Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn giáo dục quốc phòng an ninh khối 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.96 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………. 1
1.1. Lí do chọn đề tài…………………………………………………………. .. 1
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………… 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………… 2
1.4. Phương phấp nghiên cứu…………………………………………………... 2
2. NỘI DUNG………………………………………………………………….. 3
2.1. Cơ sở lí luận……………………………………………………………….. 3
2.1.1. Quan điểm dạy học phân hóa……………………………………………. 3
2.1.2. Quan điểm dạy học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực……………………………………………………………………………… 3
2.1.3. Quan điểm về kiểm tra đánh giá kết quả của học sinh…………………... 3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm………… 4
2.3. Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn quốc
phòng an ninh lớp 11…………………………………………………………… 5
2.3.1. Những biện pháp chung………………………………………………….. 5
2.3.2. Những biện pháp cụ thể…………………………………………………...7
2.3.3. Tổ chức thực hiện………………………………………………………. 13
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm…………………………………………. 14
2.4.1. Đánh giá định tính……………………………………………………… 15
2.4.2. Đánh giá định lương…………………………………………………… 16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………………………………………………... 17
3.1. Kết luận……………………………………………………………………17
3.2. Kiến nghị…………………………………………………………………. 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………… 18

1


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI


Có thể nói chất lượng giáo dục nước ta đang là một vấn đề mang tính thời
sự. Hiện tượng học sinh “ngồi nhầm lớp”, tỷ lệ học sinh yếu kém ở các trường
THPT không phải là ít, trong đó phải kể đến tỷ lệ học sinh yếu kém môn Giáo
dục quốc phòng và An ninh. Trong khi đó, môn Giáo dục quốc phòng và An
ninh có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong giáo dục phổ thông.
Ngoài mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, bao gồm các
kiến thức về Điều lệnh đội ngũ đơn vị; Luật nghĩa vụ quân sự và trách niệm của
học sinh; Bảo vệ chủ quyền và biên giới quốc gia; Các kỹ thuật sử dụng súng,
đạn, lựu đạn và cách bảo quản; Các tư thế vận động, vận dụng trong tập luyện và
chiến đấu; Cấp cứu các tai nạn thông thường và phòng tánh thiên tai; Trách
nhiệm của học sinh THPT đối với môn học Quốc phòng An ninh... Ngoài ra còn
rèn cho các em các kỹ năng quan sát, tổng hợp, phân tích đánh giá, suy luận; kỹ
năng vận dụng kiến thức vào bài tập. Học tốt Giáo dục quốc phòng và An ninh
giúp các em giải thích được bản chất của đấu tranh giai cấp; Sức mạnh của Đại
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và một lòng theo Đảng, tin tưởng sự lãnh đạo
của Đảng, vào tháng lợi của cách mạng Việt Nam. Việc nắm vững kiến thức cơ
bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học
sinh tham gia các hoạt động sản xuất và hoạt động sau này.
Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, tất nhiên sẽ có sự khác nhau về
năng lực học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em
tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không tiếp thu được gì thông qua các hoạt
động trên lớp. Đặc biệt, khái niệm Giáo dục quốc phòng và An ninh luôn trừu
tượng, khó hiểu ... hệ thống lí thuyết nhiều mang tính lôgic tinh tế rất cao. Nội
dung phần bài học sau các em muốn hiểu được cần phải nhớ, hiểu, vận dụng lại
kiến thức đã học ở phần trước, lớp trước. Nếu học sinh đã rỗng kiến thức cơ bản
thì việc tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn, thiếu hụt dẫn đến ghi nhớ máy
móc không hiểu bản chất nên chán học và học yếu, kém bộ môn.
Hiện nay việc dạy học môn Giáo dục quốc phòng và An ninh ở trường
THPT nói chung và trường THCS &THPT Thống Nhất nói riêng tuy đã áp
dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực, song việc phân loại để cung cấp

“những lỗ hổng kiến thức” cho các em học sinh yếu kém vẫn chưa được thực
hiện một cách thường xuyên, GV chưa có biện pháp tác động đến tình cảm, chưa
gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Được tiếp xúc hàng ngày với các em, đó là điều kiện thuận lợi giúp tôi tìm
hiểu rõ về đặc điểm tâm lí của lứa tuổi và đề ra các biện pháp giáo dục thích hợp
nhằm giúp những học sinh yếu kém có thể nắm được bài học và hoà nhập vào
hoạt động học trên lớp cùng các bạn.
Lớp 11 là năm thứ hai THPT nên việc lấp “lỗ hổng” kiến thức môn Giáo
dục quốc phòng và An ninh để các em có một nền tảng kiến thức vững chắc là
cần thiết, tạo điều kiện cho các em học tập tiếp lên các lớp 12 và có được sự tự
2


tin trong cuộc sống. Do đó, giáo viên cần có biện pháp dạy học phù hợp giúp các
em nắm chắc kiến thức cơ bản, có kĩ năng làm bài tập, tích cực, hứng thú trong
giờ học, từ đó thoát khỏi tình trạng yếu kém môn Giáo dục quốc phòng và An
ninh. Khi học tốt hơn môn Giáo dục quốc phòng và An ninh thì việc định hướng
nghề nghiệp tương lai cho các em sẽ rộng mở hơn, các em sẽ lựa chọn được các
trường đại học, cao đẳng khối A00, A01 khối B00, khối C00, khối D01, D02,
D04 để thi, hoặc các trường cao đẳng, trung cấp nghề phù hợp với sở thích năng
lực của mình.
Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Một số
biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Giáo dục quốc
phòng và An ninh lớp 11”
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua đề tài này, tôi mong muốn tìm ra nguyên nhân học sinh học yếu kém
môn Giáo dục quốc phòng và An ninh, từ đó có những biện pháp giúp các em
yêu thích, hứng thú hơn đối với môn học này cũng như các môn học khác. Tạo
cho các em học sinh yếu kém có ý chí vượt qua khó khăn, rèn luyện tính kiên trì,
cẩn thận và tự tin vươn lên trong học tập.

Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề
dạy đối tượng HS yếu kém môn Giáo dục quốc phòng và An ninh.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Giáo
dục quốc phòng và An ninh lớp 11.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu lý luận dạy học
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.

3


2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1.1. Quan điểm của dạy học phân hoá.
Dạy học phân hoá là cách thức dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành các
hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, nhu cầu
nhận thức, các điều kiện nhận thức, nhằm tạo ra những kết quả học tập và sự
phát triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng giáo dục, tức là đảm
bảo quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học
Những cấp độ và hình thức dạy học phân hoá:
Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: là tìm kiếm các phương pháp, kĩ thuật
dạy học để mỗi học sinh nhóm học sinh, với nhịp độ học tập khác nhau trong giờ
học đều đạt kết quả mong muốn.
Dạy học phân hoá ở cấp độ vi mô bao gồm dạy học phân hoá nội tại và
dạy học phân hoá về tổ chức.
Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô là sự tổ chức quá trình dạy học thông

qua cách tổ chức các loại trường lớp khác nhau cho các đối tượng học sinh khác
nhau, xây dựng các chương trình giáo dục khác nhau.
Một số hình thức dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: Phân ban, dạy tự
chọn, phân ban kết hợp với dạy học tự chọn, phân luồng [8]
2.1.2. Quan điểm dạy học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật
dạy học tích cực
Thuật ngữ “Phương pháp dạy hoc tích cực” được dùng để chỉ những
phương pháp giáo dục, dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học .
Trong dạy học tích cực hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp
tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy học tích cực đem lại cho người
học hứng thú niềm vui trong học tập, nó phù hợp với đặc tính ưa thích hoạt động
của trẻ em. Việc học đối với học sinh khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ giúp
các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo [1].
Dạy và học tích cực tập trung trọng tâm vào hoạt động học, tạo ra sự
chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động, phát huy khả năng tự
học ngay từ những lớp nhỏ ở trường phổ thông, tự học không chỉ trong giờ lên
lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà cả ở nhà, trong các hoạt động ngoài
giờ lên lớp, không có sự hướng dẫn của giáo viên [1].
Một số phương pháp dạy học tích cực: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề,
dạy học hợp tác (dạy học theo nhóm hoặc thảo luận nhóm), học theo hợp đồng,
học theo góc, học theo dự án, dạy học vĩ mô…
Một số kĩ thuật dạy học tích cực: kĩ thuật đặt câu hỏi, Kĩ thuật khăn phủ
bàn, kĩ thuật mãnh ghép, sơ đồ tư duy, kĩ thuât “KWL”, kĩ thuật hơp tác, kĩ thuật
lắng nghe và phản hồi tích cực…[1].
2.1.3. Quan điểm về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
Khi đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, sẽ đặt ra yêu cầu khách quan
phải đổi mới kiểm tra, đánh giá, bảo đảm đồng bộ cho quá trình hướng tới nâng
cao chất lượng dạy học. Khi đổi mới kiểm tra, đánh giá bảo đảm yêu cầu khách
4



quan, chính xác, công bằng sẽ tạo tiền đề xây dựng môi trường sư phạm thân
thiện, tạo động lực mới thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới công
tác quản lí.
Kiểm tra, đánh giá có vai trò rất to lớn trong việc nâng cao chất lượng
đào tạo. Kết quả của kiểm tra, đánh giá là cơ sở điều chỉnh hoạt động dạy,
hoạt động học và quản lí giáo dục. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế, chính xác
và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo
trong học tập.
Đổi mới kiểm tra đánh giá chỉ có hiệu quả khi kết hợp đánh giá của GV
với tự đánh giá của HS. Sau mỗi kỳ kiểm tra, giáo viên cần bố trí thời gian trả
bài, hướng dẫn HS tự đánh giá kết quả bài làm, tự cho điểm bài làm của mình,
nhận xét mức độ chính xác trong chấm bài của GV. Trong quá trình dạy học và
khi tiến hành kiểm tra, đánh giá GV phải biết “ khai thác lỗi” để giúp HS tự
nhận rõ sai sót nhằm rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp tư duy. [2].
Để có được một đề kiểm tra phù hợp thì GV phải nắm vững các quy trình
ra một đề kiểm tra.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM
Học sinh Trường THCS &THPT Thống Nhất chủ yếu có hộ khẩu thường
trú ở 4 huyện: Yên Định, Ngọc Lặc, Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ. Đa số các em phải đi
học xa, hoàn cảnh kinh tế lại khó khăn, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc
học tập. Đặc biệt chất lượng đầu vào rất thấp đã gây không ít khó khăn cho việc
dạy học nói chung và dạy học môn Giáo dục quốc phòng và An ninh nói riêng.
Sự thay đổi về môi trường học tập từ THCS lên THPT ảnh hưởng không
nhỏ tới việc tiếp thu kiến thức, đặc biệt đối với các HS yếu kém. Bởi thầy cô và
bạn bè mới khiến cho những em HS yếu kém vốn đã thiếu tự tin trong học tập
càng trở nên xa lạ với những bài học mới.
Khi dạy môn Giáo dục quốc phòng và An ninh ở lớp 11 tôi nhận thấy vẫn

còn tồn tại phổ biến tình trạng HS nắm kiến thức cơ bản môn Giáo dục quốc
phòng và An ninh còn mơ hồ thậm chí không phân biệt đâu là kiến thức Lịch sử,
đâu là kiến thức Giáo dục quốc phòng và An ninh, các em không nhớ được các
dấu mốc lịch sử đấu tranh của quân đội và Công an nhân dân, các cuộc khởi
nghĩa trước và sau khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, các tư thế khi tập đội
ngũ từng người không súng … Chính vì thế việc tiếp thu kiến thức mới của các
em gặp rất nhiều khó khăn. Một số em chán nản không muốn học vì thấy môn
học quá khó, số khác tích cực hơn thì ghi chép bài đầy đủ, chú ý nghe giảng, tích
cực tập luyện thì có thể vẫn tiếp thu kiến thức được ở bài I (Đội ngũ đơn vị), từ
bài tiếp theo của Giáo dục quốc phòng và An ninh lớp 11 các em không thể theo
kịp yêu cầu chung của bài học…Nhiều em điều kiện học tập thiếu thốn, thiếu:
SGK, sách tham khảo … nên ngại học hoặc muốn học nhưng do điều kiện thiếu
thốn đã cản trở việc học tập của các em. Một số em có tâm lí trông chờ, lười suy
nghĩ, ngại học dù là những bài tập vận dụng tương tự chỉ thay dự kiện nên khi
bắt tay vào làm thì lóng ngóng, kĩ năng suy luận chậm…
Trong một lớp có sự chênh lệch khá lớn về lực học giữa những em khá giỏi
và những em yếu kém. Điều này càng làm cho những HS yếu kém thiếu tự tin
5


thường không dám trình bày ý kiến cá nhân, cũng như không dám nêu thắc mắc
của mình trước những vấn đề của bài học.
2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM
TIẾN BỘ TRONG MÔN GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG- AN NINH LỚP 11
2.3.1. NHỮNG BIỆN PHÁP CHUNG
2.3.1.1. Tìm hiểu HS nhằm phân loại đối tượng HS yếu kém QP –AN
Muốn đánh giá đúng đối tượng để từ đó có phương pháp dạy phù hợp và
có những biện pháp cụ thể với từng đối tượng HS yếu kém thì GV cần nắm được
đặc điểm HS yếu kém môn QPAN. GV có thể tìm hiểu thông qua học bạ THCS
về môn lịch sử, qua GV chủ nhiệm và nắm đối tượng ngay ở những tiết học đầu

tiên, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp.
* Đặc điểm của học sinh yếu kém môn Giáo dục quốc phòng và An ninh
Học sinh yếu kém môn Giáo dục quốc phòng và An ninh là những học
sinh có kết quả học tập thường xuyên ở mức độ thấp, điểm kiểm tra thường
xuyên dưới trung bình. Sự yếu kém của học sinh trong quá trình học tập được
thể hiện như sau:
- Các em không thể bắt kịp chương trình học hiện tại, không có khả năng
tự làm bài tập về nhà.
- Học sinh lĩnh hội kiến thức chậm, chưa nắm được nét chính về lịch
sử, bản chất, truyền thống anh hùng của Quân đội và Công An nhân dân Việt
Nam còn hời hợt, hay nhầm lẫn lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia, chưa
xác định rõ các các nguyên tắc cố định tạm thời gãy xương để cấp cứu ban đầu
và chuyển thương. Không biết vận dụng lí thuyết vào giải quyết các bài tập cụ
thể.
- Sau nhiều lần gặp khó khăn khi tiếp thu bài và làm bài tập, hứng thú học
tập đối với môn học giảm sút nghiêm trọng, khiến các em mất tự tin và rơi
vào trạng thái căng thẳng trong các giờ học.
- Học sinh không chịu suy nghĩ, không có hứng thú tham gia vào các hoạt
động học tập, hoạt động giao lưu giữa thầy và trò, thái độ học tập còn thụ động.
- Ít có cơ hội tham gia vào các hoạt động học tập trong lớp. Tính tình thì
nhút nhát, rụt rè không ít khi phát biểu ý kiến xây dựng bài.
- Ở HS có sức học yếu kém hoặc thiếu khả năng học tập thì vốn kiến thức
thường nghèo nàn và có thể chưa nắm được các kiến thức, kĩ năng một cách
vững chắc và sâu sắc như các bạn khác cùng lớp.
Sự yếu kém môn Giáo dục quốc phòng và An ninh được biểu hiện ở
nhiều hình nhiều vẻ nhưng nhìn chung HS yếu kém môn Giáo dục quốc phòng
và An ninh thường có các đặc điểm sau:
- Có nhiều “lỗ hổng” về kiến thức, kĩ năng.
- Tiếp thu kiến thức chậm.
- Phương pháp học tập môn Giáo dục quốc phòng và An ninh chưa tốt.

- Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà , bỏ tiết.
Giáo viên cần nắm vững những đặc điểm này để có thể giúp đỡ học sinh
yếu kém một cách có hiệu quả.
* Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém môn GDQP- AN
6


Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn
đến học sinh học yếu kém môn Giáo dục quốc phòng và An ninh đó là:
- Nguyên nhân từ học sinh
+ Học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn khác,
môn Giáo dục quốc phòng và An ninh có nhiều khái niệm trừu tượng, khó, học
sinh rỗng kiến thức cơ bản do đó các em tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn
và thiếu hụt.
+ Một số em lười học, thiếu sự chuẩn bị chu đáo dụng cụ học tập dẫn tới
không nắm được các kĩ năng cần thiết trong việc học và vận dụng vào việc giải
quyết các dạng bài tập Giáo dục quốc phòng và An ninh .
+ Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong học tập, có thói quen chờ đợi
lười suy nghĩ hay dựa vào giáo viên, bạn bè hay xem lời giải sẵn trong sách giải
một cách thụ động.
- Nguyên nhân từ giáo viên
Chưa thật sự quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh trong cả lớp mà chỉ
chú trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật sự tâm lý, chưa động
viên khéo léo kịp thời đối với những những tiến bộ của học sinh dù rất nhỏ.
Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng thực
hành Giáo dục quốc phòng và An ninh.
Không nắm chắc đối tượng HS dẫn tới chưa có phương pháp giáo dục
phù hợp.
Phương pháp dạy học chậm đổi mới: Nhiều giáo viên chưa chú ý đến
phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn, không có thí nghiệm trên lớp, bỏ

giờ thực hành thí nghiệm, phương tiện dạy học nghèo nàn, lạc hậu.
Việc kiểm tra đánh giá học sinh chưa nghiêm túc, chưa có tác dụng khích
lệ học sinh trong học tập, thậm chí còn tạo điều kiện cho học sinh chây lười.
Chưa tạo được không khí học tập thân thiện, giáo viên chưa phối hợp tốt
với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh…
- Nguyên nhân từ phụ huynh học sinh và xã hội
Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện cũng như thời gian dành cho
việc học còn thiếu nên kết quả học tập theo đó bị hạn chế.
Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em, thậm chí
khoán trắng việc học tập của con em họ cho nhà trường.
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet và các dịch
vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn. Điều này cũng là một thuận lợi nếu phụ huynh hướng
dẫn con em sử dụng internet cho việc khai thác tài liệu và ôn lại kiến thức…Nhưng
nó cũng có mặt trái khi phụ huynh không quản được con em mình để cho các em
nghiện điện tử, nghiện fecebook…không dành thời gian cho việc học.
Sau khi nắm bắt đặc điểm HS học yếu, kém môn Giáo dục quốc phòng và
An ninh cũng như nắm bắt nguyên nhân gây nên. GV phải đưa ra được các
biện pháp phù hợp để giúp những HS này.
2.3.1.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, cởi mở
Đối với lứa tuổi HS nói chung và HS lớp 10 nói riêng, tình cảm, việc làm,
hành động của các em còn mang tính chất cảm tính. Các em có thể không thích
học môn Giáo dục quốc phòng và An ninh chỉ vì không thích thầy cô dạy môn
7


Giáo dục quốc phòng và An ninh đó. Chính vì vậy, muốn giúp các HS yếu kém
môn Giáo dục quốc phòng và An ninh tiến bộ trước hết phải làm cho các em yêu
mến, tin tưởng GV. Bởi vậy, sự thân thiện của GV nhằm tạo sự gần gũi, cảm
giác an toàn để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống
của bản thân mình là yếu tố rất quan trọng. Sự khích lệ của thầy cô làm các em

tự hào về mình, tự tin vào bản thân và có hứng thú học tập thực sự. Để thực hiện
được, GV cần:
- Tạo không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không mắng hoặc dùng lời
thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy
làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Ví dụ: HS không ghi bài, đừng
vội quát mắng hay trách phạt mà hãy nhắc nhở nhẹ nhàng, hỏi rõ lý do, và sẵn
sàng cho mượn bút nếu lí do là: “Bút em hết mực”.
- Khen ngợi kịp thời, đúng lúc. Phải tìm ra ưu điểm để khen thành thật
kẻo các em bị tổn thương vì nghĩ thầy cô giễu cợt mình. Ví dụ: khen chữ đẹp,
trình bày rõ ràng, khen tính cẩn thận, khen tập trung nghe giảng, khen đã có ý
thức tổ chức kỉ luật, khen đã có tinh thần tích cực, tự giác tập luyện...Không đợi
HS làm xong cả bài rồi mới khen tốt. Các em viết được một chút thì khen
ngay “Đúng rồi, em làm tiếp đi!”. Theo dõi bài làm của các em, nếu thấy HS bắt
đầu làm sai thì phải nhắc ngay và đặt câu hỏi gợi ý để các em không mất công
làm hết bài, nếu không các em sẽ nản không tự tin để tự làm lại.
- Chú ý lời phê ở bài kiểm tra, không nên tiết kiệm những lời phê như:
“Có tiến bộ nhiều, cần phát huy! “, “ Trình bày bài sạch sẽ, chữ viết đẹp”
2.3.1.3. Giáo dục ý thức học tập
GV cần giúp HS xác định đúng động cơ, thái độ học tập: học để có kiến
thức, để làm người, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức đó
thành kiến thức của mình. Học để lập thân lâp nghiệp cho cuộc sống tương lai
sau này của chính các em, cho gia đình các em sau đó là phục vụ tổ quốc, phục
vụ nhân dân.
Tôi không quên kể cho các em nghe câu chuyện ngụ ngôn: “Ông nông
dân mãi nghèo khổ” Để các em thấy được muốn học tập tốt thì phải có kế
hoạch, ý thức tự giác và kiên trì thì mới thành công.
2.3.2. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ
2.3.2.1. Những biện pháp giúp đỡ các đối tượng HS
* Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn
Các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập, ngoài các buổi đến lớp các

em phải đi làm thêm để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian tập trung
cho học tập. GV cần:
- Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của các em qua hồ sơ, qua GV chủ nhiệm,
qua bạn bè của HS đó.
- Đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một
phần nào các khoản đóng góp có thể được.
- Phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp
bạn có thể mua một số đồ dùng học tập như sách giáo khoa, bút, vở và nên chủ
động cho các em mượn một số sách vở đồ dùng học tập.
8


- Trao đổi với phụ huynh, động viên gia đình tạo điều kiện cho em học
tập, để các phụ huynh này nhận thức rõ quyền lợi của các em bây giờ là được
học, có thể các em sẽ không học tiếp cao đẳng, đại học nhưng các em cần được
học tập để phát triển toàn diện về tư duy, thể chất. Khi có có kiến thức bước vào
cuộc sống các em sẽ có khả năng tư duy linh hoạt trước thử thách của cuộc đời,
việc học là việc cần thực hiện ngay bây giờ, nếu bỏ lỡ sẽ khó hoặc không còn cơ
hội để làm lại, còn “đi làm kiếm tiền” thì sau này sẽ có cả cuộc đời phía trước
để thực hiện.
* Với những HS bị tổn thương, mất cân bằng về mặt tình cảm
Một số em có bố mẹ đi làm ăn xa, ở cùng ông bà hoặc anh em họ hàng
nên thiếu đi sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ. Hay có những em sống trong gia
đình bố mẹ bất hoà, thường xuyên cãi vã, hoặc đã li hôn. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến kết quả học tập của các em vì tâm lý chán nản và bản thân không có
người thường xuyên nhắc nhở, quan tâm. Với đối tượng này, GV nên tìm cách
thường xuyên trò chuyện gần gũi với các em (có thể nói chuyện giờ ra chơi, gọi
điện thoại, kết bạn trên mạng xã hội facebook ) nhằm động viên an ủi để các em
có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, giúp các em trở lại trạng thái cân
bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn.

Một số em nảy sinh tình yêu nam nữ quá sớm gây sa sút trong học tập.
Với đối tượng này, GV cần nói chuyện riêng với các em nhằm giúp các em hiểu
được việc cần làm bây giờ là học tập giúp các em có được một nền tảng kiến
thức cơ bản vững chắc, một công việc phù hợp. Đó chính là cơ sở vững chắc để
các em có một tình yêu chân chính.
Đồng thời cùng với GV chủ nhiệm kết hợp liên lạc với phụ huynh phối
hợp uốn nắn, động viên các em.
* Với đối tượng học sinh yếu kém do lười biếng, ham chơi.
Một số HS thường xuyên bỏ giờ ham mê trò chơi điện tử. Một số khác
vẫn đến lớp nhưng không ghi bài, thờ ơ, không chú ý vào bài học. Với đối tượng
này, GV cần:
- Trực tiếp trò chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt
tốt, mặt xấu và sự liên quan đến tương lai của các em. Động viên những em học
khá trong lớp kết bạn thân để kéo những HS này khỏi sự “ham chơi”. Đồng thời,
phối hợp với phụ huynh để kiểm soát giờ giấc đi học và không cho các em tiền
tiêu vặt.
- Yêu cầu các em ghi bài và chấm vở đột xuất để lấy điểm miệng. Trong
các giờ học nên khuyến khích cho các em phát biểu, gọi các em lên bảng, kiểm
tra thực hành và có lời khen kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em,
giúp các em tự tin và hứng thú học tập hơn.
* Với đối tượng học sinh yếu kém do “hổng” kiến thức cơ bản
Tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong khi các
em không nhớ ngay cả những kiến thức cơ bản tưởng chừng đơn giản ở bài
trước. Bản thân các em khi đã mất “gốc” ở các bài học trước rồi có chú ý học bài
mới cũng khó thực hiện ở bài mới…(hiện tượng này còn kéo dài mãi ngay cả
khi các em học lớp 12 ... ). Chính vì thế ngay từ đầu năm lớp 11 GV cần tổ chức
ôn tập bổ sung kiến thức cho các em để HS yếu kém có đủ kiến thức để theo kịp
9



yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy
học đồng loạt.
Với kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy ở ngôi trường có nhiều HS yếu
kém, để giúp các em ôn lại kiến thức tôi đã thực hiện.
* Ôn tập thường xuyên liên tục các kiến thức QP- AN lớp 10 trọng tâm
Không nắm chắc kiến thức cơ bản là một đặc điểm đặc trưng của HS yếu
kém. Ví dụ các em không nhớ truyền thống đánh giặc của dân tộc Việt Nam
.Không nhớ lịch sử, truyền thống của quân đội và công an nhân dân Việt Nam
dẫn đến việc giải các bài tập có liên quan thường viết lẫn lộn truyền thống của
quân đội với công an…Không nhớ bản chất của các lược lượng vũ trang …
Không nhớ các kiến thức cơ bản thì các em không thể học tốt chương
trình môn QP-AN THPT. Vì thế việc ôn tập lại các kiến thức cơ bản cho học
sinh theo tôi là vấn đề then chốt để các em học yếu, kém môn QP-AN tiến bộ
hơn trong môn học này.
Với 1 tiết trên tuần, trong tiết dạy các câu hỏi đưa ra phải phù hợp với các
đối tượng HS trong lớp thì không thể ôn tập lại các kiến thức cơ bản cho HS học
yếu môn QP-AN một cách đầy đủ.
Không có nhiều thời gian luyện tập lại kiến thức cơ bản các em sẽ không
nhớ được. Chương trình QP-AN 11 đầu năm là bài Đội ngũ đơn vị là các bài
học, học sinh có thể không nhớ kiến thức cơ bản cũ của môn QP- AN vẫn có thể
tiếp thu bài và làm bài tập vận dụng được khiến GV và HS dễ chủ quan xem nhẹ
ôn tập các kiến thức cũ. Nhưng chính thời gian này ngoài dạy kiến thức chính
theo phân phối chương trình trên lớp. Tôi vẫn ôn lại kiến thức cũ cho HS thông
qua các tiết thực hành ôn lại các kiến thức cơ bản cho các em.
Bước 1: Ôn tập nội dung chương trình môn học.
Để nhớ được nội dung tôi cho các em học thuộc bài các nội dung bằng sơ
đồ mũi tên như sau: Bài 1: Đội ngũ đơn vị → Bài 2 :Luật nghĩa vụ quân sự và
trách nhiệm của học sinh → Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc
gia → Bài 4: Giới thiệu súng tiểu liên AK và súng trường CKC → Bài 5: Kĩ
thuật bắn súng tiểu liên AK và súng trường CKC → Bài 6 : Kĩ thuật sử dụng lựu

đạn → Bài 7 : Kĩ thuật cấp cứu và chuyển thương. Khi các em đã thuộc, định kì
tôi vẫn yêu cầu nhắc lại mà quên nhắc các em nhớ lại bài cho đúng.
Bước 2: Nội dung cơ bản của từng bài học bằng lược đồ tư duy để HS
nắm lại một cách tổng quát.
Để nắm vững nội dung cơ bản của từng môn học thì tôi yêu cầu các em
lập sơ đồ để các em dễ nhớ.
VD:
TT Môn học
Nội dung cơ bản
Ghi chú
1
Bài 1: Thực hành I. Đội ngũ tiểu đội.
Đội ngũ đơn vị
II. Đội ngũ trung đội.
2
Bài 2: Luật nghĩa I. Sự cần thiết ban hành LNVQS.
vụ Quân sự và
II. Nội dung cơ bản của LNVQS.
trách nhiệm
của học sinh
3
Bài 3: Bảo vệ chủ I. Lãnh thổ quốc gia và chủ quyền LTQG.
10


4

5

6


7

quyền lãnh thổ và
biên giới quốc gia
Bài 4: Giới thiệu
súng tiểu liên AK
và súng Trường
CKC
Bài 5: Kĩ thuật
bắn súng tiểu
liên AK và súng
trường CKC

II. Biên giới quốc gia.
I. Súng tiểu liên AK.
II. Súng trường CKC.
III. quy tắc sử dụng và bảo quản súng, đạn.

I. Ngắm bắn.
II. Động tác bắn tại chổ của súng tiểu liên
AK và súng trường CKC.
III. Tập ngắm chụm và ngắm trúng, chụm.
IV. Tập bắn mục tiêu cố định ban ngày
bằng súng tiểu liên AK.
Bài 6: Kĩ thuật sử I. Giới thiệu một số lựu đạn việt nam.
dụng lựu đạn
II. Quy tắc sử dụng và bảo quản lựu đạn.
III. Tư thế, động tác ném lựu đạn.
IV. Ném lựu đạn trúng đích.

Bài 7: Cấp cứu và I. Cầm máu tạm thời.
chuyển thương
II. Cố định tạm thời gãy xương.
III. Hô hấp nhân tạo.
IV. Kĩ thuật chuyển thương.

Bước 3: Ôn tập lai các nội dung cơ bản chương trình QP- AN lớp 11
sau đó áp dụng để giải các bài tập đơn giản.
Việc đầu tiên HS phải xác định được các nội dung cơ bản ở từng bài
trong chương trình QP- AN lớp 11. Lượng kiến thức ôn lại cho các em nhiều bài
tập, nhiều động tác nên không thể nóng vội tập luyện cùng một lúc thì các em
HS đã học yếu sẽ nản thay vào đó tôi chia nhỏ khối lượng kiến thức ra ôn tập và
luyện tập thường xuyên vừa sức. Sau đó tăng đần độ khó và phối hợp nhiều bài
học, cho các em tập làm từ mức độ nhận biết → thông hiểu → vận dụng → vận
dụng cao.
2.3.2.2. Đổi mới phương pháp, kĩ thuật dạy học
Điều 24.2 của Luật Giáo dục đã ghi: “Phương pháp giáo phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập của HS ” [3].
Mỗi tiết dạy GV có thể sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực chính vì thế trong phạm vi của đề tài tôi chỉ giới thiệu một số phương
pháp đã sử dụng có hiệu quả đối với học sinh học yếu QP- AN.
* Sử dụng tốt kĩ thuật đặt câu hỏi trong mỗi bài dạy
Kĩ thuật đặt câu hỏi trong mỗi bài dạy đối với người GV rất quan trọng
mức độ câu hỏi đưa ra vừa làm nổi bật trọng tâm của bài dạy vừa phải bám sát
đối tượng HS trong một lớp để các em đều có thể tham gia xây dựng bài kể cả
HS yếu kém.
11



Ví dụ: Khi dạy Bài 1 “ Đội ngũ đơn vị” tiết 1 trang [3] SGK tôi cho học
sinh yếu nêu các bước thực hiện đội hình tiểu đội hàng ngang: Tập hợp → điểm
số → chỉnh đốn hàng ngũ → giải tán. Đối với những em tốt hơn tôi cho các em
nêu các bước thực hiện đội hình tiểu đội hàng ngang có thực hành một số bước
và cả bốn bước.
* Sử dụng phương pháp làm việc nhóm kết hợp với kĩ thuật chia
nhóm, kĩ thuật “khăn phủ bàn”
Tuỳ theo nhiệm vụ học tập, GV có thể sử dụng hình thức HS làm việc cá
nhân hoặc hoạt động nhóm cho phù hợp. Chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối
hợp của các cá nhân để nhiệm vụ hoàn thành nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn
hoạt động cá nhân mới nên sử dụng phương pháp làm viêc nhóm. [3]
- Kĩ thuật chia nhóm: năng lực HS giữa các nhóm là tương đương nhau,
phân công nhóm trưởng, thư ký…
- Kĩ thuật “khăn phủ bàn” ( tất cả các thành viên đều ghi ý kiến vào ô của
mình sau đó thống nhất ghi vào giữa) tránh trường hợp phát phiếu học tập cho
các nhóm thì chỉ có một số HS học tốt trả lời còn số còn lại thì không tham gia.
Ngoài việc sử dụng kĩ thuật “khăn phủ bàn” khi học sinh làm việc nhóm tôi yêu
cầu mọi thành viên trong nhóm phải tham gia để nắm được nhiệm vụ của nhóm
và có thể gọi bất kì HS nào trong nhóm đứng lên trả lời, GV phải quan sát HS ở
các nhóm nếu thấy HS nào không tham gia phải đến hỏi gợi ý, nhắc nhở các em
kịp thời.
Ví dụ 1: khi dạy mục II. Nội dung Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của
học sinh ( bài 2: Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh lớp 11 )
(Tiết 4- 5) [17, 26]
GV chia lớp thành các nhóm sử dụng kĩ thuật “khăn phủ bàn” để tìm hiểu
về Những quy định chung, Chuẩn bị cho thanh niên nhập ngũ, phục vụ tại ngũ
trong thời bình, (Tìm hiểu những quy định chung thì các thành viên trong nhóm
tìm hiểu về phần chuẩn bị cho thanh niên nhập ngũ sau đó thống nhất ý nghĩa

của những vấn đề chung và chuẩn bị cho thanh niên nhập ngũ ); (Tìm hiểu phục
vụ tại ngũ trong thời bình các thành viên trong nhóm tìm hiểu về phục vụ tại ngũ
trong thời bình dựa trên các gợi ý về các đối tượng phục vụ, được tạm hoãn,
miễn nhập ngũ)…
Ví dụ 2: Khi dạy bài 3: Biên giới quốc gia. (Tiết 9, QPAN 11 CTC) [34,
38]. GV chia lớp thành 4 nhóm và sử dụng kĩ thuật “khăn phủ bàn”, kĩ thuật
mãnh ghép. Mỗi nhóm tìm hiểu về một loại tuyến biên giới trên đất liền hoặc
trên biển dựa trên các gợi ý sau: Mỗi HS cho một ví dụ về tuyến biên giới…
* Sử dụng có hiệu quả dạy học bằng sơ đồ tư duy
Tôi đã sử dụng phương pháp này để hướng dẫn HS ôn tập lại kiến thức cơ
bản phân loại các điều lệnh, điều luật, nghĩa vụ và trách nhiệm của học sinh;
kiến thức sau khi học hết một bài. Hoặc phần củng cố sau một bài.
* Sử dụng phương pháp trực quan, gắn bài học với việc giải thích các
sự kiện nguyên nhân dẫn đến các dấu mốc lịch sử. Tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin vào soạn giảng
12


- Chúng ta đã biết đặc điểm của bộ môn QPAN là mang tính định lượng
và về định tính nếu GV thực hiện giảng bài cần đưa ra các dự kiện chính xác,
làm mẫu các động tác điều lệnh rõ ràng đẹp và cho HS thực hành luôn sẽ gây
hứng thú cho học sinh và tăng khả năng ghi nhớ và tiếp thu kiến thức được tốt
hơn và chắc chắn những HS học yếu bộ môn vẫn có thể trả lời tốt, các em quan
sát được trong quá trình giáo viên làm mẫu. Để thực hành đạt kết quả tốt trước
khi tiến hành thí nghiệm ở trên lớp tôi nghiên cứu kĩ các động tác từ SGK. Đồng
thời dự kiến trước các tình huống học sinh chưa chịu chú ý quan sát, thường
xuyên nhắc nhở với HS để hướng dẫn cho các em làm tốt.
- Khi dạy những bài cần vận dụng kiến thức QPAN vào giải thích các quy
luật trong tự nhiên và cuộc sống GV hướng dẫn cho HS giải thích từ đó tạo hứng
thú và yêu thích bộ QPAN.

Ví dụ 1: Khi dạy bài Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của học sinh
(Tiết 3, QPAN 11) [15,16]
GV hướng dẫn cho HS giải thích:
+ Tại sao Phải cần thiết ban hành luật nghĩa vụ quân sự?
Ví dụ 2: Khi dạy bài Chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia (Tiết 9, GDQP
11) [34]
GV hướng dẫn cho HS giải thích:
+ Vì sao phải phân định cắm mốc giới trên đất liền?
+ Để xác định biên giới quốc gia việt Nam được tính như thế nào?
Ví dụ 3: Khi dạy bài kỹ thuật ngắm bắn (Tiết 20, QPAN 11) [79, 84]
GV hướng dẫn cho HS giải thích:
+ Vì sao chân phải bước về trước một bước dài?
+ Vì sao tay cầm súng nòng súng hướng lên trên?
2.3.2.3. Đổi mới việc kiểm tra đánh giá học sinh.
GV phải nắm yêu cầu đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng của môn học.
- Nội dung các câu hỏi trong đề kiểm tra cũng rất quan trọng phải bám
vào ma trận nhận thức với 4 cấp độ: biết, hiểu, vận dụng thấp, vận dung cao. Trừ
một số câu ở vận dụng cao có tính mới đòi hỏi các em tổng hợp kiến thức thì các
câu hỏi còn lại chỉ nhớ lại công thức, khái niệm, tính chất có trong SGK và làm
những bài tập hiểu, vận dụng ở mức độ tương tự thay đổi số liệu…mà tôi đã
dặn dò các em về nhà ôn tập. Đối với HS học yếu bộ môn việc thường xuyên
kiểm tra lại các kiến thức trọng tâm của QPAN 11 như việc xác định các điều
luật, các điều lệnh, cách sơ cấp cứu ban đầu, hay cách sử dung và bảo quản súng
đạn… là rất quan trọng vì các em có nắm được các kiến thức nêu trên các em
mới có thể học tốt hơn ở những bài học sau. GV có thể kiểm tra đột xuất vở ghi
để lấy điểm miệng, cho các em lên bảng làm những bài tập tương tự thay số liệu
để lên lấy điểm miệng các em sẽ rất vui vì đấy là điểm của các em chứ không
phải do nhìn bạn hỏi bạn hoặc khoanh bừa. Phải thấy được sự cố gắng đó để ghi
nhận khen ngợi, động viên các em kịp thời dù có thể chỉ là những lời nhận xét

chữ viết rõ ràng, cẩn thận …
2.3.2.4. Hướng dẫn cho học sinh phương pháp học tập trên lớp và tự
học ở nhà
13


Cùng thầy cô giáo dạy nhưng có em kết quả học tập cao, có em kết kết quả
học tập chưa cao, thậm chí còn yếu, kém. Nhiều em vẫn đổ lỗi tại mình không
thông minh. Nhưng một trong những nguyên nhân mà các em chưa nhận thấy đó
là các em chưa có phương pháp học tập hiệu quả dẫn đến kết quả học tập còn
yếu, kém. Chính vì thế hướng dẫn HS cách học rất quan trọng. Trước hết, GV
cần yêu cầu HS:
Dù học ở lớp hay ở nhà khi vào bàn học phải tập trung, không làm việc
riêng, kiên trì .
- Ghi chép bài cẩn thận, đầy đủ kết hợp với việc nghe giảng trên lớp
(Khuyến khích bằng cách chấm vở lấy điểm miệng).
- GV yêu cầu học sinh phải có vở nháp để tham gia học tập trên lớp cũng
như ở nhà không ngại làm sai. GV giải thích cho HS dù có làm sai thì lần sau
các em mới rút được kinh nghiệm, khắc sâu được kiến thức.
- Không hiểu phải hỏi thầy, hỏi bạn, không nhớ chắc chắn phần nào thì tự
mình phải xem lại sách vở bổ sung lai phần đó (yêu cầu các em giữ lại vở ghi và
SGK QPAN của các lớp, tham gia học nhóm ...)
- Làm ít nhất hai phần ba số bài trong SGK (Đối với các em HS yếu kém,
không nên đặt ra yêu cầu làm hết toàn bộ bài tập SGK).
- Nắm chắc lý thuyết trước khi làm bài tập.
- Sau khi học xong một bài cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt
nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản cũng như cách giải
một số dạng câu hỏi cơ bản và dán vào góc học tập.
2.3.3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
2.3.3.1. Chọn lớp thực nghiệm

Đầu năm học 2018-2019, tôi được phân công dạy môn QPAN lớp 11A1
và 11A2 Trường THCS&THPT Thống Nhất. Qua tìm hiểu học bạ lớp 10 tôi
nhận thấy trình độ chung về môn QPAN của hai lớp 11A2 và 11A1 là tương
đương nhau.
Bảng thống kê lực học môn QPAN của lớp 11A1 và 11A2 đầu năm học
2016-2017

Lớp

11A2
11A1

Tổng
số
HS

Khá, giỏi
Số lượng

43
42

6
6

Tỷ
lệ(%)
14.0
14.3


Trung bình
Số
lượng
21
22

Yếu kém

Tỷ lệ(%) Số
lượng
48.8
16
52.4
16

Tỷ
lệ(%)
37.2
33.3

Trên cơ sở đó, tôi tổ chức thực nghiệm tại lớp 11A1 và lấy lớp 11A2 làm
đối chứng. Việc dạy thực nghiệm và đối chứng thực hiện theo đúng kế hoạch
giảng dạy của nhà trường.
Thời gian thực nghiệm được tiến hành từ ngày 06/9/2018 đến ngày
15/5/2019.
- Lớp thực nghiệm: 11A1 với số lượng HS là 42 em.
- Lớp đối chứng: 10A2 với số lượng HS là 43 em.
2.3.3.2. Tiến hành thực nghiệm
14



*Phân loại các đối tượng HS yếu kém môn QPAN
Nhóm 1 (gồm 4 em: Trần Văn Tiến, Ngô Tuấn Anh, Lê Văn Phi, Trịnh
Minh Đức) với đặc điểm: hay bỏ tiết, vào muộn, ít nói, trong lớp thường không
nghe giảng, không ghi bài, tỏ thái độ bất cần, hỏi gì cũng không biết.
Nhóm 2( gồm 6 em: Lê Thị linh Chi, Trần Thị Thư, Lê Huyền Trâm, Lê
Hoài Thương, Nguyễn Thị Lan, Lê Xuân Giang) với đặc điểm chung: không nhớ
các kiến thức cơ bản QPAN ở lớp dưới, thường xuyên không thuộc bài và không
làm bài tập, rụt rè, sợ hãi mỗi khi GV kiểm tra bài cũ, không tham gia ý kiến
vào bài học.
Nhóm 3 (gồm 6 em: Trần Mạnh Quân, Phạm Cảnh Phi, Nguyễn Đức
Lương, Nguyễn Đức Đạt, Hồ Sĩ duy, Lê Đức Anh ) với đặc điểm: chăm chú
nghe giảng, thỉnh thoảng cũng tham gia xây dựng bài những kiến cơ bản môn
QPAN ở lớp dưới có nhớ nhưng không được nhiều, ngại bắt tay vào làm các bài
tập cho dù chỉ tương tự chỉ thay số liệu , có tâm lí chông chờ vào thầy cô và bạn
bè sau đó chép bài. Chính vì thế khi bắt tay vào làm bài hay bị nhẫm lẫn, kĩ năng
làm bài yếu kết quả học tập của các em rất thấp.
* Thường xuyên gần gũi, động viên, quan tâm, khích lệ kịp thời
những tiến bộ dù nhỏ của HS học yếu môn QPAN.
Nhóm 1: Đối những HS này chê bai hoặc thường xuyên cho các em điểm
thấp mỗi khi không thuộc bài cũ không phải là biện pháp hiệu quả thậm chí ý
thức học còn kém hơn bởi các em không có điểm tựa. Tôi đã gặp gỡ riêng từng
em cũng như thông qua các bạn cùng lớp biết được nguyên nhân trốn học, bỏ
tiết của hai HS Trần Văn Tiến, Ngô Tuấn Anh thường xuyên chơi điện tử ở
quán Internet gần trường học. HS Hồ Sỹ Duy, Lê Văn Phi, HS Trịnh Minh
Đức) có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn các em thường bỏ tiết để tham gia
vận chuyển vật liệu xây dựng thuê cho các quán bán hàng , đi bẻ Dứa thuê để
lấy tiền chi tiêu. Trong khi nói chuyện với tôi các em đều có tâm sự nhiều lúc
vào lớp học nhưng vì “hổng” kiến thức cơ bản của bộ môn như truyền thống
của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân đều không nhớ …vì thế nên nghĩ

rằng mình chắc sẽ không học đươc…Gặp gỡ phụ huynh của em Phi, em Đức và
được biết kinh tế gia đình khó khăn nhưng cũng không bắt các em phải nghĩ
học để đi làm. Do các em ngại học thích đi làm để có tiền tiêu pha cá nhân. Biết
được điều đó Tôi đã phân tích cho các em thấy cũng sức lao động các em bỏ ra
nhưng khi các em là một kĩ sư, các em là một công nhân kĩ thuật thì tiền lương
mà các em hưởng sẽ cao hơn gấp nhiều lần, công việc sễ ổn định hơn so với việc
các em đi làm thuê theo thời vụ thế này. Nếu các em quyết tâm thầy cô và các
bạn sẽ cùng em bổ sung lại kiến thức “hổng” cho các em. Chính vì thế tôi cho
HS thành lập các nhóm học sau giờ học phụ đạo buổi chiều để ôn lại kiến thức
cơ bản cử mỗi nhóm một đến hai em học tốt bộ môn tham gia kèm cặp, bản thân
tôi cũng thường xuyên ở lai trao đổi cùng các em … Mặt khác trong giờ học tôi
không ngừng yêu cầu các em thực hiện các hoạt động học tập dù là hoạt động dễ
nhất như đọc nội dung một của bài hay vận dụng kĩ thuật động tác trong SGK
để các em không có cơ hội làm việc riêng trong lớp hay mơ màng trong giờ học.
Đối với bài học mới trên lớp tôi dặn dò rất tỉ mỉ những việc các em cần làm như
cần phải ôn lại kiến thức trọng tâm rồi mới tiến hành làm bài tập về nhà, đọc
15


trước nội dung bài mới, nhấn mạnh với 4 em HS cá biệt hay nghỉ học là hôm sau
cô sẽ kiểm tra bài cũ để lấy điểm miệng, các em nhớ đi học đầy đủ. Tôi thường
xuyên kiểm tra vở bài tập, sửa chữa những sai lầm về các động động tác….
Nhóm 2: Trong tiết học trên lớp, tôi nhấn mạnh những nội dung chính của
bài, đóng khung những phần quan trọng cần phải học thuộc và cho các em luyện
tập vừa sức, những bài tập cùng loại. Thường xuyên gọi các em phát biểu ý kiến
xây dựng bài có khi không cần hoàn chỉnh một bài tập ví dụ: thực hiện các bước
của đội hình tiểu đội 1 hành ngang… tôi cũng không ngừng nhắc lại những kiến
thức liên quan tới bài học, cư li và giản cách, tập trung vào những kiến thức
trọng tâm của bài. Thường xuyên kiểm tra vở bài tập và cho điểm nếu các em
làm tốt. Động viên các em tham gia học nhóm sau giờ học phụ đạo buổi chiều.

Nhóm 3: Tôi tiến hành cho các em luyện tập vừa sức, những bài tập
cùng dạng và mở rộng dần, mỗi khi các em trả lời sai, tôi đều chỉ ra lỗi và chỉnh
sửa lại cho đúng, không quên động viên các em “ không sao cả, sai thì mới nhớ
lâu, lần sau các em nhớ đừng phạm phải lỗi này nữa là được”. Lỗi sai chủ yếu là
ngại làm cứ nghĩ là mình làm được nhưng khi bắt tay vào làm thì lại nhầm lẫn,
không đúng thứ tự các bước. Để khắc phục lỗi này các em phải chuẩn bị vở
nháp, những bài tập tương tự thay dự kiện phải tự mình làm, không hiểu phải
hỏi ngay ... Hướng dẫn các em cách học hiệu quả ở nhà, tự bổ sung những kiến
thức cũ mà các em đã quên. Động viên các em tham gia học nhóm cùng các bạn.
* Ôn tập thường xuyên những kiến thức cơ bản.
Để HS học yếu môn QPAN có thể học tốt lên việc đầu tiên là phải ôn tập
lại các kiến thức cơ bản tưởng chừng như rất đơn giản cho các em. Đó là các
khái niệm, các quan điểm, đường lối của Đảng. Các nguyên tắc sử dụng và bảo
quản trang thiết bị ...
Hai tiết ôn tập đầu năm là chưa đủ với những HS học yếu môn QPAN
chính vì thế tôi khuyến khích các HS trong lớp tự học nhóm để trao đổi bài.
Riêng đối với các HS yếu, kém tôi chủ động sắp xếp thành các nhóm cho phù
hợp, thường xuyên hỏi nhóm trưởng sự tiến bộ của các em trong nhóm và chủ
động ra thêm 1 số bài tập vừa sức để các em luyện tập thêm. Tôi cho HS đăng
ký lịch học nhóm và báo cáo với nhà trường để HS được sử dụng phòng học tại
trường. Khi học tại trường HS sẽ tuân thủ thời gian và có ý thức tham gia tích
cực, trách nhiệm hơn.
* Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh
Để tạo hứng thú cho các em trong các tiết học, yêu thích môn học tôi đã
sử dụng một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như mục: 2.3.2.2.
Khi ra đề kiểm tra tôi bám vững các quy trình ra một đề kiểm tra, chấm
trả bài kịp thời thì việc coi thi nghiệm túc cũng rất quan trọng. Trước khi làm bài
kiểm tra tôi cho cán bộ lớp thu hết vở ghi, SGK để lên bàn GV. HS nhìn bài
bạn và HS cho bạn nhìn bài đều bị trừ điểm ( đã có nhiều HS bị trừ điểm vì nghĩ
rằng cô chỉ doạ nhưng những lần sau đó thì tự giác trong giờ kiểm tra)

2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.4.1. Đánh giá định tính
Tôi đã áp dụng những biện pháp trên và theo dõi sự chuyển biến trong
hoạt động học tập của HS yếu kém, tôi nhận thấy:
16


- Ở lớp 11A2 (Lớp đối chứng): Không khí của giờ học rất trầm, các em HS
yếu kém hầu như không tự giác phát biểu xây dựng bài và không tự đưa ra các
thắc mắc hay ý kiến của cá nhân mình trước tập thể. Trong các giờ các em có ghi
bài nhưng vì không hiểu bản chất nên tốc độ còn chậm, kểm tra vở ghi vẫn còn
viết sai sai nội dung kiến thức, không thực hiện tốt kĩ thuật động tác, các thao
tác thực hành , các em tỏ ra không tự tin khi làm một bài tập, vẫn còn hiện tượng
bỏ tiết.
- Ở lớp 11A1(Lớp thực nghiệm): Tôi đã phối hợp một cách phù hợp, linh
hoạt các biện pháp nêu trên để giúp đỡ HS yếu kém. Vì vậy, các giờ học môn
QPAN đối với các em rất nhẹ nhàng, thoải mái, các em hào hứng tham gia vào
bài học, các em tích cực suy nghĩ trước sự định hướng của GV, không còn hiện
tượng trốn học đi chơi điện tử, làm việc riêng trong lớp. Mức độ tích cực của
HS yếu kém ngày càng được tăng từ giờ học trước đến giờ học sau, đặc biệt các
em không còn quên các kiến thức cơ bản ở lớp dưới, biết vận dụng kiến thức để
viết đúng sản phẩm, thực hiện đúng thao tác kĩ thuật … Đặc biệt, các em mạnh
dạn trình bày ý kiến của mình trong nhóm cũng như trước tập thể lớp, hăng hái
thảo luận và đưa ra các nhận xét đánh giá khi GV yêu cầu.
2.4.2. Đánh giá định lượng
- Tôi đã cho HS lớp 11A2 và 11A1 làm bài kiểm tra theo đúng phân phối
chương trình, phù hợp với yêu cầu của môn học kết hợp với việc kiểm tra miệng
đến thời điểm cuối năm học kết quả trung bình cả năm môn QPAN của hai lớp
được thể hiện trong bảng sau :
Lớp Tổng Khá, giỏi

Trung bình
Yếu
Kém
số
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
lượng lệ(%) lượng lệ(%)
lượng lệ(%)
lượng lệ(%)
11A1 42
12
28.6 29
69.0
1
2.4
0
0
11A2 43
9
20.9 26
59.0
6
14.3
2

4.7

17


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi thấy việc dạy học với đối tượng HS yếu
kém môn QPAN là một công việc không hề đơn giản, đòi hỏi người dạy phải
kiên trì, nhẫn nại và thật sự tâm huyết với nghề. Để giúp những HS yếu kém có
thể từng bước tiến bộ đòi hỏi GV phải “vừa dạy, vừa dỗ”, phải nắm bắt và hiểu
tâm lý của các em để có những biện pháp phù hợp nhằm tác động đến tình cảm,
khơi dậy sự hứng thú đối với môn học, tạo cho các em niềm tin về khả năng tiến
bộ của mình nếu thật sự cố gắng. Từ đó, phần nào rèn luyện cho các em ý chí,
nghị lực vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
Theo tôi, đề tài có thể ứng dụng để giảm tỷ lệ HS yếu kém môn QPAN
khối 11 ở Trường THCS&THPT Thống Nhất và cả những trường khác có tỷ lệ
HS yếu kém cao.
3.2. KIẾN NGHỊ
Đối với nhà trường, nên tổ chức khảo sát chất lượng đầu năm học để phân
loại đối tượng HS yếu kém nhằm phụ đạo riêng ngay từ đầu năm giúp các em theo
kịp chương trình chuẩn trên lớp. Thường xuyên nhắc nhở giáo viên khi lên lớp cần
tạo không khí vui vẻ, thân thiện với HS giúp các em tiếp thu bài học đạt hiệu quả
hơn. Đồng thời, cần tránh miệt thị, chê bai các HS yếu kém, tích cực sưu tầm tài
liệu và học hỏi từ đồng nghiệp về phương pháp dạy HS yếu kém.
Đề tài mới chỉ đặt vấn đề nghiên cứu một số biện pháp trong dạy HS yếu
kém môn QPAN lớp 11. Tôi nhận thấy đề tài này có thể mở rộng nghiên cứu
và cụ thể hóa các biện pháp nhằm giúp đỡ HS yếu kém trong toàn bộ nội dung
chương trình QPAN phổ thông.
Trên đây là những suy nghĩ và các biện pháp đã được tôi áp dụng đạt hiệu

quả khá cao trong quá trình giảng dạy của bản thân. Trước tình hình học sinh
“ngồi nhầm lớp”, học sinh yếu kém còn nhiều, tôi mạnh dạn đưa ra để quí thầy
cô cùng thảo luận. Trong quá trình thực hiện, chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong Hội đồng khoa học ngành cùng quý thầy cô góp ý để tôi
hoàn thiện hơn trong công tác giảng dạy của mình.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Vũ Văn Thành
Trương Văn Đồng

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy và học tích cực (Bộ giáo dục và đào tạo – Dự án Việt Bỉ- NXB ĐH
Sư Phạm)
2. Module THPT 23: Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh- Phạm
Văn Hoan.
3. Module THPT 18: Phương pháp dạy học tích cực- Trần Đình Châu, Đặng
Thu Thuỷ, Phan Thị Luyến.
4. Module THPT 19: Dạy học với công nghệ thông tin – Trần Kiều Hương.
5. Luận văn thạc sĩ sư phạm toán chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy
học (Bộ môn toán) của tác giả Vũ Thị Ninh – ĐH Quốc Gia Hà Nội.

6. SGK QPAN 11 CTC, NXB Giáo dục Việt Nam
7. Sách giáo khoa QPAN 10 CTC, NXB Giáo dục Việt Nam.
8. SGK Lịch sử 9, NXB Giáo dục Việt Nam.
9. Chương trình trường học –Trường THCS &THPT Thống Nhất.
10. Các Sáng kiến kinh nghiệm trên trang Web về môn quốc phòng- An ninh.
11. Trang Web Giáo án điện tử, Đề thi đề kiểm tra, bài giảng điện tử.

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Trương Văn Đồng
Chức vụ: Giáo viên môn Giáo dục quốc phòng và An ninh
Đơn vị công tác: Trường THCS&THPT Thống Nhất

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại


Năm học
đánh giá
xếp loại

1.
2.

20


21



×