SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP DẠY KIỂU BÀI ÔN TẬP, TỔNG KẾT (PHẦN
VĂN HỌC) TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 THEO
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:
SKKN thuộc lĩnh vực:
LƯƠNG THỊ THUỲ AN
Giáo viên
Trường THPT Nguyễn Trãi
Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2019
1
MỤC LỤC
Mục
1. MỞ ĐẦU
2. NỘI DUNG
Nội dung
Trang
1
3
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Kiểu bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình
3
3
Ngữ văn
a. Đặc trưng
b. Nội dung các bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình
3
5
Ngữ văn 10
2.2.2. Thực tiễn dạy học các bài ôn tập, tổng kết văn học trong nhà
5
trường
a. Thuận lợi
b. Khó khăn
2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị
2.3.2. Giai đoạn tổ chức hoạt động theo tiến trình giờ học
a. Hoạt động trải nghiệm kết nối
b. Hoạt động hình thành kiến thức
c. Hoạt động luyện tập
d. Hoạt động vận dụng
e. Hoạt động tìm tòi, mở rộng
2.3.3. Giai đoạn tổ chức củng cố kiến thức
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Hiệu quả trong việc tăng hứng thú học tập, hoạt động học tích
5
6
7
7
8
8
9
11
13
13
14
16
16
cực của HS
2.4.2 Hiệu quả trong việc phát huy năng lực của HS
2.4.3. Hiệu quả nâng cao chất lượng giảng dạy
3. KẾT LUẬN -KIẾN NGHỊ
17
18
19
3.1. Kết luận
3.22. Kiến nghị, đề xuất
19
19
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
CHỮ VIẾT TẮT
THPT
VHDG
PPDH
GV
HS
SGK
PP
KTDH
NỘI DUNG
Trung học phổ thông
Văn học dân gian
Phương pháp dạy học
Giáo viên
Học sinh
Sách giáo khoa
Phương pháp
Kĩ thuật dạy học
3
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Nội dung chương trình Ngữ văn THPT được tổ chức thành một chỉnh thể
thống nhất, mỗi mắt xích trong đó đều có vai trò nhất định trong việc hình thành
và phát triển năng lực người học. Bài ôn tập, tổng kết là một kiểu bài đặc biệt,
thể hiện ở những yêu cầu về hệ thống hóa nội dung và phương pháp. Bài học
này giúp người học hình thành năng lực khái quát, tổng hợp tri thức, kĩ năng tự
học, tự nâng cao kiến thức, đồng thời GV có thể kiểm tra nhận thức của HS,
giáo dục ý thức học hợp tác và học phát triển.
Song, thực tiễn lại tồn tại những điểm gây bất lợi cho việc dạy và học bài
ôn tập: thời lượng phân phối chương trình còn hạn chế, chương trình chỉ tập
trung tổng kết kiến thức mà chưa chú trọng rèn kĩ năng, phát triển năng lực,
phẩm chất người học. GV và HS đều ngại bài học này. Bởi bài ôn tập nhiều câu
hỏi, HS băn khoăn không biết bắt đầu từ đâu, còn GV giảng dạy đại khái vì lúng
túng không biết triển khai hoạt động học như thế nào, đa phần là GV tổng kết hộ
HS. Lí do cơ bản là chúng ta chưa hiểu đặc trưng bản chất của bài học. Khi đối
tượng chưa tường minh thì không thể lựa chọn phương pháp phù hợp và tích cực
được.
Trước xu thế của thời đại và thực trạng hiện nay, phương pháp dạy học
hiện đại yêu cầu tích cực hóa hoạt động của HS với tư cách chủ thể của quá trình
học, chủ động tiếp thu kiến thức, theo tinh thần của Nghị quyết số 29 – NQ/TW
ngày 04 tháng 11 năm 2013, hội nghị Trung ương 8 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo. Đây không
còn là lí thuyết phương pháp mới, nhưng áp dụng trong mỗi giờ học còn hạn
chế. Điều này đã được chú ý phát huy trong các giờ Tiếng Việt, Làm văn nhưng
lại chưa được phát huy trong các tiết Đọc văn, đặc biệt là các bài văn học sử,
khái quát, ôn tập, tổng kết. Đó là một nghịch lí, bởi mọi việc ôn tập phải xuất
phát từ sự chuẩn bị và hứng thú của HS. Hơn nữa, ôn tập, tổng kết là nền tảng để
mở ra một nấc thang tri thức mới. Đây là thử thách để GV thể hiện năng lực của
4
mình trong việc nâng cao chất lượng học tập, đi vào chiều sâu tri thức, phát triển
tư duy cho HS.
Chính vì tầm quan trọng của bài học và sự khó khăn của GV khi giảng
dạy, tôi xin được đề xuất một vài kinh nghiệm có tính chất cá nhân góp phần đổi
mới hướng nghiên cứu và giảng dạy môn Ngữ văn trong nhà trường qua đề tài:
“Phương pháp dạy kiểu bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương
trình Ngữ văn 10 theo định hướng phát triển năng lực học sinh”
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu, đánh giá phương pháp và hiệu quả giảng
dạy bài ôn tập, tổng kết văn học lớp 10, đề xuất giải pháp nhằm cải tiến phương
pháp giảng dạy bài ôn tập, tổng kết văn học nói chung ở trường THPT. Mặt
khác một trong những yêu cầu đổi mới dạy học văn là nhằm phát huy vai trò
chủ thể tích cực chủ động của học sinh trong quá trình học và chiếm lĩnh tri
thức.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 2 bài: Ôn tập văn học dân gian Việt Nam và
Tổng kết phần Văn học trong chương trình SGK Ngữ văn lớp 10, tập 1, 2 NXB
Giáo dục năm 2016.
Đối tượng khảo sát là HS khối 10, cụ thể tiến hành thực nghiệm sáng kiến
kinh nghiệm ở lớp 10A2,10A3,10A9 (năm học 2018-2019), trường THPT
Nguyễn Trãi, thành phố Thanh Hoá.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Thực nghiệm đề tài (thiết kế thử nghiệm) theo PPDH mới, phát huy năng
lực hợp tác và tính tích cực, chủ động của HS. Phương pháp nghiên cứu được sử
dụng trong sáng kiến kinh nghiệm là: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, so sánh,
phương pháp quan sát thực nghiệm, phương pháp phỏng vấn, phương pháp tiếp
cận tâm lý.
5
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Trong Luật Giáo dục, điểu 24.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học,
khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Có thể nói cốt lõi trong đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ
động, chống lại thói quen học tập thụ động của học sinh. Căn cứ vào mục tiêu
trên cùng với việc dựa vào đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THPT: ham tìm
hiểu, tiếp cận, thích cái mới lạ nhưng chóng chán, việc vận dụng các phương
pháp dạy học phù hợp với kiểu bài, đặc trưng môn sẽ giúp giáo viên kích thích
được sự chủ động, sáng tạo của học sinh trong các giờ học. Vì phương pháp dạy
học được coi “là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học
sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học” [7;9].
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Kiểu bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình Ngữ văn
a. Đặc trưng
Bài ôn tập, tổng kết là bài tổng hợp tri thức của một quá trình học tập
trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm kiến thức về văn học sử, kiến
thức về văn bản…Khi triển khai giảng dạy, GV nên lưu ý định hướng cho HS
tiếp xúc kết hợp các đơn vị kiến thức khác nhau một cách hợp lí, đồng thời có
thể triển khai vận dụng kiến thức đó vào giải quyết một số vấn đề cụ thể trong
thực tiễn. Bài học này có nhiều ưu thế để GV nâng cao kỹ năng văn học cho HS.
Bài ôn tập, tổng kết khối lượng kiến thức nhiều, phong phú ở nhiều thể
loại, nên cả GV và HS thấy e ngại, nhưng nhất thiết không được bỏ qua bài học
quan trọng này. Trong chương trình Ngữ văn, chúng ta quan tâm nhiều hơn đến
việc đọc - hiểu các tác phẩm văn học cho đúng phong cách, thể loại, nhưng việc
rèn luyện kĩ năng khái quát tổng hợp, việc hình thành quan điểm văn học ở HS
6
lại ít được chú ý. Dạy học dạng bài này được xem là đạt yêu cầu khi hình thành
cho HS cả phương diện lí thuyết và phương diện thực hành, có kĩ năng phân tích
và tổng hợp. GV và HS cần khắc phục tâm lí ngại và sợ, tích cực tìm kiếm
những PPDH phù hợp với đối tượng. Bài ôn tập không đơn giản là “cái gói”
chứa tất cả kiến thức đã học, mà hơn thế, nó còn đáp ứng yêu cầu của HS là
được rèn luyện kĩ năng học tập và tổ chức lại những đơn vị cơ bản cấu thành nên
chương trình học.
HS không thể ngay lập tức hình dung được cấu trúc nội dung bài học ôn
tập, tổng kết. Mục tiêu chúng ta hướng đến ở dạng bài này không phải là nhắc
lại những kiến thức đã học mà phải từ những tri thức đã có để hình thành nên tri
thức mới, ở dạng khái quát. Do đó, đòi hỏi HS phải có tư duy khái quát, tổng
hợp, so sánh, đánh giá các đơn vị kiến thức với nhau.
Bài ôn tập, tổng kết được xem là kiểu bài bản lề, bởi để có thể nắm bắt
toàn bộ nội dung chương trình học thì HS phải nỗ lực vượt qua tư duy phân lập
để có được tư duy tổng hợp. Tri thức mà người học có được không phải từ một
văn bản, một bài học mà là cả một quá trình tiếp nhận. Một khi dạng bài này
được triển khai theo đúng cách của nó, HS được trực tiếp làm việc, tự mình thay
đổi nhận thức, biết cách đánh giá tổ chức kiến thức ở một trình độ nhất định.
Mặt khác, bài ôn tập, tổng kết thường ở cuối mỗi phần, mỗi giai đoạn văn học,
do vậy nó là bản lề giữa kiến thức cũ và mới. Cánh cửa muốn mở rộng thì bản lề
phải vững. Kiến thức và kĩ năng hình thành cho HS thông qua bài ôn tập cũng
vậy, chúng ta không nên tham vọng ôm trọn những kiến thức trong một khoảng
thời gian ở một hai tiết học. Chúng ta chỉ triển khai ở góc độ vĩ mô, tổng quát
kiến thức cũ, giúp HS hình thành tư duy lôgíc, bồi dưỡng tư duy hình tượng.
Hơn nữa, bài ôn tập, tổng kết cũng là dạng bài bản lề giáo dục ý thức học
tập của HS. Đối với bài học này, HS phải làm việc hết mình, sự tiến triển của giờ
học phụ thuộc vào khả năng học tập của HS. Ở các dạng bài đọc- hiểu, hay khái
quát, HS chờ GV giảng rồi mới có định hướng tư duy. Còn ở dạng bài ôn tập,
HS phải dựa vào chính vốn học tập suốt thời gian trước để tự tổng kết theo các
7
mức độ khác nhau. Như vậy, bài ôn tập, tổng kết là bản lề từ việc học tập tập
thể, học nhận thức sang học tự nhận thức, HS càng tích cực thì chất lượng giờ
học càng cao.
b. Nội dung các bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong chương trình Ngữ văn
10
* Về số lượng câu hỏi: Mỗi bài đều có hệ thống câu hỏi triển khai nội
dung ôn tập, tổng kết thống nhất với mục tiêu bài học. Đánh giá câu hỏi, chúng
ta nên dựa vào các mặt tri thức, kĩ năng, thái độ.
- Bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam: Số lượng câu hỏi là 10 câu (4
câu phần nội dung và 6 câu phần bài tập vận dụng).
- Bài Tổng kết phần Văn học: Số lượng câu hỏi là 7 câu, bao quát kiến
thức cơ bản đã học trong chương trình Ngữ văn 10.
* Về tri thức:
Các tác giả biên soạn sách đã đưa vào bài hệ thống các câu hỏi phong
phú, bao quát được nội dung chương trình văn học dân gian đã học, tái hiện lại
những tri thức khái quát, sau đó dùng những tri thức cụ thể về tác phẩm để
chứng minh.
Trong sách giáo viên hướng dẫn khai thác các câu hỏi theo trình tự, định
hướng những nội dung cơ bản. Nhiều GV xây dựng giáo án y nguyên theo sự
trình bày của sách giáo viên, vì thế chưa bộc lộ được ý tưởng thiết kế một giờ
dạy phù hợp, chỉ đơn thuần là đáp án các câu hỏi hướng dẫn học bài. Nếu GV
biết vận dụng sáng tạo sách giáo viên và tài liệu tham khảo thì bài dạy mới thực
sự phong phú.
* Về kỹ năng:
Nội dung ôn tập, tổng kết cũng quán triệt tinh thần của việc dạy học văn
hiện nay, đó là đảm bảo kết hợp song song giữa dạy kiến thức và dạy kỹ năng.
Kỹ năng HS được rèn luyện chủ yếu là kỹ năng phân tích để minh họa cho một
nội dung nào đó chưa mang nhiều tính sáng tạo. HS ít có cơ hội để hợp tác, trình
bày, bộc lộ quan điểm đối với những nội dung đã học.
8
2.2.2 Thực trạng dạy học các bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) trong nhà
trường
a. Thuận lợi
- Về nội dung bài dạy: Hệ thống câu hỏi đa dạng, toàn diện, bao quát nội
dung chương trình đã học, đồng thời đảm bảo kết hợp song song giữa kiến thức
và kỹ năng. Câu hỏi cũng chú trọng khai thác những điểm đặc sắc trong nội
dung, nghệ thuật của các tác phẩm đã học.
Bài dạy có những thuận lợi về tiềm năng tri thức và kỹ năng, nếu người
dạy chú ý và khai thác đúng cách thì đây sẽ là kiểu bài phong phú nhất trong
chương trình.
- Về thực tiễn dạy học: Tư duy của HS phổ thông giai đoạn này phù hợp
cho dạy học kiểu bài ôn tập, tổng kết. GV có thể căn cứ vào trình độ của HS để
tổ chức các hoạt động học tập sinh động, giúp các em hứng thú hơn.
b. Khó khăn
- Về nội dung bài học: Hệ thống câu hỏi không tránh khỏi một số nhược
điểm, như GS. Phan Trọng Luận khẳng định: “Không thể có ảo tưởng về một
cuốn sách giáo khoa, nhất là sách giáo khoa Ngữ văn hoàn hảo 100%” [4,14]
+ Hệ thống câu hỏi chưa chú ý phát triển năng lực khái quát - tổng hợp
cho HS, mà chỉ đơn thuần yêu cầu HS tái hiện kiến thức, kỹ năng phân tích tác
phẩm để minh họa cho kiến thức khái quát. Câu hỏi đòi hỏi suy luận, sáng tạo
còn ít.
+ Hệ thống câu hỏi chưa chú trọng phát triển những năng lực khác nhau
của HS như: Đọc - hiểu, bình văn, vận dụng… được hình thành song song cùng
với những tri thức về văn bản.
- Về thực tiễn dạy - học:
+ Phía giáo viên:
Về tâm lí: GV có phần ngại giảng dạy loại bài này và cho rằng đây là kiểu
bài nhắc lại kiến thức đã học nên chủ yếu là HS tự trả lời câu hỏi, còn trên lớp
dạy qua loa cho xong.
9
Về phương pháp: Từ việc soạn giáo án, tôi nhận thấy giáo án các bài ôn
tập, tổng kết văn học giống như một dàn ý các câu hỏi trong SGK, trong phần
hoạt động của thầy và trò thì chưa thấy rõ biện pháp tổ chức tiết học ôn tập sinh
động, hấp dẫn. Vì thế, trên lớp triển khai tiết dạy mỗi người một cách: hoặc coi
câu hỏi như bài tập, giao HS về nhà làm, hoặc GV diễn giảng, HS chép vào
vở… HS không phải thắc mắc, giải đáp vấn đề mà trở thành “cái bồ” chứa kiến
thức.
+ Phía học sinh: Có rất ít HS chuẩn bị bài, hoặc chuẩn bị theo kiểu “chống
đối” cho có để tránh bị phạt. Hầu hết HS không tự giác, nỗ lực để tìm kiếm tri
thức, mà thụ động, trông chờ việc đọc chép. Vì thế, trên lớp HS không hứng thú
học tập.
Tóm lại, qua khảo sát nội dung ôn tập của sách giáo khoa, thực tiễn dạy học của GV và HS, chúng tôi nhận thấy việc dạy học kiểu bài ôn tập, tổng kết
văn học còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Những thực trạng trên là cái chúng ta
cần nhìn nhận thẳng thắn và nghiêm túc suy nghĩ để khắc phục. Mỗi GV cần
nghiên cứu nội dung và tìm hiểu yêu cầu của việc dạy học bài ôn tập, tổng kết để
có hướng triển khai phù hợp, đồng thời chú ý đến trình độ của đối tượng HS.
Thực tiễn cho thấy, những cách thức giảng dạy bài ôn tập, hoặc là rất sơ sài,
hoặc là chưa tích cực, hấp dẫn. Đó là lí do thôi thúc tôi triển khai đề tài sáng
kiến kinh nghiệm này, cố gắng khắc phục những tồn tại đang có, đề xuất một vài
kinh nghiệm giảng dạy kiểu bài ôn tập, tổng kết đúng với tinh thần dạy học mới,
đảm bảo nội dung, tổ chức hoạt động phong phú, sinh động, tăng tính hấp dẫn,
phát huy năng lực, kích thích tinh thần tự giác, sáng tạo học tập của học sinh.
2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
PPDH tích cực được thực hiện thông qua tổ chức các hoạt động học tập
của HS. Học sinh - đối tượng của hoạt động dạy và là chủ thể của hoạt động học,
phải được cuốn hút vào các hoạt động học tập do GV tổ chức. Trong mỗi giờ,
GV là người chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, còn HS là người trực tiếp giải quyết
vấn đề theo cách suy nghĩ của mình. Những hoạt động GV có thể tổ chức rất
10
phong phú, chúng ta có thể chia làm các giai đoạn để tổ chức các hoạt động phù
hợp: Giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn tổ chức các hoạt động theo tiến trình giờ dạy,
giai đoạn tổ chức củng cố kiến thức.
2.3.1. Giai đoạn chuẩn bị
Đây là giai đoạn GV giao công việc và HS có nhiệm vụ hoàn thành những
bài tập định hướng cho việc tiến hành giờ học. GV có thể tổ chức giai đoạn này
cho cá nhân hoặc nhóm HS hợp tác chuẩn bị. Tổ chức dạy học hợp tác giúp các
thành viên trong nhóm chia sẻ những băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân,
cùng nhau xây dựng tri thức mới.
Bài ôn tập không thể chỉ triển khai trên lớp với thời gian hạn hẹp được.
Do vậy, GV cần mở rộng ngữ cảnh sư phạm, định hướng cho HS học bằng nhiều
hình thức và nội dung khác nhau. GV cần kiểm tra chặt chẽ việc chuẩn bị của
HS, đồng thời sử dụng kết quả học tập ở nhà hợp lí, sẽ giúp việc tổ chức ôn tập
trên lớp hiệu quả và sinh động hơn.
Chẳng hạn, đối với bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam, GV giao
nhiệm vụ cho HS về nhà chuẩn bị trước các công việc như: Lập bảng thống kê
(thể loại, tên tác phẩm, nội dung, nghệ thuật chủ yếu), trả lời trước các câu hỏi
và bài tập ôn tập vào vở soạn, lập sơ đồ tư duy về đặc trưng, thể loại, giá trị của
văn học dân gian Việt Nam (chuẩn bị cho phần nội dung ôn tập). Trong bước
kiểm tra bài cũ, GV kiểm tra phần chuẩn bị của HS trong vở soạn.
2.3.2. Giai đoạn tổ chức các hoạt động theo tiến trình giờ học
a. Hoạt động trải nghiệm kết nối
Đây là hoạt động nhằm mục đích tạo hứng thú cho HS khi vào bài. GV có
thể đưa tình huống có vấn đề, thiết kế trò chơi trí tuệ… tùy thuộc vào mục tiêu
bài học, đối tượng học sinh và thời gian cho phép.
Ví dụ: Đối với bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam, GV tổ chức lớp
chơi trò chơi ô chữ, khám phá bí ẩn đằng sau ô chữ. Nhiệm vụ của HS là đi tìm
từ khóa (Gồm 5 chữ cái: Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của văn học
dân gian?). Có 5 câu hỏi, tương ứng với 5 hàng ngang; mở một ô hàng ngang sẽ
11
tìm được các chữ cái tương ứng của từ khóa. Nếu HS đoán được từ khóa sau khi
mở dưới 5 hàng ngang thì GV có thể khuyến khích điểm thưởng. (Từ khóa: Dị
bản). Hàng 1 (6 chữ cái): Loại quả do Mai An Tiêm mang về từ hoang đảo?
(DƯA HẤU chữ: D). Hàng 2 (3 chữ cái): Hóa thân của cô Tấm trước khi trở
lại thành người? (THỊ chữ: I). Hàng 3 (8 chữ cái): Điền từ còn thiếu trong
câu sau: Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong... (BỌC TRỨNG
Chữ: B). Hàng 4 (3 chữ cái): Tên nhân vật bị viên lí trưởng xử phạt một chục
roi trong truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày? (CẢI chữ: A). Hàng 5 (5
chữ cái): Hình ảnh thường xuất hiện trong ca dao, thể hiện sự tảo tần, lam lũ của
người nông dân thời xưa? (CON CÒ chữ: N).
b. Hoạt động hình thành kiến thức:
Hoạt động này giúp HS tìm hiểu, lĩnh hội nội dung kiến thức của bài, rèn
luyện năng lực cảm nhận, cung cấp cho HS cơ sở khoa học của những kiến thức
được đề cập đến trong bài học. Do đặc thù của bài ôn tập, tổng kết (so với những
bài học về văn bản), nên GV cần lựa chọn PP và các KTDH phù hợp, giúp phát
triển năng lực và kích thích tính tự giác và tích cực học tập ở HS.
PPDH bài ôn tập, tổng kết nói chung và bài ôn tập phần văn học nói riêng
được sử dụng chủ yếu là dạy học hợp tác theo nhóm. Đây là một PPDH mà HS
được phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nhiệm về một mục
tiêu duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các
hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm
thực hiện một mục tiêu chung. Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng
nhằm giúp cho mọi HS tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo
cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các
vấn đề có liên quan đến nội dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu,
học hỏi lẫn nhau; cùng nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung.
PPDH thảo luận theo nhóm được cụ thể hóa bằng một số KTDH tương
ứng, phù hợp. Đối với bài ôn tập, tổng kết văn học, GV nên sử dụng một số kĩ
12
thuật dạy học tích cực như: Kĩ thuật động não, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật
công đoạn, kĩ thuật lập sơ đồ tư duy:
- Kĩ thuật Động não: Là PP đặc sắc dùng để phát triển nhiều giải pháp sáng tạo
cho một vấn đề. HS nêu các ý tưởng tập trung trên vấn đề, có thể ngẫu nhiên
theo dòng suy nghĩ, có thể rộng và sâu cũng như không giới hạn bởi các khía
cạnh nhỏ nhặt của vấn đề. GV nên sử dụng kết hợp KTDH Động não với các
KTDH khác trong bài ôn tập, tổng kết văn học.
- Kĩ thuật Khăn trải bàn: Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết
hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm: Kích thích, thúc đẩy sự
tham gia tích cực; Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS; Phát
triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS. Kĩ thuật này giúp cho hoạt động
nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề
đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn học khá, giỏi.
Ví dụ: Trong bài Tổng kết phần văn học (SGK Ngữ văn 10, tập 2), GV tổ
chức cho HS thảo luận nhóm với kĩ thuật khăn trải bàn trong thời gian 4 phút, để
thực hiện các câu hỏi ôn tập về đặc điểm nội dung của văn học trung đại Việt
Nam, theo câu hỏi số 5 (SGK, tr.148) trên các phiếu học tập:
Nhóm 1, 2, 3. Thực hiện nhiệm vụ mục a, câu hỏi số 5 (SGK, tr.148) về
nội dung yêu nước qua một số tác phẩm văn học trung đại đã học.
Phiếu học tập số 1
Các tác phẩm văn học
- Thơ phú thời Lí - Trần (Vận nước
Biểu hiện của nội dung yêu nước
(Pháp Thuận); Tỏ lòng (Phạm Ngũ
Lão); Phú sông Bạch Đằng (Trương
Hán Siêu); Hứng trở về (Nguyễn Trung
Ngạn)
- Sáng tác của Nguyễn Trãi (Đại cáo
bình Ngô; Cảnh ngày hè)
- Các tác phẩm viết về lịch sử (các
đoạn trích từ Đại Việt sử kí (Lê Văn
13
Hưu); Đại Việt sử kí toàn thư (Ngô Sĩ
Liên)
- Các tác phẩm nghị luận (Tựa “Trích
diễm thi tập” (Hoàng Đức Lương);
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
(Thân Nhân Trung)
Nhóm 4, 5, 6. Thực hiện nhiệm vụ mục b, câu hỏi số 5 (SGK, tr.148) về
nội dung nhân đạo qua một số tác phẩm văn học trung đại đã học.
Phiếu học tập số 2
Các tác phẩm văn học
- Thơ (Bài kệ Cáo bệnh bảo mọi người
Biểu hiện của nội dung nhân đạo
(Mãn Giác); Nhàn (Nguyễn Bỉnh
Khiêm); Đọc Tiểu Thanh kí (Nguyễn
Du)
- Ngâm khúc (Trích đoạn Tình cảnh lẻ
loi của người chinh phụ (Trích Chinh
phụ ngâm (Đặng Trần Côn- Đoàn Thị
Điểm)
- Truyện Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên (Nguyễn Dữ)
- Truyện thơ Truyện Kiều (Nguyễn Du)
- Kĩ thuật Công đoạn: HS được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải
quyết một nhiệm vụ khác nhau. Sau khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo
luận vào giấy A0 xong, các nhóm sẽ luân chuyển giấy A0 ghi kết quả thảo luận
cho nhau.
Trong bài Tổng kết phần văn học (SGK Ngữ văn 10, tập 2), sau khi các
nhóm đã thực hiện xong kĩ thuật khăn trải bàn, GV cho các nhóm trao đổi sản
phẩm để nhận xét góp ý cho nhau. Do điều kiện thời gian nên GV xếp hai nhóm
thành một cặp trao đổi và góp ý, cụ thể là: nhóm 1 và nhóm 4; nhóm 2 và nhóm
5; nhóm 3 và nhóm 6. Sau khoảng thời gian là 2 phút, các nhóm sẽ xem và xử lí
14
các ý kiến của nhóm bạn để nhận xét, bổ sung (nếu có). Sau khi hoàn thiện, các
nhóm sẽ treo và báo cáo kết quả thảo luận trước lớp.
c. Hoạt động luyện tập:
Đây là hoạt động yêu cầu HS phải vận dụng những kiến thức vừa tiếp thu
được để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, qua đó GV xem HS đã nắm được
kiến thức hay chưa và nắm được ở mức độ nào. HS chỉ hoàn thành nhiệm vụ học
tập của mình sau khi rèn luyện những kiến thức đã học, khắc sâu và ghi nhớ
chúng, sau đó biết đem những kiến thức đó vào phục vụ cuộc sống, biết sáng tạo
những văn bản mới. GV giao công việc để HS tự mình làm việc và sáng tạo. Nội
dung luyện tập phụ thuộc vào trình độ của từng HS, do đó, hệ thống bài tập phải
rất công phu, tỉ mỉ, có tính sáng tạo, góp phần tạo hứng thú học tập cho HS.
Với hoạt động luyện tập của bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam, GV
có thể tổ chức cho HS trả lời các câu hỏi sau:
- Một là, câu hỏi tư duy (HS trả lời tốt, GV khuyến khích cho điểm):
Câu hỏi: Văn học dân gian khác với văn học viết như thế nào?
Gợi ý: Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng
khởi đầu có thể do một người làm ra rồi được hình thành, tồn tại, phát triển nhờ
tập thể và gắn bó mật thiết vói các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng
đồng. Còn văn học viết vốn là tiếng nói của cá thể nghệ sĩ, in rõ dấu ấn của nghệ
sĩ trong cảm hứng, phong cách và nghệ thuật sáng tác.
- Hai là, câu hỏi trắc nghiệm, HS trả lời câu hỏi trắc nghiệm củng cố kiến thức,
mỗi câu HS trả lời đúng được mở một phần quà bí mật:
Câu 1. Đâu là đặc trưng cơ bản của VHDG ?
a. Tính truyền miệng
b. Tính cá nhân
c. Tính bản quyền
d. Tính trữ tình
Câu 2. Theo biên soạn của SGK Ngữ văn 10, tập 1, VHDG có mấy đặc
trưng cơ bản ? Đó là những đặc trưng nào ?
15
a. Có 2 đặc trưng cơ bản: Tính truyền miệng, tính tập thể.
b. Có 3 đặc trưng cơ bản: Tính truyền miệng, tính tập thể, tính dị bản.
c. Có 2 đặc trưng cơ bản: Tính truyền miệng, tính dị bản.
d. Có 3 đặc trưng cơ bản: Tính truyền miệng, tính tập thể, tính diễn xướng dân
gian.
d. Hoạt động vận dụng
Hoạt động vận dụng nhằm tạo cơ hội cho HS vận dụng những kiến thức,
kĩ năng, thể nghiệm giá trị đã được học vào trong cuộc sống thực tiễn ở gia đình,
nhà trường và cộng đồng.
Với bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam, GV yêu cầu HS làm việc cá
nhân, thực hiện nhiệm vụ mục 3.III (SGK, tr.149) viết về những vấn đề tâm đắc
nhất của bản thân sau khi học xong phần văn học dân gian Việt nam (bài tập
hoàn thiện ở nhà).
Gợi ý:
HS tự chọn vấn đề tâm đắc nhất, có thể là :
- Nội dung đúng đắn, tiến bộ ; tình cảm trong sáng, lành mạnh; những ước mơ
nhân đạo trong văn học dân gian.
- Những nét đẹp về nghệ thuật của văn học dân gian (kết cấu, ngôn ngữ, cách
diễn đạt, hình ảnh, biểu tượng, các biện pháp tu từ,…).
- Một tác phẩm, một nhân vật cụ thể (Đăm Săn, Mị Châu, Tấm,…).
- Một số đặc điểm nổi bật : yếu tố kì ảo trong truyền thuyết, truyện cổ tích ; các
hình thức lặp lại trong ca dao ; nghệ thuật gây cười trong truyện cười
e. Hoạt động tìm tòi, mở rộng
Đây là hoạt động nhằm khuyến khích HS tiếp tục tìm hiểu thêm để mở
rộng kiến thức, nhằm giúp các em hiểu được rằng, ngoài kiến thức đã học trong
nhà trường còn rất nhiều điều cần phải tiếp tục học hỏi, khám phá.
Đối với bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam, GV yêu cầu HS làm việc
cá nhân, tìm hiểu ở nhà các vấn đề sau:
- Đọc và sưu tầm một số tài liệu về văn học dân gian Việt Nam.
16
- Sưu tầm các tác phẩm văn học dân gian ở địa phương và chép vào sổ tay văn
học.
Ví dụ:
Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh
Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng
Con ơi con ngủ cho đành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Ai coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu Ấu cưỡi voi đánh cồng
Hoặc:
“Cửa đóng then cài”:
Khăng khăng cửa đóng then cài
Cửa trong mắc khóa, cửa ngoài cài then
Đôi ta còn lạ chưa quen
Tuy rằng cửa đóng mà then không cài.
2.3.3. Giai đoạn tổ chức củng cố kiến thức
Đây là một trong năm bước lên lớp của GV trong một tiết học. Củng cố
kiến thức giúp GV nắm được khả năng tiếp thu bài của học sinh, qua đó điều
chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với nội dung, mục tiêu bài học, đồng
thời giúp GV đánh giá được tinh thần, thái độ học tập của HS. Đối với HS, củng
cố giúp các em hệ thống lại kiến thức trọng tâm của bài (khắc sâu kiến thức),
nắm vững và hiểu nội dung tiết học, đồng thời mở rộng và phát triển tư duy
sáng tạo. Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học thì khâu củng cố có vai
trò rất lớn trong việc khơi gợi những sáng tạo trong suy nghĩ, hình thành năng
lực, tư duy văn học, phát huy được vai trò chủ động, tích cực của HS trong quá
trình học tập thông qua việc lĩnh hội kiến thức sau giờ học.
Trên thực tế dạy học cho thấy học sinh có nắm vững mở rộng và khái quát
được kiến thức hay không một phần lớn phụ thuộc vào bước củng cố của tiết
học. Nếu GV coi nhẹ bước này, HS sẽ không thể nhớ lâu, rất khó vận dụng vào
17
việc làm các bài tập. Ngược lại nếu GV coi trọng, kiến thức sẽ đọng lại và ám
ảnh mãi trong các em, tạo nên mối liên hệ kích thích tìm tòi trong sự vận dụng
làm các bài tập tốt hơn. Để củng cố bài học đạt được hiệu quả cao chúng ta có
thể vận dụng nhiều cách khác nhau như: Vấn đáp, gạch ý chính trên bảng, trắc
nghiệm, sơ đồ hóa kiến thức... Trong đó, sơ đồ tư duy được mệnh danh là “công
cụ vạn năng cho bộ não”, là phương pháp ghi chú đầy sáng tạo. Sơ đồ tư duy
không chỉ cho thấy các thông tin mà còn cho thấy cấu trúc tổng thể của một chủ
đề và mức độ quan trọng của những phần riêng lẻ trong đó đối với nhau. Đồng
thời, sơ đồ tư duy giúp HS liên kết các ý tưởng và tạo các kết nối với các ý khác,
giúp việc ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
Đối với bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam (SGK Ngữ văn 10, tập 1)
củng cố kiến thức bằng kĩ thuật lập sơ đồ tư duy sẽ giúp HS nắm kiến thức một
cách hệ thống, logic, trọng tâm, hiểu bài sâu và nhớ bài lâu hơn. Chẳng hạn như
sơ đồ tư duy về phần văn học dân gian:
Còn đối với bài Tổng kết phần Văn học (SGK Ngữ văn 10, tập 2), sơ đồ tư
duy sẽ giúp các em hệ thống lại kiến thức về các bộ phận văn học Việt Nam, từ
văn học dân gian đến văn học hiện đại, các đặc điểm nổi bật về thể loại, nội
dung.
18
Ở trên, tôi đã đề xuất một số giải pháp nhỏ trong quá trình hướng dẫn HS
học kiểu bài ôn tập, tổng kết (phần văn học) theo định hướng phát triển năng lực
trong chương trình Ngữ văn 10. Thực hiện các giải pháp này, GV có thể vừa
thực hiện được những tiết dạy bám chuẩn kiến thức, kĩ năng vừa định hướng
phát huy được năng lực của HS, giúp giờ dạy ôn tập sinh động, hấp dẫn hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Hiệu quả trong việc tăng hứng thú học tập, hoạt động học tích cực của
HS
Bước đầu thử nghiệm dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS đối
với bài Ôn tập văn học dân gian Việt Nam và bài Tổng kết phần văn học trong
chương trình Ngữ văn 10, ở lớp 10A2,10A3,10A9 trường THPT Nguyễn Trãi,
tôi nhận thấy những kết quả rất khả quan. Trước hết là hiệu quả rõ rệt trong việc
gia tăng hứng thú học tập, hoạt động học tích cực của HS. Việc áp dụng hình
thức dạy học mới, tạo điều kiện cho HS chủ động chiếm lĩnh kiến thức thông
qua đọc; nghe; quan sát; tìm tư liệu, phản biện..., tăng cường hình thức hoạt
động theo nhóm (không có HS bị bỏ quên) khiến các em rất hứng thú. HS tích
cực chuẩn bị bài ở nhà, trong giờ phát biểu rất hăng hái, các nhóm thảo luận tích
cực, có tinh thần phản biện cao, không khí giờ học sôi nổi. Thậm chí, HS còn
diễn xướng một số tác phẩm văn học dân gian như hát ru, hát quan họ...Ngay
19
những học sinh bình thường rất thờ ơ với môn văn cũng bị thu hút vào không
khí chung, thực hiện tốt phần việc mình được giao.
Qua việc khảo sát tìm hiểu về tình hình và chất lượng học tập của học
sinh ở các lớp 10A2, 10A3, 10A9 năm học 2018-2019 của trường phổ thông
Nguyễn Trãi, tôi nhận thấy như sau:
Câu hỏi về việc em có hứng thú học những tiết học ôn tập hay không và kết quả
như sau.
Lớp
Sĩ số
Rất hứng thú
Bình thường
10A2
46
15
22
10A3
45
15
24
10A9
49
18
25
2.4.2. Hiệu quả trong việc phát huy năng lực của HS
Không hứng thú
9
6
6
Thực hiện chuyên đề, tôi nhận thấy đã phát huy được năng lực của HS
trong việc chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Phẩm chất và năng lực hình thành khi
học sinh tham gia vào các hoạt động: Hoạt động cá nhân, nhóm, cả lớp…
- Năng lực giải quyết vấn đề: Nhận diện rõ vấn đề khi giáo viên chuyển giao
nhiệm vụ, huy động tối đa những kiến thức đã có và thu thập được để giải quyết
vấn đề. Chẳng hạn như nhiệm vụ phân tích nội dung yêu nước và nội dung nhân
đạo trong các tác phẩm đã học trong chương trình lớp 10, các em HS lớp 10A6
thực hiện một cách chủ động, tích cực.
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến vấn đề: Chẳng hạn đối với bài Ôn
tập văn học dân gian Việt Nam, HS tìm hiểu tài liệu, sưu tầm rất tốt các tác
phẩm văn học dân gian ở địa phương; Các bài nghiên cứu, phê bình về văn học
dân gian, văn học trung đại...
- Năng lực hợp tác: HS tích cực hoạt động thể hiện trong các hoạt động nhóm,
trao đổi, phản biện một cách sôi nổi, hào hứng.
- Năng lực giao tiếp Tiếng Việt: thể hiện ở khả năng thuyết trình, phát biểu ý
kiến bằng ngôn ngữ Tiếng Việt trong sáng, chính xác, giàu tính biểu cảm. Học
sinh chủ động và rất tự tin trong quá trình trình bày sản phẩm của nhóm mình
trước lớp.
20
- Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ: Học sinh thể hiện khả năng
phân tích, cảm nhận, thẩm bình những hình ảnh, chi tiết nghệ thuật giàu giá trị
thẩm mĩ trong tác phẩm theo định hướng của giáo viên. Qua đây, giáo viên cũng
có thể phát hiện những học sinh có tố chất văn chương.
- Năng lực sáng tạo: học sinh phát huy được tối đa năng lực sáng tạo trong học
tập trong việc lập sơ đồ tư duy để học, vẽ tranh theo các bài học:
Tranh: Đan Săn thách đấu Mtao-Mxây
Tranh: Tình cảnh lẻ loi của người
chinh phụ
Trong điều kiện xã hội đang phát triển như hiện nay, việc rèn luyện kỹ
năng làm việc độc lập và theo nhóm, phát huy khả năng sáng tạo, tư duy… sẽ có
ý nghĩa rất lớn tới việc phát triển nâng cao năng lực giao tiếp, năng lực tư duy
sáng tạo cho học sinh vận dụng trong hoạt động thực tiễn và phát triển nghề
nghiệp về sau.
2.4.3. Hiệu quả nâng cao chất lượng giảng dạy
Sau thời gian áp dụng phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh vào bài ôn tập, tổng kết văn học ở khối 10, cụ thể là lớp
10A2,10A3,10A9 trường THPT Nguyễn Trãi (năm học 2018 - 2019), tôi nhận
thấy không những tăng hứng thú học tập, phát huy năng lực học sinh mà còn
đem lại hiệu quả trong nâng cao chất lượng giảng dạy thể hiện ở việc học sinh
hiểu bài, nắm kiến thức nhanh và chắc, có khả năng vận dụng trong những vấn
đề có liên quan.
21
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát việc tiếp thu kiến thức của học sinh thông
qua bài kiểm tra 15 phút với hai hình thức: trắc nghiệm và tự luận. Đối tượng
khảo sát là lớp 10A2 và 10A3 (đây là hai lớp có tỉ lệ điểm tuyển sinh đầu vào
tương đương nhau, khả năng nhận thức cũng không khác biệt; lớp 10A2 áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm, còn lớp 10A3 đối chứng, chỉ áp dụng một nội dung đổi
mới), kết quả như sau:
BẢNG KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG ĐIỂM BÀI KIỂM TRA 15 PHÚT SAU PHẦN VĂN
HỌC DÂN GIAN
Số lượng
Điểm
Lớp
10A2
10A3
HS tham
Điểm từ 0
Điểm từ 5,0 Điểm từ 6,5 Điểm từ 8,0
gia khảo
đến 5,0
đến 6,5
đến 8,0
đến 10
sát
47
45
4
5
17
18
18
16
8
6
Kết quả khảo sát có thể thấy sự khác biệt rõ nét các làn điểm, giảm dần tỉ
lệ học sinh điểm trung bình và dưới trung bình, gia tăng điểm khá giỏi.
Như vậy, qua hoạt động học tập tích cực của HS, kiến thức về văn học của
nhiều em được mở rộng, khắc sâu, có vốn liếng văn học nhất định để làm tốt các
bài nghị luận văn học.
22
3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Dạy – học văn hiện nay đã thay đổi toàn diện về mục tiêu, nội dung
chương trình, đặc biệt là phương pháp. Lượng kiến thức của mỗi bài là tương
đối lớn, GV không thể ôm trọn rồi làm thay cho HS, do đó, dạy học theo hướng
tích cực hóa, phát huy năng lực HS là một giải pháp thích hợp, vừa phát huy
những đặc điểm riêng của bộ môn, vừa thúc đẩy HS tìm tòi, làm chủ kiến thức.
Bài ôn tập, tổng kết văn học là dạng bài văn học đặc biệt, một kiểu bài
bản lề trong chương trình. Do nội dung các câu hỏi không thể hoàn hảo 100%,
nên chủ yếu là GV phải sáng tạo, linh hoạt đối với nội dung bài dạy, thời gian và
đối tượng HS để có những biện pháp tổ chức hoạt động phù hợp, tích cực hóa
hoạt động học của HS.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Như đã nói ở phần đầu, bài tổng kết, ôn tập văn học là dạng bài khó tiếp
cận đối với cả GV và HS trong quá trình dạy - học. Để đề tài được triển khai và
áp dụng có hiệu quả, tôi xin có một vài đề nghị sau:
- Với Sở GD - ĐT: Tiếp tục tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn theo
chuyên đề để GV các trường THPT trên địa bàn toàn tỉnh có cơ hội học hỏi, trao
đổi kinh nghiệm giảng dạy.
- Với Ban Giám hiệu, Tổ chuyên môn trong nhà trường: Cần tích cực đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên môn bằng việc cải tiến nội
dung, hình thức. Cần tạo ra một môi trường mà ở đó GV có thể tự giác trao đổi
bàn bạc, phổ biến kinh nghiệm dạy học, cách tháo gỡ khó khăn ở từng tiết dạy,
từng bài dạy cụ thể. Tăng cường tổ chức các tiết dạy mẫu theo nghiên cứu bài
học, trong đó có áp dụng các phương pháp mới, nhất là các sáng kiến đổi mới
phương pháp dạy học.
- Với các GV trong nhóm Ngữ văn: Trao đổi, phổ biến sáng kiến kinh
nghiệm của bản thân với đồng nghiệp và ngược lại; Áp dụng một cách chủ động,
linh hoạt sáng kiến trong dạy học đối với từng đối tượng học sinh.
23
Trên đây là một vài kinh nghiệm và suy nghĩ của bản thân tôi trong quá
trình dạy bài ôn tập, tổng kết văn học nói riêng và trong quá trình giảng dạy môn
Ngữ văn nói chung, do đó, không tránh khỏi những vấn đề thiếu sót cần bàn bạc,
trao đổi, bổ sung. Rất mong sự góp ý tận tình của các đồng chí, đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hoá, ngày 26 tháng 05 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA
Tôi cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
chép nội dung của người khác, từ mạng Internet và
không dùng lại SKKN của mình từ các năm trước.
Lương Thị Thuỳ An
24