Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.91 KB, 34 trang )

Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập
2.1. Quá trình áp dụng biện pháp bảo hộ phi thuế của Việt Nam từ năm 1986
tới nay
Năm 1986 đợc xem là mốc đánh dấu cho công cuộc đổi mới của Việt Nam, khởi đầu
là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI; sau đó, Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính
sách nhằm thơng mại hoá nền kinh tế, trong đó Quyết định 217/ HĐBT
ngày14/11/1987 đã phản ánh rõ nhất bớc chuyển này: gắn sản xuất với thị trờng, thực
hiện hạch toán kinh doanh, khẳng định tính thống nhất khách quan của toàn bộ thị tr-
ờng xã hội. Tuy vậy, thời kỳ 1986-1988, nền kinh tế về cơ bản vẫn nằm dới sự quản lý
của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Các xí nghiệp quốc doanh cha có đủ những quyền
chủ động cần thiết trong sản xuất kinh doanh, và trong hoạt động xuất nhập khẩu chủ
yếu vẫn dồn vào một số đầu mối là các công ty quốc doanh của Nhà nớc.
Năm 1989, các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu có những bớc chuyển biến thể hiện
rõ nét nhất thông qua việc sử dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan. Hội nghị TW 6
(Khoá VI) năm 1989 đã thể hiện sự chuyển hớng cơ bản trong t duy mà theo đó thị tr-
ờng cả nớc đợc coi là một thể thống nhất, các quan hệ thị trờng đều đợc tính đến khi
đề ra các chính sách kinh tế.
Tiếp theo đó, để cụ thể hoá quan điểm này hàng loạt các văn bản của chính phủ đã ra
đời, trong đó Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII thực sự đã tạo ra một bớc ngoặt
trong chính sách quản lý nhà nớc và sự ra đời của Bộ luật Doanh nghiệp đã khẳng định
tính chất pháp lý của nền kinh tế thị trờng dựa trên sự đa dạng của các hình thức sở
hữu.
Từ năm 1996 tới nay, các chơng trình kinh tế trọng điểm đợc xác định là: chơng trình
phát triển công nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng, chơng trình phát triển khoa học công
nghệ, bảo vệ môi trờng sinh thái, chơng trình phát triển kinh tế dịch vụ, chơng trình
phát triển kinh tế đối ngoại, chơng trình phát triển các vùng lãnh thổ, chơng trình phát
triển kinh tế xã hội miền núi, chơng trình quốc gia xoá đói giảm nghèo và chơng trình
giải quyết các vấn đề xã hội. Những chơng trình kinh tế trọng điểm này đợc Nhà nớc
đặt ra nhằm mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế nội địa, đa nớc ta theo kịp và sánh ngang
với các nớc trong khu vực và trên thế giới. Sự nỗ lực và quyết tâm của Đảng và Nhà n-


ớc ta đã đợc đền đáp xứng đáng khi nớc ta liên tiếp gia nhập và các tổ chức kinh tế
quốc tế và khu vực nh: ASEAN, ASEM, APEC. Hiện nay, sau những nỗ lực đàm phán,
Việt Nam đang dần dần từng bớc hoàn tất thủ tục để sẵn sàng trở thành thành viên
chính thức của WTO trong năm nay (2006), sau 11 năm là quan sát viên của tổ chức
này (1995).
Trong chiến lợc phát triển kinh tế nhiều thành phần theo kinh tế thị trờng có sự quản
lý của nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa chúng ta luôn đặt mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hoá là mục tiêu hàng đầu. Trong đó, mục tiêu quan trọng nhất
trong quan điểm công nghiệp hoá vẫn là kết hợp xuất khẩu với sản xuất những mặt
hàng trong nớc có u thế. Nói cách khác, Việt Nam đang hớng đến một nền kinh tế mở
cửa, hớng vào xuất khẩu nhằm khai thác một cách tối u những lợi thế của đất nớc. Đó
cũng là quan điểm chủ đạo của chính sách thơng mại của Việt Nam trong những năm
tới. Điều này khiến cho vấn đề bảo hộ sản xuất trong nớc bằng các biện pháp phi thuế
quan có những thay đổi rõ nét trong ba giai đoạn: giai đoạn 1986-1990, giai đoạn
1991-1995, giai đoạn 1996 tới nay, của quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
2.1.1. Giai đoạn 1986-1990
Thực hiện chủ trơng đổi mới đợc đề ra trong Đại hội Đảng lần VI với định hớng công
nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mục tiêu cơ bản của chính sách quản lý xuất
nhập khẩu đợc xác định là đẩy mạnh xuất khẩu, trong đó cụ thể là mở rộng quy mô, đa
dạng hoá mặt hàng và phát triển đối tợng sản xuất hàng xuất khẩu nhằm đáp ứng các
nhu cầu nhập khẩu và ngoại tệ cần thiết cho nền kinh tế quốc dân, thu hẹp chênh lệch
giữa xuất khẩu và nhập khẩu giảm nhập siêu góp phần cải thiện cán cân thơng mại và
cán cân thanh toán quốc tế.
Để phục vụ mục tiêu đặt ra, Chính phủ đã tiến hành những cải cách mạnh mẽ trong
chính sách quản lý xuất nhập khẩu bằng các biện pháp phi thuế quan. Bớc đi đầu tiên
là việc bãi bỏ hạn ngạch đối với 81 mặt hàng nhập khẩu. Từ ngày 1/3/1989, số mặt
hàng phải chịu hạn ngạch nhập khẩu giảm từ 14 xuống còn 12 (xe vận tải, xi măng,
hàng điện tử và phụ kiện, hàng dệt, xe đạp, quạt điện, bia và đồ giải khát, thuốc lá, mỹ
phẩm và quần áo may sẵn), số mặt hàng phải chịu hạn ngạch xuất khẩu cũng giảm từ
10 xuống 7 (lơng thực, cà phê, cao su, lạc, cùi và dầu dừa, gỗ và gỗ tròn, kim loại và

sắt thép phế liệu). Gắn với hạn ngạch là việc áp dụng rộng rãi chế độ cấp giấy phép đối
với hàng xuất khẩu (gạo và hàng dệt may) sang EU và hàng nhập khẩu (ô tô). Khi đợc
phân bổ, các giấy phép không đợc chuyển nhợng giữa những ngời có giấy phép. Việc
cấp phép trên cơ sở ai đến trớc phục vụ trớc. Thời gian sau, giấy phép xuất nhập khẩu
đợc phép chuyển nhợng giữa các doanh nghiệp. Điều này phần nào gây ra tình trạng
tiêu cực khi phân bổ giấy phép xuất khẩu. Bộ Thơng mại và Du lịch chỉ cấp giấy phép
cho các giao dịch thơng mại còn giấy phép cho những giao dịch phi mậu dịch do cơ
quan Hải quan cấp, buôn bán tiểu ngạch qua biên giới không cần có giấy phép. Trớc
năm 1986, các công ty thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu chỉ làm nhiệm vụ xuất
nhập khẩu cho các bộ chủ quản. Trong giai đoạn 1988-1990, các công ty này mặc dù
vẫn thuộc các bộ nói trên về mặt tài sản và nhân sự, nhng nó đã đợc tự chủ khi tiến
hành các hoạt động kinh doanh với bất kỳ một đơn vị kinh tế nào khác.
Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, những năm đầu đổi mới, ngoại hối bị quản lý đặc
biệt chặt chẽ. Nghị định số 161-HĐBT ngày 18/10/1988 ra đời đã đa ra những quy
định cụ thể về vấn đề này, theo đó: việc mua bán, trao đổi ngoại tệ trên thị trờng tự do
bị nghiêm cấm, hoạt động này phải đợc tiến hành thông qua ngân hàng hoặc các tổ
chức kinh doanh thu ngoại tệ; việc chuyển ngoại tệ ra nớc ngoài phải có giấy phép của
Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam và các tổ chức, công dân Việt Nam khi xuất khẩu hàng
hoá, dịch vụ có thu ngoại tệ đều phải gửi vào tài khoản tại ngân hàng, phải thực hiện
nghĩa vụ bán và thanh toán ngoại tệ cho Nhà nớc theo quy định; mọi hoạt động thanh
toán, mua bán và chuyển đổi ngoại tệ đợc áp dụng theo tỷ giá do Ngân hàng Nhà nớc
Việt Nam công bố.
Tuy nhiên một số chuyển biến tích cực trong chính sách quản lý xuất nhập khẩu bằng
các biện pháp phi thuế quan giai đoạn này cùng với chủ trơng của Nhà nớc về việc mở
rộng quan hệ thơng mại với các nớc đã góp phần vào sự tăng trởng có tính đột phá
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Năm 1989, lần đầu tiên Việt Nam đã xuất khẩu gạo,
tổng kim ngạch xuất khẩu tăng từ 789 (triệu R-USD) năm 1986 lên 2402,2 (triệu R-
USD) năm 1990, tơng ứng với 304,46%. Tỷ lệ nhập siêu năm 1986 là 180,01% đã
giảm xuống chỉ còn 1,45% năm 1990.[13,27]
Năm 1988, có 28 doanh nghiệp nhà nớc giữ vai trò độc quyền trong hoạt động

ngoại thơng. Những doanh nghiệp này chiếm đến 92% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
và 82% tổng kim ngạch xuất khẩu [13, tr 3-22]
Thời kỳ trớc 1989 là thời kỳ tồn tại chế độ nhà nớc độc quyền ngoại thơng với vị trí
độc tôn của các doanh nghiệp nhà nớc.
Chế độ nhà nớc độc quyền ngoại thơng thể hiện ở chỗ nhà nớc trực tiếp điều chỉnh số
lợng, loại hàng, giá cả trong ngành ngoại thơng. Nh các ngành khác trong nền kinh tế
quốc dân, ở thời kỳ này, trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp, ngành ngoại
thơng phát triển có kế hoạch về mọi mặt: số lợng, giá cả, mặt hàng, bạn hàng.
Do Việt Nam thực hiện chế độ Nhà nớc độc quyền ngoại thơng trong lĩnh vực kinh
doanh xuất nhập khẩu nên chỉ có các doanh nghiệp nhà nớc mới đợc quyền tiến hành
các hoạt động liên quan tới ngoại thơng.
Nh vậy, chế độ nhà nớc độc quyền ngoại thơng và vị trí độc tôn của các doanh nghiệp
nhà nớc thời kỳ trớc năm 1989 chính là rào cản lớn nhất đối với hoạt động xuất nhập
khẩu tại Việt Nam. Tự do hóa thơng mại mới chỉ đợc thực hiện một phần.
2.1.2. Giai đoạn 1991-1995
Năm 1991, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII tiếp tục đa ra các chơng trình
hành động nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế, giữ vững định hớng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong quá trình đổi mới. Do đó, khoảng thời gian này là sự tiếp tục của thời kỳ
1986-1990; trong quá trình đổi mới hoạt động quản lý xuất nhập khẩu bằng các biện
pháp phi thuế ở Việt Nam nhng với mức độ cao hơn.
Trong giai đoạn này, những đổi mới về các biện pháp bảo hộ phi thuế đợc sử dụng là
giảm tối đa các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu đợc quản lý bằng hạn ngạch, tăng các
mặt hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, thực hiện chế độ quản lý xuất nhập khẩu
theo định lợng. Việc cấp hạn ngạch và giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá đợc thực
hiện theo Quyết định Số 725/TN-XNK ngày 28/9/1990 của Bộ trởng bộ Thơng nghiệp.
Ngày 20/5/1991, Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) có Quyết định Số 166/CT về
danh mục và số lợng hàng hoá xuất nhập khẩu đợc quản lý bằng hạn ngạch cho năm
1991. Hàng xuất khẩu gồm 4 mặt hàng là gạo, cao su thiên nhiên, cà phê và gỗ xẻ. Đối
với hàng nhập khẩu có 4 loại là linh kiện điện tử các loại dạng CKD, nguyên liệu phụ
liệu sản xuất thuốc lá điếu, vải các loại, rợu bia. Những năm sau đó, hạn ngạch xuất

nhập khẩu đợc điều chỉnh tuỳ điều kiện kinh doanh trong nớc và thế giới.
Từ năm 1992, chính sách đa phơng hoá, đa dạng hoá của Việt Nam từng bớc đợc đẩy
mạnh. Trong giai đoạn này, nhà nớc đã cho phép thành lập các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu ngoài quốc doanh, việc cấp giấy phép kinh doanh cũng trở nên rộng rãi hơn. Năm
1992, Việt Nam ký Hiệp định thơng mại u đãi với cộng đồng kinh tế châu Âu(EEC)
nay là Liên minh Châu Âu (EU) bao gồm có việc cấp hạn ngạch xuất khẩu cho hàng
dệt may.
Ngày 9/4/1992 Bộ Thơng mại và Du lịch ban hành danh mục hàng cấm xuất khẩu và
cấm nhập khẩu theo Quyết định Số 294/TMDL/XNK, hớng dẫn thực hiện Nghị định
Số 114/HĐBT. Danh mục này tiếp tục đợc thực hiện trong năm 1994. Đến ngày
19/4/1994 Nghị định 33/CP của Chính phủ ra đời và sau đó là Thông t Số 04
TM/TC/TCHQ của Tổng cục hải quan hớng dẫn thực hiện quy định việc bãi bỏ giấy
phép chuyến với các mặt hàng xuất khẩu (trừ những mặt hàng trong danh mục hàng
cấm xuất khẩu) hàng quản lý bằng hạn ngạch, hàng hoá có ảnh hởng lớn tới nền kinh
tế quốc dân và mặt hàng đợc quản lý theo cơ quan chuyên ngành.
Bên cạnh đó, từ năm 1990, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về tiêu chuẩn hàng hoá và
sau đó có rất nhiều tiêu chuẩn khác nhau đợc ban hành. Việt Nam cũng đã tiến hành
hệ thống hoá, quy chuẩn hoá theo tổ chức chất lợng quốc tế (ISO). Ngoài ra, hàng hoá
nhập khẩu vào Việt Nam cũng phải chịu sự kiểm dịch động vật, thực vật theo Quy chế
ban hành ngày 27/11/1993. Theo quy chế này, mọi phơng tiện vận tải, vật phẩm có
nguồn gốc thực phẩm và tác nhân sinh học có thể gây hại sinh thái khi nhập vào lãnh
thổ Việt Nam đều phải qua kiểm dịch. Việc ban hành các quy chế về tiêu chuẩn kỹ
thuật và kiểm dịch là những biện pháp cần thiết và chứng tỏ Việt Nam đang tiến đến
đáp ứng các đòi hỏi của thông lệ quốc tế. Vào năm 1993, hệ thống cấp phép thực hiện
cấp phép 6 tháng một lần cho 22 mặt hàng xuất khẩu và đến năm 1994, giấy phép theo
chuyến đã đợc dỡ bỏ đối với mọi mặt hàng xuất khẩu trừ gạo, gỗ xẻ và xăng dầu.
Cũng trong giai đoạn này, chủng loại hàng hoá đợc quản lý bằng hạn ngạch đã giảm
xuống. Tháng 1/1994, có hai mặt hàng mới đợc bổ sung vào những mặt hàng mà nớc
ngoài có áp dụng hạn ngạch (may mặc, dệt may, sắn lát, cà phê) là than và dầu thô.
Trong năm 1995, hạn ngạch xuất khẩu đã đợc loại bỏ đối với mọi loại hàng hoá trừ

gạo. Hiện nay chúng ta chỉ áp dụng hạn ngạch xuất khẩu đối với hàng dệt may (đây là
loại hạn ngạch do phía nớc ngoài quy định). Đối với hạn ngạch nhập khẩu, về danh
nghĩa, Việt Nam đã bỏ không sử dụng biện pháp này từ năm 1994. Tuy nhiên với
những mặt hàng có liên quan đáng kể tới sự cân đối của nền kinh tế quốc dân và một
số hàng tiêu dùng Việt Nam vẫn có những quy định về số lợng hoặc giá trị đợc nhập
khẩu hàng năm. Về thực chất, đây là các hạn ngạch mềm và việc loại bỏ những hạn
chế định lợng này là điều cần thiết trong tiến trình hội nhập của Việt Nam.
Những bớc chuyển trong chính sách quản lý xuất nhập khẩu bằng các biện pháp
phi thuế quan đã góp phần tạo ra mức tăng trởng cao trong cả xuất khẩu và nhập khẩu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm năm đã tăng 253,94% từ 2087,1 triệu USD lên
5300 triệu USD, nhập khẩu tăng từ 2338,1 triệu USD lên 7500 triệu USD tơng ứng với
320,77%. Năm 1995 có tới 7 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu vợt qua 100 triệu USD
(Nguồn: www.mot.gov.vn, bài Tổng kết tình hình kinh tế Việt nam sau 10 năm đổi mới
1986-1995).
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1996 tới nay
Năm 1995 đánh dấu mốc thành công của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới. Trong thời kỳ này, Việt Nam có những bớc hội nhập quốc tế quan
trọng nh ra nhập ASEAN (1995), bình thờng hóa quan hệ với Mỹ và trở thành quan sát
viên của WTO (1995). Tiếp đó, chúng ta gia nhập tổ chức ASEM (1996), APEC (1998)
và kí kết Hiệp định thơng mại song phơng Việt Mỹ(2000). Những sự kiện này đã
tác động rất lớn đến chính sách quản lý xuất nhập khẩu bằng các biện pháp phi thuế
quan của Việt Nam.
Mục tiêu cho lĩnh vực xuất nhập khẩu của giai đoạn này đợc thể hiện rõ trong Chơng
trình kinh tế đối ngoại do Đại hội Đảng VIII đề ra: phát triển mạnh hoạt động xuất
khẩu (tăng trởng khoảng 28%/năm) trong đó tăng nhanh tỷ trọng hàng xuất khẩu đã
qua chế biến; hoạt động nhập khẩu chủ yếu tập trung vào nhập khẩu nguyên liệu, vật
liệu, các thiết bị công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá, từng bớc
thay thế những mặt hàng trong nớc sản xuất có hiệu quả [ 2, 3].
Nhìn chung, xét về mặt tự do hoá thơng mại, sự chuyển biến của chính sách bảo hộ
sản xuất trong nớc bằng các biện pháp phi thuế quan giai đoạn này mang nhiều tính

tích cực. Chuyển biến tích cực đầu tiên là sự sửa đổi cơ bản cơ chế quản lý bằng giấy
phép xuất nhập khẩu theo Nghị định 89/CP của Chính phủ ban hành ngày 15/12/1995.
Theo tinh thần của Nghị định này, quy định về giấy phép nhập khẩu và xuất khẩu cho
từng chuyến hàng sẽ đợc bãi bỏ. Đến năm 1996, chỉ còn 6 mặt hàng bị quản lý nhập
khẩu (xăng dầu, phân bón, xi măng, đờng, ô tô xe máy và sắt thép xây dựng), giảm 1
mặt hàng so với năm 1995. Năm 1997, chuyển biến có cả tích cực và tiêu cực do việc
cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo đợc giao cho ủy ban nhân dân tỉnh và các cơ quan dới sự
quản lý của Trung ơng. Động thái này đã mở đờng cho việc xuất khẩu gạo trực tiếp
của khu vực ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, để đạt đợc cân đối quốc gia, Nhà nớc quy
định tăng số hàng quản lý bằng hạn ngạch nhập khẩu, quy định dán tem một số hàng
nhập khẩu khi tiêu thụ trên thị trờng nội địa theo Quyết định Số 839 TC/QĐ/TCT có
tác dụng từ ngày 15/10/1997. Tháng 3/1998, số hàng nhập khẩu phải dán tem đợc mở
rộng thêm, theo đó những mặt hàng chịu sự quản lý của biện pháp này là xe đạp, rợu,
quạt điện, vô tuyến, điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, đầu máy video và thiết bị vệ sinh.
Cũng trong năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định Số 57/1998/NĐ-CP ngày
31/7/1998 quy định chi tiết thi hành Luật Thơng mại về hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, gia công và đại lý mua bán với nớc ngoài. Theo Nghị định này, tất cả các doanh
nghiệp đợc tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi giấy phép kinh
doanh mà không cần phải có giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Bộ luật này đợc
đánh giá là khá thông thoáng, là căn cứ cho các doanh nghiệp chủ động tham gia vào
các hoạt động xuất nhập khẩu.
Ngày 30/12/1999, Thủ tớng Chính phủ ban hành Quyết định Số 242/1999/QĐ-TTg về
điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2000, theo đó Danh mục hàng hoá nhập khẩu
có giấy phép của Bộ Thơng mại có một số thay đổi. Các mặt hàng: xăng dầu, phân bón
và rợu đã đợc đa ra khỏi danh mục, thay vào đó là hai mặt hàng gạch lát và dầu thực
vật tinh chế dạng lỏng. Ngày 1/1/1999, Luật Thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành,
với những quy định miễn thuế cho các sản phẩm đầu vào nhập khẩu để sản xuất hàng
xuất khẩu, Luật thuế này có thể đợc coi là một biện pháp phi thuế có tác dụng khuyến
khích xuất khẩu. Cùng thời điểm, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng có hiệu lực và đợc
xem là một biện pháp bảo hộ do có quy định những mức thuế khác nhau đối với các

sản phẩm thuốc lá nhập khẩu và có nguồn cung cấp nội địa và miễn thuế cho nhà sản
xuất trong nớc nếu công ty làm ăn thua lỗ.
Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, từ năm 1997, tỷ giá chính thức liên tục đợc điều
chỉnh theo hớng hạ thấp giá trị Đồng Việt Nam cho gần giá trị thực của nó. Năm 1998,
Nghị định 63/1998/NĐ-CP ra đời tiếp tục khẳng định việc Chính phủ thống nhất quản
lý nhà nớc về ngoại hối và hoạt động ngoại hối, cho phép các tổ chức kinh tế có thể tự
do sử dụng các nguồn thu ngoại tệ hợp pháp vào nhiều mục đích khác nhau. Tuy
nhiên, để tăng tính thanh khoản của thị trờng ngoại hối và hạn chế đầu cơ chống lại sự
mất giá của Đồng Việt Nam, Chính phủ đã ra quy định các công ty phải bán lại ngay
80% số ngoại tệ cho ngân hàng. Kể từ ngày 26/2/1999, thay bằng việc công bố tỷ giá
chính thức, Ngân hàng nhà nớc công bố tỷ giá giao dịch trên thị trờng liên ngân hàng.
Đây là một bớc đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá từ quản lý có tính chất hành chính
sang theo hớng thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Nhờ một phần vào những nỗ lực
cải cách các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, đến năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu
đã đạt 14,45 tỷ USD, nhập khẩu đạt 15,64 tỷ USD, con số này tăng rất nhiều so với
năm 1995 là 5,3 tỷ USD và 7,5 tỷ USD. Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm chế biến tăng lên
đạt 40% năm 2000 và có 4 mặt hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD (Nguồn: Niên
giám Thống kê năm 1996 và năm 2000).
2.2. Hệ thống biện pháp phi thuế quan của Việt Nam hiện nay
2.2.1. Mục tiêu của việc áp dụng hệ thống biện pháp bảo hộ phi thuế quan của
Việt nam trong điều kiện hội nhập
Trong hoàn cảnh, nền kinh tế đang trong quá trình điều chỉnh vĩ mô để đạt tới
mục tiêu tăng trởng bền vững, đã có khá nhiều giải pháp, chính sách đợc áp dụng . Tuy
nhiên, những biện pháp này thờng bị thay đổi. Các biện pháp phi thuế quan trong
chính sách quản lý xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay mặc dù đã đợc cải cách khá
nhiều nhng cũng không là ngoại lệ và rất khó có thể mô tả một cách đầy đủ chi tiết về
hệ thống các biện pháp này. Vì lẽ đó, việc trình bày các biện pháp phi thuế quan đang
đợc sử dụng ở Việt Nam đợc tóm lợc dới dạng bảng (Bảng 2.1) với mục đích cung cấp
những thông tin cơ bản về lĩnh vực áp dụng cũng nh những điều liên quan và mục tiêu
của mỗi biện pháp.

Bảng 2.1 : Các biện pháp phi thuế quan đang đợc áp dụng ở Việt Nam
stt
Các biện pháp
phi
thuế quan
Các lĩnh vực áp dụng Mục tiêu
1
Hạn ngạch
nhập khẩu
Xăng dầu Bình ổn giá và đảm bảo
việc cung cấp cho ngời tiêu
dùng trong nớc.
2
Giấy phép
nhập khẩu của
Bộ Thơng mại
Xi măng, kính, thép,
dầu thực vật, đờng, ô tô,
xe máy.
Bảo hộ sản xuất trong n-
ớc,
Bảo hộ quyền kinh
doanh của một số công ty
trong nớc
Tiết kiệm ngoại tệ.
3
Hàng hoá
chịu sự quản lý
chuyên ngành
của bộ chủ quản

Các chất hoá học, d-
ợc phẩm, mỹ phẩm, các
sản nông nghiệp, ng
nghiệp, các tác phẩm in
ấn và điện ảnh, các thiết
bị ngân hàng, thiết bị
điện đài và điện thoại.
Bảo hộ y tế, sức khoẻ và
an toàn lao động
Bảo hộ
Kiểm dịch
Đảm bảo các tiêu chuẩn
kỹ thuật.
4
Dán tem (thủ
tục hải quan đặc
biệt)
Ti vi, xe đạp, rợu,
gạch ốp lát, thuốc lá
điếu và một số hàng
khác.
Bảo vệ nguồn thu
Bảo hộ các ngành công
nghiệp nội địa.
5
Hàng cấm
Vũ khí, đồ cổ, ma
tuý, hoá chất độc, văn
hoá phẩm đồi trụy, pháo,
thuốc lá điếu, hàng tiêu

dùng đã qua sử dụng,
phụ tùng ô tô đã qua sử
dụng, máy và phần mềm
bảo vệ bí mật quốc gia.
Bảo vệ các giá trị văn
hoá, xã hội, sức khoẻ nhân
dân và môi trờng,
Đảm bảo các tiêu chuẩn
kỹ thuật,
Bảo vệ ngành SX trong
nớc.
6
Quá trình
phân bổ các hạn
chế về số lợng
nhập khẩu
Tất cả các ngành,
lĩnh vực chịu hạn chế về
số lợng nhập khẩu.
Phân phối lợi tô phát
sinh từ hạn chế về số lợng
nhập khẩu,
Bảo hộ các doanh nghiệp
đợc u ái.
7
Một hoặc
một số ít kênh
nhập khẩu
Xăng dầu, xi măng,
rợu và dợc phẩm.

Phân phối lợi tô,
Đảm bảo cung cầu,
ổn định xã hội,
Sức khoẻ cộng đồng,
Bảo hộ sản xuất trong n-
ớc.
8
Giá tính thuế
tối thiểu
Đồ uống, phụ tùng ô
tô, xe máy, xe đạp, gạch
ốp lát và thiết bị vệ sinh,
gơng kính, động cơ máy
nổ, quạt điện.
Bảo hộ nguồn thu.
9
Thuế tiêu thụ
đặc biệt
Các sản phẩm thuốc
lá, rợu, bia, ô tô (dới 24
chỗ ngồi), xăng các loại,
máy điều hoà .
Nguồn thu
Bình ổn giá
Hớng dẫn tiêu dùng
Bảo hộ ngành công
nghiệp trong nớc (thông qua
các miễn trừ và đối xử đặc
biệt).
10

Thuế giá trị
gia tăng (VAT)
Miễn thuế đối với
các đầu vào nhập khẩu
để sản xuất hàng xuất
khẩu và nhập khẩu t liệu
sản xuất không sản xuất
đợc ở Việt Nam
Giảm trừ mức thuế
VAT với đờng sản xuất
trong nớc.
Khuyến khích sản xuất
hàng xuất khẩu
Bảo hộ ngành sản xuất
trong nớc
Nguồn thu.
11
Yêu cầu về
tiền mặt
Hàng tiêu dùng
(không cho phép sử
dụng th tín dụng trả
chậm)
Cho một số mặt hàng
nhất định.
Quản lý nợ nớc ngoài
ngắn hạn
Bảo hộ ngành công
nghiệp trong nớc
Mối lo về cán cân thanh

toán.
12
Các biện
pháp chống bán
phá giá và đối
kháng
Để mở Bảo hộ chống lại hiện t-
ợng cạnh tranh "không công
bằng" của các nhà cung cấp
nớc ngoài.
13
Phụ thu hải
quan
Nhập khẩu một số
loại giấy, gạch ốp lát,
kính, thép, clinker
Giải pháp đặc biệt
nhằm lấp "chỗ trống"
trong bảo hộ
Tăng nguồn thu, đóng
góp vào quỹ bình ổn giá
14
Hạn chế
phân bổ ngoại tệ
Hạn chế việc tiếp
cận ngoại tệ đối với
nhập khẩu hàng tiêu
dùng
Các công ty có vốn
đầu t nớc ngoài phải tự

cân đối ngoại tệ
Ưu tiên tiếp cận đến
các dự án cơ sở hạ tầng
và thay thế nhập khẩu.
Giới hạn ngoại tệ mang
ra ngoài biên giới.
15
Các yêu cầu
về bán ngoại tệ
cho ngân hàng
Để mở Tính thanh khoản của thị tr-
ờng ngoại hối
Hạn chế đầu cơ nhằm chống
lại sự mất giá của Đồng Việt
Nam.
16
Các biện
pháp đầu t, thúc
đẩy xuất khẩu
và chính sách
công nghiệp
Nhiều loại Khuyến khích xuất khẩu,
phát triển công nghiệp.
Nguồn:
- Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/07/1998
- Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 02/08/2001
- Quyết định số 46/2001/QĐ ngày 04/04/2001
- Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998
- Quyết định số 34 và 35/2001/QĐ-BTC ngày 18/4/2001
- Thông t số 11/2001/TT-BTM ngày 18/4/2001.

Bảng 2.1 mô tả mục tiêu của các biện pháp phi thuế quan đang đợc áp dụng ở Việt
Nam. Bảo hộ ngành công nghiệp là một mục tiêu chung xuyên suốt của các biện pháp
này nhng trong một số trờng hợp chúng có rất nhiều mục tiêu. Chẳng hạn, thuế tiêu
thụ đặc biệt về cơ bản là công cụ tăng thu ngân sách nhng những miễn trừ đối với các
nhà sản xuất trong nớc làm cho nó trên thực tế trở thành thuế đánh thêm vào nhập
khẩu để tăng sự bảo hộ đối với các nhà sản xuất trong nớc.
2.2.2. Các biện pháp bảo hộ phi thuế quan cụ thể
a. Cấm xuất nhập khẩu
Quyết định số 46/2001/QĐ - TTg ngày 04/4/2001 của Thủ tớng Chính phủ về điều
hành xuất nhập khẩu cho cả thời kỳ 2001 - 2005, cấm xuất, nhập khẩu những mặt
hàng sau:
- Những mặt hàng cấm xuất khẩu: Vũ khí, đạn dợc, vật liệu nổ, trang thiết bị, đồ cổ,
các loại ma tuý, hoá chất độc, gỗ tròn, gỗ xẻ, củi, than từ gỗ hoặc củi các sản phẩm
làm từ gỗ rừng tự nhiên trong nớc, động vật hoang dã và động thực vật quý hiếm; các
loại máy mã chuyên dụng và các chơng trình phần mềm mật mã sử dụng trong phạm
vi bảo vệ bí mật Nhà nớc.
- Những mặt hàng cấm nhập khẩu: Vũ khí, đạn dợc, vật liệu nổ, trang thiết bị quân sự;
Các loại ma tuý, hoá chất độc; Các loại văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động; Pháo các
loại, đồ chơi trẻ em có ảnh hởng xấu đến giáo dục nân cách, đến trật tự, an toàn xã hội;
Thuốc lá điều, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác (trừ hành lý cá nhân theo
đinh lợng); Hàng tiêu dùng đã qua sử dụng; Phơng tiện vận tải tay lái nghịch, trừ các
phơng tiện tự hàng chuyên dùng, vật t, phơng tiện đã qua sử dụng; Sản phẩm vật liệu
có chứa amiăng thuộc nhóm amphibole; Các loại máy đã chuyên dụng và các phơng
trình phần mềm mật mã sử dụng trong phạm vi bảo vệ bí nhật Nhà nớc.
b. Các biện pháp hạn chế số lợng nhập khẩu (bao gồm hạn ngạch và giấy
phép nhập khẩu)
Quyết định Số 46/2001/QĐ - TTg ngày 04/4/2001 của Thủ tớng Chính phủ về điều
hành xuất nhập khẩu cho cả thời kỳ 2001 - 2005, đa ra danh mục hàng hoá nhập khẩu
theo giấy phép của Bộ Thơng mại nh sau:
- Hàng cần kiểm tra nhập khẩu theo quy định của điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký kết

hoặc tham gia cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật vị nghiên cứu, trao đổi khoa học kỹ thuật
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý).
- Chất gây nhiễm: Chất hớng tâm thần và tiền chất; Thuốc hành phẩm phòng và chữa
bệnh cho ngời: nguyên liệu sản xuất thuốc, dợc liệu, tá dợc, vỏ nang thuốc, bao bì tiếp
xúc trực tiếp với thuốc; Mỹ phẩm ảnh hởng trực tiếp đến sức khoẻ con ngời; Vắc xin,
sinh phẩm miễn dịch; Thiết bị y tế có khả năng gây ảnh hởng trực tiếp đến sức khoẻ
con ngời; Hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng
và y tế (Bộ Y tế quản lý).
- Tem bu chính, ấn phẩm tem và các mặt hàng tem bu chính; thiết bị phát, thu - phát
sóng vô tuyến điện; thiết bị ra đa, thiết bị trợ giúp bằng sóng vô tuyến và thiết bị điều
khiển xa bằng sóng vô tuyến, tổng đài dung lợng lớn và nhỏ, thiết bị truy nhập mạng
sử dụng giao điện V5.1 và V5.2; tổng đài PABX; thiết bị truyền dẫn; Cáp sợi quang;
cáp thông tin kim loại ; thiết bị điện thoại không dây; thiết bị đầu cuối kết nối vào
mạng PSTN, ISDN, máy Telex, máy fax, máy nhắn tín, máy điện thoại di động (Tổng
cục Bu Điện, nay là Bộ Bu chính - Viễn thông quản lý).
- Sách báo, phim điện ảnh, phim video, vật thể ghi hình, ghi tiếng, các văn hoá phẩm
thuộc loại cấm phổ biến, lu hành, các loại ẩn phẩm tác phẩm điện ảnh, tác phẩm nghệ
thuật, hệ thống chế bản và sắp chữ chuyên dùng cho ngành in, máy in, máy in gia
nhiệt, máy in laser màu.v.v. (Bộ Văn hoá - Thông tin quản lý).
- Thiết bị, máy móc chuyên ngành ngân hàng (Ngân hàng Nhà nớc quản lý).
- Một số chủng loại khoáng sản, hoá chất độc hại, Natri Hyđroxyl dạng lỏng và một số
axit (Bộ Công nghiệp quản lý).
Trên thực tế, chức năng điều tiết và quyền quản lý các mặt hàng nhập khẩu đợc phân
chia giữa các Bộ vẫn không rõ ràng. Do đó, một Bộ chủ quản có thể quản lý vợt ngoài
khuôn khổ của những mục tiêu cơ bản ban đầu của sự điều tiết. Chẳng hạn, Bộ Y tế
công bố việc nhập khẩu một số dợc phẩm sẽ bị cấm do khả năng sản xuất trong nớc
đạt đợc mức độ đủ để đáp ứng nhu cầu. Nh vậy, Bộ Y tế dờng nh có cả mục tiêu về y tế
lẫn mục tiêu bảo hộ.
c. Các biện pháp quản lý về giá
Trị giá tính thuế hải quan

Hiện tại, Hải quan Việt Nam thực hiện việc xác định giá tính thuế theo hai nhóm hàng:
nhóm hàng theo Bảng giá tối thiểu và nhóm hàng theo giá hợp đồng. Bảng giá tối thiểu
gồm hai loại sau:
+ Thứ nhất, Bảng giá tối thiểu của Bộ Tài chính: áp dụng cho các mặt hàng Nhà nớc
quản lý giá. Để làm cơ sở cho việc hạn chế gian lận trong khai báo trị giá tính thuế đối
với các mặt hàng do Nhà nớc quản lý giá, Chính phủ giao cho Bộ Tài Chính cùng với
Bộ Thơng mại xây dựng Bảng giá tối thiểu để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu.
Giá tính thuế trong trờng hợp này là giá theo Bảng giá của Bộ Tài chính quy định. Tr-
ờng hợp giá trên hợp đồng mua, bán ngoại thơng cao hơn giá quy định tại Bảng giá
của Bộ Tài chính thì tính theo giá hợp đồng.
Số nhóm mặt hàng Nhà nớc quản lý giá tính thuế đã giảm từ 34 (năm 1996) xuống 21
(năm 1997), 15 (năm 1998) và đến năm 2000 chỉ còn 7 nhóm. Nhiều mặt hàng đợc sản
xuất bởi các ngành công nghiệp trong nớc có sức cạnh tranh thấp và đang gặp khó
khăn đã đợc đa vào Danh mục các nhóm mặt hàng Nhà nớc quản lý giá tính thuế.
+ Thứ hai, Bảng giá tối thiểu của Tổng cục Hải quan: Do ngành Hải quan cha có đủ
điều kiện xác định chính xác trị giá thực tế để tính thuế nhập khẩu, Tổng cục Hải quan
cũng ban hành quy định về Bảng giá tính thuế tối thiểu bao gồm những mặt hàng nằm
ngoài các nhóm mặt hàng trên.
Bảng giá mua tối thiểu đối với những mặt hàng nhập khẩu không thuộc danh mục mặt
hàng Nhà nớc quản lý giá tính thuế đợc sử dụng để áp giá tính thuế nhập khẩu trong
các trờng hợp sau:
1) Hàng nhập khẩu theo phơng thức không phải là mua bán hoặc không có hợp đồng
mua bán ngoại thơng hợp lệ.
2) Hàng nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thơng hợp lệ hoặc hợp đồng hợp lệ
nhng giá ghi trên hợp đồng thấp hơn 70% giá tối thiểu quy định tại bảng giá tối thiểu
do Tổng cục trởng Tổng cục Hải quan ban hành.
Xác định giá trị hải quan theo giá ghi trên hợp đồng: Các mặt hàng nhập khẩu không
thuộc danh mục mặt hàng Nhà nớc quản lý giá tính thuế nhập khẩu sẽ đợc áp dụng giá
tính thuế theo giá ghi trên hợp đồng với hai điều kiện: 1) Có hợp đồng ngoại thơng
hợp lệ. 2) Giá ghi trên hợp đồng lớn hơn 70% giá quy định trong Bảng giá tối thiểu do

Tổng cục Hải quan ban hành.
Nhận xét: áp dụng giá tính thuế tối thiểu đã làm tăng thêm thuế nhập khẩu, tăng chi
phí nhập khẩu hàng hoá và có tác dụng nh một hàng rào phi thuế quan. Nhng trong
nhiều trờng hợp, giá tính thuế tối thiểu không thể ngăn chặn đợc gian lận thơng mại
qua giá. Trên thực tế, ngời bán và ngời mua thông đồng với nhau ghi giá trên hợp
đồng, trên hoá đơn thấp hơn nhiều so với giá thực tế của hàng hoá đó (thờng bằng 70%
giá tối thiểu để đợc hởng giá tính thuế trên hợp đồng).
Việc áp dụng giá tính thuế còn tạo nên sự phân biệt đối với hàng hoá có xuất xứ từ các
nớc khác nhau. Theo các quy định của Tổng cục Hải quan năm 1999, những mặt hàng

×