Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Vai trò của GVCN trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua hoạt động trải nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 25 trang )

MỤC LỤC

Trang
I. MỞ ĐẦU

1

1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

1

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

1.5. Tính mới của giải pháp so với giải pháp đã được áp dụng.

2

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2


2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

4

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

7

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

9

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

12

3.1. Kết luận

12

3.2. Kiến nghị

13

TÀI LIỆU THAM KHẢO


15

Các thuật ngữ viết tắt: KNS- Kỹ năng sống
THPT- Trung học phổ thông.
GVCN - Giáo viên chủ nhiệm


I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, trải nghiệm sáng
tạo là hoạt động giáo dục trong nhóm các môn học bắt buộc[6]. Đây là hoạt
động giáo dục và dạy học được tổ chúc trong môi trường học tập bằng chính sự
trải nghiệm của mỗi cá nhân. Học sinh được tham gia trực tiếp vào hoạt động để
phát huy năng lực sáng tạo, thích ứng với bối cảnh. [2]Điều 2 của Luật giáo dục
năm 2005, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo
đức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc
và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy nhiên qua
thực tế giảng dạy những năm qua tôi nhận thấy một thực trạng đáng báo động về
học sinh THPT là các em có quá ít hiểu biết, sống không có chí hướng rõ ràng,
lười lao động, ngại khó, ngại khổ. Một số em có biểu hiện giảm sút lòng tin, có
lối sống lệch lạc dễ bị lôi kéo vào những hành vi phạm pháp.Điều đó là do ngoài
những yếu tố môi trường xã hội, bản thân các em ra thì không thể phủ nhận một
điều là hiện nay nội dung và các phương pháp giáo dục trong nhà trường còn coi
trọng việc dạy chữ, chưa chú trọng đúng mức dạy làm người, nhất là việc giáo
dục KNS cho học sinh. Trong quá trình dạy học dường như giáo viên chỉ quan
tâm đến việc hình thành các kĩ năng mang tính kĩ thuật, gắn với chuyên môn,
gắn với các môn học cụ thể. Trong khi đó, việc hình thành KNS cho HS qua các
hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một mục tiêu ẩn của quá trình dạy học. [3]Đây
là điều người học cần có, cần sử dụng trong cuộc sống hàng ngày để các em trở

thành công dân đích thực đóng góp cho sự nghiệp phát triển của xã hội hiện đại.
Chính vì vậy ngoài việc trang bị cho học sinh vốn kiến thức cơ bản trong học
tập, lao động còn phải giáo dục học sinh có kỹ năng sống, kỹ năng làm người để
học sinh có thêm kinh nghiệm thích ứng với môi trường, xã hội mới.. Xuất phát
từ những lí do trên mà với cương vị và trách nhiệm của một giáo viên chủ nhiệm
lớp 12A5 tôi đã lên kế hoạch cùng học sinh trải nghiệm và tham quan lữ đoàn
368 tại thị xã Bỉm Sơn. Nhằm mục đích nhân rộng cách làm này tôi tiến hành
chia sẻ kinh nghiệm của cá nhân thông qua sáng kiến kinh “Vai trò của GVCN
trong Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT qua hoạt động trải nghiệm
”. Vì đây là đề tài khá mới tại một trường miền núi, gặp nhiều khó khăn trong
việc thực hiện, sử dụng các phương pháp nghiên cứu và được thực hiện lần đầu
tiên tại đơn vị. Nên việc nghiên cứu đề tài còn gặp nhiều khó khăn rất mong các
đồng nghiệp đóng góp và giúp đỡ.
1.2. Mục đích nghiên cứu


- Trải nghiệm cuộc sống quân đội.
- Rèn luyện tính kỷ luật, sự đoàn kết, tính đồng đội và tinh thần tập thể.
- Đề cao tinh thần vượt khó, lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh THPT
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn
- Học sinh tự trải nghiệm là chính.
Trên đây là một số phương pháp tiêu biểu mà tôi đã áp dụng trong đề tài sáng
kiến kinh nghiệm này. Vì mỗi phương pháp đều có cái hay trong quá trình áp
dụng thực hiện. Nếu chúng ta áp dụng đúng phương pháp trong từng thời điểm
thích hợp thì hiệu quả đạt được rất tốt trong việc thực hiện đề tài sáng kiến kinh

nghiệm.
1.5. Tính mới của giải pháp so với giải pháp đã được áp dụng.
- Các đề tài, sáng kiến kinh nghiệm trước đây đã nghiên cứu về giáo dục kỹ
năng sống thông qua các môn học tại lớp. Sáng kiến này giáo dục kĩ năng sống
qua hoạt động trải nghiệm tại lữ đoàn pháo binh 368 của các em học sinh. Chính
các em là người tích hợp được các kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề trong
thực tiễn.
- Sáng kiến có thể ứng dụng rộng rãi trong các trường THPT
- Kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà
trường.
- Học sinh yêu trường, yêu lớp, yêu các hoạt động,chủ động tự tin bước vào
cuộc sống sau khi rời ghế nhà trường.
-Sáng kiến phát huy rất tốt việc tích lũy kiến thức cho học sinh và đặc biêt chú
trọng đến việc định hướng cho học sinh học tiếp một ngành nghề phù hợp sau
khi tốt nghiệp. Với vốn kiến thức tích lũy được, học sinh có thể học tiếp ở
trường dạy nghề hoặc học tiếp ở đại học.
II.

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.


Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thể quan niệm là việc tổ chức các hoạt
động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một cách
tích cực chủ động vào các quá trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay đổi
hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn
diện; giúp học sinh có thể sông an toàn, khỏe mạnh và tích cực , chủ động trong
cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giáo dục cho các
em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các

em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện
nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ
năng phù hợp[5].
*Kỹ năng sống là gì? [3]
Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi định
nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp cận khác nhau. Thông thường, kỹ
năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành mà con người cần để có được
sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao.
- Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), kỹ
năng sống là năng lực cá nhânđể họ thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia
vào cuộc sống hàng ngày, những kỹ năng đó gắn vói 4 trụ cột của giáo dục:
Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết
định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm…;
Học để làm: gồm kỹ năng thực hiện công việcvà nhiệm vụ như kỹ năng
đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm..;
Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng,
kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…;
Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng
định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông;
- Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kỹ năng sống là kỹ năng thiết thực mà
con người cần để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh, đó là những kỹ năng tâm
lý xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người
khác một cách hiệu quả hoặc ứng phó với những vấn đề hay thách thức của cuộc
sống hằng ngày.
Tương đồng với quan niệm của WHO, còn có quan niệm kỹ năng sống là
những kỹ năng tâm lý xã hội liên quan đến những tri thức, những giá trịvà
những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng những hành vi làm cho các cá
nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của
cuộc sống.



- Theo UNICEFF, Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội
và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao
tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân
nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Kỹ năng sống được
thể hiện ở những hành động cá nhân và những hành động đó sẽ tác động đến
những hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động
nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
Có thể thấy rằng kỹ năng sống bao gồm một loạt các kỹ năng cụ thể, cần
thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Về bản chất, đó là kỹ năng tự
quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống,
học tập và làm việc hiệu quả… Nói các khác kỹ năng sống là khả năng làm chủ
bản thân của mỗi con người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và
với xã hội, khả năng ứng phó trước các tình huống của cuộc sống. Kỹ năng sống
hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị trong
những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng.
Kỹ năng sống được hình thành thông qua một quá trình sống, rèn luyện, học
tập trong gia đình, nhà trường và ngoài xã hội. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi
người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình,
cộng đồng, dân tộc. Kỹ năng sống mang tính cá nhân bởi vì đó là khả năng của
mỗi cá nhân. Mặt khác kỹ năng sống có tính xã hội là vì trong mỗi giai đoạn của
sự phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có sự phù hợpvới
những kỹ năng sống ấy. Ví dụ: kỹ năng sống của những người sống ở những
vùng miền khác nhau có sự khác nhau…
Đặc điểm tâm sinh lý trẻ:
- Đặc điểm về thể chất : Cơ thể là nền tảng vật chất của trí tuệ và tâm hồn.
Nền tảng có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt. “Thân
thể khoẻ mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt”, ngược lại “tinh thần sáng
suốt thì cơ thể có điều kiện phát triển”. Trong cuộc sống thực tế cho thấy những
em có thể lực yếu thường hay ỷ lại, phụ thuộc nhiều vào những người thân trong

gia đình những việc làm tự phục vụ mà lẽ ra chính trẻ phải tự làm, tự lập dần:
nấu cơm, rửa bát, lau dọn nhà cửa,...
Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thầy, cô giáo nên chúng thường bắt
chước những cử chỉ tác phong của thầy, cô giáo mình. ở trường các em còn được
tiếp xúc với bạn bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt động tập thể cũng
ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách và giáo dục kỹ
năng sống cho các em.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm


Qua nhiều năm công tác ở trường THPT Thạch Thành III, tôi thấy thực tế
của vấn đề này là:
1. Về giáo viên:
- Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa
chịu khó tìm tòi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động này
nên làm mất sự hứng thú của học sinh.
-Công tác chủ nhiệm lớp ở trong trường đôi lúc chưa được quan tâm đúng lúc.
Giáo viên mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác nhau. Nhiều giáo
viên vẫn coi nhẹ việc rèn luyện các kĩ năng sống cho học sinh.
2. Về học sinh:
- Học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng
tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. Tinh thần tập thể chưa cao.
- Học sinh chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong cuộc
sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, thường nóng nảy, gây gổ lẫn nhau, không có
tính kỉ luật.
- Kỹ năng giao tiếp hạn chế, hay nói tục, chửi bậy.
-Một số em thiếu niềm tin vào cuộc sống, thích hưởng thụ, thích sống ảo.
-Nhiều em chưa có định hướng nghề nghiệp, lựa chọn nghề theo trào lưu bạn bè.
3. Về Phụ huynh:

-Nguyên nhân khiến đa phần học sinh khó tiếp cận được các hoạt động kỹ năng
thực hành xã hội là do phụ huynh không cho phép. Đa số phụ huynh cho rằng
con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức.
-Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên hướng
cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử
trong gia đình.
-Phần lớn ở gia đình phụ huynh giao tiếp trong gia đình còn nhiều hạn chế, xưng
hô chưa chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
4. Về nhà trường.
Trường THPT Thạch Thành III là một trường miền núi nằm ở phía Bắc
của huyện Thạch Thành, cách trung tâm huyện 12 km, trường có điều kiện kinh
tế xã hội khó khăn. Học sinh chủ yếu là dân tộc Mường, vùng 135. Trình độ dân
trí, đời sống nhân dân trên địa bàn nhìn chung ở mức thấp và không đồng đều,
sự giao lưu học hỏi về văn hóa giữa các vùng miền còn hạn chế. Tất cả những lí
do trên ảnh hưởng không nhỏ tới công tác giáo dục toàn diện của nhà trường.


Tuy nhiên vượt lên khó khăn thì từ khi thành lập đến nay trường luôn hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ, nhiều năm liền luôn là một trong top đầu của khu vực
miền núi. Trong hoạt động chuyên môn dạy và học, Nhà trường thường xuyên
nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh, không ngừng đổi mới PPDH phù hợp với nội dung
chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc "Giáo dục kỹ năng sống" cho học
sinh. Nhà trường coi đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong
việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Chính vì thế ngay sau khi Bộ Giáo dục đào
tạo đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào các môn học và hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường tiến hành triển khai đồng bộ đến
toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện kỹ năng sống cho học
sinh. [4 ]Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Mỗi thầy, cô giáo tâm huyết, trách nhiệm hơn trong

việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Mỗi giáo viên trong nhà trường
không chỉ nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, mà còn thường xuyên
quan tâm đến đời sống, tâm tư tình cảm của học sinh.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường, ngoài việc lồng
ghép vào các môn học hàng ngày, hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong
những con đường giáo dục có hiệu quả trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh. Chính vì thế ngoài việc xây dựng và hoàn thiện các quy tắc ứng xử văn
hóa trong nhà trường, bằng nhiều hình thức khác nhau nhà trường thường xuyên
tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa ;tham gia các hoạt động dọn vệ sinh
bảo vệ môi trường, tổ chức các hoạt động quyên góp ủng hộ bạn nghèo, bạn bị
bệnh tật hiểm nghèo...Thông qua những hoạt động này, nhà trường muốn rèn
luyện cho các em học sinh tính đoàn kết tập thể, khả năng làm việc theo nhóm.
Đồng thời xây dựng tinh thần chia sẻ, ý thức trách nhiệm và tinh thần vượt khó
vươn lên trong cuộc sống cho các em.
Chính nhờ việc chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà
trường đã tạo tinh thần đoàn kết, gắn bó, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong học
tập, học sinh nỗ lực tiếp thu bài giảng và tìm tòi những kiến thức liên quan đến
bài học để liên hệ áp dụng vào thực tiễn, qua đó phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Các em cảm thấy rất vui và biết thêm nhiều kiến
thức. Nhờ đó các em biết tự chăm sóc bản thân như là tự sắp xếp góc học tập
thật ngăn nắp, tự giặt quần áo cho mình, vệ sinh cá nhân và môi trường sống....
Ngoài ra, em còn giúp bố mẹ nhiều việc nhà. Đây được xem là bước tiến quan
trọng trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục xem học sinh là trung


tâm, góp phần tạo điều kiện cho việc hoàn thiện nhân cách học sinh ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường.
Với vai trò là một giáo viên chủ nhiệm đã đi theo các em gần hết chặn đường
THPT tôi cũng thấy được sự cần thiết của kĩ năng sống là rất quan trọng. Hơn
nữa là người mẹ, cũng có những đứa con rất là thiếu những kĩ năng cơ bản trong

cuộc sống thực tế. Nên tôi luôn mong muốn làm được điều gì đó nhằm hỗ trợ tốt
nhất cho các em học sinh của mình nên đã viết và thực hiện chuyên đề "Vai trò
của GVCN Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh học sinh THPT qua hoạt
động trải nghiệm".
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thời gian học tại trường còn ít thì quá
trình thực hiện chuyên đề này là một việc làm vô cùng cần thiết giúp cho các
em say mê, hứng thú trong học tập, các em thấy mình mạnh dạn hơn trong giao
tiếp, tự tin hơn trong việc thể hiện những năng lực của bản thân . Khi trở lại lớp
học thì ý thức xây dựng tập thể, tinh thần đoàn kết trong lớp được cải thiện rõ
rệt.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
* Xây dựng kế hoạch:
Ngay từ đầu năm học tôi đã tham mưu với BGH nhà trường và đoàn trường
kế hoạch giáo dục KNS thông qua hoạt động trải nghiệm cho các HS lớp tôi chủ
nhiệm. Và ngay trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đặt vấn đề, triển khai
nội dung đến các bậc phụ huynh. Và được sự ủng hộ, nhất trí 100% của tất cả
các bên liên quan. Đây là phần quan trọng trong kế hoạch chuyên môn của nhà
trường nên nhà trường ủy quyền, giao trách nhiệm trực tiếp cho tôi trước phụ
huynh, học sinh và với đơn vị phối hợp.
+ Thời gian và môi trường giáo dục: Cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 ( chào
mừng tháng thanh niên và đây là thời gian hợp lí để các em HS tham gia hoạt
động trải nghiệm trong năm học trừ thời gian ôn thi)
Môi trường : Lữ đoàn pháo binh 368 Thị xã Bỉm Sơn ,Thanh Hóa ( địa điểm này
cách trường 20km; môi trường quân đội lành mạnh, an toàn, nhiệt tình,.....và
quan trọng là không tốn kém bất kỳ khoảng gì ngoài tiền ăn. Đây là điều quan
trọng đối với một trường miền núi còn nhiều khó khăn như THPH Thạch Thành
III)

Bản kế hoạch trải nghiệm và học kỹ năng sống tại lữ
đoàn pháo binh 368

I.

Nơi đi: Trường THPT Thạch Thành 3. Huyện Thạch Thành
Nơi đến: Lữ đoàn pháo binh 368 Thị xã Bỉm Sơn.
Chuẩn bị:


1.Số lượng thành viên: 38 học sinh lớp và GVCN.
- Hành trang chuẩn bị: Đồ dùng cá nhân cần thiết
- Phương tiện di chuyển: ô tô ( tiền quỹ lớp)
- Chi phí phát sinh: Học sinh tự chịu.
- Ăn trưa:
2. Mục tiêu của chuyến đi:
- Trải nghiệm thực tế cuộc sống trong quân đội.
- Rèn luyện tính kỉ luật, sự đoàn kết, tính đồng đội, tính tập thể
- Thực hành kỹ năng sống cho HS.
- Đề cao tinh thần vượt khó, lòng yêu nướcvà sự tự hào dân tộc.
* GVCN liên hệ trước lữ đoàn để HS có thể:
- Thăm nhà truyền thống lữ đoàn.
- Thăm quan khu tăng gia sản xuất; thao trường luyện tập của Lữ đoàn
- Thăm quan nơi ăn, ở của người lính.
Chuẩn bị những tài liệu về lữ đoàn như lịch sử thành lập và những thành tựu đạt
đã được của lữ đoàn pháo binh 368.
2. Hoạt động Trải nghiệm:
1. Nội dung hoạt động:
- Tập trung quân số và giới thiệu hoạt động của bộ đội trong ngày. HS nghe và
ghi nhớ.
-Nghe hướng dẫn và trải nghiệm sắp xếp nội vụ;
-Giới thiệu điều đội ngũ tay không. HS thực hành theo
-Giới thiệu bắn súng tiểu liên AK. Trải nghiệm “Em làm chú bộ đội”.

- Nghỉ cơm trưa; HS ăn theo đúng tiêu chuẩn bữa ăn bộ đội.
-Thăm nhà truyền thống, nghe về lịch sử thành lập và phát triển của lữ đoàn .
-Tham quan khu tăng gia của bộ đội; trải nghiệm “Em làm nông dân”
- Tham quan khu kỹ thuật. HS quan sát những vũ khí hiện đại của QĐNDVN.
- Tham quan khu nội trú ( nơi ăn, ở,….. của chú bộ đội)
-Tham quan nơi thao trường luyện tập của người lính , xem duyệt đội hình , đội
ngũ,…
- Trở về hội trường giao lưu văn nghệ: hát những bài hát về người lính; đọc
những bài thơ nói về bộ đội.
- Ra sân bóng giao lưu bóng đá nam, chơi những trò chơi lành mạnh.
-Kết thúc, lên xe về trường.
2. Tổ chức hoạt động
GV phân chia từng nhóm học sinh những nhiệm vụ cụ thể.
Nhóm 1: Tìm hiểu về lịch sử thành lập Lữ đoàn.


Nhóm 2: Những công việc thường nhật của người bộ đội theo ngày, tuần,...
Nhóm 3: Các quy định chung trong quân đội.
Nhóm 4: Công tác sắp xếp nội vụ trong quân đội.
HS chuẩn bị những tiết mục giao lưu cùng bộ đội:
-Giao lưu văn nghệ: Những bài thơ, bài hát về người lính.
-Giao lưu thể thao: Bóng đá nam; Tổ chức các trò chơi lành mạnh cho HS
III. Những bài học rút ra khi trải nghiệm:
-Sau chuyến đi HS đã đạt được những kế quả gì?
-Đã đạt được những mục tiêu đề ra chưa?
*Sản phẩm sau chuyến đi :
-HS biết cách sắp xếp đồ dùng cá nhân của mình một cách nhanh nhất, gọn gàng
và khoa học hơn.
-HS biết cách tự chăm sóc bản thân mình tốt hơn khi khi không có bố mẹ ở bên (
rèn luyện thể thao, làm việc nhà, học tập,….)

-HS biết sắp xếp thời gian biểu một ngày của mình khoa học và hợp lý hơn.
-Các em cũng biết cách tự điều chỉnh cái tôi của mình khi sống và học tập trong
môi trường tập thể ( biết yêu thương,nhường nhịn, đoàn kết và giúp đỡ nhau
trong cuộc sống,…)
-Biết yêu thương gia đình của mình hơn, sống có trách nhiệm hơn.
-Các em cũng sẽ có ý chí phấn đấu hơn, có tinh thần vượt khó để vươn lên trong
học tập và trong cuộc sống,…
-HS cũng biết vì sao “kỷ luật là sức mạnh của quân đội” từ đó về lớp sẽ có thể
thực hiện “ đoàn kết tốt kỷ luật tốt”,….
2.4.Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục:
Trong thời gian công tác tại trường TH PT Thạch Thành III tôi đã điều tra
nghiên cứu và thử áp dụng thực tế đã được các động nghiệp trong trường đồng
tình ủng hộ. Khi thực hiện sáng kiến này tôi đã nhận thấy sự hào hứng, sôi nổi
của HS. Nhiều em HS rụt rè, ít nói nay đã cởi mở hơn trong giao tiếp và tham
gia các hoạt động do trường lớp tổ chức. Các em thực sự chủ động giải quyết và
ứng phó trước các tình huống ứng phó trong thực tiễn. Kết quả cho thấy HS
ngoan hơn, tự giác chủ động, mạnh dạn hơn, đã thể hiện được cách xử lý trong
ứng xử khá phù hợp. Nhiều em đã có ý thức kỷ luật tốt hơn, biết vươn lên trong
học tập và trong cuộc sống.Chất lượng học tập và rèn luyện của học sinh lớp chủ
nhiệm được Ban chấp hành Đoàn trường, ban giám hiệu đánh giá rất cao. Tập
thể lớp 12A5 luôn xếp thứ tự cao trong bảng xếp loại thi đua của Đoàn trường.
- Khảo sát lớp Năm học 2017-2018:


Học sinh vi phạm lỗi

TSHS

38


Thái độ học trên lớp

Đi học muộn
(lượt)

Nghỉ học (lượt)

Tự giác không
cần nhắc nhở
(HS)

Chưa tự giác,
thầy cô phải
nhắc nhở nhiều
(HS)

SL

SL

SL

SL

21

68

20


13

Khảo sát lớp Năm học 2018-2019:
Học sinh vi phạm lỗi

TSHS

38

Thái độ học trên lớp

Đi học muộn
(lượt)

Nghỉ học (lượt)

Tự giác không
cần nhắc nhở
(lượt)

Chưa tự giác,
thầy cô phải
nhắc nhở nhiều
(lượt)

SL

SL

SL


SL

8

32

29

4

Khảo sát lớp năm học 2018-2019: Nội dung khảo sát: Thảo luận nhóm qua
quan sát
Thực hành thảo luận nhóm
TSHS

38

Biết cách lắng nghe, hợp tác

Chưa biết cách lắng nghe, hay tách
ra khỏi nhóm

SL

%

SL

%


38

100

0

0

- Sau sáng kiến kinh nghiệm này tôi dự định sẽ tiếp tục nghiên cứu để thiết
kế thêm hình thức và tìm thêm biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho HS được
phong phú hơn.
3. Phát huy vai trò, tác dụng và hiệu quả của hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh:
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống là hoạt động được tổ chức theo mục tiêu,
nội dung, chương trình dưới sự hướng dẫn của giáo viên[4]. Bản chất của hoạt


động này là thông qua các loại hình hoạt động, các mối quan hệ nhiều mặt,
nhằm giúp người học chuyển hoá một cách tự giác, tích cực tri thức thành niềm
tin, kiến thức thành hành động, biến yêu cầu của nhà trường thành chương trình
hành động của tập thể lớp học sinh và của cá nhân học sinh, tạo cơ hội cho học
sinh trải nghiệm tri thức, thái độ, quan điểm và hành vi ứng xử của mình trong
môi trường an toàn, thân thiện có định hướng giáo dục. Thông qua hoạt động
giáo dục kỹ năng sống có thể giúp học sinh sống một cách an toàn , khoẻ mạnh
có khả năng thích ứng với biến đổi của cuộc sống hàng ngày. Rèn luyện cho học
sinh các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi như : kỹ năng giao tiếp ứng xử có
văn hoá; kỹ năng tổ chức quản lý và tham gia các hoạt động tập thể với tư cách
là chủ thể của hoạt động; kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn
luyện; củng cố, phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học tập, lao động và

công tác xã hội. Bồi dưỡng thái độ tự giác tích cực tham gia các hoạt động tập
thể và hoạt động xã hội; hình thành tình cảm chân thành, niềm tin trong sáng với
cuộc sống, với quê hương đất nước; có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng
tự nhiên và xã hội. Như vậy, hoạt động giáo dục kỹ năng sống thực sự cần thiết.
Do đó cần phát huy tối đa vai trò, tác dụng và hiệu quả của hoạt động giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống là việc cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, hoàn cảnh, hoạt động của từng loại đối
tượng cụ thể. Việc giáo dục kỹ năng sống trong trường học có thể tiến hành theo
những phương án sau:
-Lồng ghép các nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học có ưu thế và
các hoạt động giáo dục khác của nhà trường.
-Tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học, vào các hoạt động
giáo dục khác.
-Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh, chơi
các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các hoạt
động rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết
tốt, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế bản
thân trong khi xử lí các tình huống với bạn bè.
-Tổ chức hoạt động ngoại khoá chuyên đề “Giáo dục kỹ năng sống cho HS”, tạo
cho HS một sân chơi để HS được thực hành kỹ năng sống, được giao lưu, được
tư vấn về kỹ năng sống để hiệu quả rèn kỹ năng sống cho học sinh được nâng
lên gắn liền với thực tế cuộc sống.


-Tổ chức các hoạt động lao động vừa sức với học sinh: vệ sinh sân trường, lớp
học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường, ; học sinh được
rèn một số kỹ năng như: cầm chổi quét, hót rác, tưới cây, tỉa lá,...; thông qua đó
HS biết sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.
-Giáo viên không chỉ nhằm hình thành những khái niệm khoa học, cách làm việc

trí óc mà còn hướng dẫn tới sự tạo dựng phát triển các nhân cách của học sinh.
Đặc biệt trẻ tiểu học thường hay bắt chước người lớn và rất tin tưởng ở các thầy
giáo, cô giáo. Vì vậy, mỗi giáo viên cũng phải luôn thường xuyên tự rèn kỹ năng
sống, luôn thể hiện là tấm gương trong sáng, mẫu mực cho học sinh noi theo.
-Giáo viên cần thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo của học sinh (VD: sử dụng phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương pháp đóng vai,...; biết lựa chọn phối
kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.); qua các hoạt
động học tập, học sinh được rèn các kỹ năng phân tích, tổng hợp, tư duy sáng
tạo, hợp tác theo nhóm, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hợp tác trong nhóm, kỹ năng
xử lý tình huống,...
-Mở các lớp tập huấn nhằm giới thiệu, nâng cao nhận thức, hiểu biết và ý thức
rèn kỹ năng sống cho giáo viên, phụ huynh, cộng đồng và học sinh.
-Tổ chức các nói chuyện chuyên đề cho giáo viên, phụ huynh, cộng đồng và học
sinh.
- Tổ chức các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động dã ngoại.
-Tổ chức tốt các hoạt động xã hội, hoạt động đoàn thể
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận:
Sau khi tiến hành giáo dục KNS cho HS qua hoạt động trải nghiệm tại lữ
đoàn pháo binh 368 tôi đã rút ra những kết luận như sau:
Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy đồng thời kiêm nhiệm GVCN tại
trường phổ thông, tôi nhận thấy việc giáo dục KNS cho học sinh là việc làm rất
cần thiết.
1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động, để học sinh tự
cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kỹ năng;
thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường làm tốt công tác xã hội hoá
trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.



2. Giáo dục kỹ năng sống trong trường học góp phần rèn luyện, hình thành cho
học sinh sống có trách nhiệm hơn và biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp, ứng
phó với các sức ép, thách thức trong cuộc sống; thúc đẩy hành vi mang tính xã
hội, giảm bớt tỷ lệ phạm pháp.
3. Giáo dục kỹ năng sống còn tạo mối quan hệ thân thiện, cởi mở giữa thầy, trò,
sự hứng thú tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập, nâng cao chất lượng, hiệu
quả giáo dục. Học sinh được giáo dục kỹ năng sống xác định được bổn phận và
nghĩa vụ của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.
4. Giáo dục kỹ năng sống còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của
người thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của
người thầy. Vì vậy, để học sinh không thất vọng vì thầy thì trước hết “mỗi thầy
cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đang
vận động.
5. Giáo dục kỹ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung,
nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động.
6. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không phải là công việc “một sớm, một
chiều” mà đòi hỏi phải có quá trình, kiên nhẫn và bằng cả tâm huyết và ở mọi
lúc, mọi nơi, thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Kỹ năng sống rất đa
dạng và mang đặc trưng vùng, miền đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng một
cách linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc
điểm, hoàn cảnh của nhà trường, địa phương.
7. Giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường
mà của cả xã hội, cộng đồng, có như vậy mới mong đào tạo ra được những thế
hệ trẻ phát triển toàn diện, chuẩn bị tốt cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Bằng trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham gia, vừa là
người thiết kế và tổ chức các hoạt động cho chính mình nên học sinh không
những biết cách tích cực hóa bản thân, khám phá bản thân, điều chỉnh bản thân
mà còn biết cách tổ chức hoạt động và biết làm việc có kế hoạch, có trách
nhiệm[6]

3.2. Kiến nghị.
- Cần xậy dựng lại nội dung giáo dục KNS, hoạt động trải nghiệm một cách bài
bản có tính khoa học, logíc chặt chẽ và đầy đủ hơn.
- Phát huy hơn nữa vai trò của giáo viên đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm.


- Khích lệ giáo viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng.
- Nên phối kết hợp chặt chẽ với PHHS trong việc quản lý con em.
- Nếu có thể nên kết nghĩa với một đơn vị quân đội để hoạt động thuận lợi hơn.
- Nên tiến hành mở rộng đề tài theo hướng kết hợp với Đoàn trường, các tổ chức
xã hội khác.
- Cần có sự kết nối giữa gia đình - nhà trường - xã hội nhằm đạt hiệu quả cao
nhất trong công tác giáo dục KNS. Bằng cách phối hợp cho học sinh những buổi
tham quan thực tế, những buổi giao lưu ngoại khóa với các đơn vị bạn,…
Với những hiểu biết của bản thân, tinh thần dám nghĩ dám làm, sự nhiệt huyết
của một giáo viên làm công tác chủ nhiệm tôi thực hiện chuyên đề này với mong
muốn cùng với nhà trường và PHHS hỗ trợ cho các em sẽ có được những kĩ
năng quan trọng, cần thiết trong cuộc sống. Trong khuôn khổ của một sáng kiến
kinh nghiệm, thời gian nghiên cứu chưa dài, đối tượng nghiên cứu còn ít nên kết
quả không tránh khỏi mang màu sắc cá nhân, rất mong nhận được sự góp ý của
các bạn bè đồng nghiệp để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Trên đây chỉ là sáng kiến kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn quá trình tổ chức
thực hiện ở trường chúng tôi. Tuy nhiên do năng lực bản thân nên chắc chắn
rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì thế tôi rất mong được sự góp ý
chân tình của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ


Phó Hiệu trưởng

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Đỗ Duy Thành
Nguyễn Thị Giang


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật giáo dục 2005 [2]
- Module THPT 35[3]
- Internet[4]
- Bộ GD-ĐT(2015) .Tài liệu tập huấn kỹ năng xây dựng và tổ chức các hoạt
động trải nghiệm sáng tạo trong trường học. [5]
-Dự thảo Nội dung CT GDPT mới[6]


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Giang
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên -Trường THPT Thạch Thành 3
TT Tên đề tài SKKN
1.

Kết quả Năm

học
Cấp đánh
đánh giá đánh giá xếp
giá xếp loại
xếp loại loại

Một số kinh nghiệm ứng
Cấp sở

C

2015-2016

Ứng dụng công nghệ thông Cấp sở

C

2017-2018

dụng công nghệ thông tin vào
việc sử dụng sơ đồ khối để
dạy bài 25: Hệ thống bôi trơn
– bài 26: Hệ thống làm mát.
2.

tin vào bài 12: Thực hành
điều chỉnh các thông số của
mạch tạo xung đa hài dùng
tranzitor.









SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH III

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG CÔNG
TÁC GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THPT
QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM

Người thực hiện: Nguyễn Thị Giang
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): GVCN

THANH HOÁ NĂM 2018


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH III

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THPT QUA
HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM

Người thực hiện: Nguyễn Thị Giang
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): GVCN

THANH HOÁ NĂM 2018


×