Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Trình bày hoạt động của kiểm sát viên khi kiểm sát việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án - 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.24 KB, 16 trang )

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hoạt động thi hành án là khâu cuối cùng khi quyết định, bản án có hiệu lực
của tòa án. Đối với hoạt động hoạt dộng thi hành án dân sự nói riêng có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án vì bản án, quyết định
chỉ có ý nghĩa khi bản án, quyết định đó được thi hành trên thực tiễn, khi đó quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự vì thế cũng được bảo vệ một cách trọn vẹn.
Với tình hình xã hội hiện nay, thi hành án dân sự đối với quyết định, bản án
của tòa án không lúc nào cũng thuận lợi mà gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy em xin
chọn đề tài: “Trình bày hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án”. Từ đó em có cái nhìn rõ hơn về vai trò cũng
như những kĩ năng kiểm sát trong hoạt động áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành
án này. Đề tài của em được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung
Chương 2: Hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành án
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án


NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát chung
1. Khái niệm về biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp dùng quyền lực của
Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của
họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều
kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
2. Điều kiện để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Theo pháp luật quy định có 2 điều kiện để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành dân sự:
Thứ nhất, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc phải
thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài,


quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Thứ hai, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự
nguyện thi hành án.
3. Nguyên tắc khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là việc áp dụng quyền lực
của nhà nước lên người bị thi hành án buộc người bị thi hành án phải thực hiện
nghĩa vụ của mình. Vì vậy việc áp dụng biện pháp này phải đúng theo trình tự pháp
luật quy định để đảm bảo quyền và lợi ích của những người có liên quan. Vì vậy,
Kiểm sát viên khi tiến hành công tác kiểm sát cần nắm rõ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong
trường hợp luật định. Việc áp dụng phải đúng với quy định pháp luật không được
thực hiện các trường hợp mà pháp luật không quy định. Theo điều 71 Luật thi hành
án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung 2014 quy định những biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự như sau:


Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án.
Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người
thứ ba giữ.
Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc
nhất định.
Thứ hai, chủ thể của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành dân sự. Theo
pháp luật quy định việc áp dụng các biện pháp này chỉ được thực hiện bởi các chấp
hành viên. Việc tiến hành cưỡng chế thi hành án nhằm bảo vệ quyền lợi và nghĩa
vụ của người thi hành án và người được thi hành án. Ngoài chấp hành viên thì các
chủ thể khác áp dụng sức mạnh cưỡng chế thi hành án dân sự được coi là trái pháp

luật. Chỉ có trường hợp hỗ trợ chấp hành viên khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự như công an phường, đội dân phòng,…
Thứ ba, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết định
và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Đối với nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về hiểu
biết tình hình xã hội của Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có
thuận lợi hay không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy
thuộc vào Chấp hành viên áp dụng.
Thứ tư, tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi
hành án và các chi phí cần thiết khác. Theo quy định tại điểm 2, khoản 1, Điều 8
Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ: “Trường hợp người
phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ phải thi
hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia sẽ làm giảm


đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp
bảo đảm, cưỡng chế thi hành án”. Vì vậy việc căn cứ các điều kiện, cũng như tổ
chức thi hành án Chấp hành viên phải tùy vào điều kiện hoàn cảnh người bị chấp
hành án mà thi hành.
Cuối cùng, thời hạn áp dụng biện pháp cưỡng chế. Chỉ được áp dụng biện
pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn tự nguyện thi hành án trừ trường hợp cần
ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn
tránh nghĩa vụ thi hành án. Không được cưỡng chế thi hành án trong khoảng thời
gian từ 22h đến 6h sáng ngày hôm sau. Ngoài ra, cơ quan thi hành án dân sự không
không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời gian 15
ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng
chính sách, nếu họ là người phải thi hành án.
Chương 2: Hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế thi hành án
Khi tham gia kiểm sát việc cưỡng chế, Kiểm sát viên nghiên cứu trước các tài

liệu thi hành án có liên quan đến việc cưỡng chế, nếu phát hiện có vi phạm trong
việc tổ chức cưỡng chế thể hiện trong tài liệu thi hành án thì báo cáo Lãnh đạo viện
để yêu cầu hoặc kiến nghị, kháng nghị khắc phục; nếu phát hiện vi phạm tại nơi tổ
chức cưỡng chế thì có quan điểm yêu cầu Cơ quan thi hành án khắc phục, sau đó
báo cáo Lãnh đạo viện. Từ đó những hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm sát
việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án:
Thứ nhất, kiểm sát căng cứ cưỡng chế thi hành án dân sự.
Quyết định cưỡng chế thi hành án theo biện pháp nào thì phải ban hành theo
mẫu hiện hành của biện pháp cưỡng chế đó (Mẫu theo Thông tư số 01/2016/TTBTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp ban hành thay thế Thông tư số 09/2011/TTBTP ngày 30/5/2011 của Bộ Tư pháp).


Căn cứ để ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án phải đầy đủ, phù hợp
với đúng nội dung quyết định cưỡng chế như: Khoản 5 Điều 20; Điều 71 Luật
THADS; bản án, quyết định; quyết định thi hành án.
Thứ hai, kiểm sát việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án.
Kế hoạch cưỡng chế thi hành án phải do người có thẩm quyền ký ban hành và
đầy đủ các nội dung chính sau: Tên người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế; biện
pháp cưỡng chế cần áp dụng; thời gian, địa điểm cưỡng chế; phương án tiến hành
cưỡng chế; yêu cầu về lực lượng tham gia bảo vệ cưỡng chế; dự trù chi phí cưỡng
chế.
Kế hoạch cưỡng chế phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan
Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế và cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án.
Thứ ba, kiểm sát chi phí cưỡng chế thi hành án
Kiểm sát viên cần căn cứ Điều 44, Điều 73 Luật THADS năm 2014, Điều 43
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS, Thông tư liên tịch số
184/2011/TTLT-BTC-BTP ngày 19/12/2011 (Thông tư liên tịch số 184) của Bộ Tài
chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng
chế THADS để kiểm sát các chi phí cưỡng chế thi hành án do từng đối tượng phải

chi trả, mức chi cụ thể cho từng nội dung chi phí như:
a) Chi phí thông báo về cưỡng chế.


b) Chi phí mua nguyên liệu, nhiên liệu, thuê phương tiện, thiết bị bảo vệ, y tế,
phòng, chống cháy, nổ, các thiết bị, phương tiện cần thiết khác cho việc cưỡng chế
thi hành án.
c) Chi phí cho việc định giá, giám định tài sản, định giá lại tài sản, bán đấu giá
tài sản.
d) Chi phí cho việc thuê, trông coi, bảo quản tài sản; chi phí bốc dỡ, vận
chuyển tài sản; chi phí thuê nhân công và khoản chi phục vụ cho việc xây ngăn,
phá dỡ; chi thuê đo đạc, xác định mốc giới để thực hiện việc cưỡng chế thi hành
án.
đ) Chi phí cho việc tạm giữ, thu giữ tài sản, giấy tờ, tài liệu.
Chi phí cưỡng chế do người được thi hành án phải chịu:
a) Chi phí định giá lại tài sản quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Thông tư
liên tịch này nếu người được thi hành án yêu cầu định giá lại, trừ trường hợp định
giá lại do có vi phạm quy định về định giá.
b) Một phần hoặc toàn bộ chi phí xây ngăn, phá dỡ trong trường hợp bản án,
quyết định xác định người được thi hành án phải chịu chi phí xây ngăn, phá dỡ.
Trường hợp người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành án không đúng thì người đó phải thanh toán các khoản chi
phí thực tế do việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án đó.
Ngân sách nhà nước bảo đảm các khoản chi phí cưỡng chế thi hành án, bao
gồm:


a) Chi phí họp bàn cưỡng chế do Chấp hành viên tổ chức họp với các cơ quan
liên quan trước khi tiến hành cưỡng chế.
b) Chi phí cho việc bố trí phiên dịch, biên dịch trong trường hợp đương sự là

người dân tộc thiểu số của Việt Nam mà không biết tiếng Việt và trường hợp
đương sự là người nước ngoài.
c) Chi phí định giá lại tài sản quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Thông tư
liên tịch này trong trường hợp có vi phạm quy định về định giá theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 99 Luật Thi hành án dân sự.
d) Phí, chi phí bán đấu giá tài sản tài sản không thành theo quy định tại khoản
3 Điều 43 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ.
đ) Chi phí xác minh điều kiện thi hành án quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2
Thông tư liên tịch này trong trường hợp chủ động thi hành án quy định tại khoản 1
Điều 44 Luật Thi hành án dân sự.
e) Chi phí cưỡng chế thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án,
người được thi hành án được miễn, giảm chi phí cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại Điều 32 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ.
g) Chi phí cưỡng chế trong trường hợp không thu được tiền của người phải thi
hành án. Bộ Tư pháp quy định cụ thể đối với các trường hợp này.
h) Chi phí khi đang tiến hành tổ chức cưỡng chế nhưng phải ngừng, đình chỉ
vì các lý do sau:
Do sự kiện bất khả kháng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 2 Nghị định số
58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ;


Trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ thi
hành án theo quy định tại điểm a, điểm b, điểm d, điểm đ khoản 1 Điều 50 Luật Thi
hành án dân sự.
Đối với các trường hợp tạm ngừng, đình chỉ vì các lý do chủ quan của người
được thi hành án hoặc người phải thi hành án thì chi phí cưỡng chế thi hành án đến
thời điểm tạm ngừng, đình chỉ do đối tượng gây tạm ngừng, đình chỉ chịu.
i) Các khoản chi cho việc áp dụng biện pháp tạm giữ giấy tờ, tài liệu của
người phải thi hành án trong trường hợp người thi hành án được miễn, giảm chi phí
cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật hoặc trường hợp không thu

được tiền của người phải thi hành án.
k) Toàn bộ chi phí cưỡng chế và chi phí định giá, định giá lại tài sản đã thực
hiện nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền huỷ toàn bộ quá trình cưỡng chế.
l) Chi phí xác minh điều kiện thi hành án (khoản 1 Điều 44 Luật THADS năm
2008 quy định trường hợp người được thi hành án có đơn yêu cầu Chấp hành viên
xác minh điều kiện thi hành án, người được thi hành án chịu các chi phí. Luật
THADS năm 2008 đã sửa đổi, bổ sung, chi phí xác minh do Cơ quan THADS chi
trả).
Về mức chi cưỡng chế thi hành án được quy định cụ thể tại Điều 3 Thông tư
liên tịch số 184.
Thứ tư, kiểm sát việc xử lý tài sản chung để thi hành án.
Hiện nay, việc xác định phân chia, xử lý tài sản chung của người phải thi
hành án trước khi tổ chức cưỡng chế thi hành án rất nhiều cơ quan THADS không
thực hiện việc xác định, phân chia. Đại đa số tài sản kê biên để thi hành án là


quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thuộc sở hữu chung, vi phạm phổ
biến khi xử lý tài sản là của hộ gia đình, trong khi người phải thi hành án là hai vợ
chồng hoặc tài sản chung trong hôn nhân của hai vợ chồng nhưng người phải thi
hành án chỉ là vợ (hoặc chồng). Để khắc phục tình trạng trên, khi kiểm sát hồ sơ
cưỡng chế tài sản thi hành án thuộc sở hữu chung Kiểm sát viên cần chú trọng các
nội dung sau:
Căn cứ bản án, quyết định thi hành án để xác định người phải thi hành án là
hai vợ chồng hay chỉ riêng vợ hoặc chồng hay nghĩa vụ liên đới thi hành án.
Xác định xem tài sản tổ chức cưỡng chế kê biên thuộc sở hữu như thế nào,
nếu của hộ gia đình thì Chấp hành viên đã xác minh tại thời điểm xác lập quyền sở
hữu chung của tài sản thì hộ gia đình đó có những ai được quyền sở hữu chung với
tài sản đó. Trường hợp chỉ riêng vợ hoặc chồng hoặc một người có nghĩa vụ liên
đới thì xác định tài sản cưỡng chế đó trong hay ngoài thời kỳ hôn nhân để xử lý.
Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử

dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì
Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có
quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận
phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự;
hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa
thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận
không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho
người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài
sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung
theo thủ tục tố tụng dân sự; hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo
mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên


yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của
người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự; Chấp
hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.
Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ
sở hữu chung được xử lý như sau:
Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp
cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án;
Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm
đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế
đối với toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài
sản thuộc quyền sở hữu của họ.
Chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi
hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung; trước khi bán tài sản lần đầu đối
với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ
sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong
thời hạn 03 tháng đối với bất động sản, 01 tháng đối với động sản; đối với những
lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ;

trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu
chung không mua tài sản thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 của Luật
này.”
Việc kê biên, xử lý tài sản chung của người phải thi hành với người khác được
thực hiện như sau:


Cơ quan Thi hành án dân sự chỉ kê biên, xử lý đối với tài sản chung là quyền
sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi các tài sản khác không đủ để
thi hành án hoặc khi có đề nghị của đương sự tự nguyện kê biên;
Trường hợp người phải thi hành án có chung tài sản với người khác mà đã xác
định được phần tài sản, quyền tài sản của từng người thì Chấp hành viên kê biên
phần tài sản, quyền tài sản của người phải thi hành án để thi hành án theo quy định
tại khoản 2 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự; trường hợp chưa xác định được phần
quyền của người phải thi hành án thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 74
Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử
dụng chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng
biết.
Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình
thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ
gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành
viên trong hộ gia đình biết; trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia
đình không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa
án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp
lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành kê
biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá
trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ.

Thứ năm, kiểm sát đối với các trường hợp tài sản riêng như: tiền, giấy tờ có
giá, quyền sử dụng đất, nhà ở, các tài sản vốn góp,… Kiểm sát viên phải nắm vững


các quy định của pháp luật để kiểm sát cái tài liệu, thời hạn cho đúng. Ví dụ như:
đối với tài sản là tiền, Kiểm sát viên phải nắm rõ các vấn đề: Khấu trừ tiền trong tài
khoản được quy định trong các Điều 76, 77 Luật THADS 2014; Điều 21 Nghị định
62/2015/NĐ- CP; Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án theo Điều 78 Luật
THADS 2014; Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án theo
Điều 79 Luật THADS 2014; Điều 22 Nghị định 62/2015/NĐ- CP; Thu tiền của
người phải thi hành án đang giữ hoặc do người thứ ba giữ theo các Điều 80 và 81
Luật THADS 2014; Điều 23 Nghị định 62/2015/NĐ- CP; Kê biên phần vốn góp
(bằng tiền) theo Điều 92 Luật THADS 2014.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án
Hiện nay, qua công tác trực tiếp kiểm sát thi hành án dân sự, Kiểm sát viên
thường phát hiện những vi phạm của Chấp hành viên cũng như cơ quan thi hành án
như sau: quyết định thi hành án dân sự vi phạm về thời hạn ban hành, thiếu căn cứ;
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật Tòa án gửi cho cơ quan THADS vi
phạm về thời hạn; vi phạm các qui định về xác minh điều kiện thi hành án; phân
loại điều kiện thi hành án sai; việc có điều kiện thi hành nhưng chưa kiên quyết tổ
chức thi hành, để dây dưa kéo dài; vi phạm trong xử lý vật chứng, vi phạm trong
kê biên định giá tài sản, chi trả tiền thi hành án chậm; cơ quan Thi hành án gửi các
quyết định về thi hành án chậm; biên lai thu tiền bị tẩy xóa và sửa chữa. Tiêu hủy
vật chứng vi phạm để quá thời hạn; không lưu phiếu chi tiền cho người được thi
hành án; không lưu giấy đề nghị chi của Chấp hành viên vào hồ sơ; vi phạm về
thời hạn hoãn thi hành án; vi phạm về cưỡng chế thi hành án….
Nguyên nhân chủ yếu do Chấp hành viên của Cơ quan thi hành án dân sự
được giao nhiệm vụ chưa thực hiện nghiêm túc việc thực hiện các quy định trong
công tác thi hành án theo quy định Luật thi hành án dân sự. Cũng do một phần



Kiểm sát viên thực hiện việc kiểm sát 1 Kiểm sát viên kiểm sát ít nhất 5 Chấp hành
viên. Cũng một số lí do khác Kiểm sát viên chưa nắm rõ các quy định của pháp
luật về thi hành án, đặc biệt về các thông tư quy định riêng về các tài sản thi hành
án.
Vì vậy từ những lí do trên, em xin đưa ra một số giải pháp khắc phục tăng
hiệu quả trong việc kiểm sát việc áp dụng thi hành án dân sự như sau:
Thứ nhất, Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát thi hành án dân sự cần tăng
cường nghiên cứu, nắm vững các quy định pháp luật liên quan đến công tác thi
hành án dân sự. Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát thi hành án dân sự phải nêu
cao tinh thần trách nhiệm, niềm say mê, nhiệt huyết với công việc được giao; có
phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả.
Thứ hai, đối với ngành Kiểm sát nhân dân chúng ta, cần phải thêm một vài
cán bộ vào trong khâu kiểm sát thi hành án dân sự này. Vì thực tế cho thấy, chỉ có
đến 2, 3 cán bộ Kiểm sát viên làm trong phòng này. Mà lực lượng Chấp hành viên
trong khi đó có trên 10 người như vậy việc kiểm sát là không thể nào kiểm sát hết.
Vì lượng công việc rất lớn.
Thứ ba, cần tăng cường phối hợp với các ngành, các cấp có liên quan trong
công tác thi hành án dân sự để giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc
trong việc tổ chức thi hành án.
Thứ tư, ở địa phương cần tăng cường công tác giáo dục pháp luật, tuyên
truyền pháp luật để mọi người có thể hiểu hơn về pháp luật đặc biệt là lĩnh vực thi
hành án. Để từ đó ai cũng có thể khiếu nại, tố cáo về những hành vi sai trái của cơ
quan thi hành án và đặc biệt là chấp hành viên. Giúp cho việc thi hành án ngày
càng được dễ dàng, thuận lợi.


Thứ sáu, cần quy định thêm các chế tài xử phạt thật nặng nếu Chấp hành viên
cố ý làm sai quy định của pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

Cũng như đối với những Kiểm sát viên “bắt tay” với việc cố ý vi phạm pháp luật
của Chấp hành viên.


KẾT LUẬN
Từ những phân tích ở trên em đã thấy được vai trò quan trọng của biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm
sát việc áp dụng biện pháp này. Việc áp dụng biện pháp đó đảm bảo thi hành án
dân sự góp phần bảo vệ các quyền, lợi ích dân sự hợp pháp trong bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Dưới góc nhìn của sinh viên ngành luật năm thứ tư về vấn đề còn nhiều khá
bàn luận này thì khó có thể tránh được thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong được
nhận sự đánh giá và góp ý của quý thầy cô sau khi đọc qua bài tiểu luận này. Em
xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014
2. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội. Giáo trình Kiểm sát thi hành án dân sự
3. Đào Thị Hảo, “Một số khó khăn vướng mắc trong công tác Thi hành án dân
sự”. Cổng thông tin Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
4. Đặng Ngọc Dư – Phó vụ trưởng vụ 11 VKSND tối cao. Kỹ năng kiểm sát
việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự. Trang thông tin điện tử KIEMSAT online.
5. Phần thứ tám, mục 2.15: “Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án”. Trang thông tin điện tử Trường đại học Kiểm sát Hà Nội.
6. Nguyễn Doãn Phương, “Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự”. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
7.


Chuyên đề “Nâng cao chất lượng kiểm sát trực tiếp hoạt động thi hành án
dân sự và chất lượng kiểm sát việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án”. Cổng thông tin điện tử VKSND tỉnh Hà Tĩnh.



×