SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
MỤC LỤC
TRUNG TÂM GDNN-GDTX NGỌC LẶC
Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.
Lý do chọn đề tài:……………………………………………………… 1
Mục đích nghiên cứu:…………………………………………………...2
Đối tượng nghiên cứu:…………………………………………………..2
Phạm vi nghiên cứu:…………………………………………………….3
Phương pháp nghiên cứu:……………………………………………….3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHẦN II: NỘI DUNG
I.
Cơ sở lý luận:
……………………………………………………………3
II.
Thực trạng vấn đề:
………………………………………………………4
III. Các giải pháp thực hiện:
………………………………………………...5
PHƯƠNG
PHÁP SỬ DỤNG HỆ THỐNG NIÊN BIỂU
1. Cách thiết kế niên biểu:………………………………………………….5
2. TRONG
Cách sử dụng
niênHỌC
biểu trong
dạy LỊCH
học:………………………...……….
DẠY
PHẦN
SỬ VIỆT NAM LỚP 11 6
2.1. Đối với giáo viên:……………………………………………………...
6
Ở TRƯỜNG THPT
2.2. Đối với học sinh:………………………………………………………10
2.3. Các biện pháp sử dụng tốt niên biểu:…………………….……………10
3. Phạm vi, trường hợp sử dụng niên biểu trong dạy học ………………... 11
4. Yêu cầu và nguyên tắc khi sử dụng niên biểu………………………… 13
IV.
Thực nghiệm sư phạm……………………………………………. . 14
Người thực hiện: Hàn Thị Huyền
PHẦN III: KẾT LUẬN
Chức vụ: Giáo viên
1. Kết luận…………………………………………………………………15
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử
2. Kiến nghị………………………………………………………………..16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC
THANH
HÓA
2018
PHẦN I:
MỞNĂM
ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong dạy học nói chung và dạy học môn lịch sử nói riêng, việc sử dụng
đồ dùng trực quan rất quan trọng. Vấn đề đặt ra là việc thiết kế và sử dụng các
đồ dùng trực quan như thế nào để phát huy tính tích cực, trí thông minh sáng tạo
của học sinh? Vì vậy, giáo viên không bao giờ thỏa mãn với việc sử dụng hệ
thống kênh hình trong sách giáo khoa mà phải luôn sưu tầm, thiết kế và bổ sung
thêm nhiều loại đồ dùng trực quan khác.
Trong hệ thống các đồ dùng trực quan thì hệ thống niên biểu có ý nghĩa
quan trọng. Đây là một trong những phương tiện dạy học tạo được hứng thú học
tập, khắc sâu được kiến thức, phát triển được khả năng tư duy sáng tạo của học
sinh. Hơn nữa, niên biểu lại rất dễ thiết kế, dễ sử dụng. Giáo viên và học sinh có
thể tự tạo được mà không phải cầu kỳ, tốn kém hay mất quá nhiều thời gian.
Thực tế ở các trường Trung học phổ thông hiện nay, nhất là ở ngành học
Giáo dục thường xuyên, thì việc sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học bộ
môn lịch sử chưa nhiều. Đa số giáo viên chỉ sử dụng các đồ dùng trực quan như
bản đồ, lược đồ, sơ đồ, tranh ảnh… có sẵn. Tuy nhiên, cũng có nơi giáo viên có
sử dụng hệ thống niên biểu nhưng chưa khoa học, chưa đúng phương pháp.
Cách thiết kế và hướng dẫn học sinh hoạt động còn nhiều thiếu sót. Có tình
trạng này là do giáo viên chưa nắm vững cơ sở lý luận, do điều kiện khách quan
và trình độ còn hạn chế của nhiều giáo viên.
Qua thực tiễn nhiều năm giảng dạy ở Trung tâm GDNN-GDTX Ngọc
Lặc, tôi nhận thấy: phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu đã có tác động tích
cực đến quá trình học tập và nhận thức của học sinh. Vì vậy, để góp phần đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác
của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả bài học và thực hiện tốt việc dạy học
lịch sử theo hướng: “Lấy học sinh làm trung tâm”, giáo viên bên cạnh việc sử
dụng tốt các biện pháp khác cần thiết phải sử dụng niên biểu.
Từ những lý do trên, tôi xin được chia sẻ kinh nghiệm của mình với các
đồng nghiệp thông qua đề tài: “Phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu
trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường Trung học phổ thông”.
(Chương trình cơ bản)
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
2.1. Về mặt lý luận:
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, tự học của học sinh.
- Giúp bản thân nâng cao hơn trình độ, năng lực chuyên môn để thực hiện tốt
nhiệm vụ giảng dạy.
2.2. Về mặt thực tiễn:
- Đề tài nghiên cứu nhằm chia sẻ kinh nghiệm và góp phần bổ sung thêm
nguồn tài liệu của bản thân với các đồng nghiệp và học sinh trong quá trình dạy
- học bộ môn lịch sử ở trường phổ thông.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Là học sinh lớp 11 của Trung tâm GDNN- GDTX Ngọc Lặc
2
2
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu được thực nghiệm ở hai lớp 11: là Lớp 11 C2 và
Lớp 11 C3 trong học kỳ II, năm học 2017-2018. Trong đó:
+ Lớp đối chứng : là Lớp 11 C2: sử dụng các phương pháp dạy học truyền
thống kết hợp với sử dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh và hệ thống câu hỏi phát
vấn.
+Lớp thực nghiệm: là Lớp 11 C3: sử dụng trong giảng dạy hệ thống niên
biểu và được áp dụng trong các tiết dạy: từ dạy bài truyền thụ tri thức mới; bài
luyện tập, củng cố; bài ôn tập, tổng kết và các bài kiểm tra, đánh giá năng lực
học sinh.
5.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu lý luận: dựa trên Phương pháp Lịch sử và Phương pháp logic
- Đọc, phân tích các tài liệu về lý luận dạy học, các tài liệu về phương pháp
dạy học bộ môn.
2. Điều tra cơ bản:
- Tiến hành quan sát, thông qua các tiết thao giảng, dự giờ của đồng nghiệp
để trao đổi, rút kinh nghiệm.
- Điều tra phỏng vấn giáo viên và học sinh về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút
ra những kết luận cơ bản về thực trạng sử dụng hệ thống niên biểu ở đơn vị.
3. Thực nghiệm sư phạm:
-Sử dụng hệ thống niên biểu và các phương pháp dạy học khác cho lớp thực
nghiệm để kiểm nghiệm các kết quả trên.
PHẦN II: NỘI DUNG
I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Niên biểu là đồ dùng trực quan thuộc nhóm đồ dùng trực quan quy ước.
Theo Từ điển thuật ngữ Lịch sử phổ thông, thì: “niên biểu là bảng ghi ngày,
tháng, năm của những sự kiện lịch sử trong một thời kỳ nào đó, về một nhân vật,
một phong trào nào đó”. [7; 271] Như vậy, niên biểu là bảng hệ thống hóa các
sự kiện lịch sử quan trọng, đồng thời nêu lên mối quan hệ giữa các sự kiện cơ
bản của một nước hay nhiều nước trong một thời kỳ.
Trong dạy học lịch sử, có thể sử dụng các loại niên biểu: tổng hợp, chuyên
đề, so sánh. Tùy theo tính chất, nội dung của bài học mà ta sử dụng loại niên
biểu này hay niên biểu khác
- Niên biểu tổng hợp: là bảng liệt kê những sự kiện lớn xảy ra trong một thời
gian dài.
- Niên biểu chuyên đề đi sâu trình bày nội dung một vấn đề quan trọng, nổi bật
nào đấy của một thời kỳ lịch sử nhất định. Nhờ đó mà học sinh hiểu được bản
chất sự kiện một cách toàn diện, đầy đủ.
- Niên biểu so sánh dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện lịch sử xảy ra cùng
một lúc trong lịch sử nhằm làm nổi bật bản chất, đặc trưng của sự kiện ấy, hoặc
để rút ra một kết luận khái quát có tính nguyên lý. [16]
3
3
Có thể thấy, niên biểu là một trong những phương tiện để giáo viên tổ
chức quá trình nhận thức nên có tác động rất lớn đến nội dụng bài dạy. Mặt
khác, nó cũng là phương tiện giúp học sinh tiếp cận tri thức một cách chủ động,
sáng tạo và thích thú. Đây là một nguồn tri thức quan trọng, giúp cho quá trình
hoạt động tự nhận thức, rèn luyện kỹ năng và các năng lực cho học sinh. Cụ thể:
+ Niên biểu không chỉ là phương tiện để cụ thể hóa sự kiện mà còn là cơ
sở để hinhg thành khái niệm cho học sinh.
+ Thông qua việc quan sát và trình bày niên biểu, giúp học sinh dễ hiểu,
nhớ kỹ và hiểu sâu những kiến thức lịch sử. Đồng thời, củng cố và hệ thống hóa
kiến thức đã học.
+ Niên biểu còn giúp phát triển ở học sinh khả năng quan sát, rèn luyện
các thao tác tư duy: so sánh, khái quát hóa, tổng hợp hóa, v.v…
+ Ý nghĩa giáo dục, tư tưởng, tình cảm của niên biểu cũng rất lớn. Từ chỗ
nhớ kỹ, hiểu sâu những kiến thức lịch sử, học sinh sẽ có hứng thú học tập, có
niềm say mê và yêu thích bộ môn nhiều hơn.
II.
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
Trước yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học, đồ dùng trực quan
nói chung và niên biểu nói riêng đã được đưa vào sử dụng trong dạy học ở các
trường trung học phổ thông. Song việc sử dụng phương pháp này còn mang tính
hình thức nên chưa mang lại hiệu quả cao. Theo kết quả nghiên cứu, tìm hiểu về
tình hình sử dụng hệ thống niên biểu hiện nay ở các trường trung học phổ thông
trên địa bàn huyện Ngọc Lặc nói chung và ở Trung tâm GDNN-GDTX Ngọc
Lặc nói riêng, tôi nhận thấy rằng: giáo viên chủ yếu chỉ sử dụng các đồ dùng
trực quan khác như bản đồ, lược đồ, sơ đồ, tranh ảnh…Việc sử dụng niên biểu
còn rất hạn chế. Mặt khác, giáo viên có sử dụng nhưng chưa nhiều, chủ yếu là sử
dụng các niên biểu có sẵn trong Sách giáo viên, Sách bài tập…mà ít sưu tầm,
thiết kế thêm cho phù hợp với trình độ học sinh. Bên cạnh đó, phạm vi sử dụng
niên biểu của giáo viên chủ yếu chỉ dùng trong bài dạy truyền thụ tri thức mới,
hoặc chỉ để ra bài tập về nhà cho học sinh mà chưa đa dạng và sử dụng rộng rãi
trong các hoạt động dạy học như kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố kiến
thức, ôn tập tổng kết và kiểm tra đánh giá học sinh.
Có hạn chế trên là do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan:
- Về phía giáo viên: nhiều giáo viên còn tâm lý “ngại”, chưa đầu tư đúng
mức để thiết kế các dạng câu hỏi, bài tập nhận thức cho học sinh dưới dạng niên
biểu. Mặt khác, việc sử dụng đồ dùng trực quan này cũng chưa đúng cách và
giáo viên còn bị chi phối bởi thời gian, thời lượng phân bổ của tiết dạy.
- Về phía học sinh: hầu hết học sinh của Trung tâm đều là con em các dân tộc
thiểu số, ở miền núi thuộc vùng sâu, vùng xa, có hoàn cảnh gia đình khó khăn
cho nên trình độ, khả năng nhận thức của các em còn hạn chế. Hơn nữa, năng
lực đầu vào cấp học của Trung tâm GDNN- GDTX Ngọc Lặc cũng rất thấp, bởi
sau khi các em không đủ điểm trúng tuyển vào các trường trung học phổ thông
trong huyện thì mới vào học tại Trung tâm GDTX.
4
4
Việc sử dụng niên biểu trong dạy học lịch sử không phải là một phương
pháp mới. Vấn đề này cũng đã được đề cập đến trong nhiều bài viết trên các
sách, báo, tạp chí chuyên ngành. Và cũng có nhiều, công trình nghiên cứu khoa
học, đề tài sáng kiến kinh nghiệm của các đồng nghiệp. Tuy nhiên, các đề tài,
công trình nghiên cứu đó chỉ mang tính tổng quát, nêu cách phân loại niên biểu
mà không hướng dẫn một cách chi tiết, cụ thể về phương pháp sử dụng hệ thống
niên biểu. Mặt khác, các đề tài đó chủ yếu là nghiên cứu hệ thống niên biểu
trong dạy học lịch sử ở lớp 10 hoặc lớp 12 mà chưa thấy đi sâu, nghiên cứu, tìm
hiểu về phương pháp sử dụng niên biểu trong dạy học bộ môn ở lớp 11.
Trong những năm gần đây, trong các đề thi kiểm tra, đánh giá học sinh
cũng thường có các câu hỏi, bài tập ra dưới dạng lập, hoàn thành bảng biểu về
các sự kiện lịch sử. Đặc biệt, gần đây nhất là trong đề thi học sinh giỏi lớp 11
môn Lịch sử năm học 2017-2018 do Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hoá tổ chức
có câu hỏi, bài tập bảng biểu (chiếm 1/3 tổng số điểm). Trong khi đó, Sách giáo
khoa, Sách giáo viên và các tài liệu tham khảo môn Lịch sử mới chỉ dừng lại ở
việc định hướng trình bày nội dung nên chưa hướng dẫn học sinh thực hành các
kỹ năng, kiến thức cơ bản trong việc củng cố và hệ thống hóa kiến thức .
Từ thực trạng trên, qua nhiều năm giảng dạy bộ môn Lịch sử cũng như
tham gia vào công tác đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi và ôn thi tốt nghiệp Trung
học phổ thông quốc gia, tôi mạnh dạn ghi lại sáng kiến nhỏ mà tôi đã thực hiện
trong quá trình giảng dạy nhằm nâng cao tính tích cực, chủ động của học sinh
qua đề tài: “Phương pháp sử dụng hệ thống niên biểu trong dạy học phần
Lịch sử Việt Nam lớp 11 ở trường THPT”.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Cách xây dựng (Thiết kế) niên biểu:
Để lập niên biểu, giáo viên và học sinh cần kẻ các cột dọc và cột ngang. Số
lượng cột và cách ghi theo từng cột phụ thuộc vào nội dung của vấn đề hay sự
kiện lịch sử. Việc thiết kế niên biểu được thực hiện theo các bước sau đây:
- Đọc tên bảng để biết được nội dung chính cần phải điền vào bảng
- Xác định loại niên biểu để định các hàng, cột
- Xác định các thành phần kiến thức để kẻ các hàng, cột
- Hoàn thành các khung ô theo dự kiến
- Đặt (xếp) các thành phần vào đúng các khung ô dự kiến
- Kiểm tra lại toàn bộ niên biểu
Ví dụ: Lập bảng so sánh về bối cảnh lịch sử, mục tiêu đấu tranh, tầng lớp lãnh
đạo, lực lượng tham gia, phong trào tiêu biểu, kết quả và ý nghĩa của Phong trào
Cần Vương với Phong trào yêu nước ở đầu thế kỷ XX?
Trước hết, đọc câu hỏi để biết được tên bảng cần lập và các nội dung
chính cần phải điền vào bảng. Từ câu hỏi, ta biết được yêu cầu của đề bài là lập
bảng so sánh giữa hai phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở hai thời kỳ khác
nhau là ở cuối thế kỷ XIX và ở đầu thế kỷ XX. Như vậy, ta định được có hai cột
phải so sánh là hai phong trào. Với các tiêu chí để so sánh, ta thấy có tất cả 06
tiêu chí. Từ đó, ta xác định được số lượng các hàng, cột. Tiếp theo, ta hoàn thành
5
5
các khung ô dự kiến. Sau đó đặt xếp các thành phần vào trong ô. Cuối cùng ta
kiểm tra lại niên biểu. Cụ thể, niên biểu sau khi thiết kế như sau:
Tiêu chí so sánh
Phong trào Cần Vương
Phong trào yêu nước
đầu thế kỷ XX
Bối cảnh lịch sử
Mục tiêu đấu tranh
Tầng lớp lãnh đạo
Lực lượng tham gia
Phong trào tiêu biểu
Kết quả và ý nghĩa
- Đối với bài truyền thụ tri thức mới, giáo viên có thể chuẩn bị trước bảng biểu ở
nhà (đối với niên biểu cần nhiều sự kiện).
- Đối với niên biểu dùng để ra bài tập về nhà cho học sinh, giáo viên in vào
trong phiếu cuối giờ phát cho học sinh.
- Với những bài ôn tập, tổng kết thì yêu cầu học sinh chuẩn bị trước ở nhà.
*Những yêu cầu khi thiết kế niên biểu:
+ Cần vẽ to, rõ ràng, nhanh chóng
+ Phải đảm bảo được tính chuẩn xác, tính khoa học và tính sư phạm
+ Đảm bảo được yêu cầu thẩm mỹ
+ Phù hợp với yêu cầu của chương trình và nội dung sách giáo khoa
+ Tiết kiệm được thời gian của tiết học
Việc xây dựng niên biểu thống kê, tổng hợp các sự kiện lịch sử tiêu biểu
thì yêu cầu phải chính xác, ngôn ngữ rõ ràng. Các sự kiện hoặc nội dung lịch sử
nên chọn lọc kỹ để niên biểu không rườm rà. Nếu thiết kế ở nhà phải công phu,
chính xác tuyệt đối. Nếu thiết kế trên lớp cần thực hiện nhanh, một cách đơn
giản tương đối chính xác về không gian để gây biểu tượng cho học sinh.
Tóm lại, muốn vẽ nhanh, đúng và đẹp ngay tại lớp, giáo viên có thể yêu
cầu học sinh chuẩn bị trước niên biểu ở nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh
vào tiết ôn tập, tổng kết. Còn trong tiến trình của giờ học, giáo viên hướng dẫn
học sinh tập trung hoàn thiện niên biểu.
2. Cách sử dụng niên biểu
2.1. Đối với giáo viên:
- Đối với niên biểu được sử dụng để trình bày bài mới thì giáo viên phải có
sự chuẩn bị trước ở nhà để khi lên lớp có thể vẽ được nhanh, đẹp và chính xác.
Đối với loại bài này, giáo viên chỉ nên lựa chọn những niên biểu đơn giản, trình
bày ngắn gọn, tránh làm mất nhiều thời gian.
Ví dụ 1: giáo viên có thể trình bày cho học sinh các niên biểu so sánh khi cần so
sánh: so sánh thái độ và hành động của nhân dân và triều đình Huế trước cuộc
xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp (Bài 19; Bài 20), qua bảng sau:
Chủ thể so sánh
Thái độ
Hành động
Nhân dân
Triều đình
6
6
Ví dụ 2: Khi dạy mục II của Bài 24: “Việt Nam trong những năm chiến tranh
thế giới thứ nhất “(1914-1918), giáo viên đưa ra bảng niên biểu đã chuẩn bị trên
giấy A0, yêu cầu học sinh cả lớp chia thành 4 nhóm, hai nhóm tìm hiểu mục 1 và
2 trong SGK, hai nhóm tìm hiểu mục 3,4,5 và lập bảng hệ thống kiến thức theo
mẫu sau:
Phong trào
Địa bàn
Hình thức
Thành phần
Kết quả
đấu tranh
chủ yếu
1.Hoạt động của
Việt Nam Quang
phục hội
2.KN của Thái
Phiên và Trần Cao
Vân (1916)
3.KN của binh lính
Thái Nguyên 1917
4.PT Hội kín Nam
Kì
5.KN vũ trang của
đồng bào dân tộc
thiểu số
Dọc biên
giới ViệtTrung
Trung kì
Vũ trang
Công nhân viên
chức hỏa xa
Thất bại
Vũ trang
Nhân dân,
binh lính
Thất bại
Thái Nguyên Vũ trang
Binh lính
Thất bại
Nam Kì
Nông dân
Thất bại
Vũ trang
Tây Bắc,
Các dân tộc
Thất bại
Đông Bắc,
Vũ trang
thiểu số
Tây Nguyên,
Nam Bộ
Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào bảng thống kê và nội dung SGK để trả lời
các câu hỏi:
+ Em có nhận xét gì về địa bàn hoạt động của các phong trào đấu tranh
trong thời kỳ này?
+ Thành phần tham gia các phong trào đấu tranh nói lên điều gì? Ý nghĩa
của việc binh lính tham gia khởi nghĩa?
+ Hình thức đấu tranh chủ yếu là gì?
+ Kết cục phong trào ra sao?
Sau đó, giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy nhận xét về các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta trong thời kỳ này? Sự thất bại của các phong trào đó nói lên
điều gì?
- Đối với loại niên biểu dùng để luyện tập, củng cố kiến thức cho học
sinh, giáo viên làm sẵn mẫu vào phiếu hoặc thiết kế sẵn trên giấy A 0 và phát cho
học sinh vào cuối buổi học để kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh.
Ví dụ 1: Sau khi học xong Bài 20: “Chiến sự lan rộng ra toàn quốc.
Cuộc kháng chiến của nhân dân từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu
hàng”. Giáo viên đưa bài tập bảng biểu ra và nêu yêu cầu cho học sinh:
Em hãy hoàn thành niên biểu sau?
7
7
Thời gian
Sự kiện lịch sử
1………………… Quân Pháp do Ri-vi-e cầm đầu, tiến vào Hà Nội giở trò
………………… khiêu khích
2………………
Ri-vi-e gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi nộp thành Hà
Nội
3……………….. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai
4………………
Vua Tự Đức qua đời.
5……………….. Bản Hiệp ước Hác măng được ký kết
6………………… Bản Hiệp ước Pa tơ nốt được ký kết
Ví dụ 2: Lập bảng so sánh cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam trước và trong cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp? (Bài 22: Xã hội Việt Nam
trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp)
Nội dung
Trước cuộc khai thác
Trong cuộc khai thác
Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu xã hội
- Giáo viên cũng có thể sử dụng niên biểu để ra bài tập về nhà cho học sinh.
Đây là cách tốt nhất để hệ thống hóa lại kiến thức đã học và rèn luyện kỹ năng
thực hành cho học sinh.
Ví dụ: Khi học xong Bài 21: “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân
Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX”, Giáo viên nêu câu hỏi bài tập cho
học sinh:
Câu hỏi: Lập bảng hệ thống kiến thức về các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong
Phong trào Cần Vương chống Pháp theo mẫu sau?
T
Tên cuộc khởi nghĩa,
Hoạt động nổi bật
Ý nghĩa và bài
T
thời gian,
học kinh nghiệm
Người lãnh đạo
1
2
3
- Với các bài ôn tập, tổng kết, do số lượng niên biểu nhiều. Do vậy, giáo
viên có thể yêu cầu học sinh chuản bị trước ở nhà theo mẫu niên biểu mà giáo
viên đã chuẩn bị sẵn. Còn trong tiến trình buổi học, giáo viên hướng dẫn học
sinh hoàn thiện niên biểu.
Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thiện niên biểu tổng hợp về đặc điểm
của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến hết Chiến
tranh thế giới thứ nhất theo mẫu sau:
8
8
Phong trào
Lãnh
đạo
Thành
phần
tham gia
Hình thức
đấu tranh
Quy mô Khuynh
Kết
hướng phát quả
triển
Từ
1858cuối thế kỷ
XIX
Đầu thế kỷ
XX
Để làm bài tập nhận thức với niên biểu này, trước hết giáo viên đặt câu
hỏi: “Bài tập này yêu cầu chúng ta làm gì?”. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên
hướng dẫn học sinh đọc tên niên biểu và biết được nội dung chính của niên biểu
đó là thống kê các phong trào đấu tranh của nhân dân ta qua hai thời kỳ. Tiếp
theo, giáo viên gợi nhớ cho học sinh suy nghĩ, nhớ lại kiến thức đã học bằng
những câu hỏi và gợi ý cho học sinh các sự kiện lịch nằm ở bài học nào của sách
giáo khoa? Nêu lên yêu cầu của mỗi hàng, cột bằng hệ thống câu hỏi. Như vậy,
với sự gợi ý của giáo viên, học sinh lần lượt nhớ lại kiến thức, vận dụng và chọn
lọc kiến thức để hoàn thành bài tập.
- Sau khi nêu lên yêu cầu đối với học sinh, giáo viên gọi một học sinh lên
bảng trình bày, điền các dữ liệu vào trong bảng, còn các học sinh khác làm vào
vở bài tập kết hợp theo dõi bài làm của bạn để nhận xét cho bạn. Trong khi học
sinh làm việc với niên biểu, giáo viên phải luôn theo dõi, kiểm tra sự thu nhận
của học sinh, giúp học sinh phân tích, nêu kết luận khái quát về sự kiện được
phản ánh.
Ví dụ: Khi dạy Bài 23: “Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu
thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất” (1914-1918), giáo viên sử dụng
niên biểu sau đây: niên biểu so sánh xu hướng cứu nước của Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh?
Nội dung
Phan Bội Châu
Phan Châu Trinh
I.Giống nhau -Mục đích cứu nước: làm cách mạng để cứu nước cứu dân,
giành độc lập cho dân tộc, thiết lập chế độ chính trị mới ở Việt
Nam
-Cả hai ông đều đi ra nước ngoài để tìm đường cứu nước, học
hỏi kinh nghiệm cách mạng các nước về làm cách mạng ở VN.
II.Khác nhau
Phương pháp Bạo động
Cải cách
Hình thức
Dựa vào Nhật
Dựa vào Pháp
PT tiêu biểu
-Lập Hội Duy Tân 1904
-Phong trào Đông Kinh nghĩa
-Tổ chức phong trào Đông
thục 1906
Du (1905)
-Cuộc vận động Duy Tân
-Lập tổ chức VN Quang
-PT chống thuế ở Trung Kì
phục hội 1912
1908
Mục đích của việc sử dụng niên biểu này vừa giúp học sinh thu nhận kiến
thức của bài mới, đồng thời củng cố được kiến thức đã học. Trên cơ sở so sánh
9
9
đó, học sinh rút ra được những điểm giống nhau và khác nhau trong con đường
cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
Như vậy, việc sử dụng niên biểu không chỉ minh họa cho lời giảng của
giáo viên mà còn là một nguồn thu nhận kiến thức quan trọng cho học sinh.
- Trong bài dạy truyền thụ tri thức mới, giáo viên chỉ nên sử dụng 1-2 niên
biểu. Còn trong bài ôn tập, tổng kết, giáo viên cần sử dụng nhiều loại niên biểu
để làm bài tập, câu hỏi cho học sinh. Trong khi xây dựng (thiết kế) và hoàn
thành niên biểu, giáo viên cần chú ý và nhắc nhở học sinh các mục trình bày
trong niên biểu phải rõ ràng, các sự kiện, nội dung lịch sử nên chọn lọc kỹ để
niên biểu không bị rườm rà.
Ví dụ: Lập bảng so sánh về các cuộc đấu tranh chống Pháp của Nhân dân ta ở
cuối thế kỷ XIX?
Tên cuộc KN
Thời
Người Địa bàn
Trận đánh
KQ-Nguyên
gian
lãnh
tiêu biểu
nhân thất bại
đạo
(sự kiến chính)
KN Bãi Sậy
KN Ba Đình
KN Hùng Lĩnh
KN Hương Khê
PT (KN Nông
dân Yên Thế)
Trong bảng trên thể hiện rất nhiều nội dung kiến thức của bài học. Do đó, học
sinh cần phải chọn lọc, lựa chọn hệ thống hóa và tổng hợp được kiến thức cần
thiết nhất để điền vào bảng.
2.2. Đối với học sinh:
- Khi giáo viên trình bày, học sinh phải tập trung chú ý nghe và quan sát để
trả lời được yêu cầu của giáo viên.
-Trong các tiết ôn tập, tổng kết, học sinh cần chuẩn bị trước niên biểu ở nhà
để đến lớp không làm mất thời gian và nâng cao được hiệu quả bài học.
-Yêu cầu tất cả học sinh phải có vở nháp, vở bài tập để làm và theo dõi bạn
trình bày trên bảng để nhận xét.
- Học sinh tự giác học tập, phát huy được tính tích cực, phải tự tìm tòi, sáng
tạo, biết phân tích, so sánh giữa các sự kiện.
2.3. Các biện pháp sử dụng tốt niên biểu:
- Khi sử dụng niên biểu giúp học sinh tìm được bản chất của sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Giáo viên cần phải hướng dẫn các em tập trung vào việc xác định
những đặc điểm về cơ cấu, sự biến đổi hay phát triển của sự vật, hiện tượng. Có
như vậy, niên biểu mới thực sự là nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh.
- Để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ở trường phổ thông, giáo viên
cần phải kết hợp phong phú và đồng bộ các phương pháp, biện pháp. Không có
phương pháp nào là độc nhất, là “vạn năng” mà phải tạo hiệu quả tổng hợp giữa
chúng. Việc sử dụng niên biểu cũng vậy, cần kết hợp với các phương pháp khác
10
10
như phương pháp trình bày, miêu tả, phương pháp nêu vấn đề…mới mang lại
hiệu quả tích cực.
Ví dụ: Khi dạy phần 2- mục III: Thực dân Pháp tấn công cửa biển Thuận
An. Hiệp ước 1883 và Hiệp ước 1884 của Bài 20: “Chiến sự lan rộng ra toàn
quốc. Cuộc kháng chiến của nhân dân từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn
đầu hàng”, sau khi cho học sinh tìm hiểu về hoàn cảnh ký kết và nội dung của
hai bản hiệp nước này giữa triều đình Huế với thực dân Pháp. Để học sinh ghi
nhớ được những sự kiện này và thấy được hậu quả của hai bản hiệp ước trên so
với các hiệp ước trước đó, giáo viên yêu cầu các em làm bài tập so sánh nội
dung Hiệp ước Hác măng và Hiệp ước Pa tơ nốt theo bảng sau:
Thời gian
Tên Hiệp ước
Nội dung chính
Hậu quả
ký kết
5/6/1862
Nhâm Tuất
15/3/1874
Giáp Tuất
25/8/1883
Hác măng
6/6/1884
Pa tơ nốt
-Việc sử dụng niên biểu là một bộ phận của toàn bộ hoạt động dạy học.
Do đó, phải kết hợp chặt chẽ với nhiều phương pháp khác, phải đảm bảo được
những yêu cầu về mặt sư phạm. Việc sử dụng niên biểu không nên chiếm quá
nhiều thời gian làm loãng trọng tâm của bài, làm mất sự tập trung chú ý của học
sinh vào nội dung bài giảng.
- Khi sử dụng niên biểu, giáo viên hướng dẫn học sinh cách trình bày, hệ
thống những kiến thức cơ bản nhất. Từ đó học sinh biết rút ra nhận xét để tìm
thấy được những mối quan hệ, liên hệ bản chất, đặc trưng của sự vật và hiện
tượng.
Tóm lại, thông qua việc hướng dẫn học sinh quan sát, trình bày bảng biểu
và trả lời câu hỏi của giáo viên mà hoạt độngn nhận thức của học sinh được
nâng cao, tư duy ngày càng phát triển.
3. Phạm vi, trường hợp sử dụng niên biểu trong dạy học
Trong quá trình dạy học lịch sử lớp 11, hệ thống niên biểu có phạm vi sử
dụng rất rộng:
- Thứ nhất, niên biểu được dùng để thiết kế thành các bài tập được sử dụng
trong tất cả các dạng bài học lịch sử. bao gồm:
+ Bài truyền thụ tri thức mới
+ Bài ôn tập, tổng kết
+ Bài ngoại khóa
+ Bài kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh
Giáo viên sử dụng niên biểu để thiết kế thành các bài tập nhận thức để rèn
luyện tư duy cho học sinh. Cụ thể như sau:
+ Đưa ra bài tập với các tiêu chí để học sinh thiết lập dạng niên biểu và hoàn
thành niên biểu
+ Đưa ra bài tập với niên biểu có sẵn để học sinh hoàn chỉnh nội dung
+ Đưa ra niên biểu khuyết thiếu để học sinh hoàn chỉnh nội dung
11
11
+ Đưa ra niên biểu có nội dung sai để học sinh chỉnh sửa, sắp xếp lại . [15]
-Thứ hai, niên biểu được sử dụng linh hoạt trong các bước của tiến trình
dạy học . Cụ thể, ðýợc dùng trong các trýờng hợp:
+ Kiểm tra bài cũ
Ví dụ: Giáo viên nêu câu hỏi kiểm tra bài cho học sinh như sau: Hãy điền sự
kiện vào thời gian cho sẵn sau đây cho phù hợp với cuộc kháng chiến của nhân
dân ta ở Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng?
Thời gian
Sự kiện lịch sử
1-Đầu11/1873
A……………………………………………………..
2-ngày 19//11/1873
B……………………………………………………..
3- ngày 20//11/1873
C……………………………………………………..
4- ngày 13//11/1873
D……………………………………………………..
5- ngày 21/12/1873
E……………………………………………………..
6- ngày 15/3/1874
F……………………………………………………..
(Khi dạy Bài 20: “Chiến sự lan rộng ra toàn quốc. Cuộc kháng chiến của nhân
dân từ năm 1873 đến năm 1884. Nhà Nguyễn đầu hàng”.)
+Tổ chức dạy học bài mới
Ví dụ: Khi dạy mục 2- Bài 22: “Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất của thực dân Pháp”, giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành
niên biểu thống kê về tình hình các giai cáp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam cuối
thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX :
Giai cấp, tầng lớp Nghề nghiệp
Thái độ đối với dân tộc
Địa chủ
phong kiến
Nông dân
Công nhân
Tư sản
Tiểu tư sản
+Củng cố, sơ kết bài học ở cuối giờ
Ví dụ: Sau khi dạy xong Bài 19: “Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống
Pháp xâm lược” (1858-1873), giáo viên đưa ra niên biểu đã chuẩn bị sẵn trên
bảng phụ hoặc trên giấy A0 hoặc phô tô trên giấy A4 phát cho học sinh làm theo
yêu cầu sau: “Em hãy đánh dấu X vào cột dọc phù hợp với cuộc kháng chiến
chống Pháp của nhân dân ta ở ba tỉnh miền Đông và Tây Nam Kì”?
Nội dung
Phan Thanh Giản giao tỉnh Vĩnh Long
cho Pháp
Ngọn cờ Bình Tây đại nguyên soái phất
lên ở miền này
12
Ba tỉnh
miền Đông
Ba tỉnh
miền Tây
X
X
12
Phan văn Trị dùng thơ văn cổ vũ phong
X
trào đấu tranh ở đây
Hai anh em Phan Tôn, Phan Liêm chỉ huy
X
nghĩa quân hoạt động mạnh trong hai
năm 1867-1868
+Ra bài tập về nhà
Ví dụ: sau khi học xong Bài 23: “Phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt nam
từ đầu thế kỷ XX đến chiến tranh thế giới thứ nhất ” (1914-1918), giáo viên
dùng niên biểu dưới đây để ra bài tập về nhà cho học sinh làm: Lập bảng biểu về
phong trào yêu nước ở đầu thế kỷ XX ?
Phong trào
Chủ trương
Biện pháp
Thành phần
đấu tranh
tham gia
Phong trào Đông Du
Đông Kinh nghĩa thục
Cuộc vận động Duy
Tân ở Trung Kỳ
Phong trào chống thuế
ở Trung Kỳ
- Thứ ba, có nhiều hình thức khác nhau để làm việc với niên biểu như: làm
việc cá nhân, làm việc theo tổ, nhóm và chung cho tập thể lớp.
4. Yêu cầu và nguyên tắc khi sử dụng niên biểu
Để sử dụng tốt niên biểu trong dạy học nói chung và dạy học phần Lịch
sử Việt Nam lớp 11 nói riêng, giáo viên phải lưu ý đến các yêu cầu và nguyên
tắc sau:
- Giáo viên cần có kỹ năng thiết kế, sử dụng niên biểu. Phải hiểu rõ nội dung,
ý nghĩa và hiệu quả của chúng để cung cấp cho học sinh.
- Việc xây dựng niên biểu đòi hỏi giáo viên và học sinh không chỉ có hiểu
biết đúng về kiến thức lịch sử mà còn đỏi hỏi cả trình độ nhất định.
- Phải chọn những niên biểu phù hợp với nội dung bài học và khả năng nhận
thức của học sinh. Giáo viên phải căn cứ vào nội dung kiến thức của từng bài để
lựa chọn niên biểu cho phù hợp. Điều quan trọng là phải chú ý đến hiệu quả sử
dụng của chúng đối với học sinh: học sinh làm được gì? Giáo viên giúp học sinh
nắm được kiến thức gì từ niên biểu?
- Giáo viên cần có sự định hướng cho học sinh. Trước khi quan sát, làm việc
với niên biểu, giáo viên bằng hệ thống câu hỏi giúp học sinh cần phải biết làm
những gì, nhận xét và hoàn thành ra sao?
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự làm việc với niên biểu, có nhiều gợi ý
hướng dẫn để học sinh tự thao tác, bổ sung và hoàn thiện nhằm chiếm lĩnh hoặc
củng cố tri thức. Giáo viên phải để học sinh tự làm, tự trình bày kết quả chứ
không được làm thay học sinh.
- Học sinh phải biết xác định rõ mục đích, yêu cầu của niên biểu đó là gì?
13
13
- Trong khi sử dụng niên biểu, giáo viên phải phát huy được tính tích cực,
sáng tạo của học sinh. Ngoài việc cụ thể hóa kiến thức, giáo viên cần đi sâu,
phân tích bản chất của sự kiện để tìm ra được bản chất giữa các sự kiện.
- Giáo viên phải đảm bảo được sự kết hợp giữa lời nói với việc trình bày niên
biểu. Đồng thời, phải rèn luyện được kỹ năng thực hành cho học sinh.
- Trong một bài học, một tiết học, giáo viên không nên quá lạm dụng nhiều
niên biểu, điều đó sẽ tạo sự quá tải và làm giảm kiến thức trọng tâm của bài.
- Sử dụng niên biểu đúng mức độ, trình độ của học sinh, phải phù hợp với nội
dung và phương pháp dạy học của bài học.
IV. Thực nghiệm sư phạm:
1. Mục đích thực nghiệm:
Thực nghiệm được tiến hành để kiểm tra, chứng minh cho tính chân thực của
những giải pháp được nêu ra. Kết quả thực nghiệm được chứng minh sẽ khẳng
định tính đúng đắn về kết quả của đề tài được nghiên cứu một cách khách quan,
chính xác và trung thực.
2. Thời gian, địa điểm, đối tượng thực nghiệm:
- Đối tượng, địa điểm tiến hành thực nghiệm là học sinh lớp 11 của Trung
tâm GDNN- GDTX Ngọc Lặc. Trong đó:
+ Lớp thực nghiệm: là lớp 11 C3
+ Lớp đối chứng: là lớp 11C2
- Thời gian thực nghiệm: tiến hành cho học kỳ II, năm học 2017-2018 khi
dạy học phần Lịch sử Việt Nam (giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1918).
3. Nội dung thực nghiệm:
Phần thực nghiệm được tiến hành ở hai lớp 11 C2 và lớp 11 C3. Trong đó:
+ Lớp 11 C2: không sử dụng niên biểu mà sử dụng các phương pháp dạy
học truyền thống kết hợp với sử dụng bản đồ, lược đồ, tranh ảnh và hệ thống câu
hỏi phát vấn.
+ Lớp 11 C3: sử dụng trong giảng dạy hệ thống niên biểu trong tất cả các
dạng bài học: từ bài truyền thụ tri thức mới; bài ôn tập, tổng kết, bài kiểm tra,
đánh giá năng lực học sinh. Cho đến các bước của tiến trình bài học từ kiểm tra
miệng, dạy bài mới, củng cố, luyện tập và ra bài tập về nhà cho học sinh.
4. Kết quả đạt được:
Qua thực tế áp dụng cho thấy phương pháp sử dụng niên biểu trong dạy học
nói chung và dạy học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 nói riêng đã đem lại hiệu
quả tích cực. Cụ thể như sau:
- Đối với giáo viên: góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học để
nâng cao chất lượng và hiệu quả trong giảng dạy bộ môn.
- Đối với học sinh: với việc áp dụng phương pháp này đa số học sinh học tập
hứng thú hơn, tiếp thu, nắm bắt kiến thức dễ dàng, nhanh chóng hơn. Các em
hiểu sâu được kiến thức từ đó vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt để hoàn
thành các bài tập hệ thống kiến thức. Đặc biệt, nhiều em biết cách so sánh, phân
tích, nhận xét về sự kiện lịch sử, vấn đề lịch sử một cách tổng quát. Điều này
được thể hiện rõ qua kết quả so sánh sau đây:
14
14
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
13,8
9
27,0
3
25
69,4
4
64,8
7
4
11.11 2
5,56
0
0
0
11C2
36
0
0
5
11C3
37
3
8,1
0
10
24
SL
0
%
Như vậy, qua bảng đối chiếu, so sánh trên, ta thấy ở lớp 11C3 dạy thực
nghiệm phương pháp sử dụng niên biểu, số học sinh nắm vững kiến thức tốt
hơn, chủ động hơn. Tỉ lệ % xếp loại học lực từ trung bình trở lên đạt 100% và
không có học sinh có học lực yếu, kém. Ngược lại, ở lớp 11C2, tôi không áp
dụng phương pháp này cho thấy, lớp không có học sinh giỏi, học sinh khá ít hơn,
chủ yếu là học sinh có học lực trung bình và có cả học sinh xếp loại học lực yếu,
kém.
Từ kết quả thực nghiệm trên, tôi có thể mạnh dạn khẳng định rằng: đối
với đối tượng học sinh mà trong quá trình giảng dạy, giáo viên sử dụng phương
pháp niên biểu trong dạy học lịch sử mang lại hiệu quả dạy học cao hơn phương
pháp dạy học truyền thống mà không sử dụng niên biểu.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Niên biểu là phương tiện trực quan cần thiết và quan trọng đối với cả giáo
viên và học sinh. Sử dụng niên biểu trong dạy học lịch sử là một trong những
biện pháp tốt nhất để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Việc sử
dụng niên biểu sẽ khắc phục được tình trạng “dạy chay” chỉ có lý thuyết suông
của giáo viên và lối học thụ động của học sinh. Nó có tác dụng thu hút sự tập
trung, chú ý của học sinh vào bài học, kích thích được sự suy nghĩ, thông minh
sáng tạo của các em. Trong dạy học lịch sử, nếu giáo viên không sử dụng hệ
thống niên biểu thì sẽ không cụ thể hóa và hệ thống hóa được kiến thức. Do đó,
giáo viên nhất thiết phải sử dụng niên biểu để phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh.
Việc sử dụng niên biểu để phát huy tính tích cực, rèn luyện kỹ năng cho
học sinh phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực, kinh nghiệm cũng như vào
quá trình chuẩn bị bài giảng của mỗi giáo viên. Ở đây, đề tài nghiên cứu của tôi
trong một mức độ nhất định đã hệ thống hóa và phân loại niên biểu trong dạy
học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 11. Đồng thời, đề tài cũng góp
phần bổ sung thêm nhiều loại niên biểu do cá nhân tôi tự sưu tầm, thiết kế thêm.
Mặt khác, đề tài cũng đã cung cấp cho giáo viên các biện pháp sự phạm để sử
dụng tốt niên biểu trong việc phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Ngoài ra, đề tài cũng đã tiến hành việc điều tra, thực nghiệm sư phạm nhằm
khẳng định, bổ sung cho phần lý luận và thực tiễn của việc đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay.
15
15
Đề tài này có khả năng ứng dụng trong tất cả các trường, từ các trường ở
thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu vùng xa đều có
thể ứng dụng được. Hiện nay, đa phần các giáo viên đều ứng dụng công nghệ
thông tin vào trong giảng dạy và hầu hết các trường học đều đã có máy chiếu. Vì
vậy, việc thiết kế bảng biểu của giáo viên sẽ trở nên đơn giản hơn nhiều, không
phải tốn nhiều công sức và thu hút được sự tập trung, chú ý học tập của học sinh
hơn.
2. Kiến nghị:
Để sáng kiến kinh nghiệm “Phương pháp sử dụng niên biểu trong dạy
học phần Lịch sử Việt Nam lớp 11” nói riêng và trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông nói chung mang lại hiệu quả cao, chúng ta cần đảm bảo các yêu cầu
sau:
• Đối với giáo viên:
Thứ nhất, giáo viên phải thật sự tâm huyết và yêu nghề, phải luôn luôn
tìm tòi, sáng tạo và đổi mới trong phương pháp dạy học. Đồng thời phải có kế
hoạch cụ thể trong việc sưu tầm, tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học phù
hợp với nội dung bài dạy. Giáo viên cần phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên
của mình chứ không trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên.
Thứ hai, giáo viên cần nghiên cứu kỹ chương trình sách giáo khoa, chuẩn
kiến thức, kỹ năng; thường xuyên nghiên cứu, sưu tầm thêm tài liệu tham khảo;
kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan khác để nâng
cao hiệu quả giờ dạy trong việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh.
Thứ ba, giáo viên nên chú ý nhiều hơn nữa trong việc rèn luyện kỹ năng
thực hành bộ môn và các thao tác tư duy cho học sinh qua việc sử dụng câu hỏi,
bài tập nhận thức với niên biểu. Để đạt được yêu cầu này, đòi hỏi giáo viên phải
công phu trong việc xây dựng, thiết kế niên biểu. Đồng thời, giáo viên cũng phải
vận dụng sáng tạo và linh hoạt trong các trường hợp sử dụng niên biểu trong dạy
và học bộ môn.
Thứ tư, giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ về công nghệ thông
tin, biết khai thác thông tin để tìm kiếm được nguồn tài liệu, kiến thức hữu ích
cho quá trình dạy và học. Đồng thời, giáo viên phải có kỹ năng sử dụng thành
thạo các thiết bị, đồ dùng dạy học hiện đại để làm phong phú và sinh động cho
việc truyền thụ tri thức.
• Đối với cấp lãnh đạo:
Thứ nhất, Các nhà trường phổ thông phải quan tâm nhiều hơn nữa trong việc
bổ sung, hoàn thiện và nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị và đồ dùng dạy học
trong nhà trường, nhất là trang bị hệ thống máy tính, máy chiếu trong các giờ
học để giáo viên thực hiện tốt được mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học.
Thứ hai, cần có cơ chế, chính sách hợp lý và hiệu quả để khuyến khích và
động viên giáo viên thường xuyên tự chuẩn bị, tự tạo đồng dùng dạy học trong
đó có sử dụng hệ thống niên biểu. Đồng thời, cần khuyến khích giáo viên sử
16
16
dụng rộng rãi công nghệ thông tin và các thiết bị dạy học hiện đại trong việc đổi
mới phương pháp dạy học.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi có sử dụng hệ thống niên biểu
trong dạy học bộ môn. Mong rằng với việc sử dụng phương pháp dạy học này
xin được góp một phần nhỏ vào kho tàng đổi mới phương pháp dạy học. Do
điều kiện thời gian, phạm vi đề tài và năng lực bản thân có hạn, vì vậy sáng kiến
này không tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế. Kính mong nhận được sự
đóng góp của Hội đồng khoa học các cấp và các thầy cô giáo để đề tài sáng kiến
kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, các em học sinh
Trung tâm GDNN-GDTX Ngọc Lặc đã giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Xác nhận của Thủ trưởng
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết. không sao chép nội dung của
người khác.
Hàn Thị Huyền
17
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD & ĐT, Sách giáo khoa Lịch sử 11, NXB Giáo dục, 2007
2. Bộ GD & ĐT, Sách giáo viên Lịch sử 11, NXB Giáo dục, 2007
3. Nguyễn Thị Côi, Kênh hình trong dạy học Lịch sử ở trường THPT, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000
4. Hội Giáo dục Lịch sử, Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học sinh làm
trung tâm, NXB Giáo dục Hà Nội, 1996
5. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Một số chuyên để Phương pháp dạy
học lịch sử, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002
6. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Phương
pháp dạy học Lịch sử (tập 2), NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2002
7. Phan Ngọc Liên, Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2000
8. Phan Ngọc Liên, Thiết kế bài giảng lịch sử ở trường THPT, NXB Giáo
dục Hà Nội, 1998
9. Trịnh Đình Tùng, Bài tập lịch sử 11, NXB Giáo dục, 2007
10. Trương Ngọc Thơi, Bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử 11, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2017
11. Trương Ngọc Thơi, Học tốt Lịch sử 11, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
2015
12. Trương Ngọc Thơi, Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập Lịch sử 11, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016
13.Trương Ngọc Thơi, Đề kiểm tra Lịch sử 11, NXB Đại học Đại học Sư
phạm Hà Nội, 2010
14. Sáng kiến kinh nghiệm, Mai Thị Trinh: Sử dụng niên biểu trong dạy học
10 (Ban cơ bản) ở trường THPT, 2013
15. Đề tài NCKH, Trần Thị Hải: Sử dụng Phương pháp Lập bảng hệ thống
kiến thức trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
18
18