Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Vận dụng kỹ thuật dạy học tích cực để khai thác và rèn luyện tư duy, kỹ năng phản biên của người học qua bài đọc văn tỏ lòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.66 KB, 16 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đem đến tri thức, bồi đắp tâm hồn, đó là sứ mệnh, là vinh dự, là khả năng
đặc biệt của văn chương, nhưng đem đến hứng thú, sức hấp dẫn để thu hút ánh
nhìn, cảm xúc, nhận thức của học sinh với văn chương trong thời buổi mà vật
chất lên ngôi, niềm tin vào cái đẹp, cái tốt, vào giá trị văn hoá ít nhiều lung lay
lại là trách nhiệm và tài năng của người thầy. Dạy văn là làm khoa học và nghệ
thuật. Nó đòi hỏi sự sáng tạo, đòi hỏi tâm huyết và nỗ lực không ngừng của
người thầy.
Nhưng trong thời đại mới, với xu hướng phát triển và hội nhập, tư tưởng,
khát vọng, niềm tin, quan niệm, tình yêu và việc tôn vinh những giá trị của đời
sống có khác đi so với trước đây, việc người thầy làm cho môn văn hấp dẫn, thu
hút trong giờ học văn là chưa đủ, mà phải tiếp cận với nhu cầu, xu hướng, của
học trò, của con người trong thế kỉ mới, để dạy làm người và dạy cách sống tốt
nhất cho người học, đó cũng là cách phát triển ý nghĩa của việc dạy học môn
ngữ văn trong nhà trường. Thời đại mà công nghệ bùng nổ, con người khát khao
vượt thoát những giới hạn của bản thân, tìm kiếm cái mới, nỗ lực trong hành
động sẽ đòi hỏi mỗi người trong hành trình sống phải có những cuộc dấn thân
mới, con người phải chủ động, phải tích cực, phải sáng tạo. Nếu không biết cách
phát triển những năng lực của bản thân, con người sẽ chìm nghỉm trong tăm tối
và tuyệt vọng. Một bài học ngữ văn không chỉ bồi đắp cho học sinh những vẻ
đẹp trong tâm hồn, trong tư tưởng và cảm xúc, bài học môn ngữ văn còn đem
đến những giá trị thuộc về cách thức tư duy và hành động. Chúng ta có thể đem
đến cho các em không chỉ niềm vui và hứng thú ở việc cảm nhận, mà còn có thể
khám phá và giúp các em khám phá năng lực của chính mình, đáp ứng đúng
mực tiêu giáo dực trong thời đại mới: Con người Việt Nam hiện đại không chỉ
phát triển toàn diện về nhân cách, có những phẩm chất và năng lực công dân mà
còn phải được phát huy tối đa mọi tiềm năng, khả năng sáng tạo của mình để
thích ứng với cách mạng khoa học công nghệ 4.0, công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; mặt khác, con người Việt Nam hiện đại cần phải có những năng lực
cần thiết để hội nhập quốc tế như năng lực ngoại ngữ, năng lực giao tiếp, năng


lực hợp tác...
Qua thực tiễn giảng day, tôi nhận thấy một thực tế, ở nhà trường, môn ngữ
văn vẫn được xem như môn học mà người dạy phải mang đến cho các em hệ
thống kiến thức hàn lâm, các thầy cô về cơ bản vẫn yêu cầu các em phải bắt
buộc thuộc những kiến thức cơ bản, hiểu theo ý nghĩa sao cho chung nhất, để
khi thi cử, không đi lệch với đáp án. Nghĩa là học để thi. Tất nhiên, đề thi những
năm gần đây đã là dạng đề mở, có sự thay đổi linh hoạt, hướng đến sự phát triển
năng lực của người học, nhưng tôi vẫn thấy, học sinh vẫn rơi vào tình trạng học
công thức. Đối với việc thi cử, và nhất là với đối tượng học sinh ít có sự tìm tòi,
sáng tạo, việc dạy như thế, học như thế là “an toàn”. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn,
bên cạnh việc đảm bảo cho các em về vấn đề học – thi – lấy điểm, chúng ta, mỗi
thầy cô giáo phải biết khai thác tối đa những ưu thế của môn mình, để không chỉ
đáp ứng nhu cầu mang tính chất “thời vụ”, mà con “trồng người” bằng cách khơi
dậy những năng lựu mà các em sẽ phát triển trong tương lai. Một trong những
1


yếu tố có thể khai thác và phát triển năng lực người học, đó là TƯ DUY PHẢN
BIỆN.
Từ thực trạng dạy học văn trong nhà trường còn chưa thực sự đáp ứng tốt
mục tiêu giáo dục, còn rơi vào tình trạng, thầy giảng, trò nghe – làm theo, từ
thực tế cho đến thời điểm hiện tại, chưa có các tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu
vào vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có kinh nghiệm để giải quyết,
khắc phục , tôi manh dạn đề xuất một khía cạnh liên quan tới việc phát huy năng
lực người học, tôi nghĩ, đây là một việc làm cần thiết.
Trong phạm vi nhỏ hẹp của đề tài, tôi xin trình bày quan điểm của mình
về việc Vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực để khai thác và rèn luyện tư duy,
kĩ năng phản biện của người học trong một bài đọc văn: “ Tỏ lòng” - Phạm
Ngũ lão
2. Mục đích nghiên cứu

Học văn, muốn đem đến bất cứ một điều gì, đầu tiên cũng là giải mã văn
bản. Phải tìm con đường giải mã văn bản đơn giản, khoa học, hiệu quả, để đem
lại hứng thú, rèn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu văn thơ trữ tình, văn xuôi, kịch,
văn bản nghị luận, chính luận… Khi đọc văn, các em không chỉ chiếm lĩnh tri
thức, mà còn tự bồi đắp tâm hồn, có thể vận dụng tri thức, đem các bài học nhân
sinh rút ra từ văn bản để làm giàu cho cuộc sống. Tư duy phản biện giúp các em
luôn biết đặt câu hỏi, biết phân tích, tổng hợp, tìm ra những vấn đề mới, thay đổi
cái nhìn và quan niệm quen nhàm, mòn sáo. Và như thế dạy, học theo hướng tiếp
cận tư duy phản biện và phát triển tư duy phản biện ở người học chính là một
con đường giải mã văn bản, khám phá năng lực đọc hiểu, năng lực ngôn ngữ,
năng lực giao tiếp, năng lực làm việc độc lập, năng lực hợp tác… của các em
học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Từ một bài đọc văn cụ thể, từ kinh nghiệm trong quá trình giáo dục, đề tài
này nghiên cứu và tổng kết về việc cần thiết biết vận dụng kĩ thuật dạy học tích
cực để khơi dậy tư duy phản biện, bồi đắp khả năng phản biện ở học sinh nhằm
phát triển các năng lực khác nhau của người học, đáp ứng mực tiêu giáo dục
trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp chính: Nghiên cứu, thực nghiệm:
+ Sưu tầm, tập hợp các tư liệu về mục tiêu giáo dục, các bài viết về tư duy phản
biện, về nhu cầu đổi mới con người hiện đại, các phương pháp và kĩ thuật dạy
học tích cực; Tổng hợp các tài liệu sau khi đọc, vận dụng vào việc xây dựng cơ
sở lí thuyết cho đề tài.
+ Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin sau khi đã vận dụng vào bài đọc
văn các cách thức để khơi dậy tư duy phản biện ở các lớp đề án, lớp đại trà…tại
trường THPT Lê Hồng Phong – Bỉm Sơn – Thanh Hóa.
+ Thống kê, xử lý số liệu: tổng hợp và đưa ra kết luận trên cơ sở các thông tin và
số liệu đã có.

- Những phương pháp kết hợp : Phân tích, suy luận logic ; So sánh ; Diễn dịch;

2


Quy nạp.
Ở đề tài này chúng tôi tiến hành theo các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành khảo sát năng lực phản biện và hứng thú học tập môn Ngữ
Văn của học sinh THPT ở một số trường.
Bước 2: Dạy thể nghiệm theo hướng phát triển tư duy phản biện ở một số lớp.
Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học.
Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Xuất phát từ yêu cầu của việc dạy học ngữ văn:
Dạy học văn phải bắm sát đặc trưng thể loại văn bản. Nghiên cứu đặc
trưng thể loại văn học là một trong những cách tiếp cận tác phẩm văn học của thi
pháp học.Theo Từ điển thuật ngữ văn học ( PGS. Lê Bá Hán, GS. TS Trần Đình
Sử, GS Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên): “ Thể loại văn học là dạng thức của
tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình
phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác
phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất
của mối quan hệ, của nhà văn đối với các hiện tượng của đời sống ấy”
Là hình thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm văn học, thể loại văn học
chính là sự thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản,
một phương thức chiếm lĩnh đời sống. Đây là một trong những phạm trù cơ bản
nhất của sáng tác, nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. Người sáng tác
muốn thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình trước đời sống phải lựa chọn, một
cách thức tổ chức nào đó phù hợp. Người tiếp nhận muốn giải mã được tầng
hàm nghĩa, thông điệp tư tưởng của nhà văn cũng không thể không xuất phát từ

đặc trưng của thể loại.
Môn Văn là môn học đặc biệt và đặc thù. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ
thuật (nghệ thuật ngôn từ). Việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể
thay đổi theo thời gian và theo thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Có
những vấn đề hôm nay là đúng nhưng ngay mai thì chưa chắc, ngược lại, có
những vấn đề ngày trước sai nhưng bây giờ lại đúng. Nhiều vấn đề có nhiều
cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà không tìm ra chân lí. Vì vậy trong
học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Học
sinh là những bạn đọc sáng tạo có thể lập luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn
cho vấn đề. Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con
người toàn diện, năng động, sáng tạo trong công việc thì việc phát huy khả năng
phản biện của học sinh lại cần hơn bao giờ hết. Khi nhà trường phổ thông trang
bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là đã trang bị cho các em khát
vọng đổi mới và khát vọng thành công trong cuộc sống.
1.2. Xuất phát mục tiêu dạy học đối với THPT: Dự thảo chương trình giáo
dục phổ thông nêu rõ:
- Mục tiêu của bậc THPT là “giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất,
năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân;
khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp
3


phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để
tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng
thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng
công nghiệp mới”.
- Hướng tới hình thành 5 phẩm chất, 10 năng lực chủ yếu của người học:
+ Những phẩm chất chủ yếu : yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách
nhiệm.
+ Những năng lực cốt lõi gồm: Những năng lực chung, được tất cả các môn học

và hoạt động giáo dục góp phần hình thành, phát triển: năng lực tự chủ và tự
học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo;
Những năng lực chuyên môn, được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một
số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, tính toán, tìm
hiểu tự nhiên và xã hội, công nghệ, tin học, thẩm mỹ, thể chất.
1.3. Xuất phát từ yêu cầu về đổi mới dạy học: Phương tiện dạy học, phương
pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, cách thức dạy học là những yếu tố căn bản quyết
định đến chất lượng giờ dạy, đến hiệu quả tác động với học sinh, giúp học sinh
phát triển năng lực tư duy, năng lực giao tiếp…Lựa chọn PPDH, phương tiện
dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp
HS học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
- Phương tiện cần thiết và phù hợp: SGK, TLTK, SGV, máy chiếu, giáo án điện
tử, bảng…
- “Phương pháp – theo giáo sư Trần Đình Sử - nói chung là cách thức tác động
vào một đối tượng nào đó để đạt đến mục đích. Phương pháp dạy học là một yếu
tố trong quá trình dạy học phụ thuộc vào bản chất của hoạt động dạy học.
Phương pháp được (…) hình dung như một hệ thống các nguyên tắc, cách thức,
biện pháp được sử dụng trong quá trình dạy học. Trong quan niệm dạy học hiện
đại theo mô hình lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là chủ thể, nhóm hoạt
động thực hành có vị trí chủ đạo, nhóm lời nói và trực quan là phụ trợ”. Việc tổ
chức các bước lên lớp, vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học phải sáng tạo,
phù hợp với yêu cầu của bài học, không thể máy móc áp dụng theo một thứ tiêu
chuẩn cứng nhắc.
1.4. Xuất phát từ tính tích cực của tư duy phản biện trong việc hình thành
phẩm chất và năng lực người học:
1.4.1. Phản biện và năng lực phản biện:
Phản biện là huy động vốn tri thức, kinh nghiệm và năng lực lập luận, biện
bác của mình để chỉ ra những điểm đúng/sai, hợp lí/bất hợp lí, khả thi/ Bất khả
thi....của đối tượng vấn đề được đưa ra. Mục đích của phản biện nói chung là
mang lại nhận thức đúng đắn, sâu sắc về đối tượng và từ đó co giải pháp phù

hợp, hiệu quả tác động lên đối tượng.
Năng lực phản biện là năng lực nắm bắt, khai minh chân lí chỉ ra các ngụy
biện/ ngụy tạo, cảnh báo các ngộ nhận, các nguy cơ (nếu có). Nó làm xuất hiện
nhu cầu phản tỉnh, thôi thúc nhận thức lại các đối tượng, vấn đề trong chuyên
môn. Năng lực phản biện là năng lực phát hiện ra những bất cập, bất hợp lí... để
có thể nhận thức lại một cách đúng đắn hơn. (Nguyễn Thành Thi, Cần rèn

4


luyện năng lực phản biện trong học tập cho học sinh, sinh viên, Tạp chí khoa
học văn hóa và du lịch, số 13, tháng 9 năm 2013).
1.4.2. Vai trò, ý nghĩa của tư duy phản biện, năng lực phản biện.
- Tư duy phản biện hay là tư duy phân tích là một quá trình tư duy biện
chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác
cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn
đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công
tâm.
- Tư duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ
động. Đó có thể tóm tắt là quá trình tư duy tìm lập luận phản bác lại kết quả của
một quá trình tư duy khác để xác định lại tính chính xác của thông tin.
- Tư duy phản biện sẽ thúc đẩy mạnh mẽ nơi con người:
+ Khả năng quan sát: Quan sát ở đây không phải chỉ là nhìn mà là phải hiểu.
Tư duy phản biện sẽ giúp chúng ta nhìn được mặt mà ít người lưu tâm.
+ Tính tò mò, ham khám phá: Sau khi hiểu được bản chất của vấn đề, người có
tư duy phản biện khiến mỗi người biết xem xét chúng ở nhiều góc độ khác nhau,
sẽ đặt ra những câu hỏi liên quan, có những chính kiến riêng của mình và chủ
động tìm kiếm câu trả lời để đưa ra những quyết định chính đáng cuối cùng.
+ Tư duy logic: Tư duy logic sẽ giúp kết nối các mắt xích lại với nhau. Tư duy
logic bổ trợ cho tư duy phản biện và ngược lại. Có tư duy logic, sẽ nhìn nhận sự

việc rõ ràng và có tính hệ thống hơn. Tư duy phản biện thì giúp xem xét, đánh
giá vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau, giúp chúng ta dễ dàng nhận ra các mối
liên quan mật thiết giữa chúng.
+ Kỹ năng ra quyết định: Ra quyết định là một quá trình bao gồm các giai
đoạn: gọi tên vấn đề - xác định đối tượng liên quan – tìm nguyên nhân – đưa ra
giải pháp – tổ chức thực hiện. Khi đã có đầy đủ các phân tích, đánh giá cần thiết,
sẽ đưa ra được quyết định chặt chẽ và chính xác, giảm tính rủi ro khi thực hiện.
+ Bản lĩnh, tự tin: Người có tư duy phản biện đặc biệt luôn "hoài nghi" với các
sự vật hiện tượng, đặc biệt là những thứ mới gặp lần đầu. Khi đánh giá một vấn
đề, họ sẽ không bị chi phối bởi cảm xúc cá nhân (bất kể tiêu cực đến đâu) mà
luôn đặt bản thân đứng ở một vị trí khách quan, hợp lý.
1.5. Xuất phát từ nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh hiện nay : Nhu cầu
bộc lộ bản thân của học sinh là một cơ sở quan trọng để phát huy tiềm năng học
tập, khả năng phản biện vấn đề. Học sinh ngày nay luôn có nhu cầu tự bộc lộ
mình, nhất là trong những tình huống được động viên, khích lệ, có hứng thú.
Các em không thích lối tư duy thụ động, phụ thuộc vào người khác. Cũng không
muốn bị áp đặt bởi cách hiểu của người khác. Các em thích tìm lí lẽ của riêng
mình, có cách nghĩ của bản thân, thậm chí có khi đó là cách cảm, cách nghĩ táo
bạo, vượt khỏi khuôn khổ. Nhưng do quan niệm truyền thống, lạc hậu nên nhiều
khi vô tình chúng ta đã cản bước tiến của các em. Chúng ta đã vội vàng phủ
nhận những lí lẽ mới mẻ hoặc nặng nề hơn là “kết tội ”. Chính điều đó khiến cho
môn văn trở nên nhạt nhẽo trong tâm hồn học sinh. Và quan trọng hơn là chúng
ta không kích thích được sự phát triển của năng lực tư duy phản biện cần có của
học sinh hiện nay.

5


Với đặc thù của bộ môn ngữ văn, với yêu cầu của thực tiễn khách quan,
yêu cầu về con người, yêu cầu về mục tiếu giáo dục…mỗi thầy cô giáo cần phải

phát huy những điểm mạnh của bộ môn mình và hướng tới mục đích giáo dục
toàn diện. Và để hướng tới mục đích chung mà Điều 2 mục 27 chương 2 luật
GD 2005 quy định: “Mục tiêu của giáo dục THPT là nhằm giúp học sinh cũng
cố và phát triển những kết quả của THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông, có
hiểu biết thông thường về kỷ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn
hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học CĐ-ĐH, trung học
chuyên nghiệp hoặc học nghề và đi vào cuộc sống lao động” , tôi nghĩ rằng,
dạy học ngữ văn nhất định phải biết cách vận dụng các kĩ thuật dạy học tích
cực, biết cách tổ chức để khai thác tư duy phản biện, rèn luyện kĩ năng phản
biện ở người học.
2. Thực trạng vấn đề
- Từ quá trình khảo sát tài liệu sách giáo khoa, từ quá trình giảng dạy các ở
cả ba khối, dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Trong chương trình ngữ văn THPT, các bài đọc văn thuộc đủ thể loại và các
kiểu dạng: văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi, kịch); văn bản chính luận, văn bản
nhật dụng, văn bản phê bình…Khi dạy học các bài đọc văn, các thầy cô giáo chủ
yếu hướng học sinh đi tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của văn bản, từ đó mà hướng
tới mục tiêu giáo dục nhận thức, ý thức ở người học là chính.
+ Nhiều thầy cô giáo chỉ chú ý đến việc truyền thụ kiến thức, hướng học sinh
đến việc hiểu văn bản, thể hiện việc học tập, vận dụng kiến thức đã học để viết
bài kiểm tra, thể hiện lại việc nắm kiến thức, hiểu bài…chứ chưa có mấy thầy cô
chú ý đặc biệt tới việc rèn luyện các kĩ năng khác như đọc, giao tiếp, làm việc
nhóm, thể hiện suy nghĩ cá nhân khác với những gì quen nhìn, quen hiểu, thành
ra, tính sáng tạo ở người học, sự phát hiện riêng ở mỗi cá nhân chưa được khai
thác đầy đủ, các em bị nghĩ theo một lối tư duy, ép phải “thấy” như “người ta
thấy”, mà thực sự không thoải mái, không hài lòng, vì các em chưa được đi tìm,
chỉ là công nhận kết quả. Cái này một phần ở hệ thống kiến thức phải tiếp nhận
còn nặng nề, tâm lí học để thi cử, một phần do lối mòn dạy học tạo nên.
+ Việc dạy học ngữ văn còn vấp phải những rào cản lớn không thể không kể
đến, đó là thói quen thụ động trong học tập và chiếm lĩnh kiến thức của học sinh,

đặc biệt, sự lép vế của các môn xã hội trong xu hướng chọn ngành nghề dấn đến
không có nhiều học sinh thật sự yêu thích, đam mê môn Văn.
+ Dạy học Ngữ văn chú ý đến phát triển tư duy phản biện cũng vấp phải rào cản
từ tư duy người thầy. Có thể nói, không phải giáo viên nào cũng “quen” với việc
lắng nghe ý kiến phản biện của học sinh, nhất là những ý kiến trái chiều. Trong
xu thế dạy học hướng tới phát triển các năng lực người học, người thầy phải biết
lắng nghe và tạo được không gian đối thoại tự do, dân chủ; từ đó mới có thể
khuyến khích học sinh dám nghĩ và dám phản biện lại vấn đề trong giờ dạy học
văn. Mà điều này, không phải ai cũng làm được.
+ Trong khi đó, tư duy phản biện lại vô cùng cần thiết, trước hết là ở ngay trong
chính những bài thi, đề thi, đáp ứng với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá. Trong
những năm gần đây, Bộ GD&ĐT yêu cầu toàn ngành phải có những đổi mới

6


kiểm tra, đánh giá học sinh. Theo đó, hướng kiểm tra, đánh giá, ra đề thi của
môn Ngữ văn có mấy điểm tích cực sau đây :
* Đề thi mở : đây là hướng ra đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong
suy nghĩ, luận giải của học sinh. Không có một đáp án duy nhất, chỉ cần học
sinh trình bày, lập luận vấn đề, thuyết phục được người đọc theo cách nghĩ của
mình một cách hợp lí, đều được chấp nhận và đánh giá cao.
* Đề thi yêu cầu tính phản biện : đây là dạng đề thi mới, với yêu cầu chống việc
học vẹt, học tủ, ghi nhớ kiến thức máy móc. Học sinh có kiến thức cũng chưa
chắc đã làm tốt được mà đòi hỏi phải có khả năng vận dụng kiến thức một cách
linh hoạt sáng tạo.
- Là giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi luôn trăn trở, kiếm tìm những giải pháp cho
mỗi giờ học, nhằm kéo học sinh trở về với niềm yêu thích môn văn, truyền cho
các em hứng thú tìm hiểu các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của một văn bản văn học,
gắn văn chương với đời sống, không chỉ học để thi, không biến giờ học chỉ để

“tải đạo”, “ngôn chí” mà hướng tới những năng lực khác nhau của người học. Ở
phạm vi của đề tài, tôi cố gắng chuyển hoá ý tưởng bằng việc lồng ghép mục
tiêu dạy học, tiếp cận và khơi dạy tư duy phản biện, bồi đắp kĩ năng phản biện
trong một thiết kế giờ dạy đọc văn. Tôi vận dụng kết hợp các phương pháp,
phương tiện, kĩ thuật, kiến thức liên môn trong từng phần của thiết kế. Tôi chú
trọng khai thác tư duy phản biện và vận dụng kĩ thuật thảo luận Socratic trong
một vài điểm nhấn của bài đọc văn. Bước đầu, tôi đã thu nhận được những kết
quả đáng ghi nhận từ đối tương là học sinh của trường THPT Lê Hồng Phong –
Bỉm Sơn.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
- Tạo tâm thế nhập cuộc cho học sinh thông qua tình huống phản biện, tạo không
khí đối thoại tự do, dân chủ.
- Tổ chức cho học sinh tranh luận, phản biện: Vận dụng các phương pháp dạy
học tích cực trong tiết đọc văn cụ, hướng tới các mục tiêu khác nhau, trong đó
có mục tiêu rèn luyện tư duy phản biện, khả năng phản biện của học sinh. Các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: nêu vấn đề, nêu câu hỏi, kĩ thuật
mảnh ghép, khăn phủ bàn, động não (hay công não), bể cá, hay tia chớp…
Trong giới hạn của đề tài này, tôi muốn đi sâu vào kĩ thuật thảo luận Socratic, và
vận dụng kĩ thuật tổ chức này nhằm khơi dậy tư duy phản biện của học sinh
trong một bài đọc văn cụ thể: Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão.
- Bồi dưỡng ý thức về tư duy phản biện, kĩ năng phản biện khi kết thúc giờ đọc
văn, phát triển thêm ở các giờ đọc và làm văn khác.
- Xây dựng hệ thống bài tập, đề kiểm tra phát triển năng lực phản biện.
3.1. Tư duy phản biện và ý nghĩa của việc rèn luyện tư duy phản biện trong
dạy học ngữ văn.
- Tư duy phản biện (Critical Thinking), hiểu một cách đơn giản nhất, đó là khả
năng suy nghĩ và tư duy đa chiều, phản biện lại vấn đề, xem xét mọi khía cạnh
để tìm ra chân lý chứ không dễ dàng chấp nhận mọi ý kiến ngay từ ban đầu.
- Tư duy phản biện giúp con người vượt ra khỏi cách lối mòn trong tư duy;
hướng đến cái mới, thoát khỏi những rào cản của định kiến, đưa ra nhiều


7


phương án khác nhau và lựa chọn phương án tối ưu với những lập luận có cơ sở
vững chắc đối với một vấn đề nào đó.
- Phản biện trong dạy học có khả năng phát huy được tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. Góp phần rèn luyện người học có kỹ năng phản biện xã
hội khi tham gia vào cuộc sống. Đồng thời, góp phần đào tạo con người năng
động, sáng tạo, đáp ứng tốt yêu cầu của cuộc sống hiện đại.
- Phản biện trong dạy học giúp cho cả thày và trò có cái nhìn khách quan, công
tâm về chân lí của mọi vấn đề.
- Phản biện trong dạy học khẳng định tính dân chủ trong giờ học, khẳng định
tính tích cực, tiến bộ của một nền giáo dục.
- Đặt trong bối cảnh hiện nay, phản biện trong dạy học cũng còn góp phần tích
cực vào phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”.
3.2 Rèn luyện tư duy phản biện bằng hình thức tổ chức Thảo luận Socratic
3.2.1. Thảo luận Socratic là gì?
- Đối thoại Socratic (còn gọi là phương pháp truy vấn biện chứng) là hình thức
hỏi – đáp trên tinh thần dân chủ để từ đó những người tham gia cuộc đối thoại
dần tiệm cận chân lý về vấn đề mình đang thảo luận. Thông qua hình thức thảo
luận nhóm, phương pháp thảo luận Socratic chủ yếu thúc đẩy học sinh giúp đỡ
lẫn nhau để hiểu những ý tưởng, những vấn đề, những giá trị được phản ánh
trong văn bản văn học.
- Thảo luận Socratic khác với phương pháp thảo luận nhóm thường được giáo
viên sử dụng hiện nay. Thảo luận nhóm thường được giáo viên tiến hành như
sau: giáo viên phân nhóm học sinh, giao nhiệm vụ; học sinh làm việc theo
nhóm, thống nhất kết quả thảo luận; đại diện nhóm trình bày; các nhóm đóng
góp ý kiến, giáo viên nhận xét, đánh giá chung. Như vậy, kết quả thảo luận thực

chất sẽ quy về khuôn mẫu chung nào đó và việc phản biện của học sinh rất hiếm
khi được nêu ra, bởi lẽ các em đã thống nhất một kết quả chung cho cả nhóm.
Đó là chưa kể trong giờ dạy học nhiều khi thảo luận nhóm còn mang nặng tính
hình thức.
- Thảo luận Socratic là một phương pháp giảng dạy mà trong đó, người thầy
không có câu trả lời chính xác cho những câu hỏi. Hầu như tất cả những câu hỏi
đều được trả lời bằng một câu hỏi khác. Người thầy đóng vai trò như người dẫn
đường, giúp học trò nhận rõ được vấn đề và tự tìm câu trả lời cho câu hỏi của
mình. Qua cách hỏi để gợi ý, câu trả lời thật sự phát xuất từ người trò.
3.2.2.Vận dụng thảo luận Socratic trong dạy học văn như thế nào?
- Một văn bản ngôn từ đã chứa đựng vô vàn “khoảng trống”, khơi gợi sự “hoài
nghi”, kiếm tìm và giải mã của độc giả. Lựa chọn phương pháp tổ chức dạy học
thảo luận Socratic khi tiến hành giờ đọc hiểu văn bản có thể nói là một hình thức
hiệu quả.
- Các bước tiến hành tổ chức như sau:
+ Giáo viên biết tạo không khí, tạo tình huống có vấn đề để bắt đầu cuộc thảo
luận. Có thể, việc thảo luận diễn ra trong thời gian ngắn, có thể là cả tiết, hoặc

8


buổi học. Trong giới hạn của bài đọc văn, việc thảo luận thường phải ngắn gọn.
Khâu tổ chức, điều hành, giáo viên phải linh hoạt.
+ Giáo viên đưa ra chủ đề cho việc thảo luận như cách đánh giá nhìn nhận nhân
vật, sự kiện, chi tiết… trong tác phẩm; thông điệp nghệ thuật, phong cách tác
giả, những vấn đề liên hệ thực tế cuộc sống được gợi ra từ tác phẩm,... đồng
thời, cần chuẩn bị những câu hỏi dẫn dắt học sinh vào chủ đề thảo luận, những
câu hỏi gợi mở khi học sinh bế tắc trong thảo luận.
+ Học sinh đóng vai trò chủ đạo và dẫn dắt diễn tiến buổi thảo luận. Học sinh
thường được sắp xếp ngồi thành vòng tròn, xoay quanh vị trí trung tâm là giáo

viên. Mỗi cá nhân tự do phát biểu quan điểm của mình và cần đưa ra được
những lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ ý kiến của bản thân.
+ Buổi thảo luận sẽ là những câu hỏi nối tiếp câu hỏi để tìm đến chân lý cuối
cùng, sáng rõ về văn bản được thảo luận. Ví dụ: “bạn nói như thế lấy căn cứ từ
chi tiết nào trong tác phẩm? Bạn có thể diễn đạt bằng cách khác hay không? Tại
sao bạn lại cho rằng…? Theo bạn, tác giả gửi gắm thông điệp gì qua hình
ảnh/chi tiết ấy?
3.3 Rèn luyện tư duy phản biện bằng hình thức tổ chức Thảo luận Socratic
trong một bài đọc văn cụ thể: Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão.
- Tiến hành bài học theo giáo án đã soạn với các bước của một giáo án hướng
tới sự phát triển năng lực của người học (Phụ lục đính kèm)
- Tiến hành thảo luận Socratic trong tình huống sau:
+ Khai thác hai câu đầu:
GV đặt câu hỏi: Cảm nhận về vẻ đẹp hình tượng người anh hùng thời đại nhà
Trần?
? Vẻ đẹp của hình tượng quân dân nhà Trần trong câu thơ thứ hai?
HS phân tích, suy luận trả lời câu hỏi.
GV khơi gợi vấn đề phản biện:
? Có bạn nào nhận thấy ở câu thơ thứ hai: “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu” có
điều gì bất thường không? So với bản gốc, bản dịch thơ khắc họa vẻ đẹp gì? Em
muốn dịch nó như thế nào?
+ Với câu hỏi này, học sinh nhận ra câu thơ có hai cách hiểu: hiểu là ba quân
như hổ báo, khí thế nuốt trôi trâu; ba quân sức vóc như hổ báo,khí thế át cả sao
ngưu.
+ Với câu hỏi này, có học sinh đã nhận ra, nhà thơ đã ngầm so sánh ba quân
với loài mãnh thú, mạnh mẽ nhưng có gì đó đáng sợ. Các em Em bày tỏ băn
khoăn: so sánh như vậy có đúng không? So sánh như thế trần trụi quá, thô quá,
“Khí mạnh nuốt trôi trâu” nghe không thật thẩm mĩ lắm…
Các em đã có một cuộc thảo luận sôi nổi về cách so sánh đặc biệt của nhà thơ
bằng việc đối thoại xoay quanh các câu hỏi: quân đội “nanh vuốt” nên hiểu

như thế nào, nghĩa tả thực hay nghĩa biểu tượng? Cách so sánh, liên tưởng
quân đội với hổ báo, loài mãnh thú chết chóc có làm mất đi tính thẩm mĩ của
hình tượng không?

9


(Khi các em thảo luận, cắt nghĩa, giáo viên gợi ý cách phân tích thơ dựa trên
đặc trưng thể loại: thơ trữ tình hàm súc, đa nghĩa, tính biểu tượng và hình
tượng cao, ngôn từ thơ trung đại giàu màu sắc ước lệ)
Mỗi học sinh trong nhóm đều tích cực đưa ra các kiến giải của mình, lắng nghe
bạn học trình bày ý kiến, ghi chép phân tích và đi đến kết luận
GV củng cố lại bằng cách hỏi một vài học sinh những kết luận cơ bản về vẻ đẹp
của quân đội nhà Trần ở câu thơ thứ hai.
Đây là kết quả của một phiếu học tập của học sinh sau quá trình thảo luận

+ Khai thác hai câu sau:
? Câu thơ thứ ba muốn nhắc người nam nhi điều gì cần phải làm trong xã hội
xưa?
?Tư tưởng coi trọng nam nhi ở đây là tích cực hay tiêu cực? Vì sao?
HS phân tích, suy luận trả lời câu hỏi.
GV khơi gợi vấn đề phản biện:
* Có bạn học sinh đã nghĩ rằng đó là biểu hiện của tư tưởng trọng nam khinh
nữ? Ý kiến của em thế nào?
- Em có hiểu rằng Với cách nói của tác giả thì chỉ có người đàn ông mới có thể
gánh vác sứ mệnh và trọng trách lớn lao, chỉ có người đàn ông mới có giá trị
với cuộc đời?
- Các em học sinh lí trả lời câu hỏi của cô giáo, các học sinh khác bày tỏ băn
khoăn bằng câu hỏi, tìm cách lí giải. Vấn đề dần được làm sáng tỏ.
- Sau khi thảo luận, học sinh rút ra kết luận và tập trung đến cách hiểu câu thơ

thứ ba “ Nam nhi vị liễu công danh trái”
- Kết quả thảo luận mà học trò tự rút ra trên phiếu học tập

10


GV khơi gợi vấn đề phản biện:
- Có ý kiến cho rằng, chính chữ thẹn trong câu “Tu thính nhân gian thuyết Vũ
Hầu” đã làm cho con người – nhân vật trữ tình nhỏ mọn đi. Bởi người anh hùng
kiên gan giữa đất trời thì không phải thẹn với người vì gánh vác trách nhiệm
bảo vệ đất nước nhiều năm ròng rã. Ý kiến của anh chị?
Hs đã thảo luận bày tỏ quan điểm, đi tìm chân lí bằng cách lắng nghe,
sàng lọc, phân tích và rút ra kết luận chung về cách hiểu hai câu cuối của bài.
GV gọi học sinh trình bày kết luận về hai câu cuối. Kết quả trên phếu học
tập của một học sinh:

+ Hướng dẫn tổng kết:
GV khơi gợi vấn đề phản biện:

11


- Có bạn cho rằng, trong bất cứ thời đại nào, yêu Tổ quốc đều phải trong tư thế
sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Từ đọc hiểu bài thơ, em hiểu cần phải
yêu nước, yêu quê hương, có trách nhiệm với quê hương bằng hành động, việc
làm thế nào trong thời đại hôm nay?
- Với bài kiểm tra nhỏ này, các em có thể trình bày lập luận phản biện, trình bày
quan điểm, ý kiến riêng, có thể đồng tình với khía cạnh nào đó, có thể bổ sung
cho ý tưởng thêm rõ ràng, có thể phát triển thêm những khía cạnh mới.
- Kết quả bài tập của học sinh


3.4 . Kết quả chung của hình thức tổ chức Thảo luận Socratic trong bài đọc
văn Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão.
- Học sinh làm việc sôi nổi, tích cực, giờ học sinh động, thoải mái, cởi mở.
- Mỗi học sinh đều cố gắng đưa quan điểm của cá nhân, chất vấn, đối thoại, lí
giải, phân tích để cùng tìm kiếm những giá trị của văn bản
- Những học sinh nhút nhát, ít bộc lộ cũng tích cực tham gia. Việc bày tỏ quan
điểm riêng, nhìn nhận lại vấn đề trở thành nhiệm vụ của người học.
- Các em nhận ra mình có quyền được nhìn nhận khác biệt và quan trọng là dám
đưa ra những suy ngẫm của bản thân, chia sẻ để được lắng nghe và rút ra kết
luận trên cơ sở tôn trọng và khai thác ý kiến của những người xung quanh.
3.5 Bồi dưỡng nhận thức về tư duy phản biện.
- Khi kết thúc tiết học, ngoài hướng dẫn củng cố, giáo viên cần khắc sâu cho
học sinh hiểu, việc nhận thức văn bản, đọc hiểu văn bản rất cần tư duy, vốn
sống, năng lực của cá nhân. Cần phải đặt văn bản vào những tình huống có vấn
đề, đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy. Quá trình chất vấn, lập luận, phân
tích sẽ giúp mỗi chúng ta tự ngộ ra chân lí và không có cảm giác phải hiểu văn
bản một cách khiên cưỡng, ép buộc. Có cái nhìn khác biệt, biết cách đặt ngược

12


lại vấn đề chính là nhìn đối tượng đa chiều, điều này vừa giúp các em chính xác
trong nhận thức, vừa giúp các em rèn luyên các năng lực giao tiếp, năng lực
làm việc nhóm, năng lực tổ chức…
- Khi kết thúc tiết đọc văn, cũng không nên quên hỏi học trò những câu hỏi bên
lề như: giờ học hôm nay các em có thấy thoải mái không? Có còn điều gì, chỗ
nào khiến em băn khoăn và cần phải làm sáng tỏ hơn nữa? Cần nghĩ thêm để
vào thời điểm khác chúng ta sẽ cùng quay lại?
- Khi dạy học các giờ đọc văn khác, có thể gợi ý và tổ chức để các em quay lại

những tình huống có vấn đề liên quan đến bài học mới để so sánh, liên hệ, cắt
nghĩa làm sáng tỏ.
- Trong các giờ làm văn,cần đưa ra tình huống có vấn đề, để các em được quyền
bày tỏ cái nhìn và nhận thức riêng, chú ý hướng dẫn các em cách tổ chức lập
luận để trình bày góc nhìn khác biệt, thậm chí đối lập với cái nhìn “phổ thông”
của số đông, số nhiều.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
- Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và khảo sát với học sinh 3 lớp 10 A2,
10 A3, 10 A4, năm học 2018 - 2019 sau khi các em học văn bản Tỏ Lòng của
Phạm Ngũ Lão. Lớp 10 A4, dạy học thông thường; lớp 10 A2 và 10 A3 dạy học
kết hợp với rèn luyện tư duy phản biện
+ Với lớp 10A4, lớp đại trà, khối C, sĩ số 37 Khi học các văn bản Tỏ Lòng,
Nhàn, các em tiếp nhận với thái độ dò xét, rất chăm chú lắng nghe, ghi chép, trả
lời câu hỏi nhưng chừng mực, khi được phân tích lí giải thì chấp nhận, không
hỏi thêm
+ Với lớp 10 A2, 10 A3 học sinh được tạo một không khí cởi mở, giờ học mang
tính trao đổi, tranh biện, các em rất hứng thú lắng nghe, hứng thú bày tỏ, hứng
thú phân tích và tổng hợp từ các ý kiến để rút ra kết luận.
Kết quả:
Lớp
Lắng
nghe
Hỏi, tranh
luận.
Thống
nhất và
hài lòng
với
kết

quả

10 A2 (24 hs)
100%

10 A3 (36 học sinh) 10A4 (37 học sinh)
100%
96%

(73%)

(67,6%)

(11%)

100%

78%

71%

Trên đây là những việc tôi áp dụng vào thực tiễn giảng dạy của mình trong một
tiết học văn. Qua thực tế thao giảng lớp 10 A2, giờ dạy lớp 10 A3, 10 A4 cũng
trong năm học 2018 -2019, tôi nhận thấy kết quả giờ học đã đổi thay rõ rệt. Cụ
thể, những câu hỏi tôi đặt ra khi chưa thực hiện đề tài và khi thực hiện đề tài
(như thống kê ở phần đầu SKKN) đã có kết quả là câu trả lời khác biệt. Sự thay
13


đổi thể hiện rõ trong quá trình theo dõi giờ học khi thực hiện giáo án thử

nghiệm:
- Về tâm lí, thái độ: Học sinh từ ít hứng thú với giờ văn ... sang háo hức,
thích thú
- Về nhận thức: Từ chưa thấy được giá trị của việc học giờ văn, chỉ quan
tâm đến điểm số, chỉ chú ý các bài học để kiểm tra... sang quan tâm đến những
giá trị khác ngoài văn bản, thấy được cái hay cái đẹp trong thế giới của sự sống.
Học sinh thấy rõ việc học một tác phẩm không chỉ học để biết, mà học để sống,
để rèn luyện.
- Hành vi: Từ ngần ngại chờ đợi thầy cô giảng giải, phân tích, không vận
dụng kiến thức đã học vào thực tế giao tiếp sang tích cực tham gia các hoạt động
xây dựng giờ học, chủ động thể hiện năng lực cá nhân qua việc bàn luận, nhận
xét, đánh giá, sáng tạo, các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức, viết bài.
Kết quả kiểm tra bài văn được tổ chức dạy học tích cực cũng thay đổi rõ
rệt. Có thể so sánh kết quả của 10 A3, 10 A4 - các lớp khối C với chất lượng mặt
bằng tương đối đồng đều ( khi chưa thực hiện giáo án thử nghiệm) - với lớp 10
A2 (khi thực hiện giờ dạy với giáo án thử nghiệm – tiết thao giảng)
Lớp

Sĩ số

10 A3

36

Đối chứng
10A4
Đối chứng
10A2
Thực nghiệm


Kết quả bài kiểm tra bài nghị luận về phân tích thơ.
Điểm giỏi
Điểm khá Điểm tr.b Điểm yếu, kém
2
14
16
4

37

( 5,5%)
1

(38,8%)
17

(44,5%)
10

24

(2,7%)
5

(45,9%)
14

(27%)
5


(11%)
9
(24,3%)
0

(20,1%)
(58,8%)
(20,1%)
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

I. Kết luận:
Với những suy nghĩ và định hướng về cách dạy học như đã trình bày ở
trên, tôi nhận thấy việc học văn với các em không quá khó, quá nhọc nhằn. Việc
dạy văn, “học văn trở thành niềm vui chiếm lĩnh sự sống chứ không phải gánh
nặng trau dồi tri thức”. Vận dụng tốt các phương pháp dạy học, các thiết bị cần
thiết, các kiến thức liên môn vừa đáp ứng được yêu cầu về đổi mới, đảm bảo
nguyên lí học đi đôi với hành, vừa phát triển được năng lực cá nhân theo hướng
bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc và rèn kĩ năng nói, viết, giao tiếp một cách linh hoạt.
Dạy đọc – hiểu một văn bản theo đặc trưng thể loại, vận dụng tích hợp các kiến
thức, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, đặc biệt là hình thức tổ chức
thảo luận Socratic phát huy tư duy phản biện đem lại hứng thú khám phá cho
người học là nỗi niềm trăn trở của đại đa số những ai đã sống với nghiệp văn
chương, không chỉ là tôi. Tôi tin, các thầy cô giáo đứng trước mỗi bài học đều
có cách thức, phương pháp để đem đến sức hấp dẫn và hiệu quả cao nhất cho bài
dạy. Đề tài của tôi không phải là bước đột phá hay độc đáo, nhưng nó là kinh
nghiệm dạy học mà tôi rút ra cho chính mình, với mong muốn đem đến những
14


thay đổi trong cảm xúc và nhận thức của học sinh ở giờ học văn trong bối cảnh

hiện nay.
2. Kiến nghị:
2.1. Với giáo viên: Với mỗi văn bản, giáo viên có thể linh hoạt trong cách tổ
chức giờ đọc hiểu và sáng tạo trong thiết kế giáo án, không nên áp dụng máy
móc, cứng nhắc các phương pháp tránh gây ra sự phản cảm cho việc tiếp nhận
tri thức thẩm mĩ ở học sinh. Giáo viên cần khuyến khích, đồng hành để học sinh
tự tin hơn, biết phản biện các vấn đề học tập và trong cuộc sống. Để cách làm
này được thành công, giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn cần có một lộ trình
cụ thể và kiên trì thực hiện. Có làm được như thế thì học sinh mới có đủ tự tin
và mạnh dạn phản biện để bộ môn Ngữ văn ngày càng thu hút hơn, thực sự là
phương tiện ngôn ngữ để học sinh tự tin và biết phản biện cho tất cả các môn
học khác.
2.2. Với các cấp quản lí giáo dục:
- Trường học nên mua thêm các sách tham khảo về đổi mới phương pháp dạy
học, các tài liệu chuyên ngành chuyên sâu để phục vụ tốt công tác dạy và học
- Cần sớm thay đổi chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn theo hướng thiết
thực, hiệu quả hơn, hướng đến phát triển năng lực người học
- Nhà trường cần quan tâm hơn đến công tác này.
Trên đây là một số đề xuất của chúng tôi. Đề tài còn nhiều hạn chế, mong
nhận được sự góp ý, xây dựng của đồng nghiệp để được phát triển khoa học
hơn, có tính khả thi cao hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 25 tháng 4 năm 2019
ĐƠN VỊ
TÔI XIN CAM KẾT KHÔNG COPY

Nguyễn Thị Hằng

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Tập 1, Chương trình cơ bản), Nhà xuất
bản Giáo dục
2. Sách giáo viên Ngữ văn 10 (Tập 1, Chương trình cơ bản), Nhà xuất bản
Giáo dục
3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 10,
Nxb Giáo dục.
4. Tài liệu Skkn phát huy khả năng phản biện của học sinh thpt trong dạy
học văn ( Nguồn Internet)
5. Phan Trọng Luận ( chủ biên), Thiết kế bài học Ngữ văn 10, tập 1, Nxb
Giáo Dục Việt Nam.
6. Trần Đình Sử, Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn,
7. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ Văn
học, Nxb Giáo dục.
8. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Quốc gia Hà Nội
9. Phát triển tư duy phản biện trong dạy học văn qua hình thức thảo luận
Socratic ( Nguồn Internet)
10. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ Văn THPT
Nguyễn Thúy Hồng Nguyễn Quang Ninh, Nhà xuất bản Giáo Dục 2008
11. Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà trường Nguyễn
Huy Quát - Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo Dục- 2001.

16



×