Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11 tìm hiểu khởi nghĩa ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.03 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

TRƯỜNG THPT HỒNG LỆ KHA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG LỚP 11
TÌM HIỂU KHỞI NGHĨA BA ĐÌNH

Người thực hiện: Ngơ Thị Bình
Chức vụ: Giáo viên
SKKNthuộc lĩnh vực (mơn): Lịch sử

THANH HÓA NĂM 2018.
1


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU……………………………………………………...................... ……1
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………...1
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………….2
1.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………2
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………..2
2. NỘI DUNG………………………………………………………………………3
2.1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………………..3
2.1.1. Khái niệm…………………………………………………………………....3
2.1.2. Mối quan hệ ………………………………………………………………...3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm………….... 4
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề…………………………..…….5
2.3.1. Giải pháp 1: Xác định mục tiêu bài học lịch sử địa phương….……….......5
2.3.2. Giải pháp 2: Xác định nội dung bài học lịch sử địa phương ………..……6


2.3.3. Giải pháp 3: Xác định hình thức tổ chức bài học lịch sử địa phương tại thực
địa……………………………..………………………………….………….16
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục………..16
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………………...18
3.1. Kết luận………………………………………………………………………18
3.2. Kiến nghị……………………………………………………………………..19

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành trung ương khóa XI (Nghị quyết
số 29 – NQ/TW) với nội dung: “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” đã
xác định mục tiêu của đổi mới lần này là tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất
lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát
triển toàn diện và phát huy tốt nội lực, tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân;
yêu gia đình, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả...
Trong những năm qua, vấn đề đổi mới dạy học lịch sử là một vấn đề lớn, thu
hút sự quan tâm không chỉ ở người làm công tác giáo dục, các nhà sử học, mà ngay
cả ở các cấp, các ngành, ở trung ương và địa phương cũng rất quan tâm đến đổi mới
dạy học lịch sử. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, việc đổi mới dạy học lịch sử địa
phương ở trường THPT hiện nay lại chưa được chú ý và đầu tư. Hầu như việc giảng
dạy của giáo viên và học tập của học sinh về lịch sử địa phương chỉ dừng lại ở mức
độ chiếu lệ. Mặc dù, chúng ta đều biết rằng, lịch sử địa phương và lịch sử có mối
quan hệ biện chứng khơng thể tách rời. Tri thức lịch sử địa phương là biểu hiện cụ
thể, sinh động và đa dạng của lịch sử dân tộc. Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu
thành của lịch sử dân tộc. Nói cách khác, lịch sử dân tộc được hình thành trên nền
tảng khối lượng tri thức lịch sử địa phương đã được khái quát và tổng hợp ở mức độ

cao. Bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào sảy ra cũng mang tính chất địa
phương vì nó gắn với một vị trí khơng gian cụ thể, một địa phương nhất định, dù rằng
các sự kiện đó có tính chất, quy mơ và mức độ ảnh hưởng khác nhau. Có sự kiện hiện
tượng chỉ có tác dụng, ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp, có sự kiện, hiện tượng mà
tác động của nó vượt qua khung giới địa phương, mang ý nghĩa quốc gia, thậm chí là
quốc tế.
Xuất phát từ thực tế trên, trong những năm học vừa qua, được phân công giảng
dạy lịch sử địa phương ở khối lớp 11- THPT, tôi luôn mong muốn nâng cao chất
3


lượng dạy và học nên đã tìm tịi, nghiên cứu, đổi mới khi dạy, vì vậy, để khắc phục
những hạn chế trong việc dạy học lịch sử địa phương, đồng thời nâng cao hứng thú và
hiệu quả dạy - học lịch sử địa phương tôi đã thực hiện đề tài “ Đổi mới dạy học lịch
sử địa phương lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa
Ba Đình” nhằm mục đích giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước, lịng
tự hào dân tộc. Từ đó sẽ hình thành cho các em nhân cách, ý thức xây dựng và bảo vệ
quê hương, đất nước, bảo vệ cuộc sống bình yên của q hương mình và có ý thức
học tập, rèn luyện để vươn lên xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp,
vững mạnh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11.
Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình” là dạy - học lịch sử địa phương lớp 11, thơng qua
việc tìm hiểu Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa) cuối thế kỷ XIX.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba
Đình” được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học duy vật biện chứng;
dựa trên lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của

Đảng, Chính phủ về cơng tác giáo duc. Phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề tài là
vận dụng các phương pháp nghiên cứu của bộ mơn: đọc, phân tích, so sánh, tổng
hợp… tài liệu lịch sử, những tài liệu có liên quan đến Khởi nghĩa Ba Đình; đồng thời
kết hợp với tìm hiểu thực tế ở địa phương Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa.

4


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm
Địa phương là những vùng đất nhất định nằm trong một quốc gia, có những sác
thái, đặc thù riêng, là một bộ phận cấu thành của đất nước. Khái niệm “ địa phương”
có thể hiểu theo hai khía cạnh cụ thể và trừu tượng.Với nghĩa cụ thể, có thể gọi địa
phương là những đơn vị hành chính như các làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố. Với
nghĩa trừu tượng, có thể gọi địa phương là những vùng đất nhất định được hình thành
trong lịch sử, có ranh giới tự nhiên để phân biệt với vùng đất khác.
Lịch sử địa phương chính là lịch sử của các làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố
hoặc lịch sử của vùng, miền. Bản thân lịch sử địa phương rất đa dạng và phong phú
về cả nội dung và thể loại.
Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11 là cách giải quyết thông qua giảng
dạy kiến thức tại thực địa để nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử địa phương ở lớp
11 THPT.
2.1.2. Mối quan hệ
Mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương là mối quan hệ biện
chứng, không thể tách rời, nằm trong cặp phạm trù “ cái chung và cái riêng ”. Tri thức
lịch sử địa phương là biểu hiện cụ thể, sinh động và đa dạng của lịch sử dân tộc. Lịch
sử địa phương là một bộ phận cấu thành của lịch sử dân tộc. Nói cách khác, lịch sử
dân tộc được hình thành trên nền tảng khối lượng tri thức lịch sử địa phương đã được
khái quát và tổng hợp ở mức độ cao. Bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào sảy

ra cũng mang tính chất địa phương vì nó gắn với một vị trí khơng gian cụ thể, một địa
phương nhất định, dù rằng các sự kiện đó có tính chất, quy mô và mức độ ảnh hưởng
khác nhau. Giảng dạy lịch sử địa phương có ý nghĩa quan trọng góp phần thực hiện
mục tiêu giáo dục ở trường THPT. Việc giảng dạy lịch sử địa phương góp phần rèn
luyện và phát triển năng lực học tập và nghiên cứu của học sinh. Trong trương trình
5


Lịch sử lớp 11 THPT, tôi chọn Khởi nghĩa Ba Đình để giảng dạy giúp các em thấy
được sự phát triển đa dạng, sinh động, phức tạp và thú vị của lịch sử địa phương; thấy
được mối quan hệ chặt chẽ giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc; thấy được
mối quan hệ chặt chẽ giữa cuộc khởi nghĩa Ba Đình với phong trào Cần Vương cuối
thế kỷ XIX. Lịch sử địa phương có những độc đáo, đặc thù riêng song vẫn phải tuân
theo quy luật phát triển chung của lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong việc dạy học lịch sử hiện nay, chúng tơi gặp khơng ít khó khăn, trong đó
ngay cả những tiết dạy học lịch sử địa phương có ý nghĩa quan trọng đối với việc
cung cấp, bổ sung những kiến thức khoa học về tự nhiên, xã hội của quê hương trên
mọi lĩnh vực. Nhưng tiếc rằng trong nhiều năm qua những tiết học về lịch sử địa
phương chưa được chú trọng, thậm chí có trường cịn xem là giờ phụ có thể dạy, hoặc
bỏ qua. Do quan niệm khác nhau nên nhiều người chưa coi trọng lịch sử địa phương
mặc dù trong chương trình dạy mơn lịch sử không thể thiếu mảng kiến thức này.
Từ thủa bé thơ mỗi chúng ta đều biết về con người, cảnh vật, q khứ nơi chơn
rau, cắt rốn của mình. Những câu hát ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ,
của chị ln có một phần khơng nhỏ nói về q hương, nó đã sớm in sâu vào tâm trí
trẻ em, làm tăng thêm lòng yêu quê hương da diết và là tri thức ban đầu về quê
hương. Dựa trên nền tảng đó chúng ta mới có thể giáo dục, hình thành cho các em
lịng u q hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc và ý thức xây dựng, phát triển và
bảo vệ tổ quốc.
Thanh Hóa là một tỉnh lớn, có truyền thống văn hóa và bề dày lịch sử lâu đời,

oanh liệt, gắn liền với lịch sử chung của dân tộc. Nhà sử học Phan Huy Chú khi viết
về Thanh Hóa đã khẳng định “ Mạch núi cao vót, sơng lớn lượn quanh, biển ở phía
đơng…..Vẻ non sơng tươi tốt chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh
hoa tụ họp lại, nên nảy sinh nhiều bậc nho văn. Đến những sản vật quý cũng khác
mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi, nên nẩy ra những bậc phi thường, vương khí
6


chung đúc nên đứng đầu cả nước.” (Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú).
Đất Thanh Hóa trải qua nhiều tên gọi khác nhau đến đời Lý được đổi tên thành
Thanh Hóa. Theo sách Dư địa chí, Thanh Hóa là vùng địa lý thuận lợi, hình thể tốt
có thể xem như yết hầu của đất nước. Thiên thời, địa lợi, nhân hịa khiến Thanh Hóa
thuận lợi trở thành nơi xưng vương, dựng nước. Liên tiếp các triều vua, chúa xuất
phát từ đất Thanh. Theo thống kê thì từ thời Văn Lang cho đến khi kết thúc chế độ
phong kiến cuối cùng là triều Nguyễn với vua Bảo Đại thì Thanh Hóa chính là khởi
nguồn của nhiều dịng vua, chúa nhất nước vì vậy nên mới có câu “Vua xứ Thanh”.
Là vùng đất “địa linh” chúng ta cịn có rất nhiều các cuộc khởi nghĩa lớn, với nhiều
anh hùng dân tộc: Kháng chiến chống Tống dưới sự chỉ huy của Thập đạo tướng quân
Lê Hoàn; Khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự chỉ huy của anh hùng dân tộc Lê Lợi; Khởi
nghĩa Ba Đình dưới sự chỉ huy của Phạm Bành, Đinh Công Tráng…; rồi trong kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ chúng ta càng tự hào với những chiến thắng làm nức
lịng người: Đị Lèn cịn đó, Hàm Rồng – Nam Ngạn còn đây…; và những tấm gương
hy sinh anh dũng để bảo vệ nền độc lập của tổ quốc: anh Tô Vĩnh Diện, anh Lê Mã
Lương, chị Ngô Thị Tuyển...
Vì lẽ đó, khơng có lý do nào để chúng ta - những người dạy lịch sử lại bỏ trống
mảng này. Cá nhân tôi cho rằng, với nguồn tư liệu lịch sử địa phương hết sức phong
phú nhưng với bốn tiết trong phân phối chương trình ba năm THPT và lớp 11 chỉ có
một tiết quả là q ít. Vậy nên, chúng ta cần phải tận dụng triệt để thời gian và càng
không thể bỏ qua mà không dạy. Bởi vì, chúng ta có rất nhiều điều cần giảng dạy cho
các em và các em cũng có nhiều điều chưa biết, cần phải biết để làm hành trang cho

các em vững bước xây dựng, phát triển và bảo vệ quê hương, đất nước.
2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Xác định mục tiêu bài học lịch sử địa phương lớp 11
Tìm hiểu chuyên đề lịch sử địa phương: Đổi mới dạy học lịch sử địa phương
lớp 11. Tìm hiểu khời nghĩa Ba Đình cần xác định những mục tiêu cơ bản sau:
* Về kiến thức: hướng dẫn học sinh tìm hiểu và nắm vững:
7


+ Tình hình Thanh Hóa trước cuộc khởi nghĩa Ba Đình.
+ Vị trí địa lý của Ba Đình.
+ Kỹ thuật đào đắp và bố trí hào lũy ở căn cứ Ba Đình.
+ Cách tổ chức và sử dụng lực lượng trong khởi nghĩa Ba Đình.
+ Bài học kinh nghiệm của khởi nghĩa Ba Đình.
+ Đóng góp xây dựng và chiến đấu của nhân dân Hà Trung trong cuộc khởi nghĩa Ba
Đình.
* Về kỹ năng:
Giúp học sinh biết sưu tầm, nghiên cứu, sử dụng tài liệu truyền thống dân tộc, địa
phương vào học tập và đời sống.
* Về thái độ:
+ Giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh.
+ Khơi dậy cho các em tự hào về những chiến cơng của cha ơng mình ngay trên q
hương mình; tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất trong đấu tranh, tự hào về
chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong xây dựng và sản xuất.
+ Giáo dục các em có ý thức thừa kế, giữ gìn và phát huy truyền thống của địa
phương và dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
2.3.2. Giải pháp 2: Xác định nội dung bài học lịch sử địa phương lớp 11 - Khởi
nghĩa Ba Đình.
Để bài học lịch sử địa phương lớp 11: “ Khởi nghĩa Ba Đình ” thành cơng,
giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh nắm vững những vấn đề trọng tâm của cuộc

khởi nghĩa.
2.3.2.1.Tình hình Thanh Hóa trước cuộc khởi nghĩa Ba Đình
Vào cuối thế kỷ XIX, triều đình phong kiến nhà Nguyễn lâm vào khủng hoảng,
suy vong và trở thành miếng mồi ngon của các nước tư bản phương Tây đang khao
khát thuộc địa. Ngày 01-09-1858, thực dân Pháp bất ngờ tấn công vào bán đảo Sơn
Trà (Đà Nẵng), rồi tiếp tục đánh chiếm 6 tỉnh Nam Bộ. Sau khi chiếm xong các tỉnh
phía Nam , thực dân Pháp tìm mọi cách tấn cơng ra phía Bắc. Từ năm 1873 đến năm
8


1883, Pháp liên tục tiến đánh và chiếm miền Bắc. Sau khi thành Hà Nội thất thủ,
quan quân triều đình nhà Nguyễn kẻ hàng, người trốn, có những thành như Phủ Lý,
Ninh Bình, có đến hàng ngàn qn canh giữ, nhưng chỉ cần 5 - 6 tên lính Pháp đã hạ
được thành. Năm 1883, 1884, Triều đình nhà Nguyễn đã phải chấp nhận đầu hàng
hoàn toàn thực dân Pháp, nước ta từ nước phong kiến độc lập trở thành nước nửa
thuộc địa nửa phong kiến. Thanh Hóa là tỉnh thuộc Trung kỳ, hưởng chế độ cai trị do
quan lại cấp tỉnh vẫn tiếp tục cai trị như trước. Nhưng thực tế Pháp đã dọn đường cho
bọn công sứ mở rộng quyền lực. Chính quyền thực dân phong kiến huy động tối đa
lực lượng phản động tập trung tại Thanh Hóa để đàn áp và nơ dịch nhân dân. Chính
quyền thực dân phong kiến còn tăng cường lực lượng quân sự tại Thanh Hóa với một
sư đồn đóng tại Kép, một lữ đồn bộ binh phụ trách Thanh Hóa.
Từ sau Hiệp ước ngày Hác – măng, Pa- tơ- nốt (1883, 1884), triều đình nhà
Nguyễn bị phân hóa thành 2 bộ phận: bộ phận chủ hòa và bộ phận chủ chiến. Bộ phận
chủ hòa đã trở thành tay sai đắc lực cho thực dân Pháp. Bộ phận chủ chiến đứng đầu
là Tôn Thất Thuyết đã tập hợp lực lượng, phát động nhân dân các nơi trong nước
đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ,
Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị), ra Chiếu Cần
Vương, kêu gọi toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Phong trào Cần
Vương do các văn thân, sỹ phu yêu nước lãnh đạo phát triển mạnh mẽ, được nhân dân
trên khắp cả nước hưởng ứng. Chiếu Cần Vương đã mở ra một giai đoạn mới trong

phong trào chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XIX.
Hưởng ứng Chiếu Cần Vương, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược của nhân dân cả nước diễn ra sôi sục. Lúc này phong trào ở Thanh Hóa phát
triển mạnh mẽ ở hầu hết các huyện, lơi cuốn những văn thân có tiếng như: Tuần Bát
Nơ; bố chính Nguyễn Xn Quỳnh; Tổng đốc Lê Văn Rạng; tiến sỹ Tống Duy Tân;
đốc học Phạm Bành; quan huyện Hoàng Bật Đạt; Cử nhân Lê Khắc Thảo, Hà Văn
Mao vv...

9


Tơn Thất Thuyết cho rằng, Thanh Hóa là yết hầu giữa miền Trung và miền
Bắc, là một vị trí chiến lược quan trọng, hình mạch hướng vào, thế lớn nhóm lên, có
đủ ba điều lợi cho việc dấy binh tụ nghĩa, mở mang nghiệp lớn, chống giặc cứu nước.
Biết Đinh Công Tráng là một tướng giỏi thao lược, nhiều mưu kế, đã từng đánh Pháp
ở Hà Nam, Ninh Bình và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Tôn Thất Thuyết đã mời ơng
vào Thanh Hóa bàn quốc sự. Đến cuộc họp ở chùa Trang Các, Phủ Tống Sơn (huyện
Hà Trung ngày nay) vào tháng 3 - 1886, Trần Xuân Soạn đã phân tích cái lợi, cái hại
và quyết định lập căn cứ Ba Đình và ơng khẳng định "Người giữ vùng này, ngồi
Đinh Cơng Tráng khơng ai đảm nhiệm nổi". Thế là Đinh Cơng Tráng, Phạm Bành,
Hồng Bật Đạt,… được giao trọng trách xây dựng, bảo vệ vị trí trọng yếu này trong
thế trận chung, nhằm biến Thanh Hóa thành một căn cứ kháng chiến vững chắc cho
cả nước.
2.3.2.2. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình
* Vị trí địa lí của Ba Đình
Ba Đình là một xã đồng chiêm trũng thuộc huyện Nga Sơn, Tỉnh Thanh Hóa.
Phía Bắc giáp Nga Vịnh, phía Nam giáp Nga Thắng, phía Đơng giáp Nga Văn, phía
Tây giáp huyện Hà Trung. Cách Ba Đình 3km về phía Đơng Nam là núi Sa Liễn (núi
Sến), xa hơn chút nữa là núi Chiêm Ba, Tam Linh, núi Vân Hoàn nằm bên bờ sơng
Lèn và bến Thắm, phía Tây có núi Giao Thụy, phía Đơng Bắc là dẫy núi Tam Điệp

hiểm trở như bức tường thành.
Căn cứ Ba Đình được xây dựng trên địa bàn ba làng Mỹ Khê, Thượng Thọ,
Mậu Thịnh. Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hịn đảo nổi giữa cánh đồng
nước mênh mơng, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng
có một cái đình, từ đình làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia. Mỗi làng chỉ
có một con đường độc đạo đi vào.
* Kỹ thuật đào đắp và bố trí hào lũy ở căn cứ Ba Đình
Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Cơng Tráng đã họp các tướng lĩnh, trình
bầy kế hoạch xây dựng căn cứ Ba Đình. Việc xây thành ông giao cho Đốc Khế chỉ
10


huy. Việc huy động dân phu và nguyên liệu giao cho các tướng khác. Nhân dân ở các
làng quanh Ba Đình bao gồm cả hai huyện Nga Sơn và Tống Sơn đã hết lịng ủng hộ
nghĩa qn. Mỗi làng góp 30 cái rọ lớn cao 2m, 100 cây tre tươi còn nguyên cả cành
và 10 gánh rơm để nghĩa quân xây dựng công sự. Nhân dân ba làng Mỹ Khê, Thượng
Thọ và Mậu Thịnh đã nhường lại nhà cửa, vườn tược, chuyển đi ở nơi khác để nghĩa
quân xây dựng căn cứ. Nhờ tinh thần yêu nước và sự đóng góp to lớn của nhân dân,
chỉ trong vịng một tháng, căn cứ Ba Đình đã được xây dựng thành một cụm cứ điểm
chiến đấu hết sức kiên cố, bằng cách triệt để lợi dụng địa hình, địa vật, với một hệ
thống công sự hầm, hào, thế trận chặt chẽ, liên hồn, tập trung hỏa lực, phân tán binh
lực, bí mật, bất ngờ. Điều đáng lưu ý là ý thức được tính chất gay go, ác liệt của cuộc
chiến đấu sắp tới, nghĩa quân đã tổ chức cho người già và trẻ em đi sơ tán ở những
vùng phụ cận, nhằm tránh cho nhân dân những tổn thất không cần thiết.
Bao bọc xung quanh căn cứ là luỹ tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, rồi
đến một lớp thành đất cao 3m, chân rộng từ 8-10m, thành rộng 400m, dài 1.200m,
mặt thành có thể đi lại được. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre đựng bùn trộn
rơm. Phía trong thành có hệ thống giao thơng hào dùng để vận chuyển lương thực và
vận động khi không chiến đấu, tải lương thực, tiếp tế đạn dược. Ngoài thành là 3
vòng hào lũy, vòng trong rộng khoảng 50m cắm chơng ngầm bằng tre tươi đẽo vát,

xiên về phía ngồi, làm vật cản hoặc sát thương địch. Vòng giữa là lũy tre xanh dầy
đặc gai góc, rậm rạp. Vịng ngồi cùng là một tầng cọc tre ngầm, đẽo nhọn và thả
những cành tre, ngọn tre bùng nhùng như dàn mướp. Ở những nơi xung yếu đều có
cơng sự vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng theo hình chữ "chi", nhằm hạn
chế thương vong.
Lợi dụng ba ngơi đình có sẵn, nghĩa quân lập ba đồn tiền tiêu: Thượng Thọ có
đồn Thượng, Mậu Thịnh có đồn Trung, Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ
tác chiến lẫn nhau khi bị tấn cơng,nhưng cũng có thể độc lập tác chiến. Đầu mỗi làng
đều xây dựng chốt gác kiên cố, có bãi chơng mìn cẩn mật và súng thần cơng. Chốt
một: Án ngữ con đường phía tây từ Thạch Lễ vào làng Mỹ Khê. Chốt hai: Chặn
11


đường từ Sa Liễn, Nga Thôn, vào làng Mậu Thịnh. Chốt ba: Ngăn chặn từ Tuân Đạo,
Điền Hộ từ phía đơng và phía đơng bắc vào làng Thượng Thọ. Các ngọn núi cao ở
bên ngoài căn cứ được đặt các trạm gác và đồn tiền tiêu như: Trạm viễn vọng Nga
Châu, trạm gác ở Xa Loan, Thổ trung ở phía đơng, trạm Thanh Đồn, Tn Đạo ở phía
bắc, trạm Hang Giơi, núi Răng Cưa (núi Tam Điệp) phía đơng. Để đánh lạc hướng
địch. Nghĩa quân ở các nơi đã tiến đánh, gây rối thu hút lực lượng quân Pháp, tạo
điều kiện giữ bí mật cho nghĩa qn Ba Đình xây dựng căn cứ. Xây dựng xong thành
lũy, Đinh Công Tráng cho mở cống Hói Cái. Nước thủy triều dâng cao thì lấp cống
lại. Ba Đình thành một pháo đài nổi lềnh bềnh giữa biển nước mênh mơng.
Có thể nói, với cách xây dựng và bố phòng cẩn mật như vậy, căn cứ Ba Đình là
căn cứ tiêu biểu nhất, một chiến tuyến phịng ngự quy mơ nhất thời kỳ Cần Vương
cuối thế kỷ XIX. Bộ chỉ huy quân sự Pháp phải thực sự lo lắng khi tấn công vào cứ
điểm được xây dựng vững chắc của Ba Đình. Pháp đã phải thừa nhận: Trong chiến
dịch 1886 – 1887, cuộc công hãm Ba Đình là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu
hút nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhiều nhất…
Trong chiến đấu nghĩa qn Ba Đình khơng bị cơ lập. Gần Ba Đình có các đội
qn của Nguyễn Kiên đóng ở Bồ Giơng, Mậu Yên, Trường Phi Lai. Tống Duy Tân

đóng ở Bồng Trung; Cao Điển đóng ở Sơn Thơn; Thanh Xá; Cầm Bá Thước đóng ở
Thường Xuân; Trần Xuân Soạn đóng ở Thạch Đằng; căn cứ Mã Cao của Hà Văn
Mao. Từ Ba Đình nghĩa qn có thể tỏa đi các nơi, chặn đánh các đoàn xe vận tải của
địch và tập kích các tốn lính hành qn đi qua gần căn cứ.
* Cách tổ chức và sử dụng lực lượng chống Pháp trong khởi nghĩa Ba Đình
Sau khi xây dựng căn cứ và tổ chức lực lượng. Ngày 18-8-1886 nghĩa quân
tiến hành lễ thệ quân. Trong buổi lễ thệ quân, Trần Xuân Soạn thay mặt đức vua Hàm
Nghi phong chức "Đề đốc chỉ huy sứ Bình Tây Đại Tướng Quân" và trao quyền
thống lĩnh căn cứ địa Ba Đình cho tướng qn Đinh Cơng Tráng. Bên cạnh Đinh
Cơng Tráng cịn có nhiều thủ lĩnh tài giỏi khác tham gia và hỗ trợ khởi nghìa Ba Đình

12


như: Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước, Trần Xuân Soạn,
Cao Điển, Tống Duy Tân,…
Cùng với việc xây thành đắp lũy, kêu gọi nhân dân hưởng ứng, giúp đỡ xây
dựng căn cứ, vấn đề tổ chức lực lượng cũng được nghĩa quân hết sức chú ý. Đội ngũ
chiến đấu được tuyển chọn kỹ lưỡng từ những người trai tráng ở địa phương và nhiều
nơi khác: Nga Sơn, Tống Sơn ( Hà Trung ), Hậu Lộc, Hoàng Hóa,…Trong hàng ngũ
nghĩa quân có cả con em các dân tộc Mường, Thái…cũng hào hứng tham gia. Lúc
đầu nghĩa quân Ba Đình chỉ độ 300 người, nhưng sau đó được bổ sung thêm. Nhân
dân Nga Sơn là một trong những nguồn bổ sung lực lượng đông đảo nhất cho nghĩa
quân. Nghĩa quân chia làm 10 cơ đội, mỗi cơ đội có 30 tráng binh do một Hiệp quản
và một Tắc vị phụ trách. Mỗi cơ đội gồm 3 toán, mỗi toán 10 tráng binh do một suất
đội chỉ huy. Tùy theo tình hình và ý đồ tác chiến của bộ chỉ huy, các cơ đội và các
toán tráng binh được phân công nhiệm vụ trên các chốt khác nhau, sẵn sàng chiến đấu
hoặc chi viện cho nhau. Ngoài lực lượng chính kể trên, cịn có hàng trăm người khác,
trong đó có nhiều phụ nữ, thiếu niên làm cơng tác hậu cần, liên lạc, theo dõi tình
hình, truyền đạt tin tức, mệnh lệnh trong hàng ngũ nghĩa quân và các mặt đảm bảo

chiến đấu trong căn cứ Ba Đình và các vùng trong huyện.
Để có sức chiến đấu cao, vấn đề kỷ luật được nghĩa quân thực hiện nghiêm túc,
người chỉ huy kịp thời thưởng phạt nghiêm minh, kỷ luật quan hệ với nhân dân luôn
được nhắc nhở và đề cao. Chính vì vậy, nhân dân đã đồn kết, tin tưởng và hết lịng
ủng hộ nghĩa qn. Bên cạnh đó, nghĩa quân luôn luôn được rèn luyện, tập dượt về
chiến thuật và kỹ thuật chiến đấu, như sử dụng thành thạo và có hiệu quả hỏa mai,
súng thần cơng, súng trường, cung nỏ, giáo mác vv...Tinh thần thượng võ truyền
thống của dân tộc được cổ vũ phát triển như: vật, côn, quyền. Công tác bảo mật,
thông tin liên lạc trong và ngoài căn cứ được nghĩa quân nghiêm chỉnh chấp hành,
người ra vào thành phải theo mật khẩu. Truyền đạt mệnh lệnh, tin tức trong ngoài do
một đội quân tin cậy đảm nhiệm. Với ý đồ chiến đấu trong một thời gian dài, nghĩa
quân đã thực hiện một phương thức tác chiến đúng đắn, bố trí trận địa và điều động
13


binh lực tích cực, linh hoạt. Nghĩa quân chọn Mậu Thịnh làm địa điểm đóng sở chỉ
huy, Đồn Trung được đặt ở đây, do Đinh Công Tráng trực tiếp chỉ huy. Đồn Thượng
đặt ở Thượng Thọ và Đồn Hạ ở Mỹ Khê. Từ các đồn binh quan trọng đó, một hệ
thống hào giao thông tỏa ra các công sự trong và ngồi chiến lũy. Lúc thường nghĩa
qn đóng thành các cụm được quy định, khi địch đến, theo hệ thống hào chiến đấu,
các cơ đội nhanh chóng vận động chiếm lĩnh trận địa, sẵn sàng tác chiến; quan sát
theo dõi và nắm vững tình hình, khi cần thiết, các đồn có thể dùng tín hiệu trống, mõ
(ban ngày) ánh lửa (ban đêm) để thông báo về sở chỉ huy. Để động viên tinh thần của
binh sỹ trong chiến đấu, các thủ lĩnh nghĩa quân đã tổ chức thường xuyên hai gánh
hát chèo chia nhau đến các đồn, công sự để hát, động viên tinh thần quân sĩ.
Ngay sau khi xây dựng xong căn cứ Ba Đình, nghĩa quân từ đây tỏa ra đánh
địch ở quanh vùng, như Đồn Tam Cao, Ninh Bình, chặn đánh các đồn qn vận tải
trên đường. Những hoạt động của nghĩa quân đã gây cho địch nhiều thiệt hại, các
tuyến đường giao thông của địch bị tê liệt.
Những tin tức về hoạt động của nghĩa quân Ba Đình làm cho giặc Pháp hết sức

lo ngại và chúng tìm mọi cách tiêu diệt bằng được căn cứ này. Sau khi tổ chức hai
cuộc tấn cơng thăm dị, nắm tình hình, ngày 18-12-1886 quân Pháp mở cuộc tấn cơng
quy mơ lần thứ nhất vào Ba Đình. Lực lượng của địch được chia làm hai cánh: cánh
quân thứ nhất do trung tá Métđanhgiê chỉ huy gồm 167 lính, có một cỗ đại bác 80ly
yểm hộ tấn cơng từ phía tây nam, cánh quân thứ hai do trung tá Đốt chỉ huy có 350
lính tiến cơng từ phía đơng bắc. Lần này, cả hai cánh quân của địch đều bị chặn đứng
trước những tay súng, tay cung thiện xạ của nghĩa quân. Nhiều tên bị tiêu diệt trước
chiến luỹ. Chúng phải dùng đại bác 80ly bắn chặn đường truy kích của nghĩa quân để
rút lui, cuộc tấn công lần thứ nhất của giặc Pháp vào căn cứ Ba Đình bị thất bại thảm
hại.
Rõ ràng, căn cứ Ba Đình như là một cái gai án ngữ hai miền Trung và Bắc mà
bọn giặc Pháp cương quyết phải nhổ. Cuối năm 1886, Pháp đã huy động về Ba Đình
một số lượng tới 2.488 quân, thuộc đủ loại binh chủng, với nhiều sỹ quan cao cấp,
14


trong đó có đại tá Brítxơ, một sỹ quan lão luyện thạo nghề công thành của quân đội
Pháp, sang chỉ huy mặt trận Ba Đình, với nhiệm vụ cụ thể là tiêu diệt toàn bộ lực
lượng khởi nghĩa và đặc biệt phải tiêu diệt bằng được thủ lĩnh Đinh Công Tráng.
Ngồi ra, chúng cịn điều động các pháo hạm vào yểm trợ cho các đường tiếp tế. Bọn
phong kiến tay sai cung cấp cho Pháp 5.000 phu và 3 thuyền lớn để chuyên chở lương
thực. Bên cạnh đó, chúng lại được "cha Sáu" (tức Trần Lục) thơng thạo địa hình, bày
mưu tháo cạn nước cánh đồng Ba Đình và vạch kế hoạch đánh phá nghĩa quân. Lần
này, bọn Pháp sử dụng chiến pháp sở trường là: một trận tuyến, một vịng vây, tiến
dần từng bước sát vị trí nghĩa qn và tập trung lực lượng công phá.
Ngày 6-1-1887, thực dân Pháp mở đợt tấn công lần thứ hai: Quân giặc chia làm
3 mũi tiến vào căn cứ sau một hồi pháo kích dữ dội. Lần này chúng tiến được sâu hơn
trước, nhưng đến gần thành thì bị nghĩa quân chặn lại. Ở những nơi khác, quân địch
bị sa lầy trong bùn nước sâu, lại bị hỏa lực của nghĩa quân bắn rát nên rất hoang
mang. Giặc Pháp phải tự thú nhận: "Tình cảnh của chúng ta ở Ba Đình lúc này đã đến

mức không thể trông địch hàng, mà phải trông vào sự rộng lượng của họ, một khi
chúng ta bại trận". Địch bị tổn thất nặng nề và phải lui quân.
Sau trận đánh này, địch nhận thấy không dễ dàng tấn cơng chiếm lĩnh nhanh
chóng trận địa của nghĩa quân. Tên chỉ huy Britxô cho bao vây nghĩa quân bằng 2
phòng tuyến, cắt đứt sự chi viện từ bên ngoài. Đồng thời xin tăng thêm viện binh và
đại bác. Bọn thực dân Pháp ra lệnh cho Brítxơ "phải tiêu diệt Ba Đình bằng mọi giá".
Để thực hiện mục đích đó, Y tiến hành bao vây và lấn dần từng bước, nhằm cô lập
căn cứ, cắt đứt nguồn tiếp tế của nghĩa quân, ngày càng thắt chặt vòng vây. Ngày 151-1887, Britxô hạ lệnh tấn công căn cứ. Quân địch lấy dầu phun lửa đốt cháy luỹ tre,
cùng lúc tập trung đại bác bắn dồn dập vào căn cứ. Sáng ngày 20-1, tốn cơng binh
của địch đã tiến sát phịng tuyến thứ nhất của chiến luỹ tre bao quanh Ba Đình.
Nhưng chúng thấy "khó khăn vẫn cịn lớn, những đường hào đầy nước và chơm chởm
cọc tre vót nhọn thật sự tạo thành một rừng lao đáng sợ". Công binh Pháp đã phải
tưới dầu hỏa vào những cây tre bằng bơm chữa cháy rồi phóng hỏa, nhưng chỉ một
15


phần ít bắt lửa. Bọn địch dẫm bừa lên xác chết để xơng vào. Cuộc chiến của Nghĩa
qn Ba Đình trở nên vô cùng ác liệt, phải chống chọi với một đội quân được trang bị
hiện đại, với số lượng đơng hơn ít nhất là mười lần; bệnh dịch tả và kiết lỵ lại bắt đầu
xuất hiện bên phía nghĩa qn do nguồn nước bị ơ nhiễm.
Trước tình hình trên, để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, dành sức cho cuộc
chiến đấu lâu dài tiếp theo, Phạm Bành và Đinh Công Tráng quyết định rút quân khỏi
căn cứ Ba Đình. Đêm ngày 20-1-1887, trong màn sương dày đặc, tiết trời giá rét, đội
cảm tử do Đốc Khế chỉ huy bất ngờ tấn cơng các đồn địch ở phía trong và nghĩa quân
do Trần Xuân Soạn chỉ huy cũng tấn công các đồn ngoại vi của chúng. Giữa lúc ấy,
đại bộ phận nghĩa quân Ba Đình chia làm hai đội do Đinh Công Tráng và Phạm Bành
chỉ huy theo hai hướng khác nhau thốt ra ngồi. Đội qn của Đinh Công Tráng rút
theo hướng tây bắc đã vượt qua sông Hoạt, lên Hà Trung rồi về Ma Cao tiếp tục
kháng chiến. Cánh quân của Phạm Bành vượt được về làng Gũ (Cự Thôn, Hà Trung)
rồi tự phân tán về các địa phương.

Sáng ngày 21-1-1887, sau những đợt công phá dữ dội của đại bác, giặc Pháp
mới dám vào căn cứ Ba Đình, khi tiếng súng của nghĩa quân đã im lặng từ lâu. Tên
Brútxô đã trả thù một cách hèn hạ, ra lệnh triệt phá ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh,
Mỹ Khê. Cuộc chiến đấu ở Ba Đình Kết thúc với việc căn cứ Ba Đình và Mã Cao lần
lượt thất thủ. Các thủ lĩnh đã anh dũng chiến đấu, hy sinh hoặc tự sát để giữ vững khí
tiết. Thực dân Pháp cho người lùng bắt và đàn áp dã man tất cả những ai tham gia
cuộc khởi nghĩa, bắt bọn phong kiến Nam triều xóa bỏ tên ba làng ra khỏi bản đồ Việt
Nam. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình đã trở thành nỗi khiếp sợ, không chỉ của quân xâm
lược Pháp và bè lũ phong kiến tay sai ở mặt trận Ba Đình, mà cịn chấn động tới tận
sào huyệt của bọn thực dân xâm lược ở chính quốc.
* Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa Ba Đình
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình năm 1886-1887 là đỉnh cao của phong trào Cần
Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX ở Thanh Hóa. Cuộc khởi
nghĩa Ba Đình tiếp tục tơ đẹp thêm truyền thống vẻ vang của dân tộc ta trong chiến
16


tranh chống xâm lược. Đó là tinh thần yêu nước nồng nàn, sức mạnh đoàn kết hùng
hậu của các tầng lớp nhân dân, tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất trong cuộc
chiến tranh vô cùng gian khổ, đầy hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc.
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình cịn để lại những bài học vơ cùng q giá về trí thơng
minh, sáng tạo và nghệ thuật quân sự. Trên ý nghĩa chiến lược, hình thức tác chiến
làng xã được thể hiện đậm nét trong cuộc khởỉ nghĩa Ba Đình. Đó là hình thức tác
chiến chủ yếu của nhân dân ta trong lịch sử giữ nước, mà khởi nghĩa Ba Đình là một
bước phát triển mới, làng xã được tổ chức lại thành một hệ thống phòng thủ chặt chẽ,
khoa học, đảm bảo kỹ thuật, phát huy được chiến thuật của nghĩa quân, hạn chế được
binh khí, kỹ thuật hiện đại, nhất là phát huy tối đa tác dụng của vũ khí thơ sơ.
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình là niềm vinh dự, tự hào và là nguồn cổ vũ, động viên
lớn lao đối với các thế hệ người dân Nga Sơn, người dân Thanh Hóa, người dân Việt
Nam, trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay. Cái tên Ba Đình khơng những khơng bị xóa, mà cịn
mãi mãi lung linh toả sáng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
2.3.2.3. Đóng góp xây dựng và chiến đấu của nhân dân Hà Trung (Tống Sơn) trong
cuộc khởi nghĩa Ba Đình
Trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình nhân dân Hà Trung ( Tống Sơn ) đã có những
đóng góp to lớn về nhân tài, vật lực để xây dựng và chiến đấu chống Pháp và tay sai.
Nhân dân Hà Trung ( Tống Sơn ) đã tham gia xây dựng và đóng góp các vật
liệu như: cọc, sọt, tre, rơm rạ…để góp phần xây dựng căn cứ Ba Đình kiên cố, vững
chắc.
Nhân dân Hà Trung ( Tống Sơn ) đã trực tiếp tham gia canh phòng, chiến đấu,
ngăn chặn quân địch từ xa. Đặc biệt các thống lĩnh Hà Trung như: Lĩnh Toại, Lĩnh
Tráng, Đốc Cả, Đốc Phong, Cai Mao…vừa tổ chức lực lượng bảo vệ các tuyến đường
để dân phu trong huyện vận chuyển vật liệu xây thành, vừa tranh thủ huấn luyện binh
sĩ để cung cấp cho khởi nghĩa Ba Đình.

17


Trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình có sự đóng góp xây dựng căn cứ và chiến đấu
dũng cảm của nhân dân Hà Trung ( Tống Sơn ). Sự đóng góp đó đã dấy lên thành một
phong trào rộng lớn, mạnh mẽ và sơi nổi trên tồn huyện chống lại thực dân Pháp
xâm lược vào cuối thế kỷ XIX, khiến cho qn Pháp vơ cùng khó khăn trong q
trình bình định Việt Nam.
2.3.3. Giải pháp 3: Xác định hình thức tổ chức: Bài học lịch sử địa phương lớp 11 tại
thực địa Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa
Trên cơ sở chương trình giảng dạy, sinh hoạt ngoại khố theo quy định của Bộ
Giáo dục & Đào tạo và phần mềm phù hợp với tình hình của trường THPT Hồng Lệ
Kha, Hà Trung, Thanh Hóa, giáo viên bộ mơn, tổ chun mơn lập kế hoạch và xin ý
kiến của Ban giám hiệu nhà trường, hội cha mẹ học sinh để thực hiện kế hoạch. Đồng
thời kế hoạch dạy học lịch sử địa phương lớp 11 tại thực địa Ba Đình, Nga Sơn, Thanh

Hóa cần phối hợp với Đồn thanh niên lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa. Thành lập
các tổ ngoại khóa lịch sử địa phương và tổ chức cho học sinh tham quan, dã ngoại…
Xây dựng kế hoạch dạy học lịch sử địa phương lớp 11 tại thực địa:
Thứ nhất, xác định địa điểm ngoại khóa tại Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa;
Thứ hai, phải lập dự trù kinh phí cho mỗi học sinh ( 45.000 VND / học sinh );
Thứ ba, phải cử người hướng dẫn liên hệ trước;
Thứ tư, phải trang bị cho học sinh kiến thức về khởi nghĩa Ba Đình;
Thứ năm, phải yêu cầu học sinh sau khi tham quan viết bài thu hoạch nêu lên cảm nghĩ của
mình…
Thơng qua bài học lịch sử địa phương lớp 11 tại thực địa Ba Đình, Nga Sơn, Thanh
Hóa và bài thu hoạch nêu lên cảm nghĩ của học sinh, Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên
giảng dạy nắm được kết quả, chất lượng của phương pháp dạy học lịch sử địa phương, từ đó
rút kinh nghiệm và tiếp tục đổi mới cho phù hợp.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Trong tiết dạy học lịch sử địa phương lớp 11 tại thực địa: Ba Đình, Nga Sơn,
Thanh Hóa, bản thân tơi thấy rõ hiệu quả thực sự của việc dạy học lịch sử địa phương tại
18


thực địa. Đó là các em hào hứng sơi nổi học tập, chăm chú và thích thú. Các em bớt đi
sự rụt rè, nhút nhát, phát huy được năng lực chủ động và sáng tạo, và vô cùng xúc
động, tự hào về quê hương mình.
Sau khi dạy tiết lịch sử địa phương lớp 11, thông qua bài thu hoạch của học sinh ở
các lớp chỉ học lịch sử địa phương lớp 11 tại lớp, với bài thu hoạch của học sinh ở các lớp
được học lịch sử địa phương lớp 11 tại thực địa: Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa, tôi thấy rõ
kết quả khá chênh lệch. Cụ thể như sau:
*KẾT QUẢ ĐIỂM KHẢO SÁT BÀI THU HOẠCH CỦA HỌC SINH LỚP 11
TRƯỜNG THPT HOÀNG LỆ KHA SAU KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TẠI
LỚP HỌC


Khối lớp

Tổng
số học
sinh

11A1

45

11A3

42

KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

TS

%

TS

%


TS

%

TS

%

3

6,7%

7

20

44,4

15

33,3%

2

4,8%

6

15,6

%
14,3
%

18

42,8
%

16

38,1%

*KẾT QUẢ ĐIỂM KHẢO SÁT BÀI THU HOẠCH CỦA HỌC SINH LỚP 11
TRƯỜNG THPT HOÀNG LỆ KHA SAU KHI HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TẠI
THỰC ĐỊA BA ĐÌNH - NGA SƠN - THANH HÓA

Khối lớp

Tổng
số học
sinh

11A2

46

11A4

45


KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

15

32,6
%

28,9
%

17

36,9
%
44,5
%

12

26,2
%
22,2
%

2

4,3%

2

4,4%

13

20

19


10


Như vậy, so với kết quả khi chưa thực hiện đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa
phương lớp 11. Tìm hiểu khởi nghĩa Ba Đình”, kết quả có thay đổi rõ rệt, tỉ lệ khá
giỏi tăng, tỉ lệ trung bình, yếu giảm.
Bên cạnh đó, kết quả khảo sát sau tiết dạy học lịch sử địa phương lớp 11 tại thực
địa: Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa, có tới 96 % học sinh thích học phần lịch sử địa
phương tại thực địa, học sinh cho rằng lịch sử là mơn học bổ ích, các em cảm thấy
thích học và u thích mơn lịch sử; 4% học sinh cịn lại cho rằng: Lịch sử là mơn học
bổ ích nhưng khơ khan, thiếu sinh động, quá nhiều mốc thời gian và khó nhớ.
Kết quả như trên đã nằm ngồi dự kiến và mong muốn của người thực hiện đề
tài. Mong rằng đề tài “Đổi mới dạy học lịch sử địa phương lớp 11. Tìm hiểu khởi
nghĩa Ba Đình” sẽ tiếp tục được thực hiện và khẳng định trong các năm học tiếp theo.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Sáng kiến kinh nghiệm được rút từ thực tế giảng dạy lịch sử địa phương ở lớp
11 -THPT, nó đã góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử theo hướng tối ưu,
tích cực các hoạt động nhận thức của học sinh. Sáng kiến này đã chứng minh tính cần
thiết và khả thi của việc sử dụng các di tích lịch sử ở địa phương để dạy học lịch sử.
Giáo viên lịch sử không nên xem nhẹ việc giáo dục học sinh bằng các di tích lịch sử,
di tích cách mạng trên địa bàn. Mặc dù phần lớn hình ảnh, biểu tượng lịch sử này
cũng chỉ đến với học sinh bằng con đường tư duy trừu tượng, nhưng những biểu hiện
đó lại có ưu thế đó là gần gũi hơn đối với các em về mặt không gian, về mặt nhận
thức và về mặt tình cảm...Sâu thẳm trong tiềm thức ước mơ của các em là một ngày
nào đó, mình sẽ được nhìn thấy, mình sẽ được chiêm ngưỡng tận mắt, mình sẽ được
cầm nắm bằng cảm giác thực tế về các di tích lịch sử mà các thầy cơ đã dạy cho
mình. Đó cũng chính là cơ sở nền tảng cho các em nhận thức về lịch sử của dân tộc
ta.


20


Với phương pháp dạy học lịch sử địa phương tại thực địa, học sinh vô cùng
hứng thú và say mê tìm tịi, khám phá lịch sử địa phương mình mà khơng phải địa
phương nào cũng có. Từ đó, giáo dục lịch sử địa phương sẽ hình thành nhân cách cho
các em, giáo dục cho các em tinh thần yêu quê hương, đất nước, thức tỉnh trong các
em ý thức, trách nhiệm đóng góp sức mình làm rạng danh q hương đất nước. Xây
dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc, phát huy những truyền thống quý báu của cha
ông, viết tiếp những trang sử vẻ vang cho quê hương đất nước.
3.2. Kiến nghị:
Đối với Sở Giáo dục đào tạo Thanh Hóa và các nhà trường THPT: Cần tăng
cường thêm tiết dạy lịch sử địa phương, quan tâm đầu tư làm phong phú thêm nguồn
tư liệu có những nội dung về lịch sủ địa phương, hỗ trợ kinh phí để việc dạy học lịch
sử địa phương có chất lượng và đạt hiệu quả cao nhất.
Đối với giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm: Giáo viên bộ môn lịch sử là
lực lượng nòng cốt quyết định chất lượng giáo dục và giảng dạy, nên cần nâng cao
nhận thức về đổi mới dạy học lịch sử địa phương. Sự hợp tác của giáo viên bộ môn
và của giáo viên chủ nhiệm có vai trị quyết định cho sự thành cơng của công tác
giảng dạy lịch sử địa phương. Giáo viên bộ mơn phải khắc phục tư tưởng ngại khó,
hoặc thực hiện chỉ mang tính chất hình thức, sơ sài. Phải đầu tư thời gian, tâm huyết
tìm tịi tài liệu, kết hợp có hiệu quả các phương pháp dạy học, tổ chức các hoạt động
tiếp cận lịch sử địa phương cho học sinh bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú.....
Đối với học sinh: Đây là lứa tuổi bắt đầu có những nhận thức chín chắn nên
các em cần phải có những hiểu biết nhận định về địa phương mình, về nơi các em
sinh ra và lớn lên. Vì vậy, giáo viên phải giúp đỡ các em hiểu biết tầm quan trọng của
lịch sử địa phương để các em tham gia đầy đủ, tích cực và có ý thức hoạt động tốt
trong buổi học lịch sử địa phương tại thực địa.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi qua việc thực hiện đề tài ở Trường

THPT Hoàng Lệ Kha. Tuy nhiên, đây chỉ là kinh nghiệm mang tính chủ quan của bản
thân và mới áp dụng trong thời gian ngắn, phạm vi hẹp. Rất mong sự đóng góp ý
21


kiến, trao đổi, bổ sung của bạn bè đồng nghiệp và sự phổ biến, nhân rộng đề tài để kết
quả giáo dục lịch sử nói chung và giáo dục lịch sử địa phương nói riêng của học sinh
đạt hiệu quả cao hơn nữa.
Xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ:

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện:

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử Thanh Hóa – Nhà xuất bản Thanh Hóa - 1986
2. Khởi nghĩa Ba Đình – Nhà xuất bản Thanh Hóa – 1986.
3. Đinh Cơng Tráng – Thủ lĩnh khởi nghĩa Ba Đình – Nhà xuất bản lao động – 2005.
4. Lịch sử địa phương – Nhà xuất bản Đại học sư phạm – Nguyễn Cảnh Minh.
5. Khởi nghĩa Ba Đình và phong trào chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỷ 19 – Sở
Văn hóa Thơng tin Thanh Hóa – 1986.
6. Đại cương lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản giáo dục.
7. Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 2000 – Nhà xuất bản giáo dục.
8. Biên niên lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản văn hóa thơng tin.

9. Kỷ niệm 200 năm khởi nghĩa Ba Đình – thư viện tổng hợp Thanh Hóa.
10. Khởi nghĩa Ba Đình và phong trào u nước kháng Pháp của nhân dân Thanh
Hóa – Nhà xuất bản Thanh Hóa.

23


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ
XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO; CẤP SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO
TẠO VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
Họ tên tác giả: NGƠ THỊ BÌNH
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Giáo viên - Trường THPT Hoàng Lệ Kha
TT

1

2

3

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá

Kết quả

Năm học


(Xếp loại

đánh giá

đánh giá xếp

Phòng; Sở;

xếp loại (A;

loại

Sử dụng đồ dùng trực quan

Tỉnh…)
Sở Giáo dục –

B hoặc C)
C

2008 - 2009

trong bài: “Cách mạng tư

đào tạo Thanh

sản Pháp cuối thế kỷ

Hóa


XVIII” ( lớp 11 nâng cao.)
Lịch sử địa phương: tìm

Sở Giáo dục –

C

2013 – 2014

hiểu về phong trào u

đào tạo Thanh

nước chống Pháp cuối thế

Hóa

kỷ XIX
Đơi mới dạy học lịch sử

Sở Giáo dục –

C

2017 - 2018

địa phương lớp 11.

đào tạo Thanh


Hóa
*Các sáng kiến này tơi đã gửi Sở Giáo dục trước khi thi Giáo viên giỏi
cấp tỉnh. Các sáng kiến này được xét qua vòng 1 để vào vòng 2, vậy nên
tương đương với sáng kiến được xếp loại C cấp Sở Giáo dục – đào tạo. (
Theo công văn chỉ đạo thi Giáo viên giỏi của Sở ).

24



×