SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT ĐÔNG SƠN 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM XÂY DỰNG TẬP THỂ
LỚP ĐOÀN KẾT, VỮNG MẠNH
Người thực hiện: Lê Mai
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................2
II. NỘI DUNG.......................................................................................................3
1. Cơ sở lý luận...................................................................................................3
2. Thực trạng của vấn đề....................................................................................3
2.1 Đặc điểm tình hình lớp 10A3....................................................................3
2.2 Thực trạng về việc thực hiện nề nếp, tinh thần đoàn kết của lớp..............3
3. Các biện pháp thực hiện.................................................................................4
3.1. Xây dựng ban cán sự lớp..........................................................................4
3.2. Xây dựng tập thể lớp đoàn kết..................................................................5
3.3. Phối hợp giữa Ban cán sự lớp, Đoàn Thanh niên và giáo viên bộ môn
tăng tính đoàn kết trong tập thể lớp.................................................................7
3.4. Xây dựng lớp học thân thiện.....................................................................7
3.5. Vinh danh các tấm gương “ Người tốt – việc tốt”, “ Khéo tay – hay
làm”….............................................................................................................8
3.6. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình, giữa GVBM và các tổ
chức đoàn thể khác trong công tác chủ nhiệm.................................................9
3.7. Coi trọng công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh........................10
3.8. Chú trọng công tác giáo dục và đánh giá học sinh qua tiết sinh hoạt.....11
3.9. Quan tâm giáo dục học sinh cá biệt........................................................14
4. Kiểm nghiệm................................................................................................15
4.1. Đối với học tập và rèn luyện...................................................................15
4.2. Đối với các phong trào khác...................................................................16
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................17
1. Kết luận........................................................................................................17
2. Kiến nghị......................................................................................................17
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kế thừa và phát triển quan điểm chỉ đạo của Đảng qua các thời kỳ, đặc biệt là
Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI về “ Đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực”, đây không chỉ là quốc
sách hàng đầu, là “ chìa khóa” mở đường đưa đất nước tiến lên phía trước mà
còn là “ mệnh lệnh” của cuộc sống. Tại Đại hội Đảng XII toàn quốc, Đảng ta
tiếp tục đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, khẳng định
triết lý nhân sinh mới của giáo dục nước nhà “ dạy người, dạy chữ, dạy nghề”
( khác với trước đây là dạy chữ, dạy người, dạy nghề) đảm bảo hài hòa đức, trí,
thể, mỹ.
Một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu của trường phổ
thông là “ dạy người”. Do đó, vai trò của người giáo viên, đặc biệt là giáo viên
chủ nhiệm (GVCN) không chỉ là người truyền đạt kiến thức, kĩ năng phát triển
về trình độ nhận thức cho học sinh ( HS) mà còn là người định hướng giúp đỡ
các em phát triển toàn diện về học vấn, tác phong, đạo đức.
Ở lứa tuổi học sinh THPT các em có đặc điểm tâm sinh lý phát triển khá
phức tạp, trí tuệ phát triển cả về lượng lẫn chất, các em có khả năng quan sát
nhạy bén, cảm nhận tinh tế, muốn học thành người lớn, thích thể hiện nhưng
tính cách vốn chưa ổn định, rất dễ bị sa ngã và lôi kéo vào những thói hư – tật
xấu, tệ nạn xã hội. Nếu không có các biện pháp chấn chỉnh kịp thời các em có
thể buông xuôi, có thể trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì vậy,
GVCN có vai trò đặc biệt quan trọng đến sự phát triển nhân cách của các em, là
người bạn, người anh người chị, người cha người mẹ ở trường, động viên, giúp
đỡ, giáo dục uốn nắn các em khi gặp các vấn đề khó khăn.
Làm thế nào để đào tạo một thế hệ “ vừa hồng, vừa chuyên”? Đây là trách
nhiệm chung của toàn xã hội và của tất cả những người tham gia công tác giáo
dục, đặc biệt là GVCN. Đối với bản thân tôi, ngay từ khi mới ra trường đã được
giao làm công tác chủ nhiệm lớp, đến nay đã 15 năm nhưng đây vẫn là chủ đề
lôi cuốn và làm tôi trăn trở trong quá trình được giao chủ nhiệm lớp. Mặc dù,
công tác chủ nhiệm là một vấn đề không mới nhưng nó lại luôn được yêu cầu
đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của thời đại. Chính vì vậy mà công tác
chủ nhiệm luôn là vấn đề mới mẽ lôi cuốn nhiều thế hệ nghiên cứu, thảo luận và
xây dựng.
Xuất phát từ tình hình thực tế trong quá trình làm công tác chủ nhiệm, tôi
luôn trăn trở, tìm tòi và thử nghiệm tìm ra các biện pháp áp dụng nhằm đưa lớp
chủ nhiệm trở thành lớp tiên tiến, một tập thể lớp vững mạnh nhằm đáp ứng yêu
cầu, mục tiêu của ngành, của Đảng trong công tác giáo dục của thời đại mới.
Từ những lý do trên tôi mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp đề tài: “ Một
số biện pháp nhằm xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh”.
1
2. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực hiện thực trạng công tác chủ
nhiệm ở trường THPT Đông Sơn 2 – tỉnh Thanh Hóa đề ra một số biện pháp
nhằm xây dựng tập thể lớp đoàn kết vững mạnh góp phần nâng cao chất
lượng toàn diện cho học sinh
3. Đối tượng nghiên cứu
HS lớp 10A3 năm học 2015 -2016 và HS lớp 11A3 năm học 2016 -2017
( năm trước là lớp 10A3) của trường THPT Đông Sơn 2
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp điều tra – quan sát, khảo sát thực tế, thu nhập thông tin từ
phụ huynh, học sinh và từ giáo viên bộ môn
- Phương pháp thông kê, xử lý số liệu
2
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Xuất phát từ vai trò, vị trí, chức năng và tầm quan trọng của GVCN trong
việc giáo dục tư tưởng, ý thức đạo đức cho HS, phải chịu toàn bộ trách nhiệm
trước BGH về mọi vấn đề thuộc lớp mình phụ trách, là người tổ chức, lãnh đạo
các hoạt động của tập thể lớp nên người GVCN phải luôn luôn trau dồi nhân
cách, thái độ hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội. Do đó, GVCN cần xây
dựng các biện pháp áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho HS.
HS THPT là đối tượng cần được bồi dưỡng, trau dồi tư tưởng - đạo đức,
giúp các em có nghị lực vươn lên vượt khó trong học tập cũng như trong cuộc
sống, có mục đích, lý tưởng cao đẹp để trở thành chủ nhân tương lai của xã hội.
Điều đó, đòi hỏi người GVCN phải tâm huyết gần gũi với các em, tìm ra các
biện pháp giáo dục phù hợp, kịp thời với từng đối tượng.
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Đặc điểm tình hình lớp 10A3
Khi nhận lớp chủ nhiệm dù là lớp đầu cấp hay là lớp nhận lại thì công
việc đầu tiên của người GVCN là tìm hiểu đặc điểm, tình hình lớp mình chủ
nhiệm. Năm học 2015 – 2016 tôi được nhà trường phân công lớp 10A3, qua tìm
hiểu tình hình lớp có một số đặc điểm sau: Có 45 học sinh (25 nam, 20 nữ), các
em ở hầu hết các xã khó khăn trong huyện. Bố mẹ các em chủ yếu là thuần
nông, đi làm ăn xa, có nhiều em ở nhà với ông bà. Nhiều em có hoàn cảnh rất éo
le như mồ côi ( Nguyễn Thừa Toàn), bố mất, mẹ mù ( Lê Văn Trường ), bố mẹ
ly dị ( Nguyễn Duy Thắng, Lê Văn Sơn) ở với ông bà nội, có 5 em bố mất sớm (
Nguyễn Thị Anh Thư, Lê Văn Trường, Nguyễn Thị Phượng, Nguyễn Văn Tốt),
có em bản thân bị bệnh triền miên, thường xuyên ngất trên lớp( Nguyễn Thị
Thúy) và có 8 em hộ nghèo – cận nghèo…Chính những lí do trên đã làm ảnh
hưởng đến quá trình rèn luyện và học tập của HS.
2.2. Thực trạng về việc thực hiện nề nếp, tinh thần đoàn kết của lớp
Tôi luôn cố gắng tham gia sinh hoạt 15 phút đầu giờ nhất là trong thời
gian đầu năm, tham gia đầy đủ các buổi lao động đầu năm, bám sát theo dõi và
uốn nắn từng cử chỉ, hành động của HS, theo dõi bám sát lớp từ nhiều “ kênh”,
tôi nắm tình hình tồn tại của lớp chủ nhiệm (LCN) như sau:
- Nhiều học sinh đi muộn, ăn mặc quần áo tự do, áo không cổ, quần xé
gối( mặc dù Đoàn trường quy định mặc áo trắng đồng phục và quần tối màu),
sơn móng tay, nhuộm tóc màu và đánh son đi học
- Nói tự do, bạn bè trong lớp xưng hô“ tau - mi” và còn nói tục với nhau.
- Nghỉ học vô lý do, hôm nào lớp cũng có ít nhất là 2 HS nghỉ, những
hôm trời mưa có thể hơn 10 HS nghỉ, hai em bỏ tiết 5 thường xuyên.
3
- Sinh hoạt 15 phút đầu giờ chưa nghiêm túc, chưa tự giác và sinh hoạt
cuối tuần chưa biết “ việc” còn lúng túng
- Nhiều HS vi phạm nội quy, ý thức kỷ luật chưa cao.
- Có dấu hiệu chia phe phái trong lớp, xuất phát từ mâu thuẫn, đố kỵ nhau
trong học tập từ cấp hai.
Từ thực tế đó, tôi suy nghĩ, trăn trở nhanh chóng tìm ra các biện pháp áp dụng
cho lớp theo từng giai đoạn kịp thời.
3. Các biện pháp thực hiện
3.1. Xây dựng ban cán sự lớp
a. Lựa chọn ban cán sự lớp
Đối với bất kì GVCN nào khi được phân công chủ nhiệm thì đều phải tiến
hành xây dựng ban cán sự lớp( BCSL). Chọn được đội ngũ cán bộ có năng lực
GVCN sẽ không mất nhiều thời gian mà lớp chủ vẫn tự quản tốt. Vậy dựa vào
đâu để xây dựng BCSL? Theo tôi dựa vào các yếu tố sau:
- Dựa vào sơ yếu lý lịch đầu năm, xem xét các em từng làm CBL
- Dựa vào các buổi lao động tập thể
- Dựa vào ý kiến của giáo viên bộ môn ở lớp
- Dựa vào sự giới thiệu tín nhiệm hoặc sự tự tin ứng cử của HS.
Cơ cấu cán sự lớp gồm: Lớp trưởng, bí thư đoàn, lớp phó học tập, lớp phó lao
động, lớp phó văn thể kiêm đời sống và bốn tổ trưởng.
GVCN chỉ định BCS lâm thời, thông báo rõ có thể còn thay đổi tùy thuộc
vào hiệu quả điều hành lớp và sự tín nhiệm của tập thể thông qua đại hội chi
đoàn.
b. Phân công nhiệm vụ cho ban cán sự
- Lớp trưởng: Theo dõi mọi hoạt động của lớp, nắm bắt triển khai các kế
hoạch của Nhà trường, là người chủ trì điều khiển các buổi sinh hoạt lớp, tổng
hợp hạnh kiểm của các thành viên trong lớp theo tuần, theo tháng, theo học kì và
theo năm học.
- Bí thư chi đoàn: Thực hiện giao ban vào tiết 5 thứ 6 hàng tuần, theo dõi
chung, nhắc nhở ban cán sự làm việc đúng trách nhiệm, lấy danh sách các bạn vi
phạm từ cờ đỏ và triển khai nội dung sinh hoạt Đoàn :Tình hình đánh giá xếp
loại và những thông báo của Đoàn cấp trên (nếu có) triển khai cho chi đoàn
mình thực hiện đầy đủ. Đồng thời, đề xuất các giải pháp khắc phục nhược điểm
tồn tại và phát huy các mặt mạnh của chi đoàn
- Lớp phó lao động: Phụ trách mọi mặt lao động của lớp như phân công
trực nhật theo tổ, phân công lao động định kì do nhà trường giao vào thứ 6 theo
từng tổ từng tuần, điều hành các bạn làm trực tuần và giám sát vệ sinh lớp học,
cụ thể như bàn trực nhất vừa quét lớp vừa tưới cây chăm sóc bồn hoa, tổ lao
động nhổ cỏ, tưới cây, dọn vệ sinh khu vực phân công và lau quạt, cửa sổ,trần
nhà,…Ngoài ra còn theo dõi hoạt động lao động đột xuất, rèn luyện của các bạn
vi phạm nề nếp.
4
- Lớp phó học tập: Phụ trách, điều khiển, chữa các bài tập vào các buổi
sinh hoạt 15 phút theo kế hoạch của Đoàn, phân công giúp đỡ HS yếu kém…
Đồng thời là người ghi và quản lý giữ số đầu bài, ghi biên bản sinh hoạt lớp.
- Lớp phó văn thể - đời sống: Phụ trách các mặt về đời sống văn nghệ,
thể thao của các bạn trong lớp. Đồng thời là thủ quỹ của lớp, phụ trách thu - chi
các hoạt động của lớp. Tham mưu với GVCN về tâm tư tình cảm của các bạn
trong lớp, phối hợp với BCSL tổ chức thăm hỏi…Và phải quyết toán trước lớp
thu chi vào giờ sinh hoạt từng tháng.
- Bốn tổ trưởng: Theo dõi, ghi chép các hoạt động của các thành viên
trong tổ mình, phân công trực nhật và giám sát lao động khi tổ mình được giao
nhiệm vụ, tổng hợp, báo cáo vào tiết sinh hoạt vào thứ 7( Có sổ theo dõi cho
từng tổ ).
c. Bồi dưỡng năng lực cán bộ lớp
GVCN cần họp triển khai nhiệm vụ, hướng dẫn các em cách làm việc, xử
lý các tình huống xảy ra và quan trọng là xây dựng nội quy của lớp dựa trên nội
quy của nhà trường, Đoàn trường, các tiêu chí, thang điểm ( điểm cộng – điểm
trừ) phải được xây dựng từ tất cả các thành viên của lớp. BCS cùng với GVCN
chốt lại dưới dạng văn bản photocopy cho mỗi HS giữ một bản để thực hiện.
BCSL va chạm trực tiếp với tập thể lớp hàng ngày nên nắm rõ tình hình
của lớp. Do đó GVCN cần lắng nghe ý kiến báo cáo, đề xuất của các em để điều
chỉnh những mặt còn tồn tại kịp thời.
Có những trường hợp cán sự lớp đảm nhận trách nhiệm chưa tốt hoặc giải quyết
công việc quá thẳng thắn, thiếu tế nhị,… thì GVCN cũng không nên phê bình
chỉ trích nặng nề mà làm các em tự ái, nản lòng, tốt nhất là thông qua các cuộc
họp riêng BCS cùng các em tháo gỡ nguyên nhân vì sao và tìm hướng khắc
phục.
Thông qua các buổi họp riêng ban cán sự, GVCN bồi dưỡng năng lực
năng lực quản lý, tính quyết đoán nhưng mềm mỏng linh hoạt, khéo léo trong xử
lý các tình huống, trong phê bình khuyết điểm của bạn, trong quản lý lớp.
3.2. Xây dựng tập thể lớp đoàn kết
Tôi coi trọng sức mạnh tập thể, đề cao tinh thần đoàn kết của tập thể lớp
như bác Hồ nói “ Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong ”. Đoàn kết là sức mạnh, tôi nghĩ rằng nếu xây dựng được tinh thần đoàn
kết ở tập thể lớp, các em có chung một ý trí, một quyết tâm thì mọi công việc
của lớp sẽ được giải quyết trôi chảy.
a. Đoàn kết trong lao động
Qúa trình lao động là cơ hội tốt, là môi trường giúp các em siết lại gần
nhau và hiểu nhau hơn. Đặc biệt là ở các lớp đầu cấp, khi các em mới còn bở
ngỡ, trường mới, bạn mới thầy cô mới.
Mặc dù con còn nhỏ nhưng tôi luôn bám sát từng buổi lao động của lớp. Khi
nhận nhiệm vụ lao động do Ban lao động nhà trường hoặc Đoàn thanh nhiên
phân công, GVCN hướng dẫn BCS lớp lên kế hoạch tổ chức, thực hiện lao động
5
an toàn, hiệu quả nhất là thông qua những buổi lao động đầu năm lớp 10 khi các
em chưa quen như sau:
Lớp phó lao động:
- Phân công nhiệm vụ cho từng tổ( Chia khu vực lao động thành bốn
phần có lượng công việc tương đương nhau, giao cho bốn tổ).
- Giám sát, chỉ đạo lao động chung
Tổ trưởng:
- Giao nhiệm vụ, phân công dụng cụ lao động cho các tổ viên mình phụ trách.
- Đôn đốc, giám sát, nhắc nhở tổ lao động
- Chịu trách nhiệm, báo cáo nhiệm vụ phân công
Lớp phó văn thể - đời sống:
Chuẩn bị nước uống
Lớp trưởng:
- Tập chung báo cáo sĩ số, kết quả lao động chung của lớp
GVCN phối kết hợp với BCSL giám sát uốn nắn hoạt động lao động
của HS, bồi dưỡng khích lệ tinh thần hăng say lao động, tạo không khí vui vẻ,
hòa đồng giữa các em.Ở những buổi lao động đầu năm, tình trạng “ lừa việc chốn việc” và “ tỵ việc” giữa các tổ, các thành viên trong tổ xảy ra. Song song
với việc tuyên dương các tổ các cá nhân hăng hái lao động tôi giáo dục các em
về ý nghĩa của lao động nói chung. Dù đó là lao động chân tay hay trí óc, các
tấm gương về lao động sản xuất trong thời chiến và thời bình, cho các em nghe
các bài hát như “ Một rừng cây một đời người”,….Nuôi dưỡng tâm hồn, giác
ngộ ý thức biết sống vì người khác, loại bỏ những suy nghĩ ích kỷ tầm thường
mà do lối sống hưởng thụ của nhiều học sinh thường gặp.
Tôi nhận thấy có kết quả rõ rệt, không còn tình trạng “ đùn đẩy việc”,
tổ xong việc trước còn tình nguyện giúp đỡ tổ chưa xong, các em hăng hái và
hào hứng khi tham gia các buổi lao động tập thể, xong việc cô trò thoải mái và
vui vẻ, dần dần công việc đâu vào đó, GVCN hoàn toàn yên tâm khi lớp tự quản
tham gia lao động.
b. Đoàn kết trong các hoạt động tập thể khác
Không chỉ thông qua hoạt động lao động mà hoạt động thể thao, hoạt
động văn hóa văn nghệ, các hoạt động tập thể cũng giúp các em đoàn kết hơn.
Tôi khích lệ sự nhiệt tình tham gia của tất cả các em đặc biệt là các học sinh ít
nói, lầm lì, học sinh có hoàn cảnh éo le như em Sơn, em Trường,Giang, Toàn,…
Có “chính sách đãi ngộ” như tuyên dương, cộng điểm cho các học sinh tích cực
tham gia.
Chẳng hạn: Khi lớp tham gia phong trào thể thao do Đoàn trường phát
động như kéo co, đi cà kheo, đá cầu đôi nam, bóng đá,…dù ở vòng loại cũng
yêu cầu 100% học sinh trong lớp tham gia chuẩn bị nước uống, khẩu hiệu, băng
rôn cổ vũ và GVCN luôn có mặt ủng hộ tinh thần thi đấu của các em.
Đặc biệt trong hoạt động văn nghệ, lợi dụng thế mạnh của lớp, khuyến
khích các em tiết mục “ hát múa” có cả nam và nữ tham gia, tham khảo các tiết
mục trên mạng nhưng có sự sáng tạo của các động tác cho phù hợp, khuyến
khích góp ý, tạo được sự đoàn kết sức mạnh của tập thể.
6
Ngoài ra, tôi còn tổ chức các cuộc thi, các trò chơi tạo sân chơi cần sự
phối hợp của sức mạnh tập thể của các thành viên trong tổ như thi hát đối, thi
đối vui giải ô chữ, thi hùng biện. Tôi cho các em thi hùng biện ngay các câu
khẩu hiệu trong phòng học như “ Rèn đức, luyện tài, lập nghiệp giữ nước”, câu
khẩu hiệu được in trong bìa vở trường THPT Đông Sơn 2 các em viết mỗi ngày
như “ Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
3.3. Phối hợp giữa Ban cán sự lớp, Đoàn Thanh niên và giáo viên bộ môn
tăng tính đoàn kết trong tập thể lớp
Sau khi nhận lớp, qua giảng dạy và theo dõi, dạy tôi nhận thấy các em có
biểu hiện phe phái ngay trong nội bộ ban cán sự giữa em Nguyễn Thị Thương và
em Nguyễn Thị Phương Thảo, tôi đã gặp từng em, tìm hiểu nguyên nhân (mâu
thuẫn đến mức có em định xin chuyển lớp vì không muốn mình và bạn chung
một lớp), mâu thuẫn tồn tại từ cấp hai. Tôi phân tích riêng từng em, đồng thời
tạo những cơ hội cho các bạn hiểu nhau, tạo tình huống để em này hiểu em kia
hơn; phải mất cả học kỳ các em mới thật sự hiểu nhau, trở thành bạn thân.
Vị trí chỗ ngồi cũng góp phần không nhỏ vào xây dựng tinh thần đoàn kết
của lớp. Tôi sắp xếp sơ đồ lớp dựa trên các yếu tố sau:
- Ưu tiên các em có bệnh về mắt, ngoại hình thấp, nhỏ…
- Căn cứ vào địa bàn (không xếp các em cùng xã vào một tổ tránh gây
phe phái)
- Tỷ lệ cân đối giữa nam và nữ
- Căn cứ vào học lực và khả năng văn nghệ, hoạt động tập thể của các em
- Tham khảo ý kiến của giáo viên bộ môn (đây là kênh quan trọng giúp
giáo viên chủ nhiệm sắp xếp, phân bố đồng đều, tổ nào cũng có bạn học tốt các
môn để các tổ tham gia hoạt động nhóm và giúp đỡ nhau được thuận lợi).
Qua quá trình ngồi cùng tổ, cùng nhau tham gia các hoạt động đã tạo nên
sự gắn kết giữa các bạn. Tuy nhiên, giáo viên chủ nhiệm cùng thường xuyên
lắng nghe sự phản hồi từ giáo viên bộ môn, ban cán sự để điều chỉnh kịp thời.
Điều chỉnh vị trí tổ trưởng mỗi tháng một lần.
3.4. Xây dựng lớp học thân thiện
a) Trang trí lớp học:
Nhiều giáo viên không chú trọng đến việc trang trí lớp và chăm sóc bồn
hoa. Tôi thiết nghĩ làm được điều này tạo ra cho các em ý thức “coi trường là
nhà” và “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui ”, giáo dục ý thức thẩm mỹ cho
các em. Giao nhiệm vụ như sau:
- Các tổ chăm sóc và trang trí cửa sổ nơi tổ mình ngồi
- Cửa sổ bàn giáo viên, trên và dưới bảng giao ban cán sự lớp
- Chăm sóc bồn hoa (tưới cây, nhổ cỏ,… bàn trực nhật)
- Lau quạt và quét trần nhà làm theo tổ vào tiết 5 thứ 6 hàng tuần
7
Với ý tưởng thân thiện với môi trường, tiết kiệm, huy động cây các em
mang đi và tận dụng các bình trồng được tái chế độc đáo từ vỏ hộp phế liệu, lớp
phó lao động phụ trách quản lý.
Tôi hết sức bất ngờ về sự hưởng ứng nhiệt tình của các em, đưa cả việc
chăm sóc cửa sổ, bồn hoa vào tiêu chí thi đua của tổ nên tổ nào cũng chăm chút
cho cửa sổ của mình. Kết quả đạt được do Đoàn trường chấm như sau:
+ Trang trí lớp: Giải nhất
+ Chăm sóc bồn hoa: Giải nhì
b) Thân thiện với môi trường
- Yêu cầu tổ trưởng giám sát, theo dõi nhắc nhở các bạn tổ viên giữ vệ
sinh trước và sau mỗi tiết học, buổi học, giấy loại, rác thải… rơi ở gầm bàn, vị
trí của bạn nào thì bạn đó phải chịu trách nhiệm sao cho sau tiết 5 lớp không có
giấy rác vứt bừa bãi, không để sách vở dưới gầm bàn không mang về học sau
mỗi buỗi học.
- Bồi dưỡng ý thức về giữ gìn vệ sinh nơi công cộng cho học sinh thông
qua các buổi hoạt động tập thể.
- Nêu các tấm gương tiêu biểu trong lớp, trong trường hoặc ngoài trường
về ý thức bảo vệ môi trường công cộng, đặc biệt trong trường học như em
Nguyễn Thị Thảo lớp 12A5 thường xuyên nhặt giấy loại sau các buổi học, buổi
thi hay hành động của nhỏ của bạn Nguyễn Thị Thương (nhặt bỏ hộp xôi, hộp
sữa ở trước cổng trường bỏ vào thùng rác,…
c) Thân thiện trong giao tiếp
- Giúp học sinh thay đổi thói quen xưng hô “tau – mi” sang “bạn –
mình”, “cậu – tớ”, xưng tên, chấm dứt tình trạng nói tục (đây là tồn tại của
nhiều học sinh nông thôn).
- Phối hợp với giáo viên bộ môn cởi mở, vui vẻ, thẳng thắn và gần gũi
giúp các em tự tin, thoải mái trong mỗi tiết học.
3.5. Vinh danh các tấm gương “ Người tốt – việc tốt”, “ Khéo tay – hay
làm”…
Trong các phong trào hoạt động đều bầu ra các cá nhân xuất sắc để khen
thưởng vào dịp cuối tháng, cuối kỳ, cuối năm…(quà trích từ quỹ lớp và quỹ ủng
hộ của phụ huynh” . Đặc biệt là các học sinh vượt khó vươn lên trong học tập.
Ví dụ:
+ Em Nguyễn Văn Trường là tấm gương vượt khó vươn lên học tập, em
có hoàn cảnh éo le bố mất sớm do tai nạn, mẹ mù lòa nhưng luôn cố gắng học
tập và đạt được kết quả mà nhiều bạn phải nể phục.
+ Em Nguyễn Thị Phương Thảo đạt điểm cao nhất trong kỳ thi học kỳ với
tổng 3 môn Toán – Văn – Anh là 26 điểm.
+ Em Nguyễn Thị Thương tận tụy giúp đỡ bạn Nguyễn Thị Thúy cùng lớp
thường xuyên bị ngất trên lớp, giúp bạn học bài, ghi lại bài đầy đủ, Thương còn
là học sinh tích cực tham gia và kêu gọi các bạn cùng tham gia nhiệt tình phong
8
trào “ Xây dựng quỹ chữ thập đỏ”, em được tặng giấy khen của Hội chữ thập đỏ
nhà trường.
+ Em Nguyễn Thị Thanh Lam tiêu biểu trong phong trào xây dựng “ Tủ
sách thư viện”
+ Mỗi tổ bầu một học sinh xuất sắc có tổng điểm thi đua cao khen thưởng
trong mỗi tháng. Song song với các đợi thi đua của nhà trường, Đoàn trường
phát động, mở rộng tặng thưởng cho các học sinh trong tập thể lớp tham gia
như phong trào “ Hoa điểm mười”, phong trào “ Vận dụng kiến thức liên môn ”,
phong trào “ Sáng tạo khoa học kỹ thuật”,…Đặc biệt, tôi cũng có những giải
thưởng nhằm kích lệ, động viên học sinh vươn lên vượt bậc trong học tập cũng
như trong nề nếp như tăng hai hậc trong tháng từ yếu lên khá hoặc từ trung
bình lên tốt( dù tổng điểm không cao nhất), làm như vậy em nào cũng thấy có
cơ hội, tránh những suy nghĩ tiêu cực rằng “ Không đến lượt mình”.
+ Tham mưu với BGH, đề nghị em Lê Văn Trường nhận học bổng Lam Sơn
+ Đề nghị hội chữ thập đỏ nhà trường ủng hộ và trao quà tết cho các em
Lê Văn Trường , Nguyễn Thị Thúy, Lê Thị An, Nguyễn Thừa Toàn
+ Đề nghị với BGH, GVBM miễn hoàn toàn tiền
học thêm cho các em Lê Văn Trường , Nguyễn Thị Thúy, Lê Thị An,
Nguyễn Thừa Toàn giảm một nửa cho em Nguyễn Thị Phượng, có hoàn cảnh
khó khăn nhưng luôn vươn lên trong học tập.
3.6. Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình, giữa GVBM và các tổ
chức đoàn thể khác trong công tác chủ nhiệm.
Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của BGH trường THPT Đông Sơn 2,
ngoài tiết 1 thứ 2 và tiết 5 thứ 7 sinh hoạt tập thể hàng tuần thì các GVCN đều
tham gia hội ý vào tiết 4 thứ 7( tất cả các GVCN đều được xếp trống tiết để hội
ý) nắm bắt tình hình, phổ biến kế hoạch, phát huy những mặt mạnh và khắc
phục những mặt hạn chế của từng lớp kịp thời đã nâng cao chất lượng đạo đức
của học sinh, góp phần xây dựng trường THPT Đông Sơn 2 đạt trường chuẩn
giai đoạn 2015 - 2018
* Phối hợp với phụ huynh HS và Ban chấp hành chi hội phụ huynh của
lớp chặt chẽ
- Chuẩn bị và tổ chức chu đáo các nội dung cuộc họp phụ huynh đầu năm,
thông qua đó phổ biến các chủ trương, đường lối, quan điểm giáo dục chung của
nhà trường, của Đảng và nhà nước cho toàn ngành giáo dục. Đồng thời phản ánh
các ý kiến của phụ huynh lớp chủ nhiệm tới BGH.
- Lên kế hoạch thâm nhập gia đình học sinh theo tháng, theo kì. Mặc dù
thời đại của công nghệ chỉ cần nhấc máy là GVCN có thể liên lạc ngay được với
phụ huynh học sinh mà không cần phải mất công, mất thời gian tới tận nhà
nhưng khi làm công tác chủ nhiệm đến nhà học sinh nhận được sự đón tiếp chân
thành, giữa giáo viên, học sinh và phụ huynh tăng thêm sự gần gũi, hiểu nhau
hơn, có tác dụng giáo dục rất cao
9
3.7. Coi trọng công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Đáp ứng yêu cầu của thời đại, Đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đạo tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng sang trang bị kiến thức
nặng lý thuyết sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người
học. Điều đó khẳng định tầm quan trọng và yêu cầu cấp thiết cần phải giáo dục
kỹ năng sống cho HS.
Giáo dục kỹ năng sống cho HS phải được thực hiện bằng nhiều cách khác
nhau thông qua các hoạt động của Đoàn, thông qua hoạt động văn hóa – văn
nghệ, hoạt động tham quan; hoạt động ngoại khóa; hoạt động xã hội,…Đặc biệt,
GVCN tổ chức rèn kỹ năng cho HS thông qua các buổi sinh hoạt tập thể thay vì
sinh hoạt “ Nhàm chán, đại khái” vào tiết 5 thứ 7.
Cụ thể: Ở lớp chủ nhiệm, tôi đã giáo dục cho các em một số kỹ năng theo
chủ đề, cho các em biết trước nội dung thảo luận, tìm hiểu và tham gia trả lời
câu hỏi theo tổ(có chuẩn bị phần thưởng cho tổ nhất), chiếu lên máy chiếu câu
hỏi và hình ảnh minh họa như sau:
+) Kỹ năng về sức khỏe: Giáo dục các em về sức khỏe sinh sản, chống lại
sự cảm dỗ từ tệ nạn xã hội, chống xâm phạm tình dục, biết bảo vệ mình( Đây là
vấn nạn mà học sinh kém hiểu biết thường mắc phải và ngày càng có nhiều học
sinh mang thai để lại hậu quả cho chính các em, gia đình và xã hội), tác hại của
các chất gây nghiện như ma túy, heroin…( Đưa các thông tin có tính thời sự mà
xã hội đang phải đối mặt như ngày càng có nhiều tội phạm do sử dụng ma túy
đá, sử dụng tem, bóng cười có chứa chất gây nghiện gây ảo giác), chế độ dinh
dưỡng phòng ngừa bệnh tật, bệnh truyền nhiễm HIV/AIDS,…
+) Kỹ năng về giao tiếp: Lớp tôi chủ nhiệm 100% phụ huynh học sinh
làm nông nghiệp và làm đá nên cũng tác động đến kỹ năng giao tiếp, ứng xử của
các em, các em ít va chạm, cách nói còn tự do hay nói tục, bạn bè thì xưng hô
“tau – mi”,…và khi gặp người lớn tuổi hoặc thầy cô giáo không chào hoặc có
chào chỉ chào thầy cô dạy mình, gặp bác bảo vệ hoặc các thầy cô hành chính
trong nhà trường thì xem như không quen biết. Cần giáo dục các em biết chào
hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng
Đặc biệt, các em rụt dè, khả năng diễn đạt trước đám đông còn yếu, cách
ứng xử các tình huống thực tiễn còn thiếu linh hoạt. Chẳng hạn: Văn hóa tặng
hoa, nhân các ngày lễ, gặp thầy cô giáo ở đâu ở nhà ăn, nhà xe hay đang đi ở
đường thì tặng luôn ở đó hay đến khu tập thể tặng hoa cho cô thì chỉ tìm đúng cô
dạy mình “ Chúng em chúc mừng cô” mà không cần để ý có hai cô ở cùng,…
Thông qua các hoạt động tập thể như tổ chức cuộc thi hùng biện, hái hoa
dân chủ đề, thi văn nghệ theo chủ đề có từ khóa “ hoa” hoặc “ mùa xuân”,…
( theo tổ), yêu cầu từng em phát biểu xây dựng vấn đề liên quan đến lớp hoặc
bản thân các em khi vi phạm, BCS lớp thì phải chuẩn bị kế hoạch, nội dung và
phải phân công bạn trong tổ phát biểu trước lớp các nội dung được giao. Tôi
quan tâm đến kỹ năng trình bày ý kiến, diễn đạt, thuyết trình trước đám đông
của HS, sửa từng động tác, cử chỉ, câu từ giúp các em tự tin mạnh dạn trước
đám đông.
10
+) Kỹ năng ứng phó với tình huống bạo lực học đường
Đây là vấn đề đã và đang diễn ra đáng báo động, là một GVCN tôi thường
xuyên nhắc nhở, đưa các tình huống xảy ra ( ở trong trường và ngoài trường)
nhằm giáo dục, rút kinh nghiệm cho HS lớp chủ nhiệm như từ xích mít nhỏ như
khi cùng sân thể dục, “ nhìn đểu, nói đểu”, cùng “ thích ” một người, hay thách
đố hoặc trêu nhau trên facebook,… cũng có thể đánh nhau hoặc gây ra những
hậu quả đáng tiếc. Chẳng hạn vụ học sinh lớp 8 trường THCS Nguyễn Trí
Phương, Khánh Hòa, từng đăng lên Facebook nếu đủ 1.000 like sẽ mang xăng
đốt trường Phạm Ngũ Lão nên thông tin nhanh chóng được chia sẻ, khi đủ số
lượt yêu thích học sinh này bị đánh đòn và ép thực hiện đúng tuyên bố đốt
trường gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Nhiều HS hành động mà không biết mình đang vi phạm pháp luật như
thấy bạn đánh nhau đứng xem, cổ vũ và quay hình đưa lên facebook,…Tôi vừa
giáo dục HS ý thức ứng phó, tự vệ với các tình huống này vừa giáo dục các em
những điều không được làm, kỹ năng kiểm soát tình cảm, kìm chế thói hư tật
xấu, sở thích cá nhân và biết phân biệt được hành vi đúng – sai.
3.8. Chú trọng công tác giáo dục và đánh giá học sinh qua tiết sinh hoạt
Tiết sinh hoạt lớp được đặt vào tiết 5 thứ 7, là tiết học cuối cùng của tuần
lại không có phân phối chương trình, nội dung cụ thể đồng thời với tâm lý mỏi
mệt, xả hơi cuối tuần nên dễ bị thực hiện qua loa đại khái rồi cho HS nghỉ, dễ bị
đánh mất mục tiêu, ý nghĩa và nhiệm vụ của tiết học.
Tôi thống nhất với lớp nhiệm vụ của tiết sinh hoạt ngay từ đầu năm là tiết
học mà mỗi học sinh phải nhìn lại mình, thực hiện phê và tự phê, tự đánh giá và
được đánh giá hoạt động học tập, rèn luyện của mỗi cá nhân và tập thể sau mỗi
tuần học, đồng thời xây dựng kế hoạch hoạt động cho tuần học tới dựa trên kế
hoạch đầu năm, điều chỉnh kế hoạch dựa trên kết quả tuần trước, dựa trên kế
hoạch của nhà trường, Đoàn trường. Thông thường tiết sinh hoạt lớp, dưới sự
giám sát, điều khiển gián tiếp, tôi cho lớp chủ nhiệm thực hiện các hoạt động
sau:
Hoạt động 1: Báo cáo tổng kết, đánh giá của BCSL
Công tác đánh giá xếp loại học sinh được duy trì thường xuyên liên tục,
lớp trưởng triển khai, tổ chức và điều khiển buổi sinh hoạt lớp, lần lượt yêu cầu
BCS lớp báo cáo công việc như đã phân công theo sơ đồ sau:
CÁC TỔ TRƯỞNG � LP HỌC TẬP � LP LAO ĐỘNG � BÍ THƯ
� LP VĂN THỂ + ĐỜI SỐNG/1 Tháng � LỚP TRƯỞNG � GVCN nhận
xét, bổ sung nhấn mạnh lại nội dung tuần tới( nếu cần)
Đối với lớp tôi, học sinh đã xây dựng tiêu chí thi đua như sau: Tiêu chí xếp loại
TT
NỘI DUNG
ĐIỂM
(Điểm cộng hoặc điểm trừ được tính trên mỗi nội dung)
1
Tích cực xây dựng bài hoặc đạt điểm 8
+2
2
Đạt điểm 7
+1
11
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Đạt điểm 9
Đạt điểm 10
Cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Tích cực lao động hoặc chăm sóc bồn hoa, trang trí cửa sổ được
phân công đạt nhất trong lớp trong tuần
Đi học đầy đủ
Ghi bài đầy đủ
Điểm thưởng cho mỗi học sinh mỗi tuần
Mức trừ 2 điểm trên mỗi vi phạm/1 lần:
- Khi trống đánh vẫn đứng ngoài hành lang
- Nghỉ học có phép
Mức trừ 5 điểm trên mỗi vi phạm/1 lần:
- Đi học chậm.
- Nói chuyện riêng, làm việc riêng trong giờ bị giáo viên nhắc nhở
- Không học bài cũ bị điểm kém từ 4 điểm trở xuống.
- Đổi chỗ ngồi.
Mức trừ 10 điểm trên mỗi vi phạm/1 lần:
- Tham gia không nghiêm túc sinh hoạt tập thể( sinh hoạt 15’,
chào cờ, các buổi sinh ngoại khóa,…).
- Đi xe trong sân trường.
- Không sơ vin( Đối với nam).
- Làm vệ sinh lớp chậm, bẩn, không tắt điện, tắt quạt, đóng cửa
trước khi về.
- Không đi lao động đúng giờ quy định hoặc không mang dụng cụ
hoặc không chấp hành sự phân công lao động.
- Không mặc đồng phục, không đi giầy dép đúng quy định của
nhà trường, không đeo phù hiệu. Đầu tóc không gọn gàng, nhuộm
tóc, trang điểm đến trường.
- Trèo tường vào trường
Mức trừ 15 điểm trên mỗi vi phạm/1 lần:
- Không tham gia sinh hoạt tập thể( sinh hoạt 15’, chào cờ, các
buổi sinh ngoại khóa,…).
- Nghỉ học vô lí do.
- Bỏ tiết.
- Bị ghi sổ đầu bài không nghiêm túc.
- Không đi lao động
- Làm hư tài sản của lớp của trường, viết bẩn lên bàn, lên tường
( học sinh phải bồi thường).
- Cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, làm sai, bao che cho tổ
viên, làm hời hợt, không ghi chép cẩn thận.
Mức trừ 20 điểm trên mỗi vi phạm/1 lần:
- Vi phạm quy chế thi.
- Sử dụng điện thoại trong giờ học, trong buổi ngoại khóa( Nếu sử
+3
+4
+4
+5
+5
+5
+25
-2
-5
-10
-15
-20
12
dụng sẽ bị thu nộp cho ban nề nếp)
Mức trừ 30 điểm trên mỗi vi phạm/1 lần:
- Đề lớp bị phê ồn tập thể ( Trừ tất cả học sinh có mặt trong buổi
học hôm đó).
- Vô lễ với giáo viên hoặc nhân viên trong nhà trường.
15 - Có thái độ sai với cán bộ lớp. Chống đối cờ đỏ.
-30
- Đánh nhau, hút thuốc, tham gia các tệ nạn xã hội( Chơi bài, chơi
bi-a, bóng bàn ăn tiền, lấy cắp vật dụng, cắm xe,…), tàng trữ trái
phép các chất ma túy, kích thích, chất gây nổ
Các tổ trưởng xếp loại tổ viên theo tuần căn cứ vào tổng điểm. Theo tháng
thì dựa vào kết quả các tuần trong tháng và theo sự tiến bộ của học sinh trong tháng. Cụ thể
như sau:
Cách xếp loại hạnh kiểm
.................. �22 17 �........... �21 12 �.............. �16 ............... �11
Điểm
Xếp loại
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Lưu ý:
- Trong hai tuần liên tiếp vi phạm lỗi giống nhau thì hạ một bậc hạnh
kiểm.
- Lớp để giáo viên phê ồn tập thể thì trong tuần đó tất cả học sinh hạnh
kiểm cao nhất là loại khá.
- Trong tuần xếp hạnh kiểm loại yếu: viết bản kiểm điểm có chữ kí cả bố
và mẹ.
- Trong một tháng 2 lần hạnh kiểm loại yếu: viết bản kiểm điểm có chữ kí
cả bố và mẹ, mời bố mẹ đến gặp GVCN, lập biên bản kỉ luật trước lớp.
- 2 tháng liên tục hạnh kiểm yếu lập biên bản gửi lên hội đồng kỉ luật nhà
trường.
- Học sinh vi phạm nội quy của trường, lớp, hạnh kiểm xếp loại trung
bình, yếu giáo viên sẽ viết giấy thông báo về gia đình, học sinh phải phạt đi lao
động.
GVCN cần kích thích được tinh thần phê và tự phê, ý thức tự giác của tập
thể HS, giảng giải cho các em hiểu phải có trách nhiệm giúp nhau cùng tiến bộ,
mọi cá nhân trong tập thể lớp có vai trò bình đẳng, việc phê bình với mục đích
giúp nhau hoàn thiện chứ không mang tính chất chỉ trích, trù dập, cô lập nói xấu
nhau mà hướng tới mục đích chung đó là xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững
mạnh.
Hoạt động 2: Xây dựng và triển khai kế hoạch tuần tới
Dựa trên kết quả thi đua của lớp, kế hoạch của Đoàn trường, nhà trường,
dưới sự định hướng của GVCN, lớp trưởng phát thảo và phát động kế hoạch của
tuần tới bao gồm nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu nhằm khắc phục yếu kém, phát
huy thế mạnh. Tập thể lớp thảo luận và đi đến thông nhất phương án thực hiện.
Hoạt động 3: Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh theo chủ đề ( nếu có)
Hoạt động này được tôi thực hiện mỗi tháng một lần theo kế hoạch đầu
năm nhằm rèn luyện các kỹ năng cho HS như ở mục 3.7 dưới hình thức trả lời
13
câu hỏi có sự hỗ trợ của máy chiếu, đưa nhiều hình ảnh minh họa và những vấn
đề thực tế, có tính thời sự như “ Sống có niềm tin – Sống phải có ước mơ”,
“ Rung chuông vàng”, “ Sống phải biết tiết kiệm”,…Điều đó đã tác động đến ý
thức của các em
Hoạt động 4: GCVN góp ý, nhận xét và đánh giá
GVCN nhận xét, đánh giá kết quả của lớp chủ nhiệm thông qua các mặt sau:
+) Đánh giá phương pháp làm việc của BCS lớp ( góp ý, uốn nắn điều
chỉnh kỹ năng điều hành lớ của BCS)
+) Nhắc nhở, phê bình cá nhân vi phạm vừa nhẹ nhàng vừa cứng rắn
cương quyết, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi cá nhân hoặc tập thể
sai trái có ý định thực hiện.
+) Rút kinh nghiệm kết quả đạt được, bổ sung kế hoạch hoạt động ( nếu
cần)
+) Tuyên dương, động viên kịp thời các học sinh có sự cố gắng trong học
tập và rèn luyện ( có chuẩn bị quà )
Nội dung buổi sinh hoạt lớp cần phải cởi mở, thân thiện, là tiết học mà
học sinh cảm thấy nhẹ nhàng, hứng thú và vui vẻ, tránh sự nhàm chán, cứng
nhắc và căng thẳng cho HS. Vì vậy, GVCN cần lồng ghép các hoạt động văn
nghệ, trò chơi nhỏ, chuyện vui,… hợp lý trong các tiết sinh hoạt.
3.9. Quan tâm giáo dục học sinh cá biệt.
Giáo dục HS cá biệt là vấn đề mà GVCN thường gặp phải và cũng là vấn
đề mà chiếm nhiều thời gian, công sức, lo lắng và trăn trở nhất. Trong quá trình
là công tác chủ nhiệm, tôi nhận thấy giáo dục HS không có một công thức chung
nào, đặc biệt là đối với học sinh cá biệt, ta không thể chỉ dùng lý lẽ, nội quy rồi
áp dụng các hình thức trách – phạt mà cần tìm hiểu nguyên cơ thông qua gia
đình HS, bạn bè, môi trường sống,…
Khi mới nhận lớp tôi không khỏi bất ngờ vì kết quả xếp loại lớp 9 của
nhiều học sinh trong lớp, qua theo dõi từ nhiều “ kênh ” tôi phát hiện ra lớp có
nhiều em là học sinh cá biệt. Cụ thể: Em Nguyễn Thị Huyền Trang vướng vào
yêu đương, từng bỏ học bỏ nhà theo bạn đi chơi hàng tuần, tôi đã gặp riêng em
phân tích cho em thấy việc yêu đương sớm ảnh hướng đến kết quả học tập, ảnh
hưởng đến tương lai của em và giáo dục cho em ý thức trách nhiệm với bản thân
cũng như với gia đình, tâm sự với em cảnh mẹ gầy gò, khóc thương mỗi lần đi
tìm con, vô vọng. Cũng vướng vào vòng xoay của tình cảm, em Nguyễn Thị
Giang từng nạo phá thai, em sống khép mình, không nói chuyện và không tham
Em Nguyễn Đình Tốn là con một trong nhà được bố mẹ nuông chiều, mua
và cho sử dụng điện thoại iphone, em thường xuyên bỏ học vì nghiện game khi
bị giáo viên bộ môn nhắc nhở, em thường phản kháng lại một cách vô lễ, tôi đã
tới tận nhà gặp gia đình trao đổi, quán triệt với phụ huynh không cho HS sử
dụng điện thoại, phối hợp với gia đình quản lý chặt chẽ thời gian học tập ở
trường cũng như ở nhà, đồng thời tôi tâm sự với em về tấm lòng người mẹ để
em hiểu, biết thương mẹ hình ảnh người mẹ được cô giáo chủ nhiệm báo con
14
nghĩ học lặn lội đội mưa đi tìm con ở các quán điện tử, bị xe đâm phải nằm viện,
em đã khóc và tôi thấy mình đã thành công bước đầu. ( Mặc dù lúc đầu khi tới
gia đình em, bố mẹ yêu cầu em ra chào cô giáo nhưng em vẫn cố hữu trong nhà
không ra mà còn phản kháng lại, đòi bỏ học)
Em Nguyễn Duy Thắng và em Lê Văn Sơn bố mẹ ly dị đều lập gia đình
mới ở nơi khác, các em đều ở với ông bà nội đã già yếu điều đó đã ảnh hưởng
đến tư tưởng, tâm lý của các em, các em lì lợm, chơi bời, học hành sa sút. Đặc
biệt là em Nguyễn Thừa Toàn( Mồ côi từ lúc tuổi rưỡi) em là học sinh lưu ban
của hai khóa trước, bỏ học vào nam đi làm, nổi tiếng quậy phá, tôi đã kiên trì,
tìm hiểu tâm tư tình cảm của các em và nhận thấy các em đều bị tổn thương tinh
thần. Xuất phát từ trái tim, bằng tình cảm chân thành của người mẹ, người chị
tôi đã lắng nghe, khuyên nhủ và động viên các em, hướng các em vươn tới cuộc
sống tốt đẹp hơn thay vì cách nghĩ đầy cực đoan mà các em phải gánh chịu.
Đồng thời tôi trao đổi với GVBM hiểu hoàn cảnh của các em, có biện pháp hỗ
trợ, giúp đỡ động viên các em trong học tập. Dần dần các em có những chuyển
biến rõ rệt, cởi mở hơn hòa đồng hơn.
Em Lê Đình Anh hay nói chuyện, nói leo, làm việc riêng và thường xuyên
không học bài cũ, tôi đã chuyển chỗ ngồi cạnh các em chăm ngoan, học tốt và
yêu cầu bạn nữ ngồi cạnh giúp đỡ, kiểm tra bài tập đã khắc phục được tình
trạng.
Tôi thiết nghĩ, con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất khi giáo dục HS cá
biệt đó là phải tiếp cận, gần gũi, quan tâm đến các em như con em mình, động
viên, khích lệ các em học tập, cùng tháo gỡ những vướng mắc trong cuộc sống
mà các em gặp phải. Bằng sự chân thành, tấm lòng yêu nghề yêu trẻ, bằng sự
mềm mỏng, linh hoạt nhưng cũng rất cứng rắn, nghiêm khắc chắc chắn sẽ gây
dựng được niềm tin yêu của các em .Từ đó cảm hóa các em, đưa các em về cuộc
sống đời thường.
4. Kiểm nghiệm
Việc áp dụng đồng bộ các biện pháp trên, tôi đã đưa lớp trở thành lớp tiên
tiến xuất sắc được nhà trường và Đoàn trường ghi nhận
4.1. Đối với học tập và rèn luyện
a. Khi chưa áp dụng các biện pháp
Năm học
2015- 2016
Học kì 1
Học lực
Khá
6%
Danh
hiệu
thi đua
Hạnh kiểm
TB
86,8
Yếu
7,2%
Tốt
25,2%
Khá
52,3%
TB
10,5%
Yếu
12%
Không
15
b. Khi áp dụng các biện pháp:
Năm học
Học lực
2015-2016 Khá
TB
Yếu
18%
79,8% 2,2%
Học kì 2
2016-2017 44,4% 55,6% 0%
Danh hiệu
thi đua
Hạnh kiểm
Tốt
Khá
54,2% 36,9%
55%
45%
TB
Yếu
6,7%
2,2%
0
0
Lớp xuất sắc
Lớp xuất sắc
4.2. Đối với các phong trào khác
* Các thành tích chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11:
- Giải nhất cuộc thi đá cầu đôi nam
- Giải nhất phong trào “ thi đua giờ tốt - nề nếp tốt”
- Giải nhất văn nghệ, giải nhì báo tường
- Giải ba của em Nguyễn Thị Phương Thảo điểm tốt
- Giải nhì tập thể giải báo bảng
* Các thành tích chào mừng ngày 8/3 và ngày thành lập Đoàn
- Giải ba cuộc thi “ Khéo tay hay làm”
- Giải nhì cuộc thi bóng đá nam
- Giải nhất cuộc thi “ Trang trí lớp học thân thiện”
- Giải ba chăm sóc bồn hoa
Năm học 2015 -2016, năm học 2016 -2017 được nhà trường công nhận là
tập thể lớp xuất sắc và bản thân tôi được công nhận GCVN giỏi.
16
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Tôi thiết nghĩ dù công tác chủ nhiệm là một công việc khó khăn và phức
tạp nhưng nếu người GVCN ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình, luôn
luôn trau dồi không chỉ kiến thức chuyên môn mà cả “vốn” sống bắt kịp với
thời đại, tâm huyết với trò, luôn quan tâm, yêu thương các em chân thành, cư xử
nhẹ nhàng, chuẩn mực đối với từng học sinh. Luôn lắng nghe các em và nắm bắt
tâm tư tình cảm của từng em, điều chỉnh uốn nắm những hành động, suy nghĩ sai
lệch kịp thời.
Tạo cho các em có niềm tin, lý tưởng về cuộc sống, biết nuôi dưỡng
những ước mơ và có ý thức biến ước mơ thành hiện thực, tạo cho các em một
sân chơi phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập cũng như
trong sinh hoạt tập thể, kêu gọi được tinh thần tương thân tương ái tạo thành một
khối đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Các em thấy được sức mạnh của tập
thể
Đồng thời, biết tổng hợp sức mạnh của các lực lượng trong và ngoài nhà
trường cùng chung tay xây dựng và chăm lo cho các em môi trường giáo dục
lành mạnh an toàn, tôi tin là sẽ tác động đến ý thức, tâm hồn của các em, đưa tập
thể lớp đi lên, đạt kết quả đào tạo giáo dục con người.
2. Kiến nghị
Đề nghị với Sở giáo dục & Đào tạo mở các lớp tập huấn bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác chủ nhiệm, tâm lý lứa tuổi học đường
Đề nghị BGH nhà trường quan tâm hơn nữa đến công tác chủ nhiệm lớp
Mặc dù cố gắng tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng thực hiện lớp học sinh mình chủ
nhiệm song chắc chắn còn có nhiều thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong được sự
quan tâm của tất cả các đồng nghiệp bổ sung và góp ý cho tôi. Tôi xin chân
thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày.... tháng ... năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Lê Mai
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu bổ trợ giáo viên tập sự công tác chủ nhiệm lớp
Nhà xuất bản Giáo dục
2. Bộ sách “ Hạt giống tâm hồn”
Nhà xuất bản Giáo dục
3. Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm - PGS Lê Văn Hồng( Chủ
biên) Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
4. Bản lĩnh sống – TS Huỳnh Văn Sơn
Nhà xuất bản Trẻ
5. Nhập môn kĩ năng sống
Nhà xuất bản Giáo dục
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT
Họ và tên tác giả:
Lê Mai
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT Đông Sơn 2
TT
Tên đề tài SKKN
1.
Một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng trong dạy học
2.
giải bài tập lượng giác
Phát triển năng lực khái quát
hóa cho học sinh thông qua
3.
khai thác các bài toán
Phát huy năng lực huy động
kiến thức cho học sinh trong
Cấp đánh
Kết quả
giá xếp loại
đánh giá
Sở
xếp loại
GD&ĐT
Sở
C
GD&ĐT
Năm học
đánh giá xếp
loại
2008 - 2009
Sở
GD&ĐT
B
2009 - 2010
Sở
GD&ĐT
C
2010 - 2011
Sở
GD&ĐT
C
2011 - 2012
dạy học giải bài tập hình học
4.
không gian
Dạy học giải bài tập SGK
18
hình học 10 theo quan điểm
hoạt động ( Nhằm bồi dưỡng
năng lực giải toán cho học
sinh trung bình – yếu ).
5.
Phát huy năng lực huy động
kiến thức trung gian, nhằm
Sở
GD&ĐT
C
2014 - 2015
bồi dưỡng các tư duy trí tuệ
cho học sinh thông qua dạy
học giải phương trình – bất
phương trình vô tỉ
19
20