Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phát huy tính sáng tạo, khả năng tìm tòi khám phá, khơi dậy hứng thú học tập môn toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài....................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................3
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.................................................3
2.2. Thực trạng................................................................................................5
2.3. Các giải pháp thực hiện...........................................................................5
2.3.1. Tổ chức các hoạt động thực hành, từ trực quan sinh động rút ra kết
luận về khoảng cách giữa các yếu tố trong không gian..............................5
2.3.2. Chuyển đổi từ ngôn ngữ thực tiễn sang ngôn ngữ toán học, từ kết
quả thực nghiệm rút ra kết luận về khoảng cách giữa các yếu tố trong
không gian bằng ngôn ngữ toán học...............................................................11
2.3.3. Vận dụng tri thức vào giải toán............................................................12
2.3.4. Vận dụng trong thực tế, khơi dậy tính sáng tạo, niềm đam mê toán học
trong mỗi học sinh. .........................................................................................13
2.3.5. ứng dụng công nghệ thông tin, giúp các em hứng thú gần gũi và
dần yêu thích “Hình học không gian” ............................................................15
2.4. Hiệu quả....................................................................................................18
2.4.1. Tổ chức thực nghiệm.............................................................................18
2.4.2. Kết quả thực nghiệm ............................................................................18
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Kết luận .................................................................................................19
3.2. Khuyến nghị...........................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1



1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển công nghệ 4.0, hội nhập quốc tế
với những ảnh hưởng của xã hội tri thức và toàn cầu hóa đòi hỏi đội ngũ lao
động phải có tư duy sáng tạo cao, linh hoạt, có khả năng giải quyết các vấn đề
phức hợp trong thực tiễn, có năng lực hợp tác làm việc, tìm tòi, khám phá,…
Trước tình hình đó ngành giáo dục nước ta đã và đang thực hiện các bước
chuyển đổi từ phương pháp dạy học truyền thống sang dạy cách học, cách lĩnh
hội tri thức, hình thành năng lực và phẩm chất của mỗi con người.
Trong những năm qua, toàn thể giáo viên cả nước đã thực hiện nhiều công
việc trong đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực
của người học và đã đạt được những thành công bước đầu nhưng chưa đủ. Từ
thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường
tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính
tích cực, tự lực của học sinh… chưa nhiều. Để tạo nên một cuộc cách mạng giáo
dục, mỗi giáo viên phải tự thay đổi bản thân, không ngừng học hỏi, đừng chờ
đợi.
Tôi chỉ là một giáo viên bình thường và luôn cố gắng làm hết trách nhiệm
của mình. Trước nền giáo dục của nước nhà hiện nay, tôi luôn trăn trở về mục
tiêu giáo dục hướng sản phẩm đầu ra (các em học sinh yêu quý) phải trở thành
người như thế nào, phát triển được những năng lực gì. Hiện tại phần lớn học
sinh của tôi học tập với mục tiêu điểm số và thi cử, để đạt được điều đó các em
có thể mắc các lỗi: trao đổi, nhìn bài nhau, xem tài liệu…Và như thế vô tình các
em đã hình thành cho mình những tính cách không tốt. Với mong muốn các em
sẽ trở thành những công dân có phẩm chất tốt, có óc sáng tạo, chủ động tích cực
cá nhân tôi đã cố gắng tìm tòi, thay đổi phương pháp dạy, tăng cường ứng dụng
công nghệ để phát huy tính tích cực của các em học sinh và phát triển năng lực
chuyên biệt cho mỗi học sinh. Không dễ gì làm được điều này nhưng tôi tin rằng
mỗi người trong chúng ta luôn cố gắng và đồng lòng để thay đổi thì chúng ta sẽ
tạo ra một cuộc cách mạng giáo dục với sản phẩm là những con người tích cực,

sáng tạo.
Tôi từng biết đến hai nguyên tắc thay đổi cuộc đời một đứa trẻ:
* Nguyên tắc BỂ CÁ
Cá vàng nuôi trong bể dù có nuôi bao lâu cũng chỉ đạt đến chiều dài nhất
định. Nhưng nếu thả chúng xuống ao thì cá vàng có thể dài thêm vài xen-ti-mét
nữa.
* Nguyên tắc CON SÓI
Chính vì con sói luôn hứng thú với việc khám phá, không ngại trải
nghiệm cái mới nên mới có khả năng sinh tồn mạnh mẽ trong tự nhiên, có kỹ
năng săn mồi và phát hiện nguy hiểm một cách điêu luyện.
Đối với học sinh cũng vậy, muốn bồi dưỡng năng lực học tập mạnh mẽ,
tích cực hoạt động của các em nhất định phải khơi gợi tính hiếu kỳ và ưa khám
phá của chúng, hãy cho các em một không gian tự do để phát triển.
2


Vì những lí do trên, tôi chọn đề tài: Phát huy tính sáng tạo, khả năng
tìm tòi khám phá, khơi dậy hứng thú học tập môn toán thông qua dạy học
bài: “Khoảng cách – Hình học 11” làm đối tượng nghiên cứu nhằm nâng cao
chất lượng dạy học của bản thân, từ đó đóng góp một phần nhỏ bé vào công
cuộc đổi mới căn bản, toàn diện của ngành giáo dục nước nhà.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
* Cải thiện tình trạng lười học, không hứng thú học toán (đặc biệt là Hình
không gian) của đa số học sinh.
* Phát huy tính tích cực, từ đó phát triển năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
làm việc nhóm, năng lực tìm tòi khám phá của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
* Nghiên cứu các vấn đề về dạy học tích cực.
* Nghiên cứu nội dung bài: “Khoảng cách – Hình học 11” và các phương
pháp tính khoảng cách Từ đó đưa ra những cách tiếp cận, giảng dạy có hiệu quả

làm tiền đề áp dụng rộng rãi hơn cho những năm sau.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
* Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
* Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm.
* Phương pháp so sánh
* Phương pháp thực nghiệm khoa học.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Muốn thay đổi cách học phải thay đổi cách dạy, như chúng ta đã biết
“Thầy làm việc thì dễ, trò làm việc mới khó”. Vậy làm sao để phát huy tính tích
cực của học sinh trong hoạt động học? Phương pháp dạy học tích là gì – Là dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt
động nhận thức của người học.
Phương pháp dạy học tích cực không chỉ chú ý tích cực hoá học sinh về
hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với
những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ
với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi
mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng
nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ
năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức
hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Một số phương pháp dạy học tích cực
* Dạy học nêu và giải quyết vấn đề
* Phương pháp dự án
* Phương pháp giáo dục Stem
* Phương pháp dạy học theo nhóm
* Phương pháp đóng vai
3



* Phương pháp sơ đồ tư duy
Một số kĩ thuật dạy học tích cực thường dùng
* Kĩ thuật khăn trải bàn

* Kỹ thuật mảnh ghép

* Kĩ thuật XYZ (còn gọi là kĩ thuật 635)
Kỹ thuật XYZ là một kỹ thuật làm việc nhóm nhằm phát huy tính tích cực
của mỗi thành viên trong nhóm, trong đó mỗi nhóm có X thành viên, mỗi thành
viên cần đưa ra Y ý kiến trong khoảng thời gian Z. Mô hình thông thường mỗi
nhóm có 6 thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra 3 ý kiến trong khoảng thời gian
5 phút, do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635.
* Kĩ thuật hỏi chuyên gia:
Kĩ thuật này giúp học sinh rèn một số kĩ năng như: đảm nhận trách nhiệm,
xử lí thông tin, tư duy sáng tạo, thể hiện tự tin, giao tiếp, tìm kiếm sự hỗ trợ…
Giáo viên phân công hoặc hoặc học sinh xung phong tạo thành nhóm
chuyên gia theo chủ đề nhất định. Nhóm chuyên gia nghiên cứu tài liệu, thảo
luận về chủ đề mình được phân công. Nhóm chuyên gia ngồi lên phía trên và
trưởng nhóm sẽ điều khiển các bạn trong lớp đặt câu hỏi cho các chuyên gia.
* Kĩ thuật KWL
4


Là sơ đồ liên hệ các kiến thức đã biết liên quan đến bài học, các kiến thức
muốn biết và các kiến thức học được sau bài học, trong đó:
+ K (Know) – những điều đã biết
+ W (Want to Know) – Những điều muốn biết
+ L (Learned) - những điều đã được học.

* Kĩ thuật tổ chức Trò chơi (Game show)
Tổ chức các trò chơi (Game show) trong hoạt động học tập có tác dụng mở
rộng, nâng cao hiểu biết và các kĩ năng hoạt động của học sinh. Tổ chức trò chơi
tốt vừa phát huy được sự nhanh trí, sáng tạo, vừa rèn luyện tính tự lập và tinh
thần tập thể của các em. Ngoài ra, hứng thú học tập, niềm tin và tình cảm của
học sinh được nâng cao. Nội dung học tập trở nên sinh động, gần gũi và thiết
thực hơn đối với các em.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Đại đa số học sinh của chúng ta còn học tập một cách máy móc, bắt trước,
chưa yêu thích môn toán, các em học tập thụ động dưới áp lực thành tích, thi cử,
học tập như một cỗ máy thiếu tính tích cực sáng tạo.
Hình học không gian nói chung và bài “Khoảng cách” nói riêng là nội
dung rất khó không chỉ với học sinh trung bình yếu mà với cả học sinh khá giỏi
nó cũng là vấn đề không dễ giải quyết.
Qua nhiều năm giảng dạy bài “Khoảng cách” theo phương pháp truyền
thống tôi thấy nản lòng khi phải cùng các em trải qua tiết học khá mệt mỏi và
hầu hết không hiểu bài, nó trở thành nỗi ám ảnh của các em và hầu hết các em
bỏ qua khi gặp “Khoảng cách”.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Lí luận là nền tảng, còn trong phạm vi trường chúng tôi chỉ làm được
những điều giản dị miễn sao học sinh tích cực hơn, hứng thú hơn và sáng tạo
hơn.Tôi đã vận dụng linh hoạt các kỹ thuật dạy học tích cực vào các hoạt động
dạy học bài “Khoảng cách”.
2.3.1. Tổ chức các hoạt động thực hành, từ trực quan sinh động rút ra kết
luận về khoảng cách giữa các yếu tố trong không gian
Trong phần này tôi xin không trình bày nhiều về lí luận, mục tiêu của tôi
chỉ là hướng việc học trở nên hứng thú, thiết thực và ý nghĩa hơn. Định hướng
cho các em biết tìm tòi giải quyết vấn đề, tự tìm ra tri thức một cách tự nhiên
nhất.
Bài trình bày của tôi cũng không phải là một giáo án, đơn giản chỉ là quá

trình hoạt động lĩnh hội tri thức bài “Khoảng cách” của cô trò chúng tôi một
cách hiệu quả nhất.
Để chuẩn bị tri thức cho việc học bài khoảng cách tôi đã tổ chức cho các
em thực hành đo khoảng cách giữa các yếu tố trong phòng học( không gian quen
thuộc của các em).
Bước 1:
Chia lớp thành 4 nhóm, cân đối tỉ lệ nam nữ vì các em phải thực hành nhiều.
Bước 2:
5


Giao nhiệm vụ cho các nhóm (các nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ như nhau):
1. Đo khoảng cách từ vị trí treo quạt trên trần nhà đến nền phòng học.
Các nhóm nhận nhiệm vụ bắt đầu làm việc, đáng ngạc nhiên là mỗi nhóm có
một cách đo khác nhau nhưng các em làm việc rất tích cực, thông qua những
việc làm cụ thể như thế này chúng ta mới hiểu được các em nghĩ gì và các em
làm việc như thế nào.

Nhóm thì đo thông qua các dụng cụ xung quanh các em và đặt vị trí đo ở
giữa phòng, các em rất hào hứng quên cả buồn ngủ.

6


Nhóm này khôn hơn, biết chọn vị trí dễ đo (tất cả vì sự nghiệp toán học),
đã thể hiện được sự nhiệt tình, hào hứng của các em.

7



Khi chúng ta thả các em vào một biển lớn để các em tự do sáng tạo, thỏa
sức bộc lộ tư duy, suy nghĩ của bản thân mới thấy trí tuệ của các em dồi dào và
đáng trân trọng. Tôi đã giảng dạy rất nhiều năm bài “Khoảng cách” theo phương
pháp truyền thống “Thầy giảng – Trò ghi” thực tế cho thấy học sinh rất mệt mỏi
và khó hiểu. Còn ở đây thì sao? Tôi quá vui mừng các thầy cô ạ, các em mặc dù
chưa được học lý thuyết nhưng các em thực hành rất linh hoạt và chính xác. Tuy
mỗi nhóm có một cách làm khác nhau nhưng các em đã làm được một việc hết
sức ý nghĩa.
Sau khi thực hành xong phép đo đầu tiên đại diện mỗi nhóm lên ghi kết
quả và thuyết trình về cách làm của nhóm mình.

8


9


Học sinh của tôi là học sinh nông thôn có học lực ở mức trung bình khá,
phần lớn các em nhút nhát thiếu tự tin. Thông qua hoạt động này cũng cải thiện
được phần nào những nhược điểm của các em, rèn luyện cho các em khả năng
thuyết trình trước đám đông và khả năng trình bày một vấn đề. Một điều bất ngờ
nữa là ba học sinh tích cực nhất trong buổi học chính là ba em học yếu nhất, hầu
như không làm việc trong các tiết học thông thường. Tôi tin rằng với những hoạt
động như thế này sẽ truyền cho các em nhiều cảm hứng, tự các em sẽ cảm nhận
được ý nghĩa của việc học và tìm được niềm vui trong quá trình học. Nếu chúng
ta có thể tạo ra sân chơi để các em tự đi tìm tri thức thì quá tuyệt vời. Đây cũng
là điều mà tôi đang cố gắng hướng tới qua từng bài học.
Các nhóm đều dùng một sợi dây không giãn đo khoách cách từ một điểm trên
trần nhà đến sàn nhà sau đó các em đo chiều dài sợi dây. Các em hồn nhiên đến mức
không ai phát hiện ra rằng mình đã không thực hiện đúng yêu cầu của cô! Lý do vì

sao?Vì sao cô yêu cầu đo khoáng cách từ vị trí treo quạt đến nền nhà mà không
nhóm nào đặt điểm đo ở vị trí đó?Và vì sao kết quả của các nhóm lại không giống
nhau? Có khi nào có nhiều kết quả cho một phép đo? Khá thú vị phải không ạ, mặc
dù chưa học lý thuyết nhưng các em thực hành cứ như biết từ lâu rồi.
Các nhóm tiến hành phản biện và đưa ra câu trả lời:
- Các em khẳng định khoảng cách từ một điểm bất kỳ trên trần nhà đến nền nhà bằng
khoảng cách từ điểm treo quạt đến nền nhà (Vì sao kết luận được như vậy?).
- Sở dĩ kết quả của bốn nhóm xấp xỉ bằng nhau là do đặt sợi dây không vuông
với nền nhà.
Từ đó các nhóm rút ra kết luận về cách đo khoảng cách từ một điểm đến
một mặt phẳng.
2. Đo khoảng cách giữa đường viền dưới của tấm biển và nền nhà.
Cả bốn nhóm đều thực hiện yêu cầu trên:

10


Các em thực hiện rất nhanh chóng để đưa ra kết quả và kết luận: Khoảng
cách giữa đường thẳng và mặt phẳng song song bằng khoảng cách từ một điểm
bất kỳ trên đường thẳng đến mặt phẳng.
3. Đo khoảng cách giữa nền nhà và trần nhà.
Lần này thì tôi quan sát thấy chỉ còn một nhóm thực hành đo, khi tôi hỏi ba
nhóm còn lại tại sao không làm việc các em trả lời nó bằng kết quả đo lần đầu.
Thú vị không ạ, vậy là các em đã tự tìm ra tri thức và rút ra kết luận “Khoảng
cách giữa hai mặt phẳng song song bằng khoảng cách từ một điểm bất kỳ trên
mặt phẳng này đến mặt phẳng kia”.
4. Đo khoảng cách giữa đường chéo của hình chữ nhật chứa bảng và đường chéo
của bức tường cuối lớp (Hai đường thẳng này không song song).
Lần này các em khiến tôi càng vui hơn nữa, không băn khoăn, không lăn tăn các
em đo luôn chiều dài của phòng học. Vậy các em có thể rút ra một cách đo

khoảng cách giữa hai đường thẳng chéo nhau không? Câu trả lời sẽ có ở phần
sau.
Quá trình thực hiện các hoạt động trên một lần nữa cho chúng ta thấy các
em rất tài giỏi, thậm chí không cần lý thuyết các em vẫn thực hành được. Vậy tại
sao chúng ta cứ lao vào dạy lý thuyết suông để các em mặc dù đã học cũng
không thực hành được. Nếu mỗi người trong chúng ta được thông qua hoạt động
thực tiễn để kiến tạo tri thức thì tri thức đó chính là của chúng ta.
2.3.2. Chuyển đổi từ ngôn ngữ thực tiễn sang ngôn ngữ toán học, từ kết quả
thực nghiệm rút ra kết luận về khoảng cách giữa các yếu tố trong không
gian bằng ngôn ngữ toán học.
Thông qua hoạt động thực tiễn đã tổ chức, mỗi nhóm thực hiện công việc sau:
Nhóm 2: Trình bày khoảng cách từ một điểm đến một mặt phẳng.
Nhóm 1: Trình bày khoảng cách đường thẳng và mặt phẳng song song.
Nhóm 3: Trình bày khoảng cách giữa hai mặt phẳng song song.
Nhóm 4: Trình bày khoảng cách giữa hai đường thẳng chéo nhau.

11


Đại diện mỗi nhóm lên thuyết trình, và đây là sản phẩm của các em.

Như vậy bản thân các em đã tự tìm con đường lĩnh hội tri thức cho bản thân
mình.
2.3.3. Vận dụng tri thức vào giải toán.
Ví dụ: Cho hình lập phương ABCD.A’B’C’D’ cạnh a.
a) Tính khoảng cách từ A đến mặt phẳng (BCC’).
b) Tính khoảng cách giữa AC và mặt phẳng (A’C’D’).
c) Tính khoảng cách giữa hai mặt phẳng (ADD’) và (BB’C’).
d) Tính khoảng cách giữa hai đường thẳng AC và B’D’
e) Tính khoảng cách giữa hai mặt phẳng (BDA’) và (CB’D’).

Đến giờ phút này việc giải quyết yêu cầu trên đã trở nên dễ dàng đối với
hầu hết học sinh trong lớp. Tuy nhiên vẫn còn câu e) các em gặp khó khăn. Nếu
tính toán thông thường để giải quyết câu e) cũng không đơn giản, không học
sinh nào trong lớp tôi làm được. Để hỗ trợ tôi cho các em chuẩn bị mô hình hình
lập phương để các em quan sát và dễ hình dung.
Đây là đại diện sản phẩm của học sinh có học lực trung bình, tuy chưa đẹp
nhưng các em đã rất cố gắng. Qua hoạt động này các em hiểu thêm được đặc
điểm, tính chất của hình lập phương. Thực tế quan sát các em đã rút ra nhận xét
khoảng cách giữa hai mặt phẳng (BDA’) và (CB’D’) bằng một phần ba độ dài
đường chéo của hình lập phương. Từ đó các em dễ dàng tính toán đi đến kết quả
và tìm tòi lời giải bằng lí luận toán học.

12


Như vậy thông qua những việc làm, những sản phẩm của chính mình các
em không chỉ tự tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà qua đó các em hiều
thêm ý nghĩa của những việc làm thực tiễn, phát triển tư duy, tăng tính sáng tạo
của mỗi học sinh và có những trải nghiệm thú vị.
Và để tiếp tục khơi gợi tính hiếu kỳ, phát triển năng lực tiềm tàng trong
mỗi học sinh, tiếp thêm hứng khởi đối với bộ môn hình không gian tôi cùng các
em tiếp tục thực hiện những trải nghiệm lý thú.
Do phạm vi của đề tài tôi chỉ giới thiệu vài hình ảnh đại diện sản phẩm
của các em.
2.3.4. Vận dụng trong thực tế, khơi dậy tính sáng tạo, niềm đam mê toán
học trong mỗi học sinh.
Cùng các em thực hành gấp hình và giới thiệu về nghệ thuật gấp giấy
Origami của Nhật Bản – đây là môn nghệ thuật thú vị và có ứng dụng rất lớn
trong toán học, trong khoa học và trong thực tế.


13


Đây chỉ là bước khởi đầu, tiếp cận Origami với những hình đơn giản.
Những sản phẩm đầu tay của các em đã mang lại niềm vui, sự hứng khởi với
môn học này.

14


2.3.5. Ứng dụng công nghệ thông tin, giúp các em hứng thú gần gũi và dần
yêu thích “Hình học không gian”
Cho học sinh quan sát những hình không gian sinh động qua ứng dụng
AR( Thực tế ảo)

15


16


17


Tôi đã cùng các em trải nghiệm thực tế ảo, quan sát được những hình không
gian động, các khối đa diện, đa diện đều... Các em tham gia như một trò chơi
đầy thú vị. Cái hay của thực tế ảo – Augmented Reality(AR) là biến hình ảnh
tĩnh thành hình ảnh động, kết nỗi giữa đối tượng thật và đối tượng ảo, kích thích
trí tưởng tượng của học sinh rất lớn, học sinh được trải nghiệm bài học một cách
sinh động.


18


2.4. Hiệu quả
Trước tiên, tôi muốn nói về sự chuyển biến phong cách học tập của học
sinh khi các em tiếp nhận một sự trải nghiệm đầy thú vị trong chính lớp học của
mình. Các em học tập sôi nổi hơn, thảo luận nhiều hơn, tất cả đều hoạt động để
đi tìm tri thức cho bản thân mình. Các em đã giải quyết được một vấn đề mới và
khó, điều này đã giúp các em tự tin và yêu thích hình học không gian hơn.
2.4.1. Tổ chức thực nghiệm.
* Chọn đối tượng thực nghiệm
Quá trình thực nghiệm của tôi được tiến hành ở các lớp tôi đang tiến hành
giảng dạy. Tôi đã chọn 4 lớp: 2 lớp đối chứng và 2 lớp thực nghiệm để dạy. Cả
bốn lớp này đều được dạy cùng một bài:
Lớp thực nghiệm
Lớp đối chứng
Lớp
Số học sinh
Lớp
Số học sinh
11A2
42
11A6
43
11A3
36
11A7
40
- Các lớp thực nghiệm: sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực kết hợp

với việc sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại (máy tính, điện thoại
thông minh)
- Các lớp đối chứng: Sử dụng chủ yếu các phương pháp dạy học truyền thống
(thuyết trình, đàm thoại gợi mở..) và dạy chỉ vơí phấn trắng, bảng đen.
* Cách tổ chức:
Làm bài kiểm tra 15 phút
* Đề bài: Cho hình chóp đều S.ABCD cạnh đáy bằng a, cạnh bên bằng 2a. Tính
khoảng cách từ S đến mặt phẳng (ABCD)
2.4.2. Kết quả thực nghiệm
Sau khi học sinh làm một bài kiểm tra. Kết quả như sau:
Lớp


Điểm
số
0 1 2
Thực
11A2
42 0 0 0
nghiệm
11A3
36 0 0 0
Đối
11A6
43 0 0 0
chứng
11A7
40 0 0 0
Điểm lớp thực nghiệm và đối chứng
Xếp loại

Giỏi (9-10 điểm)
Khá (7-8 điểm)
Trung bình (5-6 điểm)
Yếu (<5 điểm)

3
0
0
0
0

Lớp thực nghiệm
(11A2, 11A3)
Tổng
%
16
20.5
62
79.5
0
0,0
0
0.0

4
0
0
0
0


5
0
0
6
7

6
0
0
11
14

7
11
13
13
15

8
23
15
10
3

9
6
7
3
1


10
2
1
0
0

Lớp đối chứng
(11A6, 11A7)
Tổng
%
4
4.8
41
49.4
38
45.8
0
0,0

19


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Từ việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lí luận và thực trạng hoạt
động dạy học tích cực, tôi rút ra một số kết luận cơ bản sau:
- Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực không có nghĩa là
chỉ sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại, loại bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu từ việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và
hạn chế nhược điểm của chúng, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.

Điều đó đòi hỏi người giáo viên phải có năng lực chuyên môn, năng động, sáng
tạo trong việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học một cách hiệu quả
phù hợp với điều kiện dạy học của nhà trường, của địa phương. Tuy nhiên, cho
dù lựa chọn phương pháp dạy học nào thì vẫn phải tạo điều kiện cho người học
được khám phá, chủ động, sáng tạo trong việc tìm kiếm kiến thức, giải quyết các
vấn đề, gắn kiến thức với thực tiễn…Thay cho học thiên về lí thuyết, học sinh
được trải nghiệm, khám phá kiến thức qua hành động, học qua “làm” , chỉ có
như vậy kiến thức học mới được khắc sâu và bền vững.
- Để đào tạo những con người năng động, thích nghi tốt với đời sống xã
hội thì việc kiểm tra, đánh giá không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến
thức, lặp lại các kĩ năng đã học mà cần khuyến khích phát triển trí thông minh,
óc sáng tạo trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Thông qua việc đánh
giá năng lực, học sinh không chỉ được rèn luyện kĩ năng xem xét, phân tích vấn
đề mà trên cơ sở đó tự điều chỉnh cách học, điều chỉnh hành vi phù hợp.
- Các điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học có ảnh hưởng lớn đến việc
đổi mới phương pháp dạy học.
3.2. Kiến nghị.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy và học theo hướng
phát huy tính tích cực, phát triển năng lực, tôi đề nghị:
- Sở Giáo dục và Đào tạo, lãnh đạo nhà trường tiếp tục tạo điều kiện thuận
lợi để giáo viên được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên về
chuyên môn, nghiệp vụ.
- Đầu tư, trang bị tốt hơn về cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại
tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Xác nhận của BGH trường

Thanh Hóa ngày 23/05/2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết không sao chép nội

dung của người khác.
Nguyễn Thị Thúy

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Phương pháp giảng dạy môn toán.
Tác giả: Vũ Dương Thụy – Nguyễn Bá Kim – NXB Giáo dục
2) Trọng tâm kiến thức hình học 11
Tác giả: Phan Huy Khải – Nhà xuất bản Giáo dục.
3) Sách giáo khoa hình học 11 nâng cao.
Nhà xuất bản Giáo dục.
4) Sách bài tập hình học 11 nâng cao.
Nhà xuất bản Giáo dục.
5) Sách giáo khoa hình học 11 cơ bản.
Nhà xuất bản Giáo dục.
6) Sách bài tập hình học 11 cơ bản.
Nhà xuất bản Giáo dục.
Ngoài ra tôi còn tham khảo một số tài liệu trên mạng, tham gia nhóm dạy học
tích cực môn toán, nhóm dạy học ứng dụng công nghệ thực tế ảo AR – VR,
tham gia diễn đàn giáo viên toán,…

21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:......Nguyễn Thị Thúy ………....................................................
Chức vụ và đơn vị công tác:...Giáo viên toán.......................................................,

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Ứng dụng phần mềm Cabri
3D nâng cao hiệu quả bài dạy
“Mặt cầu- khối cầu”.

2.

Sử dụng phương pháp tọa độ
trong không gian giải một số
bài toán hình học không gian.

Kết quả
Cấp đánh giá
đánh giá
xếp loại
xếp loại
(Ngành GD
(A, B, hoặc
cấp
C)
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)


Năm học
đánh giá
xếp loại

Cấp tỉnh

C

2013-2014

Cấp tỉnh

C

2016-2017

22



×