Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.27 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

STT
1
1.1
1.2
1.3
1.4

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài:
Mục đích nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu

Trang
1
1
1
4
4

2
2.1
2.2
2.3
2.4

Nội dung
Cơ sở lý luận:


Thực trạng:
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.

4
4
5
6
12

3
3.1
3.2

Kết luận
Kiến nghị
Kết quả

13
13
13

1


A. MỞ ĐẦU
I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Mục tiêu giáo dục của bậc THPT là “ … Tiếp tục phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẫm mỹ và các kỹ năng cơ bản của nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa có trình độ học vấn THPT và những hiểu biết

ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học ĐẠI HỌC, THCN, học
nghề hoặc đi vào cuộc sống... ”. Giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong
những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường THPT, hạn chế được những đối
tượng HS yếu về mặt đạo đức là góp phần vào chất lượng giáo dục toàn diện
của nhà trường. Thế nhưng thực tế trong các trường THPT hiện nay một bộ phận
học sinh cá biệt dường như trường nào cũng có. Trong quá trình làm công tác
chủ nhiệm lớp ở nhiều năm bản thân tôi đã gặp không ít đối tượng học sinh cá
biệt nhưng mỗi em một vẻ cá biệt khác nhau, đòi hỏi trong quá trình giáo dục
phải có nhiều sáng tạo mới có hiệu quả.
Là một giáo viên đang trực tiếp đứng lớp và làm công tác chủ nhiệm
cùng với việc không ngừng trau dồi nghiệp vụ để đem đến cho các em những tri
thức quý báu, tôi luôn trăn trở và suy nghĩ: làm thế nào để nâng cao việc giáo
dục đạo đức cho học sinh nói chung và học sinh cá biệt nói riêng nhằm góp phần
giáo dục thế hệ trẻ phát triển về mọi mặt mới là một con người mới XHCN. Vì
vậy, trong quá trình làm công tác chủ nhiệm bản thân tôi đã rút ra một vài kinh
nghiệm về “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT”.
Trong phạm vi đề tài này tôi xin được trao đổi với các bạn đồng nghiệp, mong
muốn được góp một phần nhỏ bé của mình tạo nguồn dồi dào về biện pháp giáo
dục học sinh góp phần nâng cao hơn nữa thực chất chất lượng giáo dục hiện nay.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
1. Thực trạng:
Ở bậc THPT môi trường sống và sự phát triển tâm sinh lí của các em
có sự thay đổi. Tất cả sự thay đổi đó là điều kiện rất quan trọng làm cho hoạt
động nhận thức và nhân cách của học sinh THPT có sự thay đổi về chất so với
các lứa tuổi trước. Đây là lứa tuổi khủng hoảng trong sự phát triển tâm lý hết sức
phức tạp và đầy mâu thuẫn mà thiếu sự giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời của người lớn do
thiếu hiểu biết đặc điểm và những khó khăn của các em mà một số em không
vượt qua được giai đoạn này hình thành những thái độ, hành vi không tốt, vì vậy
so với học sinh bậc THCS học lứa tuổi này dễ xuất hiện những học sinh khó
giáo dục. Do đó người giáo viên cần tìm hiểu và nắm vững đặc điểm tâm sinh lí

của học sinh để giúp đỡ một số HS có những thái độ, hành vi không phù hợp với
giá trị, nội quy, truyền thống tập thể, không thực hiện đúng trách nhiệm và bổn
phận của người học sinh hoặc thiếu văn hóa đạo đức trong việc ứng xử với mọi
người, đồng thời không có động cơ học tập nên kết quả học tập yếu, kém,…
Trong quá trình làm công tác giáo dục chúng ta đã từng buồn phiền biết bao
khi gặp phải những học sinh chưa ngoan. Biểu hiện của những học sinh này rất
đa dạng, có thể xếp vào mấy nhóm hành vi sau:

2


Ở trong trường: thiếu ý thức tổ chức kỹ luật như chây lười trong học tập, lao
động và sinh hoạt tập thể. Học bài, làm bài không đầy đủ. Trốn giờ học, giờ sinh
hoạt. Quay cóp khi thi, kiểm tra. Ăn mặc lố lăng không tuân thủ quy định chung
của trường. Thiếu lễ phép, phá phách tài sản của trường, của bạn; Gây gỗ đánh
nhau với bạn bè trong lớp trong trường, doạ nạt cán bộ lớp, nói tục, chửi thề ….
Ở ngoài trường: thiếu lễ phép với cha mẹ, người lớn, nói dối gia đình, đánh
nhau, ăn quà, trốn học chơi điện tử,….
Tình trạng học sinh yếu kém về mặt đạo đức đã làm cho cha mẹ thầy cô… hết
sức lo âu, trăn trở. Nhiều giáo viên chủ nhiệm khẳng định xoá bỏ được tình trạng yếu
kém về đạo đức trong lớp là cơ sở để thành công đối với mọi công tác khác.
Quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh không phải ngày một ngày hai
mà là cả một quá trình lâu dài phức tạp, phải vận dụng nhiều hình thức và biện
pháp khác nhau.
2. Kết quả - hiệu quả của thực trạng:
Giáo dục đạo đức cho học sinh đã được nhiều người bàn đến bởi lẽ đạo đức
là nền tảng tạo nên nhân cách tốt đẹp của mỗi con người và được coi trọng.
Trước cảnh xã hội phức tạp như hiện nay, các em học sinh tiếp xúc với rất nhiều
hiện tượng ảnh hưởng xấu đến nhân cách. Tuy nhiên, dường như chúng ta chưa
quan tâm đúng mức đến vấn đề giáo dục đạo đức cho con trẻ. Cha ông ta đã có

câu: “ Tiên học lễ hậu học văn”, đành rằng là thế nhưng hiện nay vấn đề học
sinh vi phạm đạo đức lại rất phổ biến trong các nhà trường. Xin kể ra đây một số
trường hợp cho thấy những biểu hiện học sinh vi phạm đạo đức. Đã không ít học
sinh vì có nhiều điểm kém nên không dám đưa sổ liên lạc cho cha mẹ biết, rồi
mượn người khác phê, ký vào sổ liên lạc để nộp lại cho nhà trường. Có học sinh
không muốn cho bố mẹ dự họp phụ huynh nên không đưa giấy mời của nhà
trường khi có những cuộc họp cần thiết hoặc các em nhờ người khác đến để họp
hộ mà không phải người thân trong gia đình. Có học sinh lấy tiền học phí, tiền
học thêm đi đánh điện tử và ăn quà. Về phía gia đình, cũng có những cha mẹ
thấy con ngày nào cũng đi học, đến cuối năm kết quả học tập của con bị xếp
loại yếu thì mới biết là mấy tháng trời con thường bỏ giờ để đi chơi điện tử. Có
không ít những cha mẹ mải mê với công chuyện làm ăn “ trăm sự nhờ thầy cô ”.
Cũng có những gia đình quá nuông chiều con, khi biết con hư thì đã quá muộn,
lại đổ lỗi cho nhà trường, thậm chí cư xử không đúng với thầy cô giáo. Về phía
nhà trường, cũng có những giáo viên chủ nhiệm không nắm chắc tình hình học
sinh, đối xử không công bằng với học sinh, nhận xét, phê học bạ chung chung
thậm chí trái ngược, ít quan tâm liên lạc với gia đình học sinh.
Ngày nay ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới cho việc giáo dục đạo đức
học sinh. Tuy nhiên phẩm chất đạo đức học sinh là kết quả tác động của rất
nhiều yếu tố khách quan, chủ quan và chúng có mối quan hệ gắn kết với nhau.
Vì vậy giáo dục nhân cách cho học sinh nhất là học sinh cá biệt là rất cần thiết
và cấp bách để giúp các em trở thành con ngoan, trò giỏi. Do đó bản thân tôi đã
nảy sinh nghiên cứu vấn đề này nhằm tìm ra những giải pháp tối ưu để đem lại
hiệu quả cao trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh cá biệt.
3


III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Lớp 11B: Gồm những học sinh cá biệt sau:
- Nguyễn Văn Hùng.

-Nguyễn Đình Phúc
- Trần Văn Thống.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người GVCN lớp trong công
tác giáo dục đạo đức HS trên các tập san giáo dục, các bài tham luận trên
Internet và kinh nghiệm của các đồng nghiệp đi trước.
- Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS.
- Phương pháp điều tra:
+ Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên chủ nhiệm, HS, hội cha mẹ học
sinh(CMHS), bạn bè và hàng xóm của HS.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
+ Tham khảo những bản báo cáo , tổng kết hàng năm của nhà trường.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
+ Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong
trường mình.
- Phương pháp thử nghiệm:
+ Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục đạo đức học sinh ở lớp 10B
trường THPT Nga Sơn năm học 2016-2017

B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Ở lứa tuổi các em, lứa tuổi đang có sự mất cân bằng về mặt tâm sinh lý,
việc các em mong muốn trở thành người lớn trong khi các em chưa có sự hiểu
biết tương ứng cộng với hoàn cảnh sống mỗi em một khác nhau, có em may mắn
nhận được sự tư vấn kịp thời của cha mẹ khi ở trong trạng thái thiếu cân bằng
ấy, có em không được sự quan tâm đúng mức, có em thì lại được quá chiều
chuộng... Từ sự khác biệt trên nảy sinh ra những hiện tượng cá biệt trong học
sinh và chính một bộ phận học sinh này đã gây không ít khó khăn cho giáo viên

chủ nhiệm lớp. Những biểu hiện cá biệt của học sinh lại rất khác nhau về mặt
hình thức cũng như mức độ nên GVCN lớp cũng rất khó trong việc phát hiện và
có biện pháp xử lý thích hợp.
Thông thường trong khi làm công tác chủ nhiệm lớp, GVCN thường quan
tâm đến những đối tượng học sinh cá biệt nổi trội mà ai cũng nhìn thấy được, từ
đó GVCN tìm hiểu tính cách cá biệt của các em do những nguyên nhân nào để
có hướng giáo dục thích hợp. Có những trường hợp học sinh cá biệt nhưng

4


không có biểu hiện rõ, khó phát hiện nhiều khi GVCN cũng lầm tưởng nên chưa
có được phương pháp giáo dục thích hợp.
Để giáo dục học sinh cá biệt người giáo viên chủ nhiệm phải thật nhẫn nại, tỉ
mỉ, tâm huyết, năng động sáng tạo đồng thời có sự kiên trì và cần có một phương
pháp đúng dắn thì sẽ đạt được hiệu qua cao trong việc thực hiện giáo dục đạo đức
cho học sinh cá biệt. Giáo viên coi việc giáo vục học sinh cá biệt như một “ thử
thách” cần phải vượt qua, đừng coi đó như một tai nạn, một nỗi đau hay sự đen đủi
khi được giao làm công tác chủ nhiệm lớp có học sinh cá biệt. Giáo viên cần hiểu
rõ lứa tuổi các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn của người lớn hay nói cách khác các em
cần có sự giáo dục và các em rất cần đến chúng ta.
Đối với mỗi giáo viên chúng ta vấn đề quan trọng là nắm vững tri thức khoa
học để truyền thụ cho các em học sinh. Đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Giáo
dục đạo đức cho học sinh cũng là một mặt trong nhà trường THPT. Trong giáo dục
đạo đức thì khó khăn nhất, lo ngại nhất là giáo dục học sinh yếu kém đạo đức. Từ
học sinh yếu kém, cá biệt về đạo đức đến trẻ em lang thang, phạm pháp cũng
không xa lắm, vì có một số học sinh cá biệt đã có hành vi phạm pháp. Vì vậy, là
một giáo viên chủ nhiệm trong quá trình hình thành phẩm chất đạo đức cho học
sinh giáo viên cần phải có những biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng cá biệt để
giúp các em hoàn thiện nhân cách của mình.

II. THỰC TRẠNG:
Các em học sinh cá biệt được nêu trong đề tài không phải tự nhiên các em
có những hành vi như thế mà do nhiều nguyên nhân đem lại cụ thể:
1. Nguyên nhân khách quan:
a) Nguyên nhân về phía gia đình:
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục suốt
đời đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người, thời
gian các em sống với gia đình là khoảng thời gian dài nhất, chính vì thế môi
trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với các em, những thái độ,
hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ hình thành cho các em nền móng để các
em tiếp xúc ngoài xã hội. Những em thiếu may mắn sinh ra trong gia đình cha
mẹ bất hoà, cách cư xử của cha mẹ thô bạo, rượu chè bê bết... đã tạo cho các em
một ấn tượng không tốt điều đó có thể dẫn đến tình trạng HS trở nên lầm lì ít
nói, có em ảnh hưởng những thói quen không tốt đó cũng có những hành vi cử
xử không tốt với mọi người....Hình thành nên tính cách cá biệt trong HS
b) Nguyên nhân về phía nhà trường :
Nhà trường là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gửi gắm
niềm tin vào việc giáo dục con em của họ, ở đây các em được học tập, được hiểu
biết, được giao lưu với bạn bè ở địa phương, cộng đồng, được tham gia nhiều
hoạt động mang tính xã hội, giúp cho quá tình xã hội hóa cá nhân phong phú
toàn diện hơn nên các em được lớn lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng
như điều vừa nêu cũng không phải là dễ, trong thực tế cũng có một vài thầy cô
giáo do cách cư xử chưa phù hợp như xúc phạm học sinh, đối xử thiếu công
bằng với các em, ngại khó khi phải giáo dục những em cá biệt, cáu giận, xỉ nhục
5


học sinh,... và cũng có một vài trường chưa thực hiện được chức năng là ngôi
nhà thứ hai của các em, bởi vẫn còn đâu đó có những thầy cô giáo chưa nhiệt
tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên chưa

nhiệt tình với các em, chưa thật sự là nơi đáng tin cậy, làm mất lòng tin đối với
các em nên một số em có thái độ chống đối.
c) Nguyên nhân về phía môi trường xã hội:
Giáo dục xã hội là hoạt động của các tổ chức, các nhóm xã hội có chức
năng giáo dục theo quy định của pháp luật hoặc các chương trình giáo dục trên
các phương tiện thông tin đai chúng. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội,
sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình
văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các
loại hình dịch vụ như Internet, bi da, caraoke,... đã lôi kéo không ít học sinh vào
đam mê những trò chơi vô bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi
a, ... là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp, nói dối
bố mẹ xin tiền để nộp cho nhà trường.
Nga Trung là một xã nghèo vùng quê, gần chợ gần các dịch vụ quán điện
tử, vì thế một bộ phận HS dễ bị lôi cuốn bởi những thói hư, tật xấu của môi
trường xã hội xung quanh .
2. Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em:
Sự thay đổi về tâm lí mà các em không vượt qua được giai đoạn khủng
hoảng này thì dẫn đến những em HS cá biệt, ta thường gặp phần lớn là những
em có năng lực học tập yếu kém, điều đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức
của các em kém thì làm sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu
kiến thức của các em cũng dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn chống đối,
nghịch ngợm. Bởi lẽ, những em này thường xuyên bị bạn bè thầy cô cười chê,
chính vì thế mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy định chung
để thể hiện sự nổi trội của mình.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Danh sách và những biểu hiện học sinh cá biệt:
STT
Họ và tên
1 Nguyễn văn Hùng


2

Nguyễn Đình Phúc

Những biểu hiện
-Lười học bài cũ, nói chuyện, không ghi bài,
không chú ý trong bài học
- Bỏ tập thể dục giữa giờ, bỏ sinh hoạt tập thể, nói
tục, đánh nhau, bỏ học vô lí do.
-Chơi diện tử,…
-Chưa chú ý học.
-Thầy cô nhắc nhở có biểu hiện chống chế, nói dối
bố mẹ,nghỉ học nhiều không có lý do.
-Thường xuyên không ghi bài, không làm bài tập,
quay cóp trong giờ kiểm tra.

6


3

Trần Văn Thống.

-Nói leo, nói tự do trong giờ học, bỏ giờ, nghỉ học
vô lý do, phá phách tài sản của nhà trường.
- Không ghi bài và không làm bài tập.
- Đánh nhau,…

2. Quá trình thực hiện:
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh đặc biệt là học sinh cá biệt là một quá

trình phức tạp. Vì vậy, giáo viên cần có biên pháp pháp cụ thể.
2.1. Tìm hiểu nguyên nhân, đặc điểm tâm lý, sinh lý, khả năng của từng
học sinh để từ đó phân loại đối tượng:
Để giáo dục đạo đức cho các em học sinh cá biệt trước hết GVCN cần các em
để nắm bắt được thông tin của các em về hoàn cảnh gia đình, năng lực của từng
em, nhu cầu của em là gì? Nhóm bạn em chơi,….Nguyên nhân dẫn đến thói hư tật
xấu….Từ đó chúng ta mới có hướng giải quyết cụ thể, thích hợp cho từng em.
Chẳng hạn với 3 học sinh cá biệt lớp tôi, sau khi có những thông tin cần thiết về các
em tôi đã xác định được việc giáo dục đạo đức cho từng em không thể giống nhau.
Ví dụ: Trường hợp em Hùng có hoàn cảnh gia đình rất đặc biệt bố mẹ mất
sớm, em ở với ông bà nội già yếu không có sự quan tâm của gia đình em
thường xuyên bỏ học chơi điện tử, đến lớp không thuộc bài, không làm bài tập
và không ghi bài đầy đủ, về nhà nói dối ông bà. Sau khi theo dõi và tìm hiểu
phân tích hoàn cảnh của Hùng, tôi gặp riêng em sau giờ học cuối cùng của
ngày thứ bảy- cả lớp đã ra về tôi gọi em ở lại để khuyên nhủ em, trước mặt tôi
em rất ngoan ngoãn không có biểu hiện gì. Tôi bắt đầu từ việc hỏi thăm gia
đình em, mẹ em thế nào? Ông bà ra sao? ai cung cấp tiền cho em ăn học,…
trước sự quan tâm chân tình của cô giáo chủ nhiệm - Tùng nói chuyện với tôi
chân tình. Khi thấy em không ngần ngại gì trong tâm sự cùng tôi, tôi bắt đầu
gợi ý nhắc nhở từng vi phạm của em, chú ý trong các vi phạm của em tôi đều
đưa em vào thế bị lôi kéo theo bạn mà hư. Tôi dùng tình cảm của người mẹ để
tâm sự cùng em: Em là niềm an ủi duy nhất đối với ông, bà và ông bà là chỗ
dựa duy nhất của em, ông bà già yếu nhưng vẫn tần tảo dành tiền và thời gian
cho em học muốn cho em trở thành người tốt, thế mà vừa rồi cô nghe ông bị
ốm nặng do biết em thường xuyên nghỉ học đi chơi điện tử,….em không
thương ông bà sao? Nói đến đay tôi thấy em khóc và em hứa với tôi từ nay
không bỏ học đi chơi điện tử nữa. Tôi đã cảm hóa được em. Sau mỗi lần trao
đổi với em tôi thấy em có sự tiến bộ trong học tập và không còn đi bỏ học đi
chơi điện tở nữa và tôi đã tìm cách khen ngợi những tiến bộ đó của em.
Hay trường hợp của em Thống gia đình em kinh tế tương đối khá giả, song bố

mẹ mải đi làm từ sáng đến tối mới về nên không có ai kèm cặp sát sao đến việc
học hàng ngày của em, bố mẹ em thường xuyên cho em tiền nên sẵn có tiền mà
em thường xuyên ăn quà, chơi điện tử, đến lớp bài tập không làm,…. Với em
Thống tôi dùng biện pháp khác tôi theo dõi em nhiều hơn, hễ em có vi phạm gì
là tôi biết ngay và mỗi lần trao đổi với em tôi đều đưa ra những chi tiết rất chính
xác, ví dụ chiều nay em bỏ học tiết 2, 3 đi chơi điện tử ở quán.... với em..., sáng
thứ ba em xin nghỉ học với lý do đau bụng nhưng cô biết em chơi điện tử với
7


ban...lớp ....Tất cả việc làm của em cô đều biết, em biết vì sao cô biết nhiều về
em như vậy không? em biết vì sao cô quan tâm tới em nhiều không? Bố, mẹ
bận bịu công việc cốt tạo sự nghiệp và cũng là tạo điều kiện để em ăn học, lo
cho tương lai của em, nhiều bạn gia đình vất vả mà các bạn vẫn cố gắng học tốt
như bạn Đạt, bạn Huyền,... còn em có điều kiện tốt mà không lo học tập. Chơi
bời với các bạn thời gian rồi sẽ chán, em có thể chơi cả đời được không? nếu
bây giờ không lo học thì sau này em có thể làm được gì? rồi bố mẹ em sẽ ra
sao? có xấu hổ với mọi người vì đã có một đứa con như em không? Dần dần học
sinh Thống thấy được cái sai của mình và cũng đã sửa đổi.
Hoàn cảnh gia đình em Nguyễn Đình Phúc mẹ đi làm xa, bố công việc không ổn
đinh nên rượu chè say khướt suốt. Khi em mắc lỗi không rõ nguyên nhân thế
nào là bố em đã cho em những trận đòn đau và những câu chửi thô tục. Có lẽ vì
thiếu sự quan tâm đúng mức của gia đình nên việc học của em ngày càng sa sút,
chá nản. Không hiểu bài dẫn đến ngại học, đồng thời ảnh hưởng thói xấu của bố
em thường hay nói tục với bạn bè.
Sau nhiều lần gặp gia đình tôi cũng đã phân tích điều hay lẽ phải và tác
dụng của việc giáo dục học sinh trong gia đình thì bố mẹ em đã nhận ra điều
chưa làm được của chính mình. Từ đó trước mặt em Phúc bố em không còn nói
tục và đã quan tâm đến việc học tập của em nhiều hơn.
Đồng thời trong các giờ dạy tôi giành thời gian quan tâm đến em nhiều

hơn nhất là qua các giờ luyện tập nhằm giúp em củng cố và nắm vững kiến thức
trọng tâm bài học và em đã có tiến bộ rõ rệt. Đối với em là học sinh cá biệt, khi
em có một việc làm tốt là tôi tuyên dương trước lớp ngay.
Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt, để giáo dục đạo đức cho học
sinh khi cần thiết chúng ta vẫn có thể dùng phương pháp trách phạt.
Trách phạt là phương pháp tác động đến nhân cách học sinh biểu hiện thái
độ không tán thành của thấy cô giáo, buộc học sinh từ bỏ hành vi có hại cho bản
thân, cho lớp , trường và điều chỉnh sự ứng xử cho đúng mực. Tuỳ theo hành vi
và việc làm sai trái mà ta có hình thức trách phạt khác nhau: nhận xét của giáo
viên, phê bình trước tổ, trước lớp, phê vào sổ liên lạc….Sau khi trách phạt giáo
viên và tập thể lớp phải theo dõi giúp đỡ học sinh sửa chữa khuyết điểm.
Đối với trường hợp emTrần văn Thống, Nguyễn Đình Phúc – các em đều là
con một trong một gia đình khá giả. Sống trong cuộc sống đủ đầy nhưng có lẽ
do công việc nên bố mẹ không có điều kiện sát sao hơn trong học tập của con.
Mỗi lần các em muốn được đi đâu đó với bố mẹ nhưng đều không có điều kiện.
Do chưa có ý thức tự chủ, lại chán cảnh sống như vậy nên các em rủ nhau tụ tập
tìm ra những trò chơi mới. Từ chỗ ham chơi đến chán học. Các em cho việc đến
trường chỉ là hình thức đối phó với cha mẹ nên việc phi phạm nội quy, quy định
của trường lớp là việc thường xuyên.
Sau khi tìm hiểu nguyên nhân tôi đã phân tích phải trái các em vẫn chưa
nhận ra lỗi lầm của mình. Tôi cố gắng gặp trực tiếp gia đình để nói rõ khuyết
điểm của các em. Kết hợp giữa gia đình và giáo viên, giáo viên bộ môn để tìm ra

8


hướng giáo dục. Đề nghị gia đình thường xuyên quan tâm, kiểm tra việc học tập,
sinh hoạt của các em….
Cho các em viết bản kiểm điểm có cam kết của gia đình, nếu tái phạm sẽ
không xử lý trong phạm vi lớp mà đề nghị cảnh cáo toàn trường.

Bốn tuần sau tôi thấy các em có chuyển biến rõ rệt. Và cho đến nay sắp hết năm
học các em đã cố gắng sửa chữa để phấn đấu trở thành thành viên tốt trong lớp.
2.2. Xây dựng tập thể học sinh tốt:
Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội của
các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần thiết
hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường có biểu
hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng học sinh cá
biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần lớn các em
đều trả lời một câu chung nhất( không biết), đối với những em có quan hệ gần
gũi với HS cá biệt, cũng có thể các em ngại không dám nói ra sự thật vì sợ sự đe
doạ của các bạn... Nhưng phải nói rằng tất cả những suy nghĩ, những việc làm
của các em cá biệt thì chính các em học sinh cùng lớp, cùng khối là biết rõ nhất.
Về vấn đề này GVCN cần khéo léo trong cách điều tra, có thể là điều tra
bằng cách giao nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự lớp hoặc một đối
tượng HS đáng tin cậy nhất nào đó và sẽ trao đổi với các em bằng cách bảo mật
thông tin. Thường thì những em này sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn tin chính
xác nhất.
Sau khi nắm được thông tin, phân tích tình hình, tôi hướng dẫn các em
gần gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo cho những em cá
biệt có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan hệ bạn bè các em sẽ bộc lộ
rõ cá tính không e ngại. Tôi thường xuyên giữ mối quan hệ với các em này tìm
hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục HS cá biệt để tháo gở khó khăn cho
các em, thường xuyên cung cấp biện pháp xử lý kịp thời những biến động của
các đối tượng và động viên các em, tạo cho các em có niềm tin thuyết phục, giúp
đỡ học sinh cá biệt tiến bộ.
Từ việc theo dõi trên GVCN có biện pháp phát huy sở trường của từng em lấy đó
làm đòn bẩy để tiến hành ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực khác nảy sinh ở các em.
2.3. Phẩm chất của giáo viên:
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt đòi hỏi
cao ở người thầy, cô giáo về mặt uy tín, về thái độ nhiêt tình, về tính kiên trì,

lòng độ lượng bao dung thầy cô phải làm tấm gương cho học sinh noi theo. Đối
với học sinh, bản thân các em là ngọn đuốc và người thầy chính là người thắp
sáng cho những ngọn đuốc đó bùng cháy. Nói như vậy có nghĩa là sự lớn lên
về tình cảm của học sinh một phần tuỳ thuộc sâu sắc vào tấm lòng, tâm hồn và
lẽ sống của thầy.
Thầy phải để lại ấn tượng tốt đẹp cho học sinh, tạo bầu không khí thoải
mái, học sinh mong muốn được tiếp xúc tâm sự, giải bày những băn khoăn của
mình; học sinh có niềm tin vững chắc vào lời dạy bảo của thầy cô và cảm nhận

9


thấy sự tiến bộ trong học tập, trong quan hệ với mọi người sau mỗi lần tiếp xúc
với thầy cô.
2.4. Kết hợp với phụ huynh học sinh:
GVCN gặp gỡ riêng phụ huynh của học sinh cá biệt bằng cách gặp riêng
sau các buổi họp phụ huynh chung hoặc giáo viên trực tiếp gặp gỡ, thăm hỏi gia
đình để tránh sự mặc cảm của phụ huynh học sinh cá biệt. Thường học sinh cá
biệt thì lại có phụ huynh cá biệt ; một là không quan tâm đến việc học của con
em, hoặc không dám đối diện với sự thật về những sai phạm của con
mình...thường những phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp chung kể cả
những lúc có giấy mời riêng cũng không đến. Đối với đối tượng này GVCN cần
nhiệt tình hơn, có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia
đình và nắm được tình hình của các em ở nhà, thường những đối tượng này họ
ngại nói những điều sai của con em họ vì thế tôi tổng hợp những điểm tốt mà
các em có được dù đó chỉ là một việc không đáng kể để khen ngợi các em, sau
đó tôi lồng một vài khuyết điểm của các em; tránh nêu hoàn toàn hoặc một loạt
khuyết điểm thì phụ huynh sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh sự tiêu cực, buông
xuôi, ngại nói ra những điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi. GVCN có thể trao đổi
qua sổ liên lạc điện tử hoặc số liên lạc. tránh trường hợp các em giả mạo việc

nhận xét vào sổ, đầu năm tôi yêu cầu phụ huynh ghi đầy đủ thông tin và ký tên
vào sổ, nộp cho GVCN, hằng tuần có việc cần thiết liên hệ với phụ huynh,
GVCN sẽ ghi vào sổ để các em đem về trình với phụ huynh vào ngày thứ bảy và
nộp lại cho GVCN vào thứ hai. Cách làm này cũng có thể thường xuyên trao đổi
với phụ huynh và kịp thời giáo dục, chấn chỉnh những sai phạm của các em.
2.5. Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn:
Như phần trình bày nguyên nhân trên, một phần biểu hiện cá biệt của các
em là do quan hệ giữa giáo viên và học sinh chưa tốt, có em có những phản
kháng đối với những hành động quá đáng của một vài giáo viên. ví dụ như có
GV dùng những lời quá nặng nề trong việc nhận xét HS không thuộc bài cũ,
không hiểu được bài hay có những biểu hiện áp đặt, thiếu công bằng , hoặc là
chê nhiều hơn khen,... Để xác định chính xác cá biệt của HS từ nguyên nhân này
hay không, tôi trao đổi với tất cả giáo viên dạy bộ môn của lớp để có biện pháp
giáo dục thích hợp và cũng từ đó tôi có thể góp ý ngay với GV bộ môn trong
việc cần phải tôn trọng và công bằng trong đối xử với HS .
Cũng có thể do tính cách cá biệt của các em, ở mỗi môn học em có một biểu
hiện cá biệt khác nhau, tôi tổng hợp các ý kiến để xác định nguyên nhân cơ bản.
Từ việc trao đổi trên tôi tìm ra những ưu điểm của các em để động viên
đồng thời lồng dần dần một số khuyết điểm của các em.
Ví dụ: Em Vũ Đình Đạt là một học sinh cá biệt của lớp tôi chủ nhiệm
năm học 2016- 2017
Các môn học thuộc lĩnh vực tự nhiên em học rất tốt, nhưng các môn đòi
hỏi học thuộc thì em học rất yếu, thậm chí môn Tiếng Anh em đạt điểm kém.
Em luôn đem đến sự phiền tóai cho lớp như thường xuyên nói chuyện trong giờ
học, nói leo, nói dối đau bụng để đi chơi, không ghi bài khi cô giáo nhắc nhở em
10


tỏ thái độ chống đối. Đối với đối tượng này tôi theo dõi thật sát đồng thời cứ
mỗi lần không thuộc bài tôi cho em viết một bản kiểm điểm, cam kết với giáo

viên bộ môn và cam kết với lớp. Sau đó tôi trao đổi với giáo viên bộ môn về
tính cách cá biệt của em đồng thời mong muốn có sự kết hợp giáo dục bằng
cách thường xuyên kiểm tra bài em, nhất là trong tiết học luôn gọi em phát biểu
trước lớp ưu tiên chọn những câu hỏi tương đối dễ để em trả lời được và thường
xuyên khen để khích lệ em, nên bỏ qua lỗi nhỏ của em.
Với biện pháp trên qua một học kỳ em Đạt đã tiến bộ rõ rệt cuối năm học
em đã đạt được danh hiệu học sinh tiên tiến .
2.6. Phối kết hợp giữa tập thể thầy, cô giáo, gia đình, địa phương, hội phụ
huynh…
Giáo viên chủ nhiệm nếu chỉ qua một số tiết trên lớp không thể nắm bắt
hết tình hình một cách chính xác. Vì vậy phải có sự phối hợp đồng bộ với các
lực lượng khác.
Bản thân tôi thường xuyên trao đổi với các thầy cô giáo bộ môn để nắm
tình hình của các em, có ý kiến đề nghị các thầy cô cùng phối hợp. Thường
xuyên đấu mối với địa phương, gia đình để nắm tình hình các em ngoài giờ học
ở trường. Kết hợp bàn bạc để tìm cách quản lý chặt chẽ việc học cũng như giúp
các em tìm thấy niềm vui trong học tập.
2.7. Xây dựng quy định thi đua riêng của lớp căn cứ vào nội quy, quy
định của trường.
- Lập bảng theo dõi học tập và nề nếp để tiện việc xếp điểm thi đua.
Ví dụ:
Nề nếp

Học tập

- Đi học muộn: trừ 1 điểm/ lần.
-Nghỉ học vô lý do: trừ 1 điểm/lần.
- Mất trật tự trong giờ học: trừ 0,5
điểm/lần.
- Không tham gia sinh hoạt tập thể:

trừ 2 điểm/lần.
- Ăn quà gây mất vệ sinh trường lớp
: trừ 1 điểm /lần.

- Không thuộc bài : trừ 1 điểm/lần
- Làm đủ bài tập: cộng 1 điểm/ tiết
- Tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài:
cộng 0,5 điểm/lần
- Lên bảng thuộc bài đạt điểm khá, giỏi:
cộng 2 điểm/lần.

Cuối cùng tổng cộng để xếp thi đua:
- Từ 10 điểm trở lên xếp hạnh kiểm tốt.
- Từ 8 điểm đến 9,5 xếp hạnh kiểm khá.
- Từ 6 điểm đến 8 điểm xếp hạnh kiểm trung bình.
- Dưới 6 điểm xếp hạnh kiểm yếu.
- Lập sổ thi đua cá nhân giao cho từng thành viên học sinh tự theo dõi.
Nề nếp, lớp trưởng và tổ trưởng phụ trách.
Học tập, giao cho lớp phó học tập phụ trách.
11


Cuối cùng cá nhân thành viên trong tổ tự cộng điểm, tổ trưởng chỉ việc so
sánh đối chiếu, xếp loại thi đua của mỗi thành viên trước tập thể lớp mà không
cần giải thích và không bị trách móc. Từ khi thực hiện đến giờ chưa xảy ra vấn
đề gì lớn.
- Thứ bảy hàng tuần giáo viên căn cứ sự theo dõi của lớp và bản thân để ghi
sổ liên lạc gửi về gia đình, thứ 2 thu sổ để nghe ý kiến phản hồi của gia đình.
Với việc làm trên không những chính xác về điểm mà còn rèn luyện tính
chính xác của học sinh nhất là những học sinh chậm tiến. Em nào cũng muốn

phấn đấu để cuối tuần có tổng điểm cao,
Cùng với thi đua cá nhân tôi còn đề ra nội quy lớp, thành lập nhóm học tập.
Mỗi nhóm 3 đến 4 em học tốt, ngoan ngoãn gương mẫu giúp đỡ một bạn cá biệt
để bạn có phương pháp học tập, chỉ bảo, giúp đỡ bạn những điều bạn chưa hiểu,
sửa cho bạn cách nói năng đúng mực.
Sau một thời gian, các nhóm học tập này làm việc rất tốt và có hiệu quả
cao. Chính phụ huynh các em học sinh cá biệt đã đến lớp cảm ơn các thành viên
trong nhóm đã giúp đỡ con em họ có niềm tin trong học tập.
Bên cạnh đó tôi còn đề nghị giáo viên tổng phụ trách đội cùng giáo dục các
em, tổ chức các buổi ngoại khoá, nêu gương tốt của các đội viên ngay trong
trường và ngoài trường để các em cùng học tập phấn đấu.
VI. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.

Qua sự cố gắng nỗ lực của bản thân, nhiều năm qua trong công tác chủ
nhiệm tôi luôn vận dụng linh hoạt các biện pháp trên và cũng đã thu được kết
quả rất khả quan :
- Các lớp được tôi chủ nhiệm các em đều tham gia tốt các hoạt động của
trường và luôn được đánh giá cao, nhiều năm lớp đạt danh hiệu xuất săc và bản
thân tôi được hội đồng thi đua nhà trường công nhận là giáo viên chủ nhiệm giỏi
- Không có hiện tượng HS phải đưa ra hội đồng kỷ luật nhà trường.
- Quan hệ thầy trò, bạn bè ngày càng được thắt chặt.
- Uy tín nhà giáo được nâng cao, tạo được niềm tin trong phụ huynh học sinh.
Trong năm học: 2017-2018 này, đầu năm khi nhận lớp chủ nhiệm, lớp tôi
có nhiều em trong đối tượng học sinh cá biệt, lớp tôi là một lớp có phong trào
học tập yếu, có 2 em thi lên lớp và 1 em ở lại lớp.
Qua áp dụng các biện pháp giáo dục trên, học kỳ I vừa qua lớp tôi đã có
những tiến bộ có thể thống kê trên số học sinh 23 em như sau:
Hạnh kiểm
Học lực
Ghi chú

Tốt Khá TB Yếu Gioỉ Khá TB Yêú
KS ĐN
có 2 em thi lên
22
4
4
1
11
13
5 lớp và 1 em ở lại
lớp
Cuối HKI 26
2
2
3
15
11
1

12


Qua quá trình thực hiện tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
Muốn giáo dục tốt các đối tượng HS cá biệt giáo viên chủ nhiệm cần phải:
- Lấy tình yêu thương của mình để cảm hoá các em. Phải thực sự yêu
thương các em, xem các em như là con là em của mình. Khi các em có thiện
cảm với mình, tôn trọng và tin tưởng ở mình thì lúc đó mình giáo dục các em rất
dễ. “ Tình yêu thương và tinh thần trách nhiệm ” luôn luôn là phương châm sống
và làm việc của nhà giáo chúng ta.
- Điều tra nắm rõ nguyên nhân của các hiện tượng cá biệt.

- Nắm rõ tâm lý của từng đối tượng để đề ra biện pháp thích hợp.
- Khi tiến hành các biện pháp giáo dục cần tránh việc nêu tất cả những
khuyết điểm ra cùng một lúc hay non nóng muốn giải quyết được tất cả những
sai phạm của các em cùng một lúc mà nên phân thời gian và chọn ra những sai
phạm mang tính cấp bách hay cơ bản thì giải quyết trước.
- Không yêu cầu quá cao , nên có sự thông cảm chia xẻ với các em.
- Luôn tạo mối quan hệ gần gũi, cảm hoá các em.
- GVCN cần biết kết hợp được nhiều tác nhân phối hợp giáo dục.
C. KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ:
Từ những việc làm trên qua một thời gian thực hiện tôi thấy các em đã có
tiến bộ rõ rệt. Em Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Đình Phúc đã có ý thức trong
học tập. Em Trần Văn Thống không còn bỏ học vô lý do, không vi phạm nội quy
của trường, lớp .
Trong lớp các em đoàn kết, lễ phép với mọi người và đến cuối tháng 3 khi
xếp loại hạnh kiểm lớp tôi không còn học sinh nào xếp hạnh kiểm loại trung
bình nữa.
Đến nay lớp 11B do tôi chủ nhiệm là một trong những lớp có nề nếp tương
đối tốt. Thường xuyên được nhà trường tuyên dương là lớp có tinh thần học tập
tốt. Chất lượng học tập của lớp dần được nâng lên. Từ đó, học sinh cá biệt cũng
thấy rõ sự tiến bộ của mình góp phần vào sự tến bộ chung của cả lớp. Các em
đang rất phấn khởi thi đua học tốt để hướng tới kỳ thi cuối năm.
II. KIẾN NGHỊ:
Trong qúa trình thực hiện để có được kết quả như trên tôi rút ra một số ý
kiến sau:
1. Người thầy phải, người cha, mẹ , người lớn tuổi phải là tấm gương sáng
cho các em noi theo.
Hết lòng thương yêu và tôn trọng các em, biết tìm ra nguyên nhân và phán
xét một cách khách quan để các em có cơ hội tiến bộ.
2. Người thầy phải có sự kiên trì trong giáo dục. Việc đã đề ra phải có sự đánh

giá, khen chê đúng mực, khách quan để các em có lòng tin và ý thức vươn lên.
3. Người thầy nên đề ra các chủ đề thi đua, phương hướng thi đua để rồi cùng
nhau thực hiện.

13


4. Gia đình cần thấy rõ vai trò và nghĩa vụ của họ đối với sự chăm sóc giáo
dục con em.
5. Luôn có sự phối kết hợp đồng bộ giữa nhà trường, gia đình, địa phương….
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân để giáo dục học sinh cá
biệt. Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định song không thể tránh khỏi những
thiếu sót và những biện pháp tối ưu.
Tôi rất mong được sự quan tâm giúp đỡ, ý kiến đóng góp của Hội đồng
khoa học nhà trường bổ sung thiếu sót để kinh nghiệm này đạt kết quả cao hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

Nga sơn, ngày 15 tháng 5 năm 2018.
Người thực hiện:

Phạm Thị Nga

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo dục thời đại
- Báo thiếu niên tiền phong
- Báo hoa học trò

- Báo dân trí
- Tài liệu từ internet
- Modul THCS 3: Bồi dưỡng thường xuyên

15



×