Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Sử dụng hệ thống câu hỏi liên hệ phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh khi giảng dạy một số bài trong chư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.22 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU………………………………………………………………. 2
`1. Lí do chọn đề tài………………………………………………... …...2
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………….. 5
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………..5
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………5
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………5
2. Thực trạng vấn đề………………………………………. …………7
3. Giải pháp để tiến hành giải quyết vấn đề…………………………..8
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối………………………… 13
III. KẾT LUẬN ĐỀ XUẤT
1. Kết luận…………………………………………………………….. 15
2. Kiến nghị ………………………………………………..…………..16

1


I. MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài .
Như chúng ta đã biết những năm gần đây chất lượng dạy Sử và học Sử đang thu
hút sự quan tâm, chú ý của tồn xã hội. Trong bối cảnh đó với nhiệm vụ là một giáo
viên giảng dạy môn Lịch sử luôn trăn trở về việc dạy của mình, làm sao để nâng
cao chất lượng dạy học Lịch sử, làm sao để các em học sinh u thích mơn học này
trong bối cảnh mà những đòi hỏi của nghề nghiệp trong tương lai khiến rất nhiều
học sinh khơng cịn mặn mà, tâm huyết với khối C nói chung và đặc biệt là mơn
Lịch sử nói chung.
Cũng như các mơn học khác, mơn Lịch sử có nhiệm vụ và khả năng góp phần
vào việc thể hiện mục tiêu đào tạo của trường phổ thơng nói chung. Bộ mơn Lịch sử
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học Lịch sử, nên địi hỏi học


sinh khơng chỉ nhớ mà cịn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn
cuộc sống. Cho nên, cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát
triển tư duy, thơng minh, sáng tạo cho học sinh.
Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo
khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng Lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động
não, khơng có bài tập thực hành… Đây là một trong những nguyên nhân làm suy
giảm chất lượng môn học.
Người giáo viên trong dạy học Lịch sử đa số chỉ làm nhiệm vụ nói lại nội dung
sách giáo khoa. Như vậy, bài giảng không thể gây hứng thú cho học sinh học tập,
gây nhàm chán trong tâm lý dạy - học của cả giáo viên lẫn học sinh.
Đa số học sinh coi bộ môn Lịch sử là mơn phụ vì vậy, các em ít chú ý nghe giảng.
Các em ghi chép những gì giáo viên ghi trên bảng và chỉ học thuộc lịng những gì đã
được ghi trong vở, không biết kết hợp với sách giáo khoa và khơng biết tìm hiểu
mối liên quan giữa Lịch sử với các môn học khác... Các em lười suy nghĩ, khơng
biết phân tích vấn đề, hay nhớ nhầm lẫn giữa nội dung này với nội dung khác,
không biết nêu vấn đề để thảo luận và tìm hiểu.
Vị trí mơn Lịch sử trong trường phổ thông chưa thật sự được coi trọng, cả giáo
viên và học sinh đều có sự nhìn nhận chưa đúng về môn học. Thái độ học môn Lịch
2


sử của các em học sinh cịn mang tính chất đối phó với các kì thi, kiểm tra, ghi nhớ
kiến thức, sự kiện lịch sử một cách máy móc, học vẹt, không hiểu sâu sa bản chất
vấn đề.
Vậy trước thực trạng trên, nguyên nhân tại đâu? Có thể nói rằng, có nhiều ngun
nhân dẫn đến tình trạng trên. Song cần phải kể đến một số nguyên nhân rất quan
trọng như:
+ Nội dung kiến thức quá nhiều trong khi thời lượng ít làm cho cả thầy và trò phải
chạy theo thời gian để học hết chương trình. Quá nhiều các sự kiện học sinh phải
nhớ. Điều này khiến các em “sợ” học mơn Sử.

+ Phương pháp dạy học chưa có sự đổi mới thật sự. Trong giờ học, người giáo viên
giữ vai trị chủ đạo, vẫn học theo lối cũ, có nghĩa là:
Khi tiến hành bài học, giáo viên đọc cho học sinh chép đề cương của bài giảng,
giáo viên tự sưu tầm tài liệu lịch sử và thơng báo trình bày cho các em trong giờ
học. Các sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử… không được trình
bày một cách cụ thể, sinh động, gợi cảm. Học sinh không làm việc trực tiếp với sử
liệu. Người giáo viên, không tận dụng được khả năng tạo ra sự xúc động, sự rung
cảm của học sinh trước các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Do đó, tác dụng giáo dục bộ
mơn bị hạn chế. Người học cịn bị thụ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
+ Quan niệm coi mơn Sử là mơn phụ vẫn cịn tồn tại phổ biến trong nhà trường,
học sinh, phụ huynh học sinh và cả xã hội. Điều này đã tạo ra một sự bất bình đẳng
giữa mơn Sử với các mơn học khác trong nhà trường. Trong khi đó, các mơn học
đều có nhiệm vụ trong việc góp phần giáo dục thế hệ trẻ theo nội dung, sở trường và
ưu thế của bộ mơn mình.
Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa ở trường THPT đã đặt ra một yêu cầu
cấp bách đối với giáo viên giảng dạy môn Lịch sử. Yêu cầu đặt ra đối với việc đổi
mới Phương pháp dạy học Lịch sử ở Trường trung học phổ thông cần đạt là phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập. Và một trong
những biện pháp quan trọng để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong
quá trình học tập là sử dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học Lịch sử.

3


Song việc đặt câu hỏi của giáo viên là một vấn đề khơng hề đơn giản, vì việc đặt
câu hỏi của giáo viên vừa thể hiện kiến thức, vừa là kinh nghiệm giảng dạy, vừa là
nghệ thuật.
Qua thực tế giảng dạy những năm trước đây và dự giờ một số đồng nghiệp trong
nhà trường, tôi nhận thấy hệ thống câu hỏi mà giáo viên đặt ra chủ yếu là những
kiến thức đã có sẳn trong sách giáo khoa và nhiệm vụ của các em là nhìn vào sách

giáo khoa để trả lời, không cần suy nghĩ, tư duy, không đặt học sinh vào tình huống
có vấn đề. Hệ thống câu hỏi mà giáo viên đặt ra chủ yếu là những kiến thức đã có
sẳn trong sách giáo khoa và nhiệm vụ của các em là nhìn vào sách giáo khoa để trả
lời, không cần suy nghĩ và vạy kết quả là không thu hút được sự chú ý quan tâm của
học sinh hay nói cách khác là khơng đặt học sinh vào tình huống có vấn đề cần suy
nghĩ vì vạy không phát triển được tư duy sáng tạo của học sinh, không thực hiện
được nhiệm vụ quan trọng của bộ môn là giúp học sinh là liên hệ những kiến thức
đã học đề vận dụng vào thực tiễn.
Thực tế trên đặt ra câu hỏi làm như thế nào để phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh trong dạy học Lịch sử ? Đây là vấn đề cần sự chung tay của ngành
khoa học Lịch sử, những nhà viết sách, các nhà quản lí giáo dục và sự nỗ lực,
nghiên cứu, tìm tịi sáng tạo khơng ngừng của những giáo viên trực tiếp giảng dạy
bộ môn Lịch sử ở nhà trường phổ thông.
Từ thực tế giảng dạy trong những năm gần đây, là một giáo viên giảng dạy bộ
môn Lịch sử ở nhà trường tôi thấy rõ chất lượng dạy – học bộ môn Lịch sử ở nhà
trường đang có những dấu hiệu đi xuống, mà nguyên nhân là định hướng nghề
nghiệp, những đòi hỏi của xã hội về nhu cầu việc làm trong tương lai khiến khiến
nhiều học sinh có xu hướng “bng” bộ mơn này, nhưng một nguyên nhân nữa và
cũng rất quan trọng đó là từ phía giáo viên, trong bối cảnh mà đa số học sinh ngại
học Lịch sử vì cho rằng lịch sử khô khan, nhàm chán và không thực tế đối với việc
lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai thì những tiết giảng kém thuyết phục, nặng về
đọc chép, không phát huy được tính sáng tạo của học sinh lại càng đẩy xa hơn học
sinh đối với bộ môn Lịch sử. Tôi quan niệm có thể sự phát triển của xã hội, nhu cầu
về nguồn nhân lực trong tương lai khiến nhiều học sinh khơng cịn mặn mà với
4


môn Lịch sử song trách nhiệm của người giáo viên khi lên lớp phải luôn tạo ra sức
thuyết phục đối với bộ môn, khơi dạy niềm đam mê lịch sử của học sinh vì trong bất
kỳ hồn cảnh nào, thời kỳ nào thì bộ mơn Lịch sử ở nhà trường phổ thơng cũng hết

sức quan trọng, đó là động lực để tơi khơng ngừng nỗ lực nghiên cứu tìm ra những
những hướng đi mới nhằm khơi dạy niềm đam mê học sử của học sinh và một trong
những giải pháp đó là việc sử dụng hệ thống câu hỏi phát huy tính chủ động, sáng
tạo của học sinh và tơi đã chọn đề tài “ Sử dụng hệ thống câu hỏi liên hệ phát huy
tính tích cực và chủ động cho học sinh khi giảng dạy một số bài trong chương
trình Lịch sử 11”.
2. Mục đích nghiên cứu .
Mục đích của đề tài nhằm đưa ra một số giải pháp thực hiện việc xây dựng hệ
thống câu hỏi trong dạy học lịch sử để phát huy tính tích cực, chủ động trong học
tập của học sinh, nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn Lịch sử.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 11 trường THPT Nga Sơn.
4. Phương pháp nghiên cứu .
Để thực hiện tốt đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu hổ trợ.
- Phương pháp phát vấn, nêu vấn đề
- Phương pháp nghiên cứu bài học lấy học sinh làm trung tâm.
- Thao giảng, dự giờ trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình dạy.
- Áp dụng kinh nghiệm phương pháp mới trên lớp.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh và làm bài để từ đó có điều chỉnh và bổ sung.
5. Những điểm mới của sáng kiến
Sáng kiến áp dụng phương pháp nghiên cứu bài học theo tình thần đổi mới của
Bộ Giáo dục và Đào tạo
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Bản thân lịch sử xã hội lồi người và bộ mơn Lịch Sử có nhiều ưu thế trong việc
giáo dục thế hệ trẻ và gây cho họ một sự hứng thú thật sự. Bởi vì qua mơn học này

5



tầm nhìn của họ đối với cuộc sống quá khứ - hiện tại - tương lai được mở rộng hơn,
họ tìm thấy trong quá khứ nhiều câu trả lời xác đáng cho hơm nay và ngày mai.
Chính vì vậy mà .G.Tsecnưsepxki nhà tư tưởng dân chủ Nga thế kỷ XIX đã nói
rằng: “Có thể khơng biết khơng say mê học tập môn Toán...có thể không biết hàng
nghìn môn khoa học khác nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà không yêu
thích lịch sử thì chỉ có thể là một con người không phát triển đầy đủ về trí tuệ”[1].
Như vậy giáo dục Lịch sử nói chung dạy Lịch Sử ở trường nói riêng ta phải làm
thế nào để phát triển tư duy gây hứng thú học tập cho học sinh, vậy trước hết gợi
cho học sinh phải phát hiện vấn đề cần tìm hiểu, hay nói một cách khác “Đặt học
sinh vào tình huống có vấn đề ”. Khơng thấy vấn đề khơng giải quyết vấn đề, vì việc
học tập là một hình thức của việc nhận thức khoa học, là một chuỗi các vấn đề được
đặt ra và được nhận thức ở mức độ cao hơn.
Có nhiều hình thức để tạo tình huống có vấn đề và giải quyết vấn đề như so sánh,
phân tích, đặt câu hỏi sử dụng các loại tư liệu tham khảo, đồ dùng trực quan, công
nghệ thông tin…
Một điểm quan trọng mà từ kinh nghiệm thực tiễn của giáo viên ở trường, dạy
như một công thức giáo điều rập khuôn, nếu sử dụng câu hỏi thì câu hỏi đặt ra quá
đơn giản, chỉ địi hỏi học sinh trả lời có hoặc khơng. Điều này khơng giúp ích gì
trong việc tạo hứng thú cho học sinh.
Trái lại câu hỏi q khó khơng vừa sức thì dễ làm các em nản chí, chính vì vậy
câu hỏi phải vừa đóng vừa mở. Vì vậy việc đặt câu hỏi có vai trị rất quan trọng
trong giờ dạy học Lịch Sử nói riêng và các mơn học khác nói chung sẽ phát huy
được tính tích cực và gây hứng thú đối với học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Ở trường THPT Nga Sơn, đa số học sinh còn chưa say mê mơn học Lịch Sử. Nếu
học thì các em chỉ học đối phó nhưng sự say mê và hứng thú, các em học Lịch sử để
lấy điểm tổng kết cuối năm chứ không phục vụ mục tiêu thi tuyển vào các trường
đại học, cao đẳng vì cho rằng học sử thiên về lí thuyết, khó thuộc và với thực tế trên
đa phần các em quên đi nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử không chỉ đơn thuần là

[1] được trích dẫn từ câu nói của G.Tsecnưsepxki nhà tư tưởng dân chủ Nga thế kỷ XIX.

6


học để thi mà còn để hiểu biết về lịch sử dân tộc và nhân loại, để bồi dưỡng lòng
tự hào dân tộc … rồi liên hệ và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống hiện nay. Đa số
các em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời câu hỏi mà phải lệ thuộc hoàn toàn vào sách
giáo khoa, hay chỉ nêu một mốc thời gian mà không diễn tả được thời gian đó nói
lên sự kiện gì. Bởi vậy bản thân các em nên có một phương pháp học như thế nào để
chiếm lĩnh kiến thức từ bài giảng của giáo viên.
Mặt khác giáo viên ở trường chưa tuân thủ tính logic của bộ mơn, chưa cải tiến
nội dung và phương pháp dạy học, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Từ đó dẫn đến học sinh nhàm chán, học một cách thụ động, dẫn đến chất lượng một
số lớp còn thấp, tỉ lệ học sinh yếu, kém cịn nhiều.
Để khắc phục trình trạng trên và nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường,
bản thân tơi đã nỗ lực tìm tịi, nghiên cứu đưa ra các phương pháp học tập tích cực
và mang lại sự hứng thú cho học sinh và tôi đã chọn đề tài: “ Sử dụng hệ thống câu
hỏi liên hệ, phát huy tính tích cực và chủ động cho học sinh trong giảng dạy
một số bài trong chương trình Lịch sử 11”.
3. Các sáng kiến kinh nghiệm đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Việc đặt câu hỏi trong dạy học Lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng
để phát triển tư duy học sinh. Song sử dụng câu hỏi và hệ thống câu hỏi như thế nào
để phát huy tính tích cực của học sinh là một vấn đề khó và phức tạp. Để thực hiện
tốt vấn đề trên, trước hết giáo viên phải thực hiện tốt khâu soạn giáo án.
Trước đây chúng ta xác định mục đích, yêu cầu của bài học là “Làm cho học sinh
nắm được hoặc hiểu được ..” có nghĩa là trong giờ dạy, giáo viên là trung tâm, học
sinh thụ động tiếp thu kiến thức, nhận thông tin từ người thầy. Nhưng từ khi đổi mới
chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy, khâu soạn giảng cũng
có nhiều thay đổi, mục tiêu bài học có 3 mức dộ: biết, hiểu, vận dụng. Như vậy,

chúng ta đã chuyển hoạt động của giáo viên sang hoạt động của học sinh là chính,
học sinh xây dựng kiến thức cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên thông qua
hệ thống câu hỏi. Học sinh khơng chỉ nắm kiến thức mà cịn nắm phương pháp để
hiểu và vận dụng kiến thức.

7


Để đạt mục đích trên, địi hỏi giáo viên phải đầu tư cho bài soạn, đặt biệt là việc
xây dựng hệ thống câu hỏi của bài dạy. Sử dụng câu hỏi trong dạy học Lịch sử để
phát huy tính tích cưc học tập của học sinh có thể thực hiện ở tất cả các bước trong
giờ dạy Lịch sử.
Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng là một trong
những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy học sinh. Vì vậy, khi
tổ chức dạy học, giáo viên có thể sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau như câu hỏi
nêu vấn đề, câu hỏi xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng
lịch sử, câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này với sự kiện
hiện tượng lịch sử khác cùng loại, câu hỏi liên hệ thực tiễn… Tuy nhiên trong khuôn
khổ của đề tài này người nghiên cứu chỉ giới hạn nghiên cứu dạng câu hỏi mang
tính liên hệ thực tiễn trong chương trình Lịch sử 11.
Để sử dụng câu hỏi mang tính liên hệ tơi đã quan tâm một số vấn đề sau:
+ Câu hỏi phải đảm bảo tính khoa học, tính liên hệ phải rõ ràng truyền tải mục
đích cụ thể.
+ Câu hỏi liên hệ phải sáng tạo, hấp dẫn, khơi dạy trí tị mị, thích khám phá của
học sinh, đặt học sinh vào hồn cảnh có vấn đề, buộc các em phải tư duy.
+ Lượng kiến thức trong bài học Lịch sử là rất nhiều và trong một bài học giáo
viên cần đưa ra rất nhiều dạng câu hỏi ở các cấp độ khác nhau và dưới nhiều dạng
câu hỏi khác nhau vì vậy việc sử dụng câu hỏi mang tính liên hệ tới lịch sử dân tộc
hay liên hệ thực tiễn bản thân giáo viên cũng cần phải lựa chọn một cách kỹ lưỡng,
không nên trong một bài học đưa ra quá nhiều câu hỏi dàn trải, lan man khơng có

mục đích rõ ràng và sử dụng câu hỏi trong thời điểm nào cho thực sự hợp lý, đảm
bảo tính Logic của bài học nhằm phát huy hiệu quả tối đa.
+ Do những câu hỏi dạng liên hệ thực tiễn khơng có hướng dẫn trả lời trong sách
giáo khoa vì vạy để đảm bảo mục tiêu giáo dục, người giáo viên phải nghiên cứu,
tham khảo các nguồn học liệu … để xây dựng hướng dẫn trả lời cho những câu hỏi
này đảm bảo tính khoa học, thực tiễn, có tính giáo dục.
+ Đối với những bài giáo viên sử dụng giáo án điện tử thì giáo viên khai thác thế
mạnh của nó để có thể cung cấp cho học sinh nghững hình ảnh, những số liệu … để
8


làm rõ thêm tính liên hệ thực tiễn trong bài học. Tuy nhiên cũng rất lưu ý về vấn đề
thời gian tránh lạm dụng bởi kiến thức trong bài học là rất nhiều, sử dụng câu hỏi
liên hệ chỉ là một nhỏ trong bài học mà thơi.
+ Vì đây là câu hỏi nhận biết và vận dụng nên giáo viên cũng khơng nên cầu tồn
với những câu trả lời của học sinh, cần trân trọng những ý tưởng của các .
Trong thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy tôi thường lựa chọn sử dụng dạng câu hỏi
này ở thời điểm :
+ Đặt câu hỏi sau khi kết thúc các mục hoặc kết thúc bài học
+ Đặt câu hỏi phục vụ cho dạy bài mới và cho học sinh về nhà tìm hiểu.
Các bước tiến hành:
- Giáo viên đưa ra câu hỏi.
- Học sinh nghiên cứu, thảo luận.
- Học sinh trả lời.
- Giáo viên bổ sung, góp ý.
Từ thực tiễn nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi
liên hệ thực tiễn một số bài trong chương trình Sách giáo khoa Lịch sử 11 như sau :
Bài 6: Chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918)
Khi dạy mục III. Kết cục của chiến tranh thế giới thứ nhất, giáo viên có thể hỏi
học sinh câu hỏi:

Câu hỏi: Chiến tranh thế giới thứ nhất có ảnh hưởng gì tới tình hình Việt
Nam hay khơng?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu
hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố: Việt Nam đang là thuộc địa của thực dân
Pháp, lúc này đế quốc Pháp lại trực tiếp tham gia chiến tranh thế giới nhất và để
tăng cường cho cuộc chiến tranh hoa người tốn của trên, Pháp đã tiến hành cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ 2 với quy mô lớn nhằm vơ vét sức người sức của phục
vụ chiến tranh. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đã ảnh hưởng tiêu cực tới
tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam, làm mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên gay

9


gắt. Bên cạnh đó chính sách của thực pháp cũng làm tình hình giai cấp tiếp tục có
những biến chuyển, những lực lượng xã hội mới …..
Bài 9: Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 và cuộc đấu tranh bảo vệ cách
mạng ( 1917-1921)
Khi dạy mục III- Ý nghĩa của cách mạng tháng 10 Nga giáo viên đặt câu hỏi
Câu hỏi: Ảnh hưởng của cách mạng tháng 10 Nga đối với cách mạng Việt Nam ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu
hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
- Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Luận cương về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa” của Lê nin và người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
đó là con đường cách mạng vơ sản, là sự kết hợp phong trào giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp, kết hợp phong trào công nhân, phong trào yêu nước với tinh
thần quốc tế vô sản.
- Học tập Lê nin, Nguyễn Ái Quốc thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên là tổ chức tiền thân của Đảng…. tiến tới sự ra đời của Đảng cộng sản

Việt Nam
- Cách mạng tháng 10 Nga đã ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam thông
qua con đường báo chí bí mật. các tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp ,
Đường cách mệnh … mở lớp đào tạo cán bộ, gây cơ sở cách mạng trong nước
Bài 10: Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội ( 1921 -1925)
Mục I - Chính sách Kinh tế mới và cơng cuộc khơi phục kinh tế
1. Chính sách kinh tế mới – giáo viên đặt câu hỏi
Câu hỏi : Bài học từ chính sách Kinh tế mới của Lê nin với công cuộc đổi mới
đất nước ở Việt Nam ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu
hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố
+ Năm 1986, Đảng ta tiến hành đổi mới đất nước, Đảng ta đã vận dụng một cách
linh hoạt bài học từ chính sách Kinh tế mới của Lê Nin, chuyển đổi từ nền kinh tế
10


tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường với sự tồn tại của nhiều
thành phần kinh tế nhưng do nhà nước XHCN điều tiết. Đường lối đổi mới đã thu
được những thành tựu quan trọng như ngày hôm nay.
Bài 17: Chiến trang thế giới thứ 2 (1939-1945)
Mục V – Kết cục của chiến tranh thế giới thứ 2 – Giáo viên đặt 2 câu hỏi
Câu 1: Em hãy thể hiện thái độ của mình về việc Mĩ ném bom nguyên tử
xuống 2 thành phố của Nhật Bản ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành các
nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về câu
hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
Mục đích của Mĩ khi nem bom nguyên tử là muốn trả thù Nhật bản trong trận
Trân Châu Cảng, muốn cùng với lực lượng đồng minh đánh bại phát xít Nhật và
cũng muốn cho thế giới thấy rằng ngày nay Mĩ là quốc gia duy nhất trên thế giới

chế tạo thành công bom nguyên tử, là cơ sở để Mĩ thực hiện chiến lược toàn toàn
cầu, tuy nhiên vị trí mà Mĩ ném bom hồn tồn nằm ở khu vực phi quân sự, sát hại
hàng chục ngàn người dân vơ tội vì vậy đây là hành động đi ngược lại với đạo đức,
đáng để nhân loại tiến bộ lên án và có thái độ phản đối trước hành động trên.
Câu 2: Hiện nay chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ nền hịa bình ?
Sau khi học sinh thảo luận, thuyết trình về suy nghĩ của mình giáo viên có thể
gợi ý cho học sinh: Để bảo vệ hịa bình cho đất nước Việt Nam nói riêng và toàn thế
giới ngày ngay, chúng ta cần ra sức học tập, nâng cao hiểu biết về giá trị của nền
hịa bình, kiên quyết chống lại mọi âm mưu xâm phạm độc lập, chủ quyền, giữ vững
nguyên tắc độc lập và giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hịa bình…
Bài 20: Chiến sự lan rộng ra cả nước, cuộc khánh chiến của nhân dân ta từ
1873 đến 1884. Nhà nguyễn đầu hàng.
Phần cuối bài nhằm tổng kết lại cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân ta,
giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Câu hỏi: Từ sự thất bại trong cuộc khán chiến cống Pháp cuối thế kỷ XIX
hãy rút ra bài học đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay ?

11


Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành
các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về
câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
+ Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cần phải phát huy truyền
thống yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh tổng hợp
+ Cần linh hoạt trước những biến động của tình hình thế giới vận dụng
đường lối đấu tranh hịa bình, mềm dẻo nhưng kiên quyết.
Bài 23: Phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỷ XX
đến chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914).
Sau khi dạy xong mục 1, 2 giáo viên có thể đặt câu hỏi

Câu 1: Từ hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh để lại cho
thế hệ trẻ ngày nay bài học gì ?
Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia thành
các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của mình về
câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
Mặc dù khuynh hướng dân tộc của 2 chí sỹ yêu nước thất bại song hai ông
vẫn được lịch sử nhìn nhận, đánh giá là những nhà yêu nước xuất sắc và được nhân
dân ta tưởng nhớ, biết ơn bởi dừ thất bại song ngày ngay chúng ta có thể học được ở
2 ơng lịng u nước nồng nàn và ý chí vượt qua gian khổ hy sinh, tìm tịi cái mới,
cổ vũ cho cái mới.
Tuy nhiên từ sự thất bại đó cũng giúp chúng ta có một bài học là khi tiếp
nhận cái mới cần phải nghiên cứu, tìm hiểu một cách sâu sắc phù hợp với điều kiện
thực tiễn tránh việc đón nhận một cách hời hợp, khơng nhìn nhận đúng bản chất dẫn
tới những thất bại là không thể tránh khỏi.
Bài 24: Việt Nam trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914 -1918)
Mục III – Sự xuất hiện khuynh hướng cứu nước mới
2. Buổi đầu hoạt động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc ( 1911-1918)
Giáo viên đặt câu hỏi
Câu hỏi: Qua việc tìm hiểu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, thế hệ trẻ ngày
nay học được Bác ở điểm nào ?
12


Giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp nghiên cứu bài học, chia
thành các nhóm học tập, sau khi các nhóm thảo luận đưa ra các cách liên hệ của
mình về câu hỏi nêu trên, giáo viên có thể củng cố:
Qua việc tìm hiểu về những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước của Bác trước
tiên chúng ta khâm phục lòng yêu nước nồng nàn của người, học được Bác ý chí
quyết tâm vượt qua mọi gian khổ, hy sinh thể thực hiện lý tưởng và hoài bão, học
được ở Bác tinh thần tự học, tự sáng tạo để chiếm lĩnh kiến thức, học được ở Bác

tình yêu lao động …
Thực tế cho thấy, dung lượng kiến thức ở mỗi bài học Lịch sử là tương đối nhiều
vầ để đảm bảo cho học sinh tiếp cận được kiến thức được đầy đủ các mức độ thông
hiểu, nhận biết và vận dụng cũng như tìm hiểu đầy đủ đơn vị kiến thức thì giáo viên
cần linh hoạt sắp xếp thời gian để sử dụng câu hỏi một cách hợp lí, tổ chức cho học
sinh thảo luận cũng đảm bảo khoa học về mặt thời gian.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Từ thực tiễn nghiên cứu và áp dụng trong giảng dạy trong vài năm gần đây đã
cho thấy sản phẩm nghiên cứu của tôi đã đảm bảo tính khả thi. Với việc cung cấp
cho học sinh hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn sinh động đã khơi dạy tính tị mờ
thích khám phá những điều mới mẻ của học sinh, thu hút được học sinh trong những
giờ học Lịch sử.
Với đặc điểm học sinh nhà trường chất lượng đầu vào thấp, đa phần các em tiếp
nhận kiến thức cơ bản cịn khó khăn thì những câu hỏi mang tính nhận biết và vận
dụng thì càng khó khăn hơn nữa và người nghiên cứu đề tài cũng chỉ có một tham
vọng là những câu hỏi liên hệ thực tiễn trên chỉ áp dụng đối với học sinh có nhận
thức khá trở lên. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy việc áp dụng hệ
thống câu hỏi trên đã nhận được sự quan tâm và thu hút của đa số học sinh trong
lớp, khi đặt các em vào tình huống có vấn đề các em đã chủ động suy nghĩ và lựa
chọn cho mình những câu trả lời khá thú vị điều mà trước đây khơng thể có nếu như
giáo viên cứ đi theo một lối mồn là sử dụng những câu hỏi đã có đáp án săn trong

13


sách giáo khoa và học sinh nhìn sách giáo khoa để trả lời, khơng hề có sự vận động
trí não, khơng hề có sự tư duy, sáng tạo.
Sau mỗi bài học với việc cung cấp hệ thống câu hỏi liên hệ thực tiễn đã hình
thành cho học sinh kỹ năng phân tích, đánh giá, khái quát, liên hệ vào thực tiễn học

tập và lao động của bản thân qua đó góp phần định hướng mục đích và lý tưởng
sống cho học sinh trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc sử
dụng câu hỏi liên hệ, tổ chức cho học sinh trao đổi thảo luận và cử đại diện của tổ,
nhóm lên thuyết trình cũng góp phần rèn luyện kỹ năng nói, kỹ năng đối thoại, làm
chủ tập thể của học sinh. Thông qua hoạt động này phần đông các em đã tự tin hơn,
chững chạc hơn…
Trong những năm gần đây, tôi luôn được nhà trường nhà trường phân cơng dạy
lớp 11, đó là một thuận lợi để tơi nghiên cứu, khảo nghiệm đề tài của mình vào thực
tiễn. Kết quả khả quan trong đề tài nghiên cứu của tôi được minh chứng qua kết quả
từ phiếu thăm dò học sinh và kết quả trong làm bài kiểm tra.
- Về kết quả từ phiếu thăm dò sự hứng thú của học sinh
+ Năm học 2015 -2016: ( Trước khi nghiên cứu và ứng dụng )
Thái độ của học sinh
Hứng thú với bài học
Không hứng thú với bài học
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
11A
43
24
55,8
19
44,2
11B
42
20
47,6

22
52,4
+ Năm học 2016 -2017: ( Sau khi nghiên cứu và ứng dụng)
Thái độ của học sinh
Hứng thú với bài học
Không hứng thú với bài học
Lớp Sĩ số
SL
%
SL
%
11A
44
36
81,8
8
18,2
11D
41
35
85,3
6
14,7
- Về kết quả điểm sau những bài kiểm tra ( Kiểm tra 1 tiết)
+ Năm học 2015 -2016: ( Trước khi nghiên cứu và ứng dụng )
Sĩ số

Giỏi
SL
%


Khá
SL
%

TB
SL
%

Yếu
SL
%

Lớp
11A 43
0
0
13
30,2
29
67,4
2
11B
42
1
2,3
14
33,4
26
62

1
+ Năm học 2016 -2017: ( Sau khi nghiên cứu và ứng dụng)

2,4
2,3

Kém
SL
%
0
0

0
0

14


Lớp Sĩ số
11A 44
11C
41

Giỏi
SL
%
2
6

4,5

14,6

Khá
SL
%
24
26

54,5
63,4

TB
SL
%
18
9

41
22

Yếu
SL
%
0
0

0
0

Kém

SL
%
0
0

0
0

Kết quả bước đầu đạt được trong nghiên cứu và giảng dạy của bản thân là cơ sở
để tôi mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp và nhận được sự đánh giá tích
cực, từ năm học 2017-2018 đề tài của tơi đã được cả nhóm chuyên môn Lịch sử
trong nhà trường ứng dụng rộng rãi trong dạy học và cũng thu được những kết quả
khả quan. Đó là động lực để những năm tiếp theo tôi tiếp tục nghiên cứu, mở rộng
phạm vi nghiên cứu của đề tài không chỉ ở phần Lịch sử thế giới lớp 11 mà cịn
trong tồn bộ chương trình lịch sử THPT.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sử dụng câu hỏi liên hệ trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực, chủ
động trong học cho học sinh trung học phổ thông hiện nay là rất cần thiết. Vì nó có
ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử. Tuy nhiên
đặt câu hỏi như thế nào để phát huy trí thơng minh, tính tích cực trong học tập của
học rõ ràng không phải là vấn đề đơn giản và để việc sử dụng hệ thống câu hỏi nói
trên có hiệu quả địi hỏi người giáo viên phải có một q trình nghiên cứu khoa
học, nghiêm túc và đặc biệt là phải tâm huyết với nghề, tâm huyết với học sinh.
Nội dung trình bày trong đề tài chỉ là kinh nghiệm của bản thân và phạm vi
nghiên cứu cũng bó hẹp trong một phần lịch sử nhất định, trong quá trình thực hiện
khơng thể tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của q
thầy cơ để đề tài được hoàn chỉnh, đưa vào ứng dụng rộng rãi trong q trình giảng
dạy lịch sử, nhằm góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất
lượng bộ môn lịch sử ở trường THPT.

2. Kiến nghị
- Với nhà trường: Nhà trường tiếp tục tạo mọi điều kiện tốt nhất để những ý tưởng
mới, sáng tạo và hiệu quả được đưa vào giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục của bộ môn Lịch sử nói riêng và các mơn học khác nói chung. Giáo viên

15


bộ môn tiếp tục cùng với người nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu phát triển mở rộng
đề tài trên phạm vi rộng hơn và có tính ứng dụng rộng rãi hơn.
- Với Sở Giáo dục và Đào tạo: Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên
đề, trao đổi về chuyên môn, phương pháp giảng dạy, để giáo viên giảng dạy Lịch sử
được trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2018
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.

Mai Đại Chính

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Sách giáo khoa Lịch sử lớp 11 hiện hành.
2- Lý luận dạy học của Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị - NXB Giáo dục 2004.
3- Tạp chí nghiên cứu lịch sử.
4- Con đường và biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ
thông” của Ngô Minh Oanh NXB Giáo dục năm 2008.


16


17



×