịp như lần này. Cứ y như trẩy hội”
Qua đoạn trích này một lần nữa học sinh thấy được tầm quan trọng và
quyết tâm giành thắng lợi của ta.
Sau khi trình bày xong trận Đông Khê, tôi đặt câu hỏi cho học sinh: Để
trận Đông Khê giành thắng lợi có rất nhiều chiến sĩ ta đã hi sinh. Vậy, em hãy kể
về một gương anh hùng chiến đấu và hi sinh trong trận Đông Khê?
Qua gợi ý học sinh có thể nêu tên được anh hùng liệt sĩ Trần Cừ.

14



Và để học sinh hiểu được về sự hi sinh của anh hùng liệt sĩ Trần Cừ tôi cho học
sinh quan sát hình ảnh:

Anh hùng, liệt sĩ Trần Cừ ( 1920-1950)
Và trích dẫn đoạn hồi kí sau của Nguyễn Huy Tưởng:
Còn đây là cận cảnh những giây phút hy sinh anh dũng của anh hùng Trần Cừ:
"Trần Cừ băng băng lên trước. Một chú liên lạc đang cố dún người lên để ném
lựu đạn vào một lỗ châu mai là là mặt đất, Cừ nói:
- Chú đưa anh một quả, phải triệt lỗ châu mai này mới tiến được.
Anh mở nút lựu đạn xông lên. Những tràng đạn liên thanh, những chai thuốc nổ
từ trong ném ra. Trần Cừ lảo đảo. Anh hô to:
- Giải phóng Đông Khê! Hồ Chủ Tịch muôn năm! Đảng cộng sản Đông Dương
muôn năm!". (Ký sự Cao Lạng - Nguyễn Huy Tưởng toàn tập . Trang 234-235).
Với hình ảnh và đoạn hồi kí này sẽ giúp học sinh hình thành xúc cảm lịch
sử mạnh mẽ về anh hùng Trần Cừ. Từ đó sẽ nhớ sâu sắc về trận Đông Khê của
chiến dịch Biên Giới cũng như sự hi sinh anh dũng của Trần Cừ.
4. Khi dạy bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm
lược kết thúc (1953-1954).
Tiết 34. Mục 2 ( phần II). Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Sau khi nêu âm mưu của Pháp ở Điện Biên Phủ và chủ trương của Đảng
ta là quyết định chọn Điện Biên Phủ làm trận quyết chiến chiến lược với Pháp.
15


Để học sinh thấy được không khí chuẩn bị của cả nước cho chiến dịch với khẩu
hiệu “ Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” tôi đọc cho các em nghe đoạn
thơ trong bài Hoan Hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu kết hợp quan sát hình
ảnh:
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ

Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...”.

Những “chú ngựa sắt” vận chuyển hàng trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Đoạn thơ và hình ảnh trên nói lên điều gì?
HS sẽ trả lời được: Bức tranh là hình ảnh đoàn xe thồ đang chở lương
thực, thực phẩm ra chiến trường. Còn đoạn thơ thể hiện dù trong hoàn cảnh gian
khổ: thời tiết khắc nghiệt, địa hình hiểm trở cũng không làm chùn bước của
những chàng trai, cô gái đôi mươi luôn lạc quan yêu đời mang nặng trên vai lí
tưởng yêu nước và tinh thần cách mạng cao cả, không tiếc máu xương sẵn sàng
hi sinh cho nền độc lập của dân tộc.
Sau khi học sinh trả lời xong, tôi kết luận để khắc sâu về tinh thần quyết
tâm của cả nước cho chiến dịch được toàn thắng:
Để chuẩn bị cho chiến dịch , ta đã huy động một lực lượng lớn dân công
của cả nước vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược lên mặt trận

16


mà phương tiện chủ yếu là những chiếc xe đạp thồ. Tôi giới thiệu sơ lược về xe
đạp thồ cho học sinh:
“Để tăng thêm khả năng chuyên chở, lực lượng dân công đã nối một đoạn tre
nhỏ và chắc dài khoảng 1m vào ghi-đông xe (gọi là “tay ngai” để điều khiển);
buộc một đoạn tre cao hơn yên khoảng 50cm để cầm được buộc vào trục yên xe
(có tác dụng vừa giữ thăng bằng vừa đẩy xe đi) và hàn thêm sắt, buộc thêm gỗ
vào khung xe, tạo sự chắc chắn. Lốp của xe cũng được quấn thêm vải lự, quần
áo cũ, săm cũ…nhằm tăng độ bền. Nhờ các sáng kiến này, trọng tải của xe được
tăng dần lên.Một số dân công đã đạt “kỷ lục” về thồ như dân công Nguyễn Văn
Ngọc (Thanh Hóa) thồ được 320 kg/chuyến, dân công Ma Văn Thắng ( Phú

Thọ) có chuyến chở 325 kg hàng, tức là gấp 13 lần một người gồng gánh”
Và kết luận: Những chiếc xe thồ đã làm lên con đường vận tải “huyền thoại”,
trở thành một loại “vũ khí đặc biệt” của Việt Nam góp phần vào chiến thắng
Điện Biên Phủ.
Với cách làm này ngoài cung câp kiến thức bài học cho học sinh, qua đó
còn giáo dục cho các em tinh thần vượt khó, không ngại gian lao vất vả, hi sinh
của dân tộc Việt Nam cho nền độc lập. Từ đó các em biết quý trọng và giữ gìn
nền độc lập của dân tộc ta. Mặt khác, cũng thấy được giá trị, ý nghĩa to lớn của
chiếc xe đạp hàng ngày các em đi học cũng có thể là vũ khí sắc bén trong kháng
chiến chống ngoại xâm.
Đến phần diễn biến của chiến dịch để diễn tả sự cam go, quyết liệt, cũng
như những gương anh hùng quên thân mình hi sinh vì đồng đội, vì chiến dịch
toàn thắng tôi đọc cho các em nghe tiếp đoạn thơ:
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi,
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm...
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên- Tố Hữu)
Và quan sát các hình ảnh:

17



Anh hùng, liệt sĩ Bế Văn Đàn ( 1931-1954)

Anh hùng, liệt sĩ Phan Đình Giót ( 1922-1954)

18


Anh hùng, liệt sĩ Tô Vĩnh Diện (1924-1954)
Qua đoạn thơ và những hình ảnh trên em hãy nêu lên sự gian khổ, cam go
của ta trong chiến dịch và kể tên những anh hùng, những gương hi sinh tiêu biểu
trong chiến dịch?
Dựa vào đoạn thơ học sinh có thể trả lời được dưới sự gợi ý của giáo viên
để chủ động lĩnh hội kiến thức: Trong chiến dịch Điện Biên, bộ đội ta phải khoét
núi, đào hào, ngủ dưới hầm ẩm ướt, nhiều đỉa vắt, máu trôn lẫn với bùn. Nhiều
anh hùng, chiến sĩ đã hi sinh như Bế Văn Đàn lấy vai làm giá súng (hình 1),
Phan Đình Giót lao cả thân mình vào bịt lỗ châu mai (hình 2), Tô Vĩnh Diện
chèn lưng cứu pháo (hình 3)...Tất cả để cho chiến thắng, để cho Tổ quốc độc
lập, tự do.
Kết thúc tiết 1, ngoài giao nhiệm vụ tìm hiểu trước tiết 2, tôi yêu cầu học
sinh về nhà tìm hiểu cụ thể về gương anh dũng hi sinh của Bế văn Đàn, Tô Vĩnh
Diện, Phan Đình Giót trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Với cách thể hiện như thế này, ngoài việc gây hứng thú học tập cho học
sinh, tạo được biểu được lịch sử cụ thể vừa giúp học sinh khắc sâu kiến thức và
hình thành xúc cảm lịch sử mạnh mẽ từ đó say mê tìm hiểu bài tập về nhà tôi
giao.
2.4. Hiệu quả của “sử dụng yếu tố văn học và hình ảnh trong dạy học
lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 để nâng cao hiệu quả bài học”
19



Sau thời gian nghiên cứu và thực hiện với đối tượng học sinh các lớp
9A,B,C,D,E,F,G,H tại trường THCS Trần Mai Ninh với cách thức sau:
Đối với các lớp:9A,B,C,D,E,F, thường lồng ghép sử dụng tài liệu văn học
trong giờ học Lịch sử.
Đối với lớp 9G,H, ít thực hiện.
Qua các hình thức kiểm tra kiến thức của phần Lịch sử Việt Nam giai
đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 thu được kết quả so sánh như sau:
Các mức độ học tập
Các lớp thực hiện
Các lớp ít thực hiện
9A, 9B, 9C, 9D, 9E, 9F
9G, 9H
Hứng thú học tập bộ môn Tăng
Không tăng
Khả năng ghi nhớ sự - Nhanh
- Mức độ chậm.
kiện, nhân vật
- Nhiều, hiểu rõ sự kiện
Khả năng làm bài phân - Đa dạng, phân tích có - Chủ yếu thuộc lòng, ghi
tích sự kiên
chiều sâu
nhớ các sự kiện.
Mục tiêu giáo dục tình Học sinh có tình cảm, Học sinh có thái độ đúng
cảm
thái độ đúng đắn đối với đắn đối với sự kiện, nhân
sự kiện, nhân vật.
vật.
Cũng qua quá trình thực hiện, kết quả đáng mừng là số học sinh có hứng
thú học tập bộ môn tăng, chất lượng môn học cũng thay đổi rõ rệt. Nhiều em say
mê và tích cực tham gia ôn tập và dự thi học sinh giỏi môn sử cấp thành phố,

cấp Tỉnh. Nhiều em say mê và tích cực học tập bộ môn.
Đối với bản thân.
Với việc áp dụng đề tài vào giảng dạy, giờ học ở các lớp thực hiện bản
thân tôi thấy rất nhẹ nhàng và phấn khởi. Còn ở lớp không thực hiện thì giờ dạy
khô khan và có phần nặng nề đối với cô và trò.
Đối với đồng nghiệp.
Khi đồng nghiệp dự giờ ở các lớp thực hiện đã đánh giá rất cao hiệu quả
của tiết học và áp dụng cho các lớp mình giảng dạy.
Đối với nhà trường.
Nhà trường đầu tư kinh phí mua bổ sung hệ thống kênh hình, khuyến
khích dạy liên môn, đặc biệt là đưa yếu tố văn học vào dạy Lịch sử.

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận:
20


Từ phương pháp “sử dụng yếu tố văn học và hình ảnh để nâng cao
hiệu quả bài học trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 ”, bản
thân tôi rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, không phải lúc nào và ở đâu cũng có thư viện đầy đủ tài liệu
tham khảo cần thiết. Do vậy, giáo viên không nên ỷ lại vào nhà trường mà trước
hết phải tự mình tìm kiếm tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy, trong đó có
tài liệu văn học. GV cần phải tích lũy cho mình một tủ sách cá nhân phục vụ cho
việc nghiên cứu và giảng dạy. Nếu làm tốt điều này, chẳng những học sinh sẽ
kính phục vì tinh thần, thái độ và trách nhiệm nghề nghiệp cao của giáo viên đã
mang lại cho các em những giờ học bổ ích, lôi cuốn, hấp dẫn, mà lãnh đạo nhà
trường và đồng nghiệp cũng sẽ cảm phục, tin tưởng vì năng lực chuyên môn và
sự tha thiết yêu nghề của giáo viên.
Thứ hai, khai thác triệt để những giá trị lịch sử được phản ánh trong các

tác phẩm văn học. Điều này làm cho chất lịch sử trong văn học tách hẳn ra, để
giáo viên dễ dàng vận dụng vào bài giảng. Tuy nhiên, khi lựa chọn tài liệu văn
học phải mang tính điển hình, cụ thể và khoa học. Nếu đã chọn để sử dụng vào
bài giảng thì cần xem xét kỹ nguồn gốc xuất xứ và nội dung phản ánh của nó.
Thứ ba, tăng cường sử dụng tài liệu văn học và thiết bị dạy học, cũng như
các tài liệu tham khảo khác trong dạy học Lịch sử làm cho học sinh nhận thức dễ
dàng hơn, hứng thú học tập hơn. Song việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy
học Lịch sử là cần thiết nhưng không được lạm dụng. Nếu sử dụng quá nhiều
loại tài liệu này trong một tiết dạy mà không áp dụng cùng với các phương pháp
dạy học khác thì nhất định sẽ tạo ra sự nhàm chán cho học sinh ; mặt khác, vô
tình giáo viên biến giờ học môn Lịch sử thành giờ học môn Ngữ văn.
Thứ tư, giáo viên sử dụng tài liệu văn học vào trong bài giảng lịch sử
không được đi chệch mục đích, yêu cầu của bài giảng. Phải hiểu rằng, tài liệu
văn học là công cụ để giúp giáo viên hoàn thành tiết học tốt nhất. Vì thế, nó chỉ
mang tính chất minh họa, chứng minh cho những nội dung lịch sử nhằm đảm
bảo tính hiệu quả cao nhất cho bài giảng. Để làm được điều đó, giáo viên phải
biết sử dụng tài liệu văn học phù hợp với nội dung, không vì sử dụng tài liệu văn
học mà để “cháy giáo án” ảnh hưởng đến chất lượng tiết dạy và xin đặc biệt
nhấn mạnh rằng không phải trong bài giảng nào, giáo viên cũng sử dụng tài liệu
văn học, nó được dẫn ra khi đảm bảo tính cần thiết và hiệu quả cần đạt.
3.2. Kiến nghị
Ban giám hiệu nhà trường, cùng với việc xây dựng và tiến tới sử dụng
những phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy học, cần chỉ đạo cho thư viện nhà
trường sưu tầm, tập hợp các loại sách, tài liệu tham khảo phục vụ nhu cầu dạy và
học các bộ môn của giáo viên và học sinh, trong đó có Lịch sử. Thư viện trường
cần phải phong phú về mặt số lượng cũng như chất lượng các đầu sách.
Ngoài ra, lãnh đạo nhà trường cần phải tạo điều kiện cả về vật chất cũng
như tinh thần để giáo viên được tham gia các lớp tập huấn, học tập đổi mới
phương pháp dạy học. Trong điều kiện cụ thể, cần hỗ trợ và ủng hộ các tổ
chuyên môn làm tốt hoạt động ngoại khóa của các tổ bộ môn.

Đối với các Sở Giáo dục và đào tạo, tổ chức thường xuyên các lớp tập
huấn cho giáo viên, trong nội dung tập huấn cần hướng dẫn cụ thể các cách thức
21


lựa chọn nội dung và phương pháp sử dụng các loại tài liệu tham khảo trong dạy
học Lịch sử, trong đó có tài liệu Văn học.
Khuyến khích giáo viên thường xuyên sử dụng tài liệu tham khảo bằng
cách phối hợp với các công ty sách và thư viện nhà trường trung học cơ sở cung
cấp thường xuyên các đầu sách phục vụ nhu cầu giảng dạy và học tập.
Với những đề xuất thiết tha như trên, tôi hy vọng rằng nếu được thực hiện
một cách nghiêm túc và khoa học thì việc đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử
tất yếu sẽ có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
Lịch sử trong nhà trường THCS hiện nay để không phụ lời dạy đầy tâm huyết
của Bác Hồ kính yêu gần 80 năm về trước :
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong việc “ sử dụng văn học và
hình ảnh nhằm nâng cao hiệu quả bài học trong dạy học lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1945-1954”.
Trong quá trình thực hiện chắc chắn còn nhiều thiếu sót, mong được sự
góp ý, chỉ bảo của các chuyên viên, thầy cô giàu kinh nghiệm và các đồng
nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

TP. Thanh Hóa, ngày 02 tháng 4 năm 2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người viết:

Trần Thị Lan

Tµi liÖu tham kh¶o:
1. Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử.
22


Phan Ngọc Liên. Trịnh Đình Tùng. Nguyễn Thị Côi. Trần Vĩnh Tường (Đồng
chủ biên)- Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2002
2. Phương pháp dạy học lịch sử.
Phan Ngọc Liên. Trần Văn Trị ( chủ biên)- Nhà xuất bản Giáo dục năm 2003
3. Văn học Việt Nam 1945-1954
Mã Giang Lâm (chủ biên)- Nhà xuất bản Giáo dục 1998
4. Tố Hữu về tác gia và tác phẩm
Phong Lan ( chủ biên)- Nhà xuất bản giáo dục 2002.
5. Sách giáo khoa Lịch sử 9
GS:Phan Ngọc Liên chủ biên.
6. Sách giáo viên Lịch sử 9
GS: Phan Ngọc Liên chủ biên.
7. Bản đồ và tranh ảnh Lịch sử 9.
GS: Phan Ngọc Liên chủ biên.

23



×