Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Cách đánh giá năng lực học sinh trong môn địa lí ở trường THPT hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.22 KB, 16 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT MAI ANH TUẤN - NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁCH ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG
MÔN ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY

Họ và tên: Hàn Thanh Hạnh
Chức vụ: Tổ trưởng
SKKN thuộc lĩnh vực: Địa lí

THANH HÓA, NĂM 2017
1


Mục lục
Trang
1. Mở đầu………………………………………………………………………..2
1.1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………
2
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………… ……….3
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………….3
1.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………… 3
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm……………………………………..............4
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm …………………………........... 4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm……….… …..4
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để
giải quyết vấn đề…………………………………………………………………7


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường………………………………………
10
3. Kết luận, kiến nghị…………………………………………………………..12
- kết luận
- Kiến nghị
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………….13
Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm xếp loại C trở lên……………….14

2


1. MỞ ĐẦU
Chúng ta đã biết Địa lí là một bộ môn khoa học xã hội và khoa học thực
nghiệm, nhiều khái niệm ta tưởng tượng dễ dàng và đơn giản với học sinh.
Nhưng thực tế thì các em học sinh lại rất lúng túng, nhiều em không thể
nắm chắc được các khái niệm cơ bản dẫn đến không vận dụng được kiến thức
vào học tập. Vì vậy tôi nhận thấy để học sinh học được bộ môn và có hứng thú
tìm tòi khám phá chủ động trong học tập, vấn đề bài giảng như thế nào ? nhất
là sau các tiết học chính khoá và cuối giờ học Địa lí. Rõ ràng vấn đề này là của
giáo viên, đó là cách đổi mới phương pháp trong giảng dạy, phải thiết kế nội
dung phù hợp để đánh giá được năng lực của từng đối tượng học sinh trước khi
triển khai nội dung bài học mới có hiệu quả cao. Làm được như vậy chắc rằng
khả năng tiếp thu của học sinh sẽ tốt hơn. Làm cho học sinh ngày càng thêm
chăm chỉ, say sưa học tập, khát khao hiểu biết và rèn luyện tu dưỡng tốt hơn.
Vậy nội dung đánh giá, phân loại học sinh phải dựa trên cơ sở quan niệm về tính
tích cực hoá hoạt động của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình
thực hiện thông qua:
“ Cách đánh giá năng lực học sinh trong môn Địa Lí ở trường THPT
hiện nay” giáo viên triển khai những cuộc thăm dũ, trắc nghiệm và đàm thoại

giữa thầy và trò, giữa trò với nhau rất sinh động, hấp dẫn và bổ ích, cũng như dạt
kết quả mong đợi.
Trước tình hình đó bộ môn cũng đã tổ chức cải cách giáo dục, cải tiến và
đổi mới phương pháp, tổ chức cho giáo viên dạy Địa lí - học tập chuyên đề, tổ
chức thao giảng dự giờ, góp ý xây dựng để có hiệu quả giảng dạy cao.
Qua giảng dạy thực tế, tôi đã có những kết quả nhất định trong bộ môn.
Vậy tôi chọn nội dung sau đây để nói lên một phần kinh nghiệm mà bản thân đã
thực hiện, cụ thể nội dung cơ bản sau: “ Cách đánh giá năng lực học sinh
trong môn Địa lí ở trường THPT hiện nay”.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong toàn bộ hệ thống nền giáo dục Việt Nam nói chung, tổ chức của các
trường học nói riêng trong đó có hệ thống trường trung học phổ thông, về cơ
bản là để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh phát triển năng lực một cách
toàn diện. Vậy để giảng dạy học sinh học một cách tốt nhất, nhà trường phân
công những giáo viên có kinh nghiệm đang giảng dạy bộ môn ngánh trách
nhiệm trọng trách cao hơn đứng mũi chịu sào làm công tác chuyên môn để đồng
nghiệp dạy cùng bộ môn trao đổi, góp ý học tập kinh nghiệm. Như vậy khi nói
đến giáo viên có kinh nghiệm là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người
làm công tác chuyên môn, đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà
người giáo viên phải làm, cần làm và nên làm thật tốt.
Để một tập thể bộ môn vững mạnh là yêu cầu giáo dục bắt buộc của tất cả
các trường nói chung trong hệ thống giáo dục trong đó ở trường trung học phổ
thông nói riêng, đó cũng là nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên . Một tập
thể bộ môn vững mạnh sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động phát triển một
cách toàn diện, nhất là hoạt động học tập ở trường. Bên cạnh đó khi giáo viên
làm tốt công tác chuyên môn và có phương pháp, kĩ năng tốt thì sẽ tạo nhiều
3


điều kiện, có thời gian để bồi dưỡng và hoàn thành tốt chuyên môn của mình.

Vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này: “ Cách đánh giá năng lực học sinh trong
môn Địa lí ở trường THPT hiện nay”. Đây là đề tài mà tôi đã thực hiện ở năm
học 2014 – 2015, nhưng kết quả chưa đạt như mong đợi vì:
Thứ nhất: cấu trúc chưa đúng theo mẫu quy định hiện hành.
Thứ hai: nội dung giảng dạy mới ở mức áp dụng cho học sinh học và làm
bài ở dạng lí thuyết tự luận. Còn bộ môn hiện nay đã chuyển sang 100% thi trắc
nghiệm khách quan.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Để làm tốt công tác giảng dạy và học bộ môn học Địa lí ở trường THPT
hiện nay phù hợp với đổi mới trong cách dạy, cách học và thi cũng như phổ biến
kinh nghiệm hay và thực tiễn để đồng nghiệp trao đổi góp ý và cùng thực hiện
trong dạy học.
- Về nội dung: “ Cách đánh giá năng lực học sinh trong môn Địa lí ở
trường THPT hiện nay”.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 10, 11 và 12 ở Trường trung học phổ thông Mai Anh Tuấn Huyện Nga Sơn - Tỉnh Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Kinh nghiệm giáo dục của bản thân trong quá trình làm công tác dạy và
học môn Địa lí thực nghiệm qua nhiều năm ở trường THPT.
- Trao đổi với các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường, nhất là giáo viên
giảng dạy môn Địa lí có năng lực bộ môn và có nhiều kinh nghiệm.
- Trao đổi với các cựu học sinh cũ đã ra trường về cảm tưởng của các em,
cảm nhận qua quá trình học tập môn Địa lí ở các lớp tôi đã từng giảng dạy và
các học sinh ở các lớp hiện nay tôi đang trực tiếp giảng dạy và các lớp tôi dạy
thay đồng nghiệp.
- Nghiên cứu thông qua các tài liệu liên quan cũ và mới mà Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
- Sáng kiến kinh nghiệm được trình bày và thực hiện đúng mẫu và đúng với
các bước tiến hành theo quy định.

- Có phương pháp và kĩ thuật dạy và học tích cực hơn, tốt hơn đáp ứng
được và phù hợp với đổi mới giáo dục hiện nay.
- Đánh giá được năng lực học sinh một cách chính xác hơn thông qua kết
quả của năm học vừa qua.
- Giáo viên giảng dạy và học sinh học tập say mê, hứng thú, thu hút được
nhiều học sinh yêu quý môn học địa lí.
- Đảm bảo trong việc dạy học và kiểm tra, đáng giá theo định hướng phát
triển năng lực học sinh THPT hiện nay.
- Trình bày và cấu trúc, rõ ràng, đẹp, khoa học và chính xác.
4


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Về cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Đối với hệ thống giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng,
người giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo
dục học sinh toàn diện. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp học, giáo viên trước
hết phải là nhà giáo dục, là người tổ chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới
từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, kĩ năng, những biến
động về tâm sinh lí, tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em. Giáo viên
bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương sáng tác động tích cực đến việc
hình thành phẩm chất đạo đức, nhân cách của học sinh. Mặt khác, giáo viên còn
là cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà
trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục...
Giáo viên là người thay mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ
học sinh quản lý toàn diện học sinh trong quá trình học tập trên lớp mình phụ
trách giảng dạy bộ môn. Điều này đòi hỏi giáo viên vừa quản lý tập thể học sinh,
vừa quan tâm đến từng cá nhân, đối tượng trong lớp về mọi phương diện: học
tập, tu dưỡng, lao động và kĩ năng sống thông qua bộ môn.
Giáo viên là người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động và

các mối quan hệ ứng xử thuộc, cách học, cách tiếp cận môn học trên lớp mình
phụ trách theo đúng chương trình và kế hoạch của nhà trường, của ngành.
Giáo viên là nhân vật chủ đạo để hình thành nhân cách cho từng học sinh
trong tập thể lớp mà mình phụ trách môn học.
Giáo viên là cầu nối, là nhân vật trung gian thiết lập các mối quan hệ hai
chiều: Nhà trường - tập thể học sinh; tập thể học sinh - xã hội. Như vậy, một mặt
giáo viên vừa là đại diện cho nhà trường để giáo dục học sinh, vừa là đại diện
cho tập thể học sinh để liên lạc với nhà trường. Mặt khác, giáo viên phải làm cho
quan hệ giữa tập thể học sinh với xã hội trở nên gắn bó hơn. Giáo viên xây
dựng, tổ chức tập thể lớp học thành đơn vị vững mạnh, tổ chức điều khiển, lãnh
đạo các hoạt động giáo dục của tập thể lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
một cách toàn diện thông qua môn học.
Giáo viên luôn luôn thiết lập và phát triển các mối quan hệ với các tổ chức,
lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo dục học sinh thông qua bộ
môn mình phụ trách giảng dạy.
Giáo viên tổ chức tình huống, giao nhiệm vụ cho học sinh. Học sinh hăng
hái đảm nhận nhiệm vụ, gặp khó khăn, nảy sinh vấn đề cần tìm tòi giải quyết.
Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, vấn đề được diễn đạt chính xác hóa, phù hợp với
mục tiêu dạy học và các nội dung cụ thể đã xác định. [ 1 ]
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trong những năm qua, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói
chung, địa phương nói riêng đã và đang mang lại không ít những thuận lợi cho
công tác giáo dục trong nhà trường. Sự quan tâm đầu tư của Đảng, nhà nước,
các cấp chính quyền cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội. Cơ sở vật chất,
trang thiết bị giáo dục của nhà trường được xây dựng, trang bị ngày một khang
trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Mô hình và chính sách đối với gia
5


đình trẻ hiện nay ít con, kinh tế ngày càng được cải thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ

em được quan tâm, nuôi dưỡng và chăm sóc ngày càng tốt hơn.
Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin đã hỗ trợ nhà trường, hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh
trong việc liên lạc, trao đổi, nắm bắt nhanh, kịp thời những thông tin cần thiết,
thiết thực trong phối hợp giáo dục; đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy
và học của giáo viên trong những giờ lên lớp, trong những hoạt động tập thể
khiến học sinh thấy hứng thú, tâm đắc hơn. Sự phối kết hợp giữa các tổ chức
đoàn thể trong và ngoài nhà trường ngày càng trở nên chặt chẽ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác giáo dục còn gặp
không ít những khó khăn, thách thức lớn. Trong thời đại khoa học công nghệ và
kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho
nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học
sinh: xu hướng sống hưởng thụ, đua đòi ăn diện, chưng diện theo trang phục,
mái tóc, bấm lỗ tai, mũi… của các diễn viên, ca sĩ, MC… trong phim ảnh, trên
điện thoại, trong một số chương trình truyền hình… và đặc biệt là game online.
Chính những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành
nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo viên các
môn học trong công tác giáo dục đạo đức, học tập, nối sống, kĩ năng sống toàn
diện cho học sinh.
Nguyên nhân chủ yếu đó là: do nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh chỉ chú ý
đến lợi nhuận trước mắt. Hầu hết các điểm truy cập Internet đều trang bị những
trò chơi bạo lực, trò chơi ăn tiền… rất thu hút và hấp dẫn học sinh cả hai giới
( Nam - Nữ ). Vì thế, hiện tượng trốn tiết, đi học muộn, đến lớp ngủ gà ngủ gật,
giấu tiền, trộm cắp, diết người cướp của, tống tiền… để chơi game là điều không
tránh khỏi
Không những thế, hậu quả do những tác động của những trò chơi nguy
hiểm này dẫn đến các hành vi bạo lực, các tệ nạn xã hội khôn lường gây tổn
thương đến gia đình, nhà trường, thầy cô, bạn bè, người thân và tổn hại tới xã
hội.
Mặt khác, nhiều gia đình do cuộc sống, do quá bận rộn với công việc nên

thời gian quan tâm, gần gũi và dành cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần
như phó mặc cho thầy cô giáo, nhà trường và xã hội, thậm chí cung cấp tiền bạc
dư thừa cho con cái không nghĩ đến hậu quả. Nhiều phụ huynh chỉ gặp gỡ trao
đổi với giáo viên bộ môn một lần, thậm chí không có lần nào trong một năm
học, còn chủ yếu là trao đổi qua điện thoại trong những trường hợp cần thiết.
Con trẻ thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi
cuốn rơi vào sa ngã rất nhanh và rất dễ. Một số em do điều kiện, hoàn cảnh gia
đình ở với ông bà, cô gì, chú bác.. và do được chiều chuộng và chăm sóc quá
chu đáo nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo. Hơn nữa ở lứa tuổi này,
tâm sinh lí của các em đang phát triển, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu
biết, tìm tòi, tò mò, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định
mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, về kĩ năng sống, sự hiểu biết về
pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh cá biệt, hư, lười học, hiện
6


tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều, gia
tăng và phổ biến trong xã hội.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ giáo viên.
Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do công việc giảng dạy
chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác ít nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu sót
khác là nhiều giáo viên tiến hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp
thích hợp, sáng tạo thích hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi.
Người nghiêm khắc gò ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc. Và như
thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì
lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát. Thực tế, nhiều khi giữa
thầy cô và học sinh không phải bao giờ cũng tìm được tiếng nói chung.
* Giới hạn của đề tài:
Nghiên cứu về thực trạng và biện pháp trong công tác giảng dạy môn Địa lí
tại Trường THPT Mai Anh Tuấn - Nga Sơn - Thanh Hóa trong năm học 2016 2017 và những năm tiếp theo.

* Thực trạng:
Như lời mở đầu, chúng ta đã biết Địa lí là bộ môn khoa học xã hội và khoa
học tự nhiên thực nghiệm có nhiều khái niệm tưởng chừng dễ dàng và đơn
giản với học sinh.Nhưng trong thực tế thì học sinh lại rất lúng túng, khó hiểu,
cho là rất trìu tượng. Rất nhiều học sinh không thể nắm chắc được, hoặc hiểu
một cách. Mơ màng các khái niệm cơ bản dẫn đến không vận dụng được kiến
thức vào học tập nhất là kỹ năng làm bài kiểm tra, bài thi trắc nghiệm khách
quan tự luận và bài thực hành, cũng như không có hứng thú, say sưa trong học
tập môn Địa lí.
Giáo viên vẫn chủ yếu lệ thuộc vào tiến trình các bài học được trình bày
trong sách giáo khoa, chưa “ dám” chủ động trong việc thiết kế tiến trình xây
dựng kiến thức phù hợp với các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. [ 1 ]
* Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên: Vào năm học 2014 - 2015 bản
thân đã giảng dạy và kiểm tra, đánh giá, khảo sát chất lượng của các lớp khối 10,
khối 11 và khối 12, trong đó có 3 lớp đại diện của ba khối đạt kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình Yếu, kém
12E
45
5%
35%
56%
4%
11E
45
4%
26%

64%
6%
10K
45
3%
20%
70%
7%
Qua kết quả trên tôi nhận thấy để học sinh học được bộ môn và có hứng thú
tìm tòi, khám phá, chủ động trong học tập, vấn đề học như thế nào, làm bài thi ra
sao? rõ ràng vấn đề này là của giáo viên, đó cũng là cách đổi mới phương pháp
trong cách dạy và cách học. Người giáo viên phải linh hoạt, phải biết cách thiết
kế nội dung phù hợp để tổ chức cho học sinh học tập, đặc biệt phân loại được
học sinh theo năng lực, có như vậy học sinh học tập mới có hiệu quả cao. Tôi
mạnh dạn cải tiến nội dung và phương pháp.
Làm được như vậy chắc chắn rằng khả năng tiếp thu của học sinh sẽ tốt
hơn. Học sinh sẽ chăm học, say sưa, khát khao hiểu biết. Vậy phân loại được
năng lực học sinh phải dựa trên cơ sở quan niệm về tính tích cực hoá hoạt động
7


của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình thực hiện từ thực trạng cụ
thể theo phạm vi nghiên cứu sau: “ Cách đánh giá năng lực học sinh trong
môn Địa lí - ở trường THPT hiện nay ”.
2.3. Các các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề, vai trò, tác
dụng, hiệu quả:
* Vấn đề nội dung và hình thức:
Đây chính là một bài toán khó phức tạp, nó bao hàm tất cả của các vấn đề
trong quá trình triển khai và thực hiện có thể tổ chức hoạt động học tập thành
hai loại chính khác nhau:

Một loại nghiên cứu, sưu tầm những sự vật và hiện tượng, những quy luật
chính làm cơ sở cho phần nội dung, hình thức thực hiện triển khai có hiệu quả
trực tiếp đối với một khoảng thời gian ngắn kiểm tra kiến thức và hiểu biết,
hứng thú, yêu thích về môn địa lí.
Một loại xét đến cách phối hợp các hình thức tổ chức suy nghĩ phản xạ
nhanh cho toàn lớp như: suy nghĩ, nghiên cứu theo cá nhân, hay tổ nhóm, cặp
trong thời gian ngắn.
Để thực hiện tốt các yêu cầu trên, thực tế giáo viên phải có nhiều kinh
nghiệm, có xét đến tính quy luật, phải sưu tầm, nghiên cứu nhiều tài liệu, mất
nhiều thời gian và công sức đọc và phân loại các câu hỏi và đưa ra đáp án chính
xác. Và hình dung được mục đích sau khi thực hiện để thiết kế nội dung, hình
thức phù hợp như đã định ra và đảm bảo với các dấu hiệu sau:
Có mối liên hệ với nội dung giảng dạy với cuộc sống, sản xuất thực tiễn
xây dựng XHCN và phương hướng chính trị, tư tưởng.
Có sự tham gia tích cực của học sinh, tạo điều kiện phát triển tư duy lôgic
cho học sinh và sáng tạo độc lập.
Trong dạy học cá nhân, GV tổ chức cho mỗi HS được làm việc thực sự với
các đối tượng học tập ( tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ, bản đồ, bảng thống kê, bài
viết, sách giáo khoa..) để thu thập kiến thức, hoặc trả lời các câu hỏi, thực hiện
bài tập do GV đề ra. [ 2 ]
Học sinh khi ra ngoài lớp, trường, ngoài đường về nhà tiếp tục động não
tìm đáp án đúng. Nhờ đó mà học sinh tình trạng lười học, nói tục, xích mích, va
chạm, vi phạm nội quy kỷ luật trong trường, ngoài đường đã giảm bớt khá
nhiều. Các em chăm chỉ, say sưu học tập, khát khao hiểu biết yêu mến, thích
môn học Địa lí hơn. Đánh giá kết quả trả lời của học sinh ngay sau buổi học .
Để đánh giá được năng lực học sinh trong môn Địa lí trong thời gian nhất
định, có hiệu quả cao, ta cũng cần có một số biện pháp và phương pháp cụ thể
sau:
* Bước vào buổi học và buổi sinh hoạt:
- Điều cần thiết đầu tiên trước những vấn đề mới, trước sự ngơ ngác, sự im

lặng, buồn tẻ của học sinh…
Vậy giáo viên nên làm thế nào để trong thời gian ngắn, phải kiểm tra được
kiến thức tư duy lôgic và những mối liên quan về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, để
có được sự phấn khởi, vui vẻ và sinh động trong học sinh, để cho việc vận dụng
vào bài học mới bởi nội dung và hình thức.
8


* Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Phần nội dung thực hiện:
- Trước hết cần phải xác định rõ mục tiêu (yêu cầu kiến thức) của các câu
hỏi nêu ra là: Kiến thức cơ bản nào, kỹ năng đàm thoại gì? có những thái độ tích
cực gì… tiếp theo là dự kiến sử dụng bao nhiêu câu hỏi dễ, hay khó, ở trên đất
nước ta hay trên thế giới.v.v...
- Bước tiếp theo là thiết kế các câu hỏi nhằm thực hiện cho một yêu cầu,
mục tiêu cụ thể của phần việc triển khai trước buổi học hoặc sinh hoạt ngoại
khoá.
- Đồng thời mỗi hoạt động có thể gồm các hoạt động cơ bản khác nhau để
thực hiện các mục tiêu đã đặt ra. Các hoạt động này cũng được sắp xếp theo
trình tự lôgic hợp lý có dự kiến thời gian cụ thể.
- Giáo viên có thể ra câu hỏi, còn học sinh phát hiện ra vấn đề hoặc nhiệm
vụ mà giáo viên đưa ra.
- Giáo viên đưa ra câu hỏi đã làm sẵn có trước ở nhà trước khi triển khai
hoạt động học và sinh hoạt ở trên lớp. Giáo viên sau đó tập hợp kết quả ngay
hoặc tiếp tục cho học sinh suy nghĩ để trả lời những lần sau nếu nhưng thời gian
cho phép đã hết mà học sinh chưa nghĩ ra được.
- Tăng cường vận dụng phương pháp dạy học tích cực đề cao chủ thể nhận
thức của HS như: “ bàn tay nặn bột”, khảo sát, điều tra, thảo luận, đóng vai, viết
báo cáo, dự án…[ 2 ]
- Cuối cùng giáo viên củng cố, dặn dò nhận xét đánh giá kết quả tổng hợp

theo tỉ lệ qua lần thăm dò qua và ra tiếp câu hỏi về nhà và nhắc học sinh về nhà
suy nghĩ tiếp, nhưng cũng không được quên nhiệm vụ chính là học bài cũ và đọc
bài mới của chương trình học chính khoá môn học Địa lí.
Trên đây là những phần cần thiết cho một buổi trắc nghiệm, thăm dò mà
trong giảng dạy, học tập tôi đã phát hiện ra và hiện nay đang được áp dụng để
giảng dạy, thực hiện và sau khi triển khai học bài học Địa lí chính khoá với
những phần thực hiện sau đây.
* Áp dụng:
Để đánh giá, phân loại được học sinh trước và sau giờ học Địa lí - trong
trường THPT hiện nay.
Qua giảng dạy các năm và nghiên cứu, học hỏi tôi nhận thấy để tổ chức
hoạt động này được tốt cần phải đảm bảo các bước sau:
- Ngoài các bước lên lớp kiểm tra bài học cũ chính khoá thì bước chuẩn bị
cho hoạt động này rất quan trọng. Vì đây là hình thức hoạt động ngoài giờ,
nhưng có liên quan đến kiến thức, đến quá trình học tập Địa lí của học sinh,
nhưng thời gian hạn hẹp trước và sau tiết học, buổi học chính khoá, cần phải
đảm bảo các bước lồng ghép sau:
+ Bước chuẩn bị một hệ thống các câu hỏi khó, dễ, trung bình, vừa vừa là
rất quan trọng. Vì nó liên quan đến kiến thức, liên quan gắn liền cả quá trình học
tập, sự yêu thích, khả năng, sở trường, sở đoản của học sing trong từng đối
tượng học chương trình Địa lí trong trường THPT hiện nay. Vì vậy học sinh cần
được phân loại, để được trang bị khắc sâu kiến thức hiểu biết kiến thức môn Địa.
9


+ Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp với
khả năng của HS, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà HS phải hoàn thành khi
thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích
được hứng thú nhận thức của HS; đảm bảo cho tất cả HS tiếp nhận và sẵn sàng
thực hiện nhiệm vụ. [ 2 ]

- Cần tiến hành các bước như sau:
+ Giới thiệu hệ thống bằng các câu hỏi dễ, hay khó về Địa lí tự nhiên và
kinh tế - xã hội, văn hóa của Việt Nam và Thế giới em thích học phần tự nhiên
hay kinh tế - xã hội, văn hóa, thích hay không thích theo cảm nhận khách quan
và chủ quan, tại sao? vì sao? nguyên nhân, lí do? v.v. thực hiện các câu hỏi thăm
dò như sau:
Các câu hỏi giáo viên đưa ra

Câu 1:
Câu 2:
Câu 3:
Câu 4:
Câu 5:
Câu 6:
Câu 7 :

* Câu hỏi về lĩnh vực tự nhiên:
Em rất thích, thích, thích vừa vừa, lưỡng lự hay
không thích chương này, bài này, phần này, tiết
học này hoặc vấn đề nào đó… trong lĩnh vực Địa
lí tự nhiên?
Vấn đề Địa lí tự nhiên nào em khó hiểu, em không
thích. Vì sao?
Vì sao em lại thích Địa lí tự nhiên, thích phần này,
bài học này, vấn đề này?
Theo em để học tốt Địa lí tự nhiên cần phải làm
gì? học như thế nào? làm bài thi như thế nào để
đạt điểm cao? Em hãy chia xẻ?
Tại sao học Địa lí tự nhiên khó hiểu? Nguyên
nhân?

Vì sao làm bài kiểm tra làm những câu hỏi Địa lí
tự nhiên lại khó không đạt được điểm tối đa?
Nguyên nhân.
Thầy, cô cần phải dạy và truyền đạt như thế nào
thì các em dễ hiểu, có hứng thú trong học tập về
Địa lí tự nhiên? Em hãy chia xẻ.

Kết quả tổng
hợp của giáo
viên ( % )
Học sinh trả lời
67%
30%
65%
15%
76%
78%
85%

* Câu hỏi về các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa
Học sinh trả lời
Em rất thích, thích, thích vừa vừa, lưỡng lự hay
65%
không thích chương này, bài này, phần này, tiết
Câu 1:
học này hoặc vấn đề nào đó… trong lĩnh vực Địa
lí Kinh tế, xã hội, văn hóa?
Vấn đề Địa lí kinh tế, xã hội, văn hóa nào em khó
55%
Câu2:

hiểu, em không thích. Vì sao?
Câu 3: Vì sao em lại thích Địa lí kinh tế, xã hội, văn hóa,
45%
10


thích phần này, bài học này, vấn đề này?
Câu 4:
Câu 5:
Câu 6:
Câu 7:

Câu 8

Theo em để học tốt Địa lí kinh tế, xã hội, văn hóa
cần phải làm gì? học như thế nào? làm bài thi như
thế nào để đạt điểm cao? Em hãy chia xẻ?
Tại sao học Địa lí kinh tế, xã hội… khó hiểu?
Nguyên nhân?
Vì sao làm bài kiểm tra làm những câu hỏi Địa lí
kinh tế, xã hội.. lại khó không đạt được điểm tối
đa? Nguyên nhân.
Thầy, cô cần phải dạy và truyền đạt như thế nào
thì các em dễ hiểu, có hứng thú trong học tập về
Địa lí kinh tế, xã hội, văn hóa? Em hãy chia xẻ.
Theo em học địa lí về kinh tế vùng khó hay dễ, em
có thích hay không thích, thích ở mức độ nào,
không thích ở mức độ nào. Vì sao? Em hãy chia
xẻ.


75%
85%
65%
95%
45%

- Giáo viên kết luận đưa ra kết quả tính theo tỉ lệ % đối với những câu hỏi
mà học sinh đó trả lời, còn những câu hỏi học sinh chưa trả lời được, thì giáo
viên tiếp tục cho học sinh suy nghĩ trả lời sau và giáo viên tiếp tục tổng hợp để
có kết luận cuối cùng. Từ đó giáo viên sẽ điều chỉnh, thiết kế bài dạy phù hợp
cũng như giáo viên phân loại được đối tượng học sinh để dạy phù hợp, phát huy
thế mạnh của từng học sinh, tạo cảm hứng, thích thú và yêu thích môn Địa lí.
Sau mỗi lần như vậy thì Giáo viên không quên dặn dò học sinh cả lớp về
nhà không được quên học bài cũ chính khoá và đọc sang bài học mới để tiết sau
tiếp tục học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với các hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
- Kết quả nghiên cứu:
Qua quá trình giảng dạy bộ môn từ năm 1997 đến nay nhất là những năm
gần đây tôi đã chú trọng ngoài giảng dạy chính khoá, tôi còn suy nghĩ tìm tòi để
giảng dạy có hiệu quả cao, học sinh yêu mến môn học Địa lí. Tôi đã mạnh dạn
thực hiện hoạt động “ Cách đánh giá năng lực học sinh trong môn Địa lí - ở
trường THPT hiện nay ” với tinh thần (Học và vui, vui và học ). [3] đã đạt
được kết quả nhất định qua các kỳ thi và tổng kết cuối năm cụ thể với đối chứng
sau:
Đối chứng:
* Năm học 2014 – 2015:
Tôi được phân công dạy 3 khối lớp: khối 10, khối 11 và khối 12. Lúc này
đã cải cách giáo dục, bộ môn cũng tiến hành đồng thời cải cách. Tôi cũng vận
dụng theo chỉ đạo của chuyên môn và thu được kết quả theo bảng số liệu sau:

( Đại diện 3 lớp của 3 khối học tôi trực tiếp giảng dạy)
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình Yếu, kém
12E
45
5%
35%
56%
4%
11E
45
4%
26%
64%
6%
11


10K

45

3%

20%

70%


7%

Với kết quả trên tôi nhận thấy kết quả giảng dạy chưa cao, học sinh đạt
điểm giỏi, khá còn quá thấp và yếu kém, trung bình còn nhiều, nhất là nhiều học
sinh không hứng thú, không yêu thích và không thích học môn Địa lí.
Vì vậy để dạy và học tốt bộ môn Địa lí, học sinh yêu thích ham học môn
Địa lí cần phải làm gì? Tôi tự đặt câu hỏi và tự tìm hướng giải quyết kể cả tham
khảo ở các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm, nhằm thu hút học sinh ưa thích môn
Địa lí và bản thân nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.
* Năm học 2016 – 2017:
Tôi tiếp tục giảng dạy bộ môn ở 3 khối lớp, trong đó bản thân trực tiếp dạy
3 lớp đại diện cho ba khối đó là: Lớp 12B, lớp 11M và lớp 10A. Với kiến thức
sẵn có, với sự học hỏi đúc kết kinh nghiệm qua cải tiến, ngoài phương pháp
giảng dạy, tôi còn cải tiến cách hoạt động. Tôi nhận thấy để đạt được kết quả cao
trong công tác giảng dạy cần phải đổi mới phương pháp, cách dạy học và cách
đánh giá thăm dò tôn trọng ý kiến, sở trường và sở đoản, nguyện vọng của học
sinh như đã trình bày ở phần 2.3. Tôi đã thử nghiệm dạy ở 3 lớp 12B, 11M và
10A có kết quả cao hơn so với cách làm cũ là:
Qua kiểm tra học tập tổng kết năm học như sau:
Lớp
12B
11M
10A

Sĩ số
45
45
45


Giỏi
20%
22%
18%

Khá
50%
53%
45%

Trung bình
30%
24%
34,5%

Yếu, kém
0%
1%
1,5%

Qua kết quả trên tôi nhận thấy nếu chỉ có học sinh khá, trung bình không
thôi thì kết quả sẽ không cao, học sinh sẽ học uể oải. Còn nếu có cách đánh giá
khách quan về năng lực học sinh để phân loại và thăm dò sở thích, sở đoản đối
với học sinh thì hoạt động này đưa vào lồng ghép trước và sau giờ học chính
khoá thì kết quả sẽ cao hơn, có chất lượng hơn đối với giáo viên, để từ đó giáo
viên có một tâm thế biết cách tháo gỡ đối với cách dạy và học đối với các thế hệ
học sinh thân yêu của mình, đó cũng là liềm hạnh phúc vô bờ bến của những
người đứng trên bục giảng nói chung và người dạy bộ môn Địa lí nói riêng.
Tôi luôn chú trọng trong thực hiện mạnh dạn đưa hoạt động: Cách đánh giá
năng lực học sinh vào trong môn Địa lí ở trong trường THPT lồng ghép vào

chương trình học, nhưng vẫn đảm bảo thời gian, giờ giấc cho chương trình học,
tiết học chính khoá. Với những cố gắng hướng học sinh học theo kinh nghiệm
của bản thân. Cuối năm học, nhiều học sinh đã đạt kết quả cao trong tổng kết
năm học tại trường và có nhiều học sinh giỏi cấp trường, cấp tỉnh và đỗ cao
Đẳng, Đại học:
Tiêu biểu là các em:
1. Em : Nguyễn Thị Hương: Giải khuyết khích Tỉnh - Lớp 12B
2. Em : Trần Thị Tuyết: Giải ba cấp Tỉnh - Lớp 11M
3. Em: Nguyễn Thị Nga : Giải ba cấp Tinht - Lớp 11M
4. Em Nguyễn Thị Thùy Linh: Giải khuyến khích cấp Tỉnh - Lớp 11M
12


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Vấn đề dạy và học là vấn đề cơ bản để đạt kết qủa trong giảng dạy, tổ chức
học tập tốt, phân loại được học sinh theo năng lực cũng như biết cách để dạy và
động viên học sinh ngày càng thêm yêu thích, đam mê học tập môn Địa lí và
đảm bảo cho các em có kết quả cao trong học tập.
Qua thực tế tôi đã cố gắng trong việc chuẩn bị các hoạt động đánh giá học
sinh về năng lực với từng đối tượng học sinh. Nên tôi đã mạnh dạn trình bày
trước các đồng nghiệp.
Tuy nhiên trong nội dung trình bày, sự sắp xếp cách trình bày có nhiều
thiếu sót, có những ý chưa nổi bật hoặc còn khó hiểu.
Vậy tôi rất mong sự góp ý - phê bình của đồng nghiệp và các bậc cha
- anh -chị, em, trong ngành và trong đồng môn.
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này là của tôi, nếu không phải tôi
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
T«i xin ch©n thµnh c¶m ¬n !
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Nga Sơn, ngày 10 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Tác giả

Hàn Thanh Hạnh

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Tài liệu tập huấn: xây dựng các chuyên đề dạy học và kiểm tra, đánh giá
theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Địa lí ( Dự án phát triển giáo
dục trung học 2)- Bộ giáo dục & Đào tạo/ Vụ giáo dục trung học - Hà Nội tháng
12/2014.
[2]. Tài liệu hội thảo tập huấn đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động giáo dục ở
trường THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh ( Dự án THPT giai
đoạn 2) – Bộ giáo dục & Đào tạo/Vụ Giáo dụ trung học - Hà Nội /2016.
[3]. Chỉ thị phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực ” trong các trường phổ thông của Bộ giáo dục và Đào tạo ra ngày
22/07/2008.
[4]. Phương pháp quản trò – Tác giả Trần Phiêu – NXB Thanh Niên.
[5]. Bộ đề trắc nghiệm luyện thi THPT Quốc Gia năm 2017 ban khoa học xã hội
tập 1 và 2 – NXB giáo dục Việt Nam. Tác giả: Lê Thông, Trần Văn Thắng,
Nguyễn Xuân Trường ( đồng Chủ biên)
[6]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet: Nguồn: ;
Nguồn: ;


14


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP
LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI
TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Hàn Thanh Hạnh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo Viên – Trường THPT Mai Anh Tuấn – Nga
Sơn – Thanh Hóa
Cấp
Năm
Kết quả
đánh giá
học
đánh giá
xếp loại
đánh
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
(Phòng,
giá
(A, B,
Sở,
xếp
hoặc C)
Tỉnh...)
loại

1. Sử dụng tập ATLAT Địa lí Việt Nam và
2003
Sở
C
tranh ảnh trong quá trình dạy học THPT
2004
2.
3.

Để dạy tốt bài thực hành điền bản đồ trong
bài Hoa Kì chương trình Địa lí lớp
11THPT
Để làm tốt bài tập thực hành trong trường
THPT hiện nay

4.

Sử dụng câu hỏi đố vui trong dạy học Địa
lí ở trường THPT hiện nay

5.

Hướng dẫn học sinh làm tốt câu hỏi tự
luận trong một bài kiểm tra Địa lí lớp 12
THPT
Để dạy và học tốt tiết học “ Hiệp hội các
nước Đông Nam Á ” Địa lí lớp 11THPT
Để dạy và học tốt tiết học “ Một số vấn đề
mang tính toàn cầu” Địa lí lớp 11THPT
Tích hợp giáo dục môi trường trong giảng

dạy Địa lí ở trường THPT hiện nay

6

Sở

C

2005
2006

Sở

C

2006
2007

Sở

C

2007
2008

Sở

B

2009

2010

2010
2011
7
2012
Sở
C
2013
8
2013
Sở
C
2014
* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
Sở

C

15


SÁNG KIẾM KINH NGHIỆM

CÁCH ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG MÔN
ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
PHỤ LỤC
Trang
Mục lục:

1
1. Mở đầu………………………………………………………………………..2
1.1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………
2
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………… ……….3
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………….3
1.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………… 3
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm……………………………………..............4
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm …………………………........... 4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm……….… …..4
- Giới hạn của đề tài
6
- Thực trạng
6
- Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên
6
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để
giải quyết vấn đề…………………………………………………………………7
- Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
8
- Áp dụng
8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường………………………………………
10
3. Kết luận, kiến nghị…………………………………………………………..12
- kết luận
- Kiến nghị
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………….13

Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm xếp loại C trở lên……………….14

16



×