Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN một số PHƯƠNG PHÁP GIẢNG dạy và HUẤN LUYỆN PHÁT TRIỂN sức bền CHO học SINH TRƯỜNG THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 17 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục thể chất cho trẻ em hôm nay là một nhiệm vụ vô cùng quan
trọng mà cả xã hội đều quan tâm bởi vì “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”
để ngày mai thế giới có những nhân tài tốt, xã hội có những công dân tốt thì
ngay từ ngày hôm nay chúng ta phải đào tạo thế hệ trẻ có kiến thức, có phẩm
chất đạo đức tốt, có sức khoẻ tốt…Nhiệm vụ giáo dục học sinh luôn luôn được
quan tâm nhưng quan trọng hơn vẫn là nhà trường, đặc biệt là trường THCS.
Bởi vì nhà trường nói chung và trường THCS nói riêng là nơi kết tinh, ươm mầm
những nhân tài cho xã hội mai sau.
Đất nước ta hiện nay đang trong thời kỳ đổi mới, thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa vì vậy mục tiêu của ngành Giáo dục - Đào tạo là tạo ra những con
người phát triển toàn diện. Muốn thực hiện được điều đó thì mỗi con người phải
có đủ đức, đủ tri thức và đủ sức khỏe. Như Bác Hồ đã từng nói: “Có đức, có tài
nhưng không đủ sức khỏe thì làm việc gì cũng khó”. Vì thế trong chương trình
đào tạo ở bậc THCS, thể dục chiếm một vai trò và vị trí hết sức quan trọng.
Hiện nay trong giảng dạy thể dục thể thao ở trường phổ thông nội dung
chạy bền là một nội dung rất là khô cứng, đơn điệu, là một nội dung đặc trưng
để rèn luyện thể lực, ý chí nên việc giảng dạy và huấn luyện môn này đã khó,
càng khó hơn, dạy sao cho hấp dẫn lôi cuốn học sinh. Thực tế cho chúng ta thấy
các em rất ngại học môn này vì sợ mệt mỏi, ngại khó và bài tập cho nội dung
này thì đơn điệu không gây hứng thú cho các em. Ngoài ra thì thành tích kiểm
tra trong quá trình học tập chưa cao, thành tích tham gia hội khỏe phù đổng cấp
Huyện còn thấp.
Huấn luyện phát triển tố chất sức bền là giúp cho học sinh chống lại mệt
mỏi trong hoạt động thể dục thể thao. Sức bền có ý nghĩa đặc biệt đối với thành
tích thi đấu của nhiều môn thể thao và là yếu tố quyết định đối với khả năng
chịu đựng lượng vận động của học sinh trong các hoạt động học tập và lao động.
Xuất phát từ những vấn đề trên đồng thời nhằm phát triển sức bền, nâng
cao thành tích chạy bền trong quá trình học tập, thi đấu và rèn luyện thể lực cho
các em học sinh trường THCS Thị trấn Quan Hóa, tôi đã mạnh dạn viết và vận


dụng sáng kiến “Một số Phương pháp giảng dạy và huấn luyện phát triển sức
bền cho học sinh trường THCS Thị trấn Quan Hóa – Huyện Quan Hóa”
nhằm góp phần phát triển tố chất thể lực nói chung và phát triển sức bền cho học
sinh nói riêng. Mong đây cũng là một tư liệu tham khảo để chia sẻ với bạn bè
đồng nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn đề xuất các phương pháp giảng
dạy và huấn luyện nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học chạy
bền, nâng cao chất lượng bộ môn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện của nhà trường, đồng thời đây cũng là sự chuẩn bị tốt về thể lực cho học
1


sinh trong quá trình tham gia tập luyện và thi đấu các môn thể thao trong các kì
thi học sinh giỏi TDTT các cấp trong năm học đạt thành tích cao.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh THCS, cụ thể là học sinh trường THCS Thị Trấn Quan Hóa –
Huyện Quan Hóa – Tỉnh Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu và tìm hiểu thông tin trên Internet
- Phương pháp vấn đáp, điều tra.
- Phương pháp đối chứng, so sánh kết quả.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp rèn luyện thực hành.
- Phương pháp kiểm tra sư phạm.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Môn thể dục cũng như các môn học khác trong hệ thống giáo dục hiện
nay. Vì vậy giáo viên giảng dạy thể dục cũng phải không ngừng học tập để đổi

mới các phương pháp dạy học để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của giáo dục là
đào tạo và phát triển con người. Ngày nay việc áp dụng phương pháp học tập lấy
học sinh làm trung tâm đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng tìm tòi, sáng
tạo để có thể sử dụng linh hoạt các phương pháp giáo dục nhằm đem lại hiệu
quả tốt nhất trong học tập cũng như trong thi đấu.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ
động sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập nhằm phù hợp với xu thế
của thời đại. Vấn đề này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên là phải đổi
mới cách dạy sao cho thích hợp với từng đối tượng học sinh để phát huy tính
tích cực của học sinh. Thể lực của học sinh luôn là một vấn đề được quan tâm
trong các giờ thể dục, là một tiêu chí đánh giá xếp loại học sinh. Tuy nhiên
trong giờ dạy thể lực luôn gặp những hạn chế như:
+ Học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của nội dung chạy bền
nhằm nâng cao thể lực cho bản thân mình và là tiền đề để tập luyện các môn thể
thao khác như: Bóng đá; Cầu lông; Bóng chuyền; Bóng bàn; Đá cầu...
+ Chạy bền là nội dung học rất dễ nhàm chán đối với học sinh hơn nữa
chạy bền là một trong những nội dung đánh giá tiêu chuẩn rèn luyện thân thể đối
với học sinh Trung học cơ sở.
Do vậy việc lựa chọn các bài tập sao cho phù hợp với kiểu bài mà phát
huy được tính tích cực trong tập luyện và sự yêu thích môn học đối với học sinh
là một vấn đề rất quan trọng.
2


Chạy bền là khả năng duy trì hoạt động kéo dài, hoạt động với cường độ
khác nhau. Do đó giáo viên cần phải giúp các em giảm bớt lo sợ khi luyện tập
chạy bền để các em thoải mái hưng phấn trong khi luyện tập tức là giúp các em
phân biệt được sức bền chung và sức bền chuyên môn.
Ngoài việc học tập các môn văn hóa để phát triển trí tuệ, thì việc học bộ
môn thể dục, tập luyện thể dục thể thao thường xuyên nhằm nâng cao sức khỏe

chống lại bệnh tật và phục vụ lao động. Đây là một nhu cầu không thể thiếu đối
với bản thân của mỗi học sinh.
2. Thực trạng ở địa phương
Để tiến hành sáng kiến này tôi đã tiến hành thu thập số liệu thông qua
kết quả học tập nội dung chạy bền của tổng số 158 em học sinh toàn trường ở
năm học trước. Kết quả cho thấy số lượng học sinh xếp loại chưa đạt còn
chiếm tỷ lệ cao.
Lớp

Số học sinh

6A

Học sinh: Đạt

Học sinh: Chưa đạt

SL

%

SL

%

22

18

81,8%


4

18,2%

6B

24

21

87,5%

3

12,5%

7A

25

22

88,0%

3

12,0%

7B


25

23

92,0%

2

8,0%

8A

36

30

83,3%

6

16,7%

9A

26

21

80,8%


5

19,2%

Tổng cộng

158

135

85,4%

23

14,6%

Mặt khác do phân môn chạy bền là phần lồng ghép trong các tiết học và
thường vào cuối các buổi tập mà thời gian dành cho nội dung này chưa nhiều,
trung bình khoảng từ 6 đến 10 phút. Cho nên học sinh không còn hứng thú trong
tập luyện vì đã mất nhiều thời gian luyện tập các nội dung khác đầu tiết học –
sức ì của học sinh lúc này gia tăng. Bên cạnh đó còn có số đông các em còn ngại
ngùng, rụt rè do lứa tuổi tâm sinh lý đang phát triển (nhất là học sinh nữ ) nên
việc tập luyện các nhiệm vụ mà giáo viên giao chưa thật tốt. Tuy nhiên qua
giảng dạy cũng có nhiều học sinh với ý thức tốt, có thể lực, thể hình vẫn cố gắng
tiếp thu kĩ thuật giáo viên trang bị và thực hiện nhiệm vụ mà giáo viên giao.
Nhưng hiệu quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng chưa cao.
Chính vì vậy mà ngay từ đầu năm học, thông qua kế hoạch giảng dạy
xuyên suốt năm học của môn thể dục tôi đã đưa vào nội dung chạy bền những
bài tập để cho học sinh luyện tập chứ không tập đơn thuần là cho học sinh chạy

3


trên địa hình tự nhiên. Ngoài ra trong quá trình giảng dạy bản thân cũng chú ý
đến những em có tố chất tốt để tập luyện thêm cho các em, tạo điều kiện cho
nhà trường có nguồn vận động viên tham gia hội thi TDTT cấp huyện đạt kết
quả cao.
Để có phương pháp luyện tập nâng cao sức bền cho học sinh thì rất cần có
sân tập và phương tiện luyện tập. Việc các em có thể lực yếu không chỉ làm ảnh
hưởng đến việc phát triển thể chất mà còn ảnh hưởng đến việc học của các em.
Do đặc thù của môn học cần phải làm như thế nào giúp cho học sinh có hứng
thú yêu thích học và tập luyện nội dung này thì đòi hỏi người giáo viên cần đưa
ra những phương pháp, những bài tập sao cho phù hợp với học sinh, tạo cho các
em có ý thức phấn đấu quyết tâm cao khi tập luyện.
Từ thực trạng trên đã thôi thúc tôi tìm ra các giải pháp để cải thiện chất
lượng dạy học và nâng cao thành tích thi đấu phân môn chạy bền tại Trường
THCS Thị trấn Quan hóa.
3. Biện pháp thực hiện
Theo tôi nhận thấy khi giảng dạy và huấn luyện một số vận động viên học
sinh với môn Điền kinh nói chung hay môn chạy bền nói riêng trước hết người
giáo viên phải tìm hiểu về tình hình sức khoẻ, về tố chất thể lực, chế độ ăn uống,
thời gian tập luyện của học sinh như thế nào rồi từ đó mới đưa ra bài tập phù
hợp với các em để không ảnh hưởng về sức khoẻ của các em.
Để giúp cho học sinh có được một nền tảng thể lực tốt thì trong quá trình
giảng dạy và tập luyện các em, tôi chú ý kết hợp giữa lý thuyết và vận dụng đưa
vào một số bài tập, trò chơi vận động gây hứng thú học tập cho học sinh.
3.1. Trú trọng giảng dạy lý thuyết
Việc giảng dạy lý thuyết sẽ trang bị cho học sinh hiểu biết sâu sắc về tầm
quan trọng của sức bền trong việc rèn luyện sức khỏe của con người đặc biệt sức
bền là nền tảng cho các em chơi và học các môn thể thao khác như bóng đá,

bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông, đá cầu……
Các yếu tố tạo lên sức bền gồm có: năng lực của tuần hoàn, hô hấp và cơ
khớp, khả năng duy trì hưng phấn của hệ thần kinh, sự tiết kiệm năng lượng và
nguồn dự trữ năng lượng của cơ thể, sự phối hợp giữa các chức năng sinh lý cơ
thể, kỹ thuật động tác và ý chí.
Giáo viên tìm hiểu tài liệu về nguyên lí học chạy bền, tác dụng của chạy
bền với sức khỏe con người, in cho học sinh đọc và trải nghiệm...
Dùng phương pháp thuyết trình ngay trong các giờ học để khích lệ các
em tự tìm hiểu thêm …
3.2. Tổ chức giảng dạy cho học sinh nắm vững kĩ thuật trước khi vào
đường chạy
Học sinh cần nắm vững được các vấn đề của kĩ thuật của chạy bền và hiểu
được nguyên lý tập luyện để giúp cho các em có phương pháp luyện tập đúng
4


đắn và biết cách khắc phục được những hiện tượng có thể xảy ra trong khi tập
luyện chạy bền như “chuột rút”, hiện tượng “cực điểm”, “choáng ngất”...Ngoài
ra nắm vững kĩ thuật còn giúp cho học sinh biết cách tự luyện tập ở nhà và có
thể tự sửa sai kĩ thuật cho bản thân, bạn bè.
Nhìn chung kĩ thuật chạy bền đơn giản hơn kĩ thuật chạy cự ly ngắn, song
khi tập cần chú ý các giai đoạn sau:
“Xuất phát”: nếu ở cự ly 800m (nữ), 1500m (nam) tiến hành chạy theo
nhóm. Xuất pháp cao hiện nay dùng hai khẩu lệnh “sẵn sàng” và “chạy” song để
phù hợp với trình độ của vận động viên, người tập bình thường vẫn phải dung ba
khẩu lệnh trong xuất phát là: “vào chỗ”, “sẵn sàng” và “chạy” để học sinh các
em dễ tiếp thu và tập luyện có hiệu quả.

Tranh minh họa: Giai đoạn xuất phát cao.
“Vào chỗ”: Khi có lệnh “vào chỗ” người chạy thả lỏng và đứng trước

vạch xuất phát. Đặt chân khoẻ lên trước, sau vạch. Bàn chân hơi hướng vào
trong chân còn lại đặt ở phía sau cách vạch xuất phát 1/2 bước chân, đầu bàn
chân tì sẵn vào mặt đường. Ở tư thế “vào chỗ” thân người giữ thẳng và thả lỏng,
trọng tâm cơ thể dồn đều trên hai chân. Lúc này cần tranh thủ thở sâu 2-3 lần và
tập trung tư tưởng chờ lệnh “sẵn sàng”. Khi giáo viên thị phạm và yêu cầu thực
hiện lệnh “vào chỗ” có thể xảy ra các tình huống học sinh để tay trùng chân; tư
thế đứng chưa ngay ngắn; mắt chưa tập trung hướng về phía đường chạy – giáo
viên có thể uốn nắn, nhắc nhở để học sinh có thể sửa chữa ngay.
“Sẵn sàng”: Khi có lệnh “sẵn sàng” người chạy chuyển trọng tâm cơ thể
vào chân trước, chân hơi gập ở khớp gối, thân người đổ về trước. Tay bàn chân
mạnh (đặt ở phái trước) đưa về sau, hơi chếch ra phía ngoài, góc ở khuỷu tay
khoảng 1200 - 1500. Tay còn lại hơi gập ở khuỷu tay và để tự nhiên phía trước
ngực. Người chạy lúc này phải hết sức tập chung tư tưởng chờ lệnh “chạy”. Khi
5


thực hiện lệnh sẵn sàng học sinh có thể mắc phải các lỗi kĩ thuật như: Không
dồn trọng tâm vào chân trước; Xuất phát trước lệnh; Bước chạy đầu tiên bị cùng
chân tay; Đặt chân trước chạm đất bằng gót bàn chân. Giáo viên phải nhắc nhở
uốn nắn tại chỗ.
Chạy “lao”: khi có lệnh “chạy” người chạy phải đạp mạnh chân để “lao”
nhanh về trước. Qua 4 - 6 bước đầu, thân người dần dần thẳng lên như khi chạy
giữa quãng. Trong chạy 20 - 30 m đầu người chạy phải dùng tốc độ lớn để vượt
lên chiếm lấy mặt trong của đường chạy. Sau đó chuyển sang chạy bước dài thả
lỏng theo nhịp điệu cần thiết để đạt được yêu cầu quy định.

Tranh minh họa: Giai đoạn chạy lao sau xuất phát.
Khi thực hiện kĩ thuật “chạy lao” học sinh có thể gặp sai lầm là sau khi
xuất phát chạy đa số học sinh chưa đảm bảo góc độ chạy lao, duy trì quãng đường
chạy lao chưa đảm bảo, chưa có ý thức chiến thuật để chiếm lĩnh lợi thế của

đường chạy. Giáo viên phải sửa sai tại chỗ và hướng dẫn ý thức chiến thuật bằng
thị phạm trực quan. Giáo viên yêu cầu các nhóm tự luyện và tự sửa sai cho bạn.
Chạy “giữa quãng”: chạy giữa quãng là giai đoạn trọng yếu nhất quyết
định thành tích. Yêu cầu chạy phải đúng kĩ thuật, có nhịp điệu, thả lỏng bước dài
và biết kết hợp thở với bước chạy.
So với chạy cự li ngắn, độ dài của bước chạy của cự li chạy bền ngắn hơn
nhưng đạp sau vẫn phải mạnh, duỗi thẳng hết chân. Góc đạp sau khoảng 50 0, tốc
độ chạy càng cao thì góc độ đạp sau càng nhỏ. Đổ ngả thân người về trước hoặc
ngửa ra sau làm ảnh hưởng tới kĩ thuật. Tư thế của đầu ảnh hưởng nhiều tới tư
thế của thân người khi chạy cần giữ đầu thẳng, mắt nhìn về phía trước.
Cần chú ý đặt chân đúng, chân chạm đất bằng 1/2 bàn chân trước từ mép
ngoài vào. Khi đặt chân phải nhẹ nhàng, đầu gối hơi gập lại để giảm chấn động.
Động tác đánh tay trong chạy bền hay còn gọi là chạy cự li trung bình. Chậm
6


hơn và không “giật” mạnh ra sau như ở cự li ngắn, tay đánh chủ yếu là để giữ
thăng bằng, phối hợp tích cực với động tác chân và nhịp thở. Đánh tay cần thả
lỏng nhịp nhàng theo bước chạy.
Trong lúc chạy cần phải thả lỏng toàn thân nhất là lúc chạy đường vòng.
Càng thả lỏng càng tiết kiệm được sức, càng dễ phối hợp động tác, chạy càng
nhịp nhàng.
Khi chạy trên đường vòng cần bám sát vào mặt trong, bàn chân đặt cách
mặt đường từ 5 - 7 cm. Thân trên hơi ngả về bên trong (vào phía trong sân) để
hạn chế lực li tâm, tay phải đánh với biên độ rộng hơn và tích cực hơn tay trái.
Bàn chân đặt hơi hướng vào bên trong.
Trong suốt đoạn đường vòng cần chạy thả lỏng để duy trì được nhịp điệu,
độ dài bước chạy, tránh bị mất sức vô ích.
Trong khi thực hiện kĩ thuật chạy giữa quãng học sinh có thể mắc các lỗi
như: Chưa biết cách phân phối sức, chưa biết cách phối hợp giữa bước chạy với

nhịp thở, chưa có ý thức chiếm lĩnh lợi thế đường chạy và học sinh chưa biết
cách xử lý các tình huống xảy ra trong luyện tập như “chuột rút”, “cực điểm”,
“choáng, ngất”... Giáo viên phải quan sát rút kinh nghiệm tại chỗ cho từng học
sinh qua các buổi tập. Giáo viên thực hiện thị phạm cho học sinh xem cách khắc
phục các tình xảy ra trong khi tập luyện và yêu cầu học sinh thực hành thực tế.
Yêu cầu các nhóm học sinh khi luyện tập phải có ý thức tự giác quan sát bạn
trong nhóm và giúp đỡ kịp thời.

Tranh minh họa: Giai đoạn chạy giữa quãng.
“Về đích”: càng gần về đích người chạy càng cần phải cố gắng khắc phục
mệt mỏi, duy trì tốc độ sẵn có để vượt qua đích hoặc dư sức thì “tung” nốt ra để
đưa thành tích lên cao hơn. Lúc này cần đánh tay nhanh hơn, tăng độ ngả thân
trên, giảm góc độ đạp sau, tăng tần số bước chạy. Việc thực hiện động tác “chạm
đích” bằng ngực hoặc bằng vai vào dây đích như ở chạy cự li ngắn chỉ cần khi
có đối thủ đang theo sát, đang đọ sức với mình trong việc dành ngôi vị, thứ. Nếu
không có đối thủ tranh giành thứ hạng thì chỉ cần duy trì tốc độ về đích cho tốt,
7


không cần phải làm động tác “chạm dây đích” gây mất sức, dễ bị ngã, ảnh
hưởng tới kết quả thi đấu.

Tranh minh họa: Giai đoạn về đích.
Sau khi qua đích cần tiếp tục chạy thả lỏng với tốc độ giảm dần 10 - 20 m,
rồi chuyển sang đi bộ thở sâu, khi đó đỡ mệt mới dừng lại.
Trong quá trình thực hiện giai đoạn về đích học sinh thường mắc phải các
sai lầm như: Đánh đích không đúng kĩ thuật; Không biết cách rút đích; Khi đánh
đích học sinh dừng lại đột ngột; Khi hoàn thành đường chạy học sinh ngồi ngay
tại chỗ mà không thực hiện các bài tập thả lỏng. Giáo viên phải nhắc nhở, sửa
sai trực tiếp cho học sinh, động viên và khích lệ học sinh, giao nhiệm vụ cho học

sinh tự giác giúp đỡ các bạn trong luyện tập.
3.3. Tổ chức cho học sinh nắm vững Chiến thuật thi đấu chạy bền
Học sinh nắm vững chiến thuật với mục tiêu là rèn luyện nội dung chạy
bền để đạt kết quả cao, thành tích tốt, học sinh vận dụng được chiến thuật phân
phối sức trong tập luyện, học sinh biết cách vận dụng các chiến thuật trong thi
đấu và tập luyện các môn thể thao khác. Mặt khác một số học sinh có tố chất thể
thao, hình thành ý thức chiến thuật để phát triển năng lực thể thao cho bản thân.
Chiến thuật trong chạy bền hay chạy cự li trung bình 800m nữ, 1500m
nam. Có tầm quan trọng rất lớn, đôi khi nó đóng vai trò quyết định trong việc
giành thắng lợi của người chạy. Nhiều người chạy có trình độ thể lực cao, thể
lực tốt, sức bền tốt nhưng thiếu kinh nghiệm phân phối sức không chính xác nên
đã không đạt được kết quả cao, mà còn thấp hơn cả những người yếu hơn mình.
Vì vậy cần phải xây dựng cho người tập một chiến thuật hợp lí - phù hợp với
trình độ thể lực đặc điểm cá nhân, giới tính.
Chiến thuật chạy cự li trung bình “chạy bền” phù hợp với trình độ thể lực
thiếu niên, học sinh lớp 6,7,8, 9 ở lứa tuổi từ 12 - 16 tuổi.
8


Chiến thuật phân phối sức khi chạy là chiến thuật chủ động nhất giáo viên
phải dựa vào trình độ thể lực, đặc điểm cá nhân, giới tính. Do cự li chạy dài hay
ngắn mà sức khoẻ có hạn, nên trong chạy bền không thể chạy với tốc độ nhanh
tối đa như chạy 60m. Tuỳ theo cự li định tập để tính toán phân bổ sức cho người
chạy trên các đoạn đường chạy thích hợp.
Đối với cự li 800m (nữ), 1500m (nam) mà người chạy cần phân phối sức
của mình sao cho hợp lí nhất để đạt được kết qủa cao nhất.
Thông thường khi mới xuất phát nên chạy chậm, nhẹ nhàng cho cơ thể
thích nghi dần, sau đó nâng dần và giữ ổn định tốc độ đến khi về đích.
Chiến thuật phân phối sức là chiến thuật chủ động phát huy được khả
năng thể lực của người chạy. Sử dụng chiến thuật này có thể dự đoán trước được

thành tích mà người chạy sẽ đạt. Muốn thực hiện được chiến thuật phân phối sức
chính xác cần phải tập chạy lặp lại nhiều lần các đoạn đường cố định để xây
dựng cảm giác tốc độ, có cảm giác tốc độ tốt sẽ phân phối tốt, thành tích sẽ đạt
được theo kế hoạch.
Đối với cự ly 800m giáo viên hướng dẫn học sinh trong 600m đầu phải
phân phối sức để duy trì mức độ chạy trung bình, 200m sau phải phát huy hết
sức để chiếm lĩnh đường chạy và rút đích. Đối với cự ly 1500m giáo viên hướng
dẫn học sinh trong 1300m đầu phải phân phối sức để duy trì mức độ chạy trung
bình, 200m sau phải phát huy hết sức để chiếm lĩnh đường chạy và rút đích. Khi
tổ chức tập luyện giáo viên cho thực hiện tập theo nhóm từ 5 đến 8 em để quan
sát và rút kinh nghiệm động viên học sinh kịp thời. Giáo viên tổ chức học sinh
luyện tập chiến thuật “phân phối sức” theo nhóm thể lực để tạo hưng phấn thi
đấu cho nhóm học sinh cùng nhóm.
Chiến thuật “bám sát” và “rút” ở đoạn cuối, đối với người mới tập luyện,
chưa có kinh nghiệm, chưa có cảm giác tốc độ để phân phối sức được chính xác
thì nên tập chiến thuật “bám sát” và “rút” đoạn cuối.
Khi thực hiện chiến thuật này người chạy cần phải bám sát đối phương.
Khi bám sát đối phương phải kiên trì theo sát gót đối phương, khoảng cách tốt
nhất là từ 0,5m đến 1m.
Khi “bám sát” nếu đối phương tăng tốc độ để rút bỏ thì phải bám theo
ngay để giữ vững khoảng cách nêu trên. Để thực hiện được chiến thuật “bám
sát” và “rút” ở đoạn cuối trong quá trình tập luyện cần phải chạy biến tốc (thay
đổi tốc độ) với các đoạn dài ngắn khác nhau, để quen với việc chạy thay đổi tốc
độ, chủ động “bứt phá” và “đuổi bám” đối phương khi cần thiết.
Giáo viên tổ chức học sinh luyện tập chiến thuật “bán sát” theo nhóm thể
lực để tạo hưng phấn thi đấu cho nhóm học sinh cùng nhóm.
Với “cự li trung bình” ở phân môn chạy bền điều rất quan trọng là người
chạy phải biết thở đúng để không bị mệt, không bị loạn bước chạy, ảnh hưởng
đến tốc độ
Do đó trong lúc chạy cần chú ý tập thở theo cách sau đây:

9


+ Hít vào phải sâu, thở ra phải hết.
+ Hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng.
+ Nhịp thở: Phải biết cách thở cho nhịp nhàng phù hợp với bước chạy để
đỡ bị mệt và tiết kiệm được sức; Nhịp thở tốt nhất trong lúc chạy là cứ 2 bước
chạy hít vào 2 lần bằng mũi ngắn - mạnh và 2 bước chạy tiếp theo thở ra bằng
mồm cũng ngắn - mạnh, cũng có thể thở theo nhịp 3/3 tức là 3 bước chạy thực
hiện 1 lần hít vào thật sâu, 3 bước chạy tiếp thở ra thật hết.
+ Muốn có nhịp thở tốt, phù hợp với bản thân người tập phải tư tập chạy
với nhịp thở khác nhau. Nhịp thở nào tương đối phù hợp với mình trong tất cả
các buổi tập và trong điều kiện khác nhau phải tập với mức thuần thục, thành
phản xạ có điều kiện; Không nghĩ đến thở mà vẫn thở đúng nhịp trong lúc chạy.
Có như vậy tập luyện mới có kết quả, thành tích mới được nâng lên. Ở đây giáo
viên phải thị phạm cách thở trong khi luyện tập để học sinh quan sát để làm theo
hoặc giáo viên có thể tổ chức trò chơi “Hai lần hít vào, hai lần thở ra” để tăng
hứng thú luyện tập cho học sinh.
3.4. Tổ chức giờ dạy phong phú sinh động
Tạo hứng thú trong học tập nội dung chạy bền, khắc phục khó khăn trong
luyện tập và thi đấu. Tạo niềm tin cho học sinh khi rèn luyện thể thao và yêu
thích các môn thể thao.
Trong quá trình tập luyện cần rèn cho học sinh chạy đúng kĩ thuật, xử lí
các tình huống gặp phải khi chạy bền trên địa hình tự nhiên, biết phân phối sức
phối hợp thở hợp lí trên toàn cự ly, biết khắc phục lực ly tâm trong chạy đường
vòng và khắc phục hiện tượng cực điểm trong khi chạy. Giáo viên cần bám sát
từng nhóm chạy, động viên khích lệ các em trong từng sự cố gắng của các em dù
là nhỏ nhất để khích lệ ý trí vươn lên của các em.
Để nâng cao ý thức tự giác giáo viên có thể giao bài tập bổ trợ và phát
triển thể lực ở nhà cho học sinh như: Nhảy dây bền, tâng cầu tối đa, chạy trên

địa hình tự nhiên vào các buổi sáng sớm …
Trong giờ dạy, giáo viên tích cực sử dụng các đồ dùng trực quan sinh
động hiện có của nhà trường và các đồ dùng trực quan tự làm để tạo hứng thú
cho học sinh và khích lệ tính tò mò làm theo của các em, đồng thời sử dụng
nhiều hình thức trò chơi, thi đua trong cùng nhóm để khích lệ tinh thần vươn lên
trong tập luyện của các em.
Ngoài ra còn dạy cho học sinh cách tự kiểm tra sức khoẻ định kỳ. Phối
hợp với bộ phận Y tế trường học kiểm tra sức khỏe thường xuyên, định kì cho
học sinh để có cơ sở sàng lọc những học sinh có nguy cơ thiếu thể lực khi tập
thể dục thể thao để có biện pháp hỗ trợ, luyện tập phù hợp như học sinh mắc
bệnh tim mạch, sương khớp…
Hướng dẫn cho học sinh cách đo mạch trước và sau khi vận động, nhất là
trước và sau khi chạy bền.

10


Điều chỉnh lượng vận động cho học sinh chạy phù hơp với lứa tuổi, giới
tính, để tập chạy theo cự li quy định.
Để dạy cho học sinh “cách vượt các chướng ngại vật trên đường chạy”
giáo viên chủ yếu giới thiệu lý thuyết kết hợp với làm mẫu và nhắc học sinh vận
dụng khi tự tập hằng ngày. Tiếp theo, tuỳ theo điều kiện thực tiễn ở sân trường
hoặc địa điểm liền kề với sân trường, có kết hợp tự tạo một chướng ngại để học
sinh tập luyện. Tuy nhiên tránh cầu kì, tốn kém mà hiệu quả không cao.
Luôn luôn giáo dục tính kiên trì, chịu khó tập luyện cho học sinh khi học
chạy bền để các em vượt qua các cự li quy định.
Rèn cho học sinh thói quen tập luyện thường xuyên (tối thiểu 3 lần/tuần).
Trong quá trình tập luyện thường xuyên và liên tục. Giáo viên cho các em
đó tập luyện thuần thục chạy cự li 400, 500, 600, 800, 1000, 1200, 1500,
1600m… (tùy vào lứa tuổi, sức khỏe, giới tính, trình độ...).

Tiến hành kiểm tra đánh giá kết quả của từng học sinh, thấy được sự cố
gắng tập luyện vươn lên để đạt được kết quả cao từ đó khen thưởng những học
sinh đạt kết quả cao và có phê bình học sinh nào còn chậm tiến bộ.
3.5. Giao bài tập về nhà, khuyến khích tính tự tập của học sinh
Nâng cao ý thức tự giác luyện tập các môn thể thao vào khoảng thời gian
hợp lý của học sinh ở nhà. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc rèn luyện sức bền
được thực hiện thường xuyên, liên tục. Nâng cao sức khỏe về thể chất cho học
sinh hàng ngày. Qua đây cho học sinh thấy việc tập luyện thể dục thể thao là rất
quan trọng cần phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Mặt khác cho học
sinh tự thấy rõ hiệu quả của việc thường xuyên luyện tập thể dục thể thao chắc
chắn sức khỏe của các em sẽ được duy trì tốt hơn.
Giáo viên có thể giao cho học các bài tập về nhà như:
+ Chạy trên địa hình tự nhiên, bài tập chạy lên dốc, xuống dốc theo bậc
cầu thang ở nhà hoặc dốc đê, dốc đường làng trong các buổi sáng từ 5 giờ đến 6
giờ hoặc chiều từ 17 giờ đến 18 giờ.

11


+ Bài tập nhảy dây bền có thể thực hiện vào các buổi sáng hoặc chiều
hoặc những hôm trời mưa rét không tập trên địa hình tự nhiên được.

+ Tập sức bền bằng các môn có tác dụng rèn luyện sức bền như: Chay cự
li dài hay bóng đá, đánh cầu lông, đi bộ thể thao, chạy cự li trung bình trên địa
hình tự nhiên tại nhà.
+ Giáo viên kiểm tra việc tự tập của học sinh trong các giờ dạy thông qua
các trò chơi: Người thừa thứ 3, chạy dích dắc tiếp sức, chạy vượt trướng ngại vật
tiếp sức. Chạy cầu thang ở trường, kiểm tra khả năng nhảy dây bền, tâng cầu tối
đa của cá nhân học sinh…
3.6. Tiến hành kiểm tra đánh giá và tổ chức thi đấu

Căn cứ vào Chuẩn kiến thức kĩ năng và bảng đánh giá tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể để giáo viên tiến hành kiểm tra với mục tiêu.
12


Thu thập kết quả phản hồi, kiểm nghiệm chất lượng qua các giai đoạn
luyện tập của học sinh. Qua đó giúp giáo viên có những định hướng giúp đỡ học
sinh luyện tập tốt hơn.
Giúp học sinh thấy được kết quả rèn luyện của mình để có phương pháp
luyện tập cho phù hợp.
Phân môn chạy bền theo Chuẩn kiến thức kĩ năng được tính bằng khoảng
6 tiết/lớp và được phân phối chương trình lồng ghép vào 22 tiết học kể cả tiết
kiểm tra. Như vậy theo phân phối chương trình thì cứ khoảng gần 1,5 tuần có 01
nội dung lồng ghép chạy bền ở các tiết học. Trên cơ sở đó và tình hình thực tế
học sinh Trường THCS Thị trấn tôi đã thực hiện phân loại học sinh và tổ chức
kiểm tra lồng ghép - “thi đấu” cứ mỗi học kì 3 lần tương đương khoảng 6 tuần 1
lần. Qua “thi đấu” tại các lớp tôi đã phân loại được các nhóm học sinh và đánh
giá được mức độ phát triển thể lực về sức bền của học sinh. Từ đó lựa chọn
được các học sinh có thành tích tốt để tham gia thi đấu tại các giải thi điền kinh
cấp trường, cấp huyện và cấp tỉnh. Đối với những học sinh có năng lực phát
triển về thể dục thể thao tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường quan
tâm đầu tư cơ sở vật chất tạo điều kiện cho các em luyện tập, động viên khuyến
khích các em cả vật chất và tinh thần giúp các em có thêm động lực, tinh thần tự
giác rèn luyện để phát triển năng lực của mình.
Bên cạnh đó khi kiểm tra đánh giá các nội dung tôi tập trung quan sát,
theo dõi từng học sinh để thấy được sự tiến bộ của học sinh về cả kĩ thuật, chiến
thuật, năng lực của học sinh để từ đó có những nhận xét, ghi nhận sự tiến bộ của
học sinh dù là nhỏ nhất và động viên khích lệ các em kịp thời.
4. Kết quả đạt được
Tôi đã nghiên cứu và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này và nhận thấy

chất lượng của phân môn chạy bền có sự chuyển biến đáng kể. Chính vì vậy đến
năm học 2017-2018 tôi đã áp dụng kinh nghiệm này vào giảng dạy trên phạm vi
toàn trường và kết quả đánh giá học sinh được thống kê bởi bảng dưới đây:
Lớp

Số học sinh

6A

Học sinh: Đạt

Học sinh: Chưa đạt

SL

%

SL

%

29

27

93,1%

2

6,9%


7A

21

20

95,2%

1

4,8%

7B

24

22

91,7%

2

8,3%

8A

24

21


87.5%

3

12,5%

8B

26

25

96,2%

1

3,8%

9A

36

33

91,7%

3

8,3%


Tổng cộng

160

148

92,5%

12

7,5%

13


* Qua kết quả học sinh tập luyện môn chạy bền của học sinh ở tất cả
các khối lớp thống kê ở trên tôi nhận thấy:
- Kết quả được nâng lên rõ rệt so với kết quả của năm học trước. Tình
trạng học sinh có tâm lí sợ chạy bền ở các khối lớp đã giảm đi rất nhiều. Thành
tích tập luyện đại trà được nâng cao, tỷ lệ học sinh rèn luyện thường xuyên, sự
hứng thú tập chạy bền trong giờ thể dục và tự tập ngoài giờ được đánh giá tốt.
- Thông qua tập luyện và đánh giá sức bền cho học sinh toàn trường. Áp
dụng phương pháp đánh giá định hướng phát triển năng lực .Tôi đã sử dụng các
kĩ thuật, chiến thuật, các phương pháp dạy học phát huy tích tích cực, tự giác
trong chạy bền cho học sinh các lớp và đánh giá kết quả như bảng trên. Tôi thấy
trong quá trình áp dụng phương pháp tập luyện cần tiến hành từ thấp đến cao, từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp nhằm củng cố kiến thức cho học sinh từ đó
các em có thể vận dụng vào trong thực tiễn hằng ngày. Đặc biệt là các em tự tập
ở trường, ở nhà một cách thường xuyên.

- Lúc đầu tập luyên vẫn còn một vài em chưa thực sự tập luyện một cách
tích cực và tự giác, sau khi các em đã hiểu biết sự rèn luyện sức bền có tác dụng
đến sức khoẻ để học tập các môn văn hoá và tập luyện các môn thể thao khác
được tốt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng việc thực hiện phát huy tính tích cực của
học sinh trong chạy bền nhằm nâng cao sức bền cho học sinh là có ý nghĩa to
lớn, cụ thể:
- Qua Hội thi học sinh giỏi TDTT năm học 2017-2018 cấp huyện. Đội
tuyển điền kinh đã đạt được thành tích.
TT

Họ và tên

Lớp

Nội dung thi đấu

Đạt giải

1

Hà Ngọc Chi

9A

Chạy 100 Nữ

Nhất

2


Ngân Ngọc Ánh

8B

Nhảy xa Nữ

Nhất

Cao Thị Thanh Điệp

9A

Hà Thị Huệ

9A

Hà Ngọc Chi

9A

Chạy tiếp sức 4x100m Nữ

Nhất

Ngân Ngọc Ánh

8B

4


Cao Thị Thanh Điệp

9A

Chạy 800m Nữ

Nhì

5

Cao Thị Hoài Phương

8B

Chạy 100m Nữ

Nhì

6

Hà Ngọc Chi

9A

Nhảy xa Nữ

Nhì

7


Hà Văn Đại

8B

Chạy 1500m Nam

Ba

8

Ngân Văn Ngọc

8A

Nhảy cao nam

Ba

3

14


9

Ngân Ngọc Ánh

8B

Nhảy cao Nữ


Ba

10 Cao Thị Hoài Phương

8B

Chạy 800m Nữ

Ba

11

8B

Chạy 100m Nam

KK

12 Trương Việt Long

9A

Chạy 1500m Nam

KK

13 Lương Thị Nguyệt

9A


Nhảy cao Nữ

KK

14 Nguyễn Trần Hiếu

9A

Nhảy cao nam

KK

15 Trương Việt Long

9A

Nhảy xa Nam

KK

16 Phạm Đình Lâm

8B

Nhảy xa Nam

KK

Phạm Đình Lâm


- Kết quả tại hội thi học sinh giỏi TDTT năm học 2017-2018 của Đoàn
vận động viên Trường THCS thị trấn là: Nhất toàn đoàn.
- Số lượng học sinh được chọn vào đội tuyển tham gia thi đấu tại hội thi
học sinh giỏi TDTT cấp tỉnh năm học 2017 – 2018 là 2 học sinh.
TT

Họ Và Tên

Lớp

Nội dung thi

1

Hà Ngọc Chi

9A

Chạy 100m, Nhảy xa, Chạy tiếp
sức 4x100m

2

Ngân Ngọc Ánh

8B

Nhảy xa, Nhảy cao, Chạy tiếp
sức 4x100m


Ghi chú

Trên đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy và
huấn luyện của bản thân và cũng đã có được những kết quả khả quan. Tuy nhiên
vẫn chưa hoàn chỉnh vì vậy tôi rất mong muốn được sự góp ý chân thành của
những đồng nghiệp, các bạn yêu thích thể thao để bộ môn điền kinh nói chung
và nội dung chạy bền nói riên ngày càng đạt được những thành tích cao hơn
trong các kì Hội khỏe phù đổng các cấp.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Ý nghĩa của SKKN đối với công tác giảng dạy
- Giúp cho giáo viên đổi mới được phương pháp giảng dạy nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học và chất lượng giáo
dục toàn diện, giúp nhà trường ngày càng phát triển.
- Thành tích tập luyện của học sinh được nâng lên, khắc phục được sức ì
trong vận động của học sinh, các em không còn thấy sự đơn điệu, nhàm chán khi
học chạy bền hoặc sợ khi học chạy bền, kết quả kiểm tra đánh giá tăng rõ rệt,
nhiều em còn tích cực tự tập luyện thường xuyên để nâng cao sức khỏe đạt được
yêu cầu của cấp học.
15


- Học sinh rèn luyện được sức bền, đây là tiền đề để các em có thể tham
gia học và luyện tập các phân môn khác được tốt hơn như: Nhảy cao, nhảy xa,
đá bóng, đá cầu, kéo co, đẩy gậy, cầu lông…
2. Những bài học kinh nghiệm
Để giảng dạy tốt môn điền kinh nói chung và phần chạy bền nói riêng
theo tôi cần đảm bảo được một số bài học sau:
- Người làm công tác giáo dục nói chung trước hết phải thật sự có cái tâm
trong sáng của người làm thầy, phải thực sự yêu nghề mến trẻ, hết lòng “vì học

sinh thân yêu”. Luôn có tinh thần tự học, tự rèn, nâng cao trình độ lí luận chính
trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải quan tâm đến công tác dạy học, đổi mới
phương pháp dạy học và phương pháp giáo dục phù hợp với tình hình thực tiễn
của địa phương.
- Để các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả, cần có sự chỉ đạo
thống nhất từ Ban giám hiệu nhà trường với giáo viên chủ nhiệm lớp, giáo viên
bộ môn.
- Khi vận dụng các phương pháp trên cần chú ý đến đối tượng và mục tiêu
giáo dục. Mỗi giáo viên cần khéo léo, linh hoạt, không áp dụng một cách máy
móc, cứng nhắc, đơn điệu để đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất. Có những
phương pháp giảng dạy chưa cho hiệu quả tức thời. Cho nên, khi vận dụng giáo
viên không nên nóng vội, cần có sự kiên trì và tâm huyết với công tác giảng dạy
của mình.
- Trong phạm vi nội dung sáng kiến này giáo viên cần phải phân loại
nhóm thể lực học sinh ngay từ ngày đầu năm học để có phương pháp tác động
và theo dõi sự tiến bộ riêng.
3. Những đề xuất kiến nghị
- Đối với các bậc cha mẹ học sinh luôn quan tâm đến việc học tập của các
con em mình. Mặt khác cũng cần dành cho các em một khoảng thời gian vui
chơi, tập luyện thể dục thể thao giúp các em phát triển được những năng khiếu
bản thân.
- Đối với nhà trường cần tham mưu cho cấp trên xây dựng nhà tập đa
năng, bổ sung trang thiết bị dạy học, tạo điều kiện cho các em có được sân chơi
rộng rãi, an toàn. Thường xuyên tổ chức các phong trào TDTT liên trường để
các em có điều kiện tham gia thi đấu, cọ sát với các bạn trường khác và xem đây
là một hoạt động thường xuyên của nhà trường.
- Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo: Tổ chức hội thi học sinh giỏi TDTT
hàng năm phải có nhiều môn thi đấu như: Điền kinh; Bóng đá; Thể dục Aerobic;
Cầu lông; Cờ vua; Đá cầu…để các em được thi đấu nâng cao thành tích và góp
phần phát triển toàn diện.

- Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo: Hàng năm mở lớp tập huấn, bồi dưỡng
cho giáo viên dạy thể dục nhằm nâng cao trình độ và kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ.
16


- Có chế độ bồi dưỡng ngoài giờ, hoạt động ngoại khoá để giáo viên
luyện tập cho học sinh được tốt hơn.

XÁC NHẬN CỦA

Quan Hóa, ngày 16 tháng 4 năm 2018

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Văn Cường

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên Thể dục 6 - 7 - 8 - 9 - NXB Giáo dục.
2. Giáo trình lí luận và phương pháp giảng dạy TDTT - NXB Giáo dục
1998.
3. Đổi mới phương pháp dạy học trường THCS - Viện KHGD 1999.
4. Phương pháp dạy học môn Thể dục trong trường phổ thông - NXB Giáo
dục.
5. Trò chơi vận động - NXB TDTT 1981.
6. Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 2004 - 2007.

7. Thể dục tuổi thơ, giúp em vui học Thể dục.
8. Các sách báo, tư liệu Internet liên quan đến đề tài.

17



×