Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Giáo trình triết học theo chương trình đổi mới 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.35 KB, 99 trang )

Bài 1
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

1. Khái niệm và nguồn gốc của triết học
a. Khái niệm triết học
- Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ thứ VI tr.CN, với
những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy
Lạp. Đối với sự phát triển tư tưởng triết học ở Tây Âu, kể cả đối với triết học Mác,
triết học cổ Hy Lạp có ảnh hưởng rất lớn. Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Từ các hình
thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở
hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
- “Triết học”
+ Thuật ngữ “triết học” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ, “PhiloSophia” =
“Yêu mến sự thông thái”. Philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh
đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
+ Theo người Trung Quốc: Thuật ngữ triết học có gốc là chữ “triết”, gồm 3
bộ phận hợp thành: Thủ - Cân - Khẩu (bàn tay người cầm búa phanh phui sự thật),
dựa theo từ nguyên chữ Hán có nghĩa là “trí”, chỉ sự hiểu biết, nhận thức sâu sắc
của con người về thế giới và về đạo lý làm người. Cốt cách con người phương
đông vươn tới Chân - Thiện - Mỹ.
+ Theo người Ấn Độ: Triết học được gọi là Darshara, có nghĩa là Chiêm
ngưỡng, nhưng với hàm ý là sự hiểu biết dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để
dẫn dắt con người đến lẽ phải.
Như vậy: Triết học ngay từ đầu nó đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng
nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
Triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức; nhà triết học là nhà thông thái có
khả năng tiếp cận chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.
Ngày nay, theo quan điểm mácxít, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
b. Đặc trưng cơ bản của triết học


- Triết học là một hình thái ý thức xã hội.
Hình thái ý thức triết học có vai trò, nội dung khác với những hình thái ý
thức xã hội khác.
- Triết học là những quan niệm chung nhất về thế giới.
Những môn khoa học cụ thể chỉ là những quan niệm về từng mặt nhất định của
thế giới. Còn những quan niệm triết học là những quan niệm chung nhất về thế giới hợp
thành một hệ thống lý luận phản ánh một cách tương đối toàn vẹn về thế giới.
- Triết học mang tính giai cấp sâu sắc.
Triết học hình thành cùng với sự xuất hiện các giai cấp cho nên triết học
luôn mang tính giai cấp. Nó là công cụ tinh thần của một giai cấp nhất định và
thường là của giai cấp thống trị.
c. Nguồn gốc của triết học
Triết học có 2 nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
1


- Nguồn gốc xã hội: Đó là sự phát triển của sản xuất dẫn tới sự phân công
lao động xã hội, có sự tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay.
Đây là điều kiện xã hội quan trọng để các “Nhà triết học" - Những người lao
động trí óc có thể khái quát sự hiểu biết của mình thành những trí thức chung về
thế giới.
- Nguốn gốc nhận thức: Đó là lúc tư duy con người đã đạt đến trình độ trừu tượng
hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá nhất định để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
2. Đối tượng nghiên cứu của Triết học Mác - Lênin
- Triết học trong thời kỳ cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của
mình mà được coi là “khoa học của các khoa học”, bao gồm toàn bộ tri thức của
nhân loại.
- Trong suốt “Đêm dài trung cổ” của Châu Âu, triết học phát triển một cách
khó khăn trong môi trường hết sức chật hẹp, nó không còn là một khoa học độc lập
mà chỉ là một bộ phận của thần học; nền triết học tự nhiên thời cổ đại đã bị thay

thế bởi triết học kinh viện.
- Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ thứ XV, XVI đã tạo một cơ
sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học. Để đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn, đặc biệt yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên
ngành nhất là các khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học
độc lập.
Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực
nghiệm đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và
tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII ở
Anh, Pháp, Hà Lan với những đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ (Anh),
Điđơrô (Pháp), Xpinôza (Hà Lan)… V.I.Lênin đặc biệt đánh giá cao công lao của
các nhà duy vật Pháp thời kỳ này đối với sự phát triển chủ nghĩa duy vật trong lịch
sử triết học trước Mác. Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong các
học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, đại biểu xuất sắc của
triết học cổ điển Đức.
Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng bước
làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trò “Khoa học của các khoa học”.
Triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó.
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế
kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với quan niệm
“Khoa học của các khoa học”, triết học Mácxít xác định đối tượng nghiên cứu của mình
là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt
để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Note: Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới,
về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Cấu trúc của thế giới quan bao gồm: tri thức và niềm tin.
Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực
tiếp cho sự hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con
người, từ đó tri thức trở thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức.
Trong quá trình hình thành và phát triển có thể chia TGQ thành ba loại hình

cơ bản sau:
2


Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người
nguyên thuỷ. Ở thời kỳ này các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tìn ngưỡng,
hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, thần và người thường hoà quyện vào
nhau thể hiện quan niệm về thế giới.
Thế giới quan tôn giáo: Đó là những niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu;
tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái thần vượt trội hơn cái người.
Thế giới quan khoa học, mà triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận: Là
những quan niệm của con người được diễn tả dưới dạng hệ thống các phạm trù,
quy luật. Nó đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới.
3. Vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
a. Vấn đề cơ bản của triết học
- Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn đề có
liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và là điểm xuất
phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
- Theo Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Lútvích Phơbách và sự cáo chung của
triết học Đức” viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
+ Vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay ý thức với vật chất được gọi là
vấn đề cơ bản của triết học bởi vì:
* Đây là vấn đề nảy sinh cùng với sự ra đời của triết học và tồn tại trong tất
cả các trường phái triết học cho đến tận ngày nay.
* Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là tiêu chuẩn để xác định lập trường
thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ.
+ Vấn đề cơ bản của triết học chỉ có một vấn đề cơ bản và hai mặt của nó.
* Một vấn đề: Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
* Hai mặt:

Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước,
cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai trả lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không?
Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các
trường phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất về vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà
triết học thành hai trường phái lớn:
- Trường phái duy vật: Là những người cho rằng vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức hợp
thành trường phái triết học duy vật, còn gọi là chủ nghĩa duy vật.
Các hình thái:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác: trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật
chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và những kết luận của nó
mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn rất nhiều hạn chế,
nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới
tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay thượng đế.
3


+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình: là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa
duy vật, chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy, siêu hình máy móc.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa
duy vật do Mác - Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó
được Lênin phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết trước đó và sử
dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật
chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình, thể hiện là đỉnh cao trong sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật.

- Trường phái duy tâm: Là những người cho rằng ý thức có trước, vật chất
có sau, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức quyết định vật chất
hợp thành trường phái triết học duy tâm, còn gọi là chủ nghĩa duy tâm.
Xuất hiện ngay từ thời cổ đại, chủ nghĩa duy tâm có hai trào lưu chính:
+ CNDT chủ quan: Họ thừa nhận tính thứ nhất của ý thức. Trong khi phủ
nhận sự tồn tại của khách quan, của hiện thực, CNDTCQ khẳng định mọi sự vật,
hiện tượng chỉ là “phức hợp của cảm giác”.
+ CNDT khách quan: Theo họ tính thứ nhất là tinh thần, song đó là tinh thần
khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Tinh thần khách quan có
những tên gọi như: “ý niệm”, “tinh thần tuyệt đối”, “ý niệm tuyệt đối”, “lý tính thế
giới”, ...
+ Ngoài hai trường phái DV và DT còn có một số nhà triết học lại đem đồng
nhất vật chất và ý thức, hoặc cho rằng vật chất và ý thức tồn tại hoàn toàn độc lập với
nhau. Họ điều hoà CNDV và CNDT song thực chất bản chất của nó là CNDT.
Một hệ thống triết học mang tính triệt để khi nó đứng hẳn trên lập trường
của một trong hai phái chính của triết học CNDV hoặc CNDT. Đó là tính đảng của
triết học.
c. Thuyết không thể biết
Việc giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: “Con người có
khả năng nhận thức được thế giới hay không?”
- Các nhà triết học duy vật cho rằng: Con người có khả năng nhận thức được
thế giới. Song do mặt thứ nhất quy định, nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế
giới vật chất vào óc người.
- Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận
thức thế giới song sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy.
- Một số nhà duy tâm khác như Hium, Cantơ lại phủ nhận khả năng nhận
thức thế giới của con người. Đây là những người theo thuyết “Bất khả tri” được gọi
là “thuyết không thể biết”.
Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật là như thế
nào, mà cũng không thể biết được sự vật đó có tồn tại hay không.

Theo I.Kant, thừa nhận có một thế giới sự vật tồn tại, ông gọi đó là “Vật tự
nó”, nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế giới ấy mà chỉ là nhận
thức những hiện tượng của nó mà thôi.
Tóm lại: Khuynh hướng này không thừa nhận vai trò của nhận thức khoa học
trong đời sống xã hội, cho rằng con người không thể hiểu được đối tượng hoặc có hiểu
4


chăng nữa thì chỉ là hình thức bề ngoài, vì tính xác thực về đối tượng chỉ là những hình
ảnh của giác quan, cảm giác bề ngoài không bảo đảm tính chân thực.
4. Phương pháp nghiên cứu Triết học Mác – Lênin
Quá trình học tập, nghiên cứu những Triết học Mác - Lênin cần thực hiện
được một số yêu cầu cơ bản sau đây:
- Những luận điểm của Triết học Mác-Lênin được thể hiện trong những bối
cảnh khác nhau, nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể khác nhau nên hình thức thể
hiện tư tưởng cũng khác nhau; chính vì vậy, học tập, nghiên cứu Triết học MácLênin cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; chống xu hướng kinh viện,
giáo điều.
- Sự hình thành, phát triển những luận điểm của Triết học Mác - Lênin là
một quá trình. Trong quá trình ấy, những luận điểm của Triết học Mác - Lênin có
liên quan mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau; vì vậy, học tập, nghiên
cứu mỗi luận điểm của Triết học Mác - Lênin phải đặt chúng trong mối liên hệ
với các luận điểm khác, ở các bộ phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất
trong tính đa dạng và nhất quán của mỗi tư tưởng nói riêng, của toàn bộ chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung.
- Học tập, nghiên cứu Triết học Mác - Lênin để hiểu rõ cơ sở lý luận quan
trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng; vì vậy, phải gắn những luận điểm của Triết học
Mac - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn thời đại để thấy sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử.

- Học tập, nghiên cứu Triết học Mác - Lênin để đáp ứng những yêu cầu
của con người Việt Nam trong giai đoạn mới; vì vậy, quá trình học tập, nghiên
cứu đồng thời cũng là quá trình giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện để
từng bước hoàn thiện mình trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống
cộng đồng xã hội.
- Triết học Mác - Lênin không phải là hệ thống lý luận khép kín nhất
thành bất biến, mà trái lại đó là một hệ thống lý luận không ngừng phát triển
trên cơ sở phát triển của thực tiễn thời đại; vì vậy, quá trình học tập, nghiên cứu
đồng thời cũng phải là quá trình tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp phần phát
triển tính khoa học và tính nhân văn vốn có của nó; mặt khác việc học tập,
nghiên cứu Triết học Mác - Lênin cũng cần phải đặt nó trong lịch sử phát triển
tư tưởng nhân loại bởi nó là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa của lịch sử
đó trong những điều kiện lịch sử mới.
Những yêu cầu trên thống nhất hữu cơ với nhau, giúp cho quá trình học
tập, nghiên cứu không chỉ kế thừa được tinh hoa của chủ nghĩa Mác-Lênin mà
quan trọng hơn, nó giúp người học tập, nghiên cứu vận dụng được tinh hoa ấy
trong các hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
- Phương pháp siêu hình là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các
chỉnh thể và giữa các mặt đối nhau có một ranh giới tuyệt đối.
5


+ Nhận thức đối tượng ở trạnh thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là
sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ngay ở bên ngoài đối
tượng, không thấy sự vận động...
Theo Ph.Ăngghen phương pháp siêu hình làm cho con người “chỉ nhìn thấy
những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy,
chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà khộng nhìn thấy sự phát sinh và tiêu

vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên
mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.
- Phương pháp biện chứng là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ ràng buộc, tác động qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động, biến đổi, nằm trong khuynh
hướng chung là phát triển.
+ Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại, thể hiện
tư duy linh hoạt, mềm dẻo. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành
công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
- Các giai đoạn phát triển của phương pháp biện chứng
Phương pháp biện chứng ra đời trong triết học cổ đại đến nay đã trải qua ba
hình thức cơ bản:
+ Phép biện chứng tự phát thời cổ đại.
Các nhà biện chứng cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy
các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hoá trong những sợi dây liên hệ
vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng thấy được chỉ là trực kiến,
chưa phải là kết quả nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
+ Phép biện chứng duy tâm.
Đỉnh cao được thể hiện trong triết học cổ điển Đức. Theo họ, biện chứng ở đây
bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, giới hiện thực chỉ là sự sao chép “ý niệm”
nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là “Biện chứng duy tâm”.
+ Phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong triết học, do Mác - Ăngghen
xây dựng, sau đó được Lênin phát triển. Phép biện chứng duy vật với tính cách là
học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
II. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng của triết

học. Đó là chức năng thế giới quan và phương pháp luận.
- Chức năng thế giới quan:
+ Thế giới quan đúng đắn là nhân tố định hướng cho quá trình con người
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
+ Thế giới quan giúp con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa
chọn cách thức hoạt động cho mình để đạt mục đích và ý nghĩa đó.
+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác định nhân sinh quan tích cực và
trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của
mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
- Chức năng phương pháp luận:
6


+ Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm
chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
+ Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ:
* Phương pháp luận ngành: Là phương pháp luận của một ngành khoa học
cụ thể nào đó.
* Phương pháp luận chung: Là phương pháp luận được sử dụng cho một số
ngành khoa học.
* Phương pháp luận chung nhất: Là phương pháp luận được dùng làm điểm
xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận
ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Như vậy: Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế
giới và vai trò của con người trong thế giới đó; Triết học thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất.
2. Vai trò của triết học Mác - Lênin
- Triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn cả giới tự nhiên
cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
- Triết học Mác - Lênin không những được hình thành phát triển trên cơ sở

tổng kết nhận thức từ các khoa học cụ thể, mà nó còn cung cấp phương pháp luận
phổ biến thúc đẩy các khoa học cụ thể phát triển đúng hướng và đạt được những
thành quả cao nhất.
+ Trong tình hình hiện nay, đòi hỏi con người phải có thế giới quan khoa học
vững chắc và năng lực tư duy sáng tạo. Trong đó, triết học Mác - Lênin là cơ sở
quan trọng để xây dựng TGQ khoa học và bồi dưỡng năng lực tư duy.

7


Bài 2
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
I. VẬT CHẤT
1. Phạm trù vật chất
a. Quan điểm phi Mác xít
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử phát triển trên 2500
năm. Ngay từ thời cổ đại, xung quanh phạm trù vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh
không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời,
cũng giống những phạm trù khác, phạm trù vật chất có quá trình phát triển gắn liền
với thực tiễn và nhận thức của con người.
- Quan điểm CNDT: Họ cho rằng thế giới vật chất là bản nguyên của tinh
thần nào đó, có thể là do “ ý niệm tuyệt đối”, “ ý chí của thượng đế”, hay do những
cảm giác của con người.
+ CNDTKQ: vật chất là do “ ý niệm tuyệt đối”, “ý chí của thượng đế”.
Ví dụ: Platôn cho rằng vật chất bắt nguồn từ ý niệm, sự vật cảm tính là cái
bóng của ý niệm; Hêghen cho rằng vật chất là do ý niệm tuyệt đối sinh ra, thế giới
vật chất chẳng qua là sự tha hoá của “ý niệm tuyệt đối”.
+ CNDTCQ: cho rằng sự tồn tại của thế giới là do cảm giác của con người.
Ví dụ: Béccơli cho rằng mọi sự vật chỉ tồn tại trong chừng mực con người
cảm thấy chúng, cái gì ngoài tri giác con người là không tồn tại.

- Quan điểm của CNDV trước Mác: Họ khẳng định, thực thể của thế giới là
vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với
những thuộc tính của chúng, biểu hiện:
+ Thời kỳ cổ đại: Đồng nhất thể giới vật chất nói chung với những dạng cụ
thể của nó.
* Ở Trung Hoa cổ đại: coi khí là thực thể của vật chất.
* Ở Ấn Độ cổ đại: coi nguyên tử là thực thể của thế giới
* Ở Hy Lạp cổ đại: Talét coi thực thể của thế giới là nước, Anaximen là
không khí; Hêraclít là lửa; Ămpeđốclơ cho cả 4 yếu tố đất, nước, lửa, không khí.
Đỉnh cao của quan điểm duy vật thời cổ đại là thuyết nguyên tử luận của
Lơxíp và Đêmôcrít (đây là phỏng đoán thiên tài về cấu tạo vật chất và có ý nghĩa
định hướng với lịch sử phát triển khoa học)
+ Thời kỳ Phục hưng thế kỷ 15 -16: Nhờ KHTN, khoa học thực nghiệm phát
triển. Quan điểm thế giới vật chất có bước phát triển.
* Côpécních chứng minh mặt trời là trung tâm của vũ trụ làm đảo lộn truyền
thuyết của kinh thánh và quan điểm thần học về thế giới.
* Bêcơn coi thế giới là vật chất tồn tại khách quan, vật chất là tổng hợp các
hạt tự nhiên là tổng hợp những vật thể, có chất lượng muôn màu, muôn vẻ. Coi vận
động là thuộc tính không tách rời khỏi vật chất.
* Đêcáctơ: vũ trụ là vật chất, vũ trụ là vô tận. Vật chất là bao gồm những hạt
nhỏ có thể phân chia đến vô tận, các hạt vật chất làm vận động thường xuyên thay
đổi vị trí trong không gian.
Tuy nhiên do các ngành khoa học phát triển còn thấp nên các nhà triết học
rơi vào quan điểm siêu hình máy móc, mọi phân biệt vật chất giữa các vật thể đều
8


bị quy giản về sự phân biệt về lượng, mọi sự vận động quy về sự dịch chuyển vị trí
trong không gian. Mọi hiện tượng bị quy về cái đơn giản mà từ đó chúng được tạo
thành. Và niềm tin vào chân lý trong cơ học khiến các nhà khoa học đồng nhất vật

chất với khối lượng.
- Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20: có nhiều phát minh lớn trong khoa học tự
nhiên.
+ 1895 Rơnghen phát hiện tia X (sóng điện từ bước sóng 0.01-100.10-8 cm)
+ 1896 Béccơren phát hiện hiện tượng phóng xạ.
+ 1897 Tômxơn phát hiện ra điện tử.
+ 1901 Kauphơman chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là
khối lượng tĩnh mà là khối lượng thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử.
Đây là bước tiến mới của loài người trong nhận thức và làm chủ thiên nhiên,
nó bác bỏ quan niệm siêu hình về vật chất. Những quan niệm về giới hạn cuối cùng
về vật chất là nguyên tử, điện tử hoặc vật chất là khối lượng đã sụp đổ trước khoa
học. Lúc đó trong nhận thức các hạt điện tích và trường điện từ coi đó là cái gì đó
phi vật chất và chủ nghĩa duy tâm cho rằng “vật chất” của CNDV đã biến mất, nền
tảng của chủ nghĩa duy vật đã biến mất.
b. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin
Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã bác bỏ
quan điểm của các nhà duy vật về những chất được coi là “giới hạn tột cùng”, từ đó
dẫn tới cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng cơ hội này để khẳng định bản chất
“phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với
quá trình sáng tạo ra thế giới.
Trong bối cảnh lịch sử đó, V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và từ nhu cầu của cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra
định nghĩa kinh điển về vật chất:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Theo định nghĩa của Lênin về vật chất:
- Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là chỉ những thuộc tính, những

mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn,
vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, những hiện tượng là
những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển,
chuyển hóa. Vì vậy, không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu
hiện cụ thể của vật chất.
- Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan tức là
thuộc tính tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người,
cho dù con người có nhận thức được hay không nhận thức được nó.
- Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con
người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái
được ý thức phản ánh.
9


Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
- Bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính
khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục
được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn
cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý
luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn
chế duy tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
- Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con
người trong cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản
ánh”, Lênin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của
ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con người có thể nhận
thức được thực tại khách quan.
2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức

tồn tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị
trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”,
vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ
thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất
luôn gắn liền với vật chất.
Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ
học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao
tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về
chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong
đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và
bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn.
Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ
nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra
trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận
động. Đứng im là tạm thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất
định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
- Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng
tính nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với những dạng vật
chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt khác, sự
tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp
và chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không
gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là
tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.

10


3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất,
thế giới thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có
trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không
mất đi. Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau,
biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những
qui luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
II. Ý THỨC
Ý thức là một phạm trù triết học dùng để chỉ một hình thức phản ánh thế
giới khách quan của dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao nhất là não người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
1. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc
con người. Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người,
là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng
hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con
người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài
người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời
sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con người không
bình thường do bị tổn thương bộ óc.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức: là lao động và ngôn ngữ; hai yếu tố này vừa
là nguồn gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự

nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người. Đây
cũng là qúa trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân,
giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não.
Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm
cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những qui luật
vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể
quan sát được.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung
ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên
trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này
làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ
con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết đúc kết thực
tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2. Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
11


+ Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông
tin, chọn lọc, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có
nó có thể tạo ra những thông tin mới. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản
ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả
thuyết, huyền thoại,..
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là
hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về
nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới

khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người.
+ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn
tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các
qui luật sinh học mà chủ yếu là của các qui luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội
và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội qui định. Với tính năng động, ý
thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
- Kết cấu của ý thức
Ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong
đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất.
+ Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình
nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri
thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát
triển của nhận thức, có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
+ Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan
hệ. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người; là
một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực
tiễn.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối
tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
+ Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở
trong quá trình thực hiện mục đích của con người. Có thể coi ý chí là quyền lực
của con người đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng
đến mục đích một cách tự giác; nó cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản
thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC


1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau;
vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh
đối với vật chất.
+ Vật chất quyết định nguồn gốc ra đời của ý thức.
Vật chất là cái vốn có, tồn tại khách quan độc lập với ý thức và là nguồn gốc
sinh ra ý thức. Nhờ quá trình vận động tiến hóa trong thế giới vật chất đã sinh ra bộ
12


não người- cơ quan vật chất của ý thức. Não người là 1 dạng vật chất có kết cấu
đặc biệt, là cơ quan phản ánh để hình thành nên ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc
vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Bản chất của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Do vậy, nội dung của vật chất như thế
nào thì ý thức phản ánh như thế.
+ Vật chất quyết định sự vận động biến đổi của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, do đó khi thế giới vật chất luôn vận
động và biến đổi thì ý thức cũng vận động và biến đổi theo.
2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất
+ Bản chất sự phản ánh của ý thức mang tính sáng tạo tích cực. Nó có thể
tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, cải tạo biến
đổi hiện thực khách quan.
+ Chiều hướng tác động: ý thức có thể tác động trở lại vật chất theo 2 chiều
hướng. Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt
động thực tiễn của con người trong cải tạo thế giới và ngược lại, ý thức sẽ kìm hãm
hoạt động cải tạo của con người.
+ Mức độ tác động của ý thức: Phụ thuộc vào trình độ, nội dung ý thức mà
chủ thể phản ánh về thế giới vật chất, mức độ thâm nhập của ý thức vào lực lượng

vật chất và việc ý thức chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
+ Vai trò sáng tạo, tích cực của ý thức con người trong quá trình cải tạo thế
giới hiện thực, phát triển đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa vào sự phản ánh
thế giới vật chất và các điều kiện vật chất khách quan.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ vật chất – ý
thức, đồng thời là cơ sở khoa học để đấu tranh phê phán các quan điểm duy tâm sai
lầm phản khoa học.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng khách quan, xuất
phát từ thực tế khách quan không được chủ quan nôn nóng, duy ý chí, đồng thời
phải phát huy nỗ lực chủ quan, không chông chờ ỷ lại.
- ý thức có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người, vì vậy phải thấy được vai trò tích cực của nhân
tố ý thức trong việc sử dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất hiện có. Phải phát
huy tính năng động chủ quan của ý thức con người.
- Tránh tuyệt đối hóa vai trò duy nhất của vật chất trong quan hệ giữa vật
chất và ý thức (chống chủ nghĩa khách quan, thái độ trông chờ, thụ động…); chống
tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, đánh giá không đúng vai trò của các điều kiện vật
chất trong hoạt động thực tiễn…
- Là cơ sở khoa học để giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan

13


Bài 3
HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Một số hình thức phép biện chứng trong lịch sử
Phép biện chứng ra đời ngay từ khi triết học ra đời, đến nay đã trải qua 3

hình thức cơ bản.
a. Phép biện chứng tự phát, sơ khai
- Hình thức đầu tiên của Phép biện chứng được hình thành trong triết học
Ấn Độ, Hy Lạp và Trung Quốc cổ đại.
- Đó là Phép biện chứng dựa trên sự cảm thụ trực tiếp TGVC xung quanh.
Những kết luận mà nó rút ra mới chỉ là những tư tưởng mộc mạc, thô sơ, rời rạc,
chưa trở thành hệ thống lý luận và cũng chưa có cơ sở khoa học.
+ Hêraclit (được Mác coi là ông tổ của Phép biện chứng ) cho rằng: Tất cả
mọi vật trên thế giới luôn vận động biến đổi. “ Chúng ta không thể tắm hai lần trên
cùng một dòng sông, vì nước sông không ngừng chảy”. Theo ông, SV là thống
nhất các mặt đối lập, các mặt đói lập đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc
của sự vận động, phát triển.
+ Thuyết Âm - Dương trong triết học TQ cổ đại cho rằng: Âm và Dương thống
nhất trong Thái cực, thể hiện nguyên lý về sự thống nhất của các mặt đói lập. Sự tác
động qua lại giữa Âm và Dương làm cho mọi SVHT vận động, biến đổi..
+ Thuyết Ngũ hành: vạn vật được cấu trúc từ 5 yếu tố Kim - Mộc - Thủy Hỏa - Thổ. Ngũ hành “tương sinh, tương khắc”...
Tóm lại: tuy là Phép biện chứng mộc mạc, thô sơ nhưng Phép biện chứng
tự phát thời cổ đại đã có những cống hiến hết sức quý báu cho lịch sử Phép biện
chứng nhân loại.
b. Phép biện chứng duy tâm
Phép biện chứng DT ra đời vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Tiêu biểu
là quan điểm triết học của Hêghen (nhà triết học cổ điển Đức).
- Hêghen đã khái quát Phép biện chứng thành một hệ thống các nguyên lý,
các cặp phạm trù, các quy luật cơ bản
- Hệ thống lý luận đó là Phép biện chứng DT vì sự vận động và phát triển
theo Hêghen giải thích không phải là sự vận động, phát triển của bản thân các
SVHT, mà chỉ là những nấc thang phát triển khác nhau của “Ý niệm tuyệt đối”.
Phép biện chứng Hêghen là Phép biện chứng “lộn ngược”, bởi vì ông cho rằng
biện chứng của “Ý niệm tuyệt đối”. quy định biện chứng khách quan.
C.Mác nhận xét: “Ở Hêghen, phép biện chứng đi ngược đầu xuống đất; chỉ cần

đảo xuôi lại lên thì sẽ phát hiện ra cái nhân hợp ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”.
Khái quát:
+ Đóng góp: Hêghen đã xây dựng phép biện chứng thành một hệ thống lý luận
+ Hạn chế: Phép biện chứng của Hêghen là Phép biện chứng DTKQ, thiếu
cơ sở khoa học và Phép biện chứng đó mâu thuẫn với lý luận của ông.
c. Phép biện chứng duy vật
Kế thừa có chọn lọc những thành quả của các nhà triết học tiền bối mà trực tiếp
nhất là phép biện chứng Hêghen và quan điểm duy vật của Phoiơbắc cùng với việc
14


khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, thực tiễn lịch sử xã hội,
khắc phục những hạn chế trong lý luận nhận thức, C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo ra
Phép biện chứng DV, sau này Lênin kế thừa và phát triển.
Quan điểm biện chứng duy vật là quan điểm khoa học, là đỉnh cao của quan
điểm biện chứng nói chung, khác về cơ bản so với quan điểm biện chứng duy tâm.
Nó cho rằng biện chứng là biện chứng của TGKQ, TGVC. Biện chứng của tự
nhiên của tồn tại quyết định biện chứng của tinh thần, ý thức.
2. Nội dung phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
- Định nghĩa: Phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật chung
nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy
Ph.Ăngghen: “Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư
duy” (C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 1995, tập 20, tr.201).
- Đặc trưng của Phép biện chứng duy vật:
+ Phép biện chứng DV là sự thống nhất giữa TGQDV và phương pháp BC.
Nó đã khắc phục được những hạn chế của Phép biện chứng tự phát, sơ khai thời
cổ đại và những thiếu sót của Phép biện chứng DT thời Cận đại.
+ Phép biện chứng DV là sự thống nhất giữa biện chứng khách quan và biện

chứng chủ quan.
* Biện chứng khách quan: là phạm trù dùng để chỉ biện chứng của bản thân
các SV- HT, là quá trình tồn tại độc lập ở bên ngoài ý thức con người.
* Biện chứng chủ quan: là phạm trù dùng để chỉ tư duy biện chứng và biện
chứng của quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc của con người, là
“hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Ph.Ăngghen viết: “biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ
giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng thì chỉ phản
ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên”.
* Mối quan hệ giữa BCKQ và BCCQ
BCKQ của bản thân đối tượng là cái được phản ánh, quyết định là đối
tượng ngiên cứu của BCCQ.
BCCQ chỉ là cái phản ánh, cái bị quy ủũnh bởi BCK. Tuy nhiên BCCQ có
tính độc lập tương đối so với BCKQ ở chỗ:
Cái phản ánh và cái được phản ánh không trùng khít nhau hoàn toàn (Quá
trình tư duy nhận thức có những quy luật riêng của nó).
+ Đối tượng nghiên cứu của Phép biện chứng DV là những quy luật chung
nhất, những MLH phổ biến nhất của TGVC. Còn đối tượng nghiên cứu của các
khoa học cụ thể là nghiên cứu các quy luật đặc thù.
+ Phép biện chứng DV nghiên cứu sự vận động, phát triển của thế giới rút ra
các quy luật chung nhất và hệ thống PPL trong nhận thức và cải tạo thế giới.
+ Tính chất của Phép biện chứng DV: tính hệ thống, tính hoàn bị và tính chất
mở
* Mang tính hệ thống: Các yếu tố của phép biện chứng được sắp xếp một
cách lôgíc chặt chẽ, có hệ thống.
15


* Mang tính hoàn bị: Có sự thống nhất giữa tính khoa học với tính đảng,
giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng và nó trở thành môn khoa học duy

nhất vừa là thế giới quan, vừa là phương pháp luận, vừa là lý luận vừa có tính thực
tiễn. Nó là Phép biện chứng triệt để duy vật cả trong TN, XH và TD.
* Có tính chất mở: Phép biện chứng duy vật luôn luôn vận động và phát
triển không ngừng. Nó không phải là những khẳng định giáo điều, trừu tượng mà
luôn gắn liền với thực tiễn. Được bổ sung thường xuyên cùng với sự phát triển của
thực tiễn. Do vậy phép biện chứng duy vật vừa có tính cách mạng, vừa có tính tự
giác cao. Nó là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản nó luôn gắn liền với quá trình
đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, nó đòi hỏi phải được bổ sung đáp ứng
yêu cầu đấu tranh.
b. Nội dung của phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng DV được xây dựng trên cơ sở một hệ thống các khái
niệm, phạm trù cơ bản, các quy luật phổ biến và những nguyên lý được khái quát
từ hiện thực khách quan phù hợp với hiện thực khách quan, phản ánh đúng đắn sự
liên hệ, vận động và phát triển từ TN, XH đến TD.
- Nội dung của Phép biện chứng DV bao gồm: Hai nguyên lý cơ bản, các
cặp phạm trù cơ bản, các quy luật cơ bản.
II. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN. Ý NGHĨA PHƯƠNG
PHÁP LUẬN
Thế giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình
khác nhau.
- Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay
chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
- Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì quy định sự liên
hệ đó? Giải quyết vấn đề này trong lịch sử triết học đã hình thành những quan
điểm khác nhau.
1. Các quan điểm phi mácxít về mối liên hệ
- Chủ nghĩa duy tâm: thừa nhận trong thế giới các sự vật, hiện tượng và
những quá trình có mối liên hệ. Nhưng họ cho rằng, mối liên hệ đó là do một lực
lượng siêu nhiên nào đó ở bên ngoài chi phối sáng tạo ra, hay do ý thức, cảm giác
của con người mà có.

+ Đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan, Béccơli cho rằng cảm giác là nền
tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
+ Hêghen, xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan lại vạch ra rằng “ý
niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt
lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc,
không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn
nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên.
2. Quan điểm của CNDVBC về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm
Liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự phụ thuộc gắn bó không
thể tách rời nhau, quy định làm tiền đề cho nhau, tác động qua lại xâm nhập lẫn
16


nhau, chuyển hóa lẫn nhau, trong sự tồn tại và phát triển của mọi sự vật và hiện
tượng trong thế giới.
- Bản chất của liên hệ là sự ràng buộc, tác động, chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới có nhiều cấp độ:
+ Mối liên hệ chỉ diễn ra ở một sự vật hiện tượng, một lĩnh vực hoặc một số
sự vật hiện tượng, một số lĩnh vực.
Mối liên hệ này là đối tượng nghiên cứu của các khoa học cụ thể hoặc khoa
học liên ngành.
+ Mối liên hệ phổ biến: là những mối liên hệ tác động đến mọi sự vật, hiện
tượng, mọi lĩnh vực, mọi quá trình.
b. Tính chất của mối liên hệ
- Tính khách quan.
+ Liên hệ là khách quan, là thuộc tính vốn có của các SVHT, là quy luật vận
động của vật chất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

+ Nguồn gốc của sự liên hệ nằm ngay trong bản thân các sự vật, hiện tượng;
trong tính thống nhất vật chất của thế giới. Nó bắt nguồn từ sự tự vận động, từ mâu
thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng.
- Tính phổ biến.
+ Cơ sở tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến nằm ngay trong tính thống
nhất vật chất của thế giới, trong bản thân sự vật, hiện tượng và tồn tại độc lập
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
+ Liên hệ mang tính phổ biến, diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi SVHT và cả
trong các quá trình khác nhau.
* Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều liên hệ với các sự vật, hiện tượng
khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác và giữa chúng với nhau.
* Xét về mặt thời gian, không gian, ở đâu cũng có mối liên hệ.
* Những mối liên hệ riêng rẽ cụ thể tồn tại dưới nhiều hình dạng khác nhau
trong những điều kiện nhất định đều là những biểu hiện của mối liên hệ phổ biến
nhất, chung nhất.
- Tính chất đa dạng, phong phú.
+ Tính đa dạng của mối liên hệ được quy định bởi sự đa dạng trong hình
thức tồn tại, sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng cũng như bởi
trình độ tổ chức của nó. Vì vậy một sự vật có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên
hệ chứ không phải chỉ có một cặp mối liên hệ xác định nào đó.
+ Biểu hiện tính đa dạng, phong phú:
* Mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài.
* Mối liên hệ trực tiếp, mối liên hệ gián tiếp.
* Mối liên hệ bản chất, mối liên hệ không bản chất.
* Mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu.
* Mối liên hệ tất nhiên, mối liên hệ ngẫu nhiên.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Mối liên hệ phổ biến là cơ sở của nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và
cải tạo sự vật.

17


- Xem xét sự vật, hiện tượng trong tất cả các mối liên hệ mà nó có. Nhưng
phải xác định được mối liên hệ nào là cơ bản, quan trọng nhất, chủ yếu nhất.. tránh
mắc sai lầm như xem xét SVHT một cách phiến diện, chủ quan, nóng vội, duy ý
chí trong nhận thức cũng như hành động.
- Phân loại được các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ
bản, .. để tìm ra mối liên hệ cần thiết cho mình.
- Phải liên hệ từ mối liên hệ cơ bản với các mối liên hệ không cơ bản khác
xem chúng trong tính chỉnh thể, hệ thống. Đặt sự vật, hiện tượng trong chính bản
thân nó.
- Quan điểm toàn diện luôn phải gắn liền với quan điểm lịch sử, cụ thể khi
xem xét các mối liên hệ. Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt chúng trong các
điều kiện không gian và thời gian xác định.
Nghiên cứu - vận dụng các nguyên tắc rút ra từ mối liên hệ phổ biến vào
thực tiễn quá trình học tập ở nhà trường và công tác sau này.
III. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
Sự vật tồn tại trong sự liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau làm cho nó vận
động phát triển không ngừng. Nhưng vấn đề là sự phát triển diễn ra như thế nào?
Bằng cách nào? Cái gì là nguồn gốc của sự phát triển? Việc giải quyết vấn đề này
đã xuất hiện những quan điểm sau:
1. Các quan điểm phi mácxít về sự phát triển
- Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm: Họ cho rằng nguồn gốc của sự phát
triển là do “cái hích của thượng đế”, do một lực lượng siêu nhiên nào đó ở bên
ngoài chi phối, hay do ý thức của con người.
Ví dụ: Hêghen cho rằng sự phát triển của tự nhiên, xã hội là do ý niệm tuyệt
đối quyết định …
- Quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình:
+ Họ cho rằng sự phát triển chỉ là sự tăng hay giảm đi thuần túy về lượng mà

không có sự biến đổi về chất.
+ Sự phát triển là sự tiến lên theo một đường thẳng mà không có những
bước quanh co phức tạp, những bước thụt lùi tạm thời, sự nhảy vọt.
+ Sự phát triển chỉ khép kín mà không có sự nảy sinh cái mới. Họ cho rằng
các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại bất biến không có sự vận động biến
đổi, không có sự phát triển.
2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự phát triển
a. Khái niệm phát triển
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
- Theo quan điểm đó phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động.
Là sự vận động diễn ra theo chiều hướng và con đường đi lên. Khuynh
hướng của sự vận động là từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện. Phát triển là cái cũ mất đi, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
- Không phải sự vận động nào cũng đưa tới sự phát triển. Trong thực tế có
những vận động thụt lùi kìm hãm sự phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định chỉ có sự vận động theo chiều hướng đi lên, đưa đến sự ra đời cái mới
thay thế cái cũ mới được gọi là phát triển.
18


b. Nội dung nguyên lý về sự phát triển
- Phát triển là khuynh hướng chung của mọi SVHT trong thế giới.
+ Xét trong tính tổng thể, mọi sự vật, hiện tượng, vận động bao giờ cũng có
chiều hướng đi lên, đều trải qua giai đoạn ra đời, lớn lên và mất đi, nhưng cái cũ
mất đi, cái mới ra đời phát triển cao hơn.
+ Trong thế giới nói chung, khuynh hướng phát triển là tất yếu.
Ví dụ: Trong thế giới sự phát triển bắt đầu từ vô cơ - hữu cơ - sự sống thấp sự sống cao - con người là sự phát triển cao nhất.
- Thông qua sự vận động rất phức tạp dưới nhiều hình thức khác nhau nó
quy định một xu hướng phát triển mang tính phổ biến diễn ra trong cả TN, XH,TD.

- Sự phát triển là đi lên, nhưng xét trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, trong
sự vật cụ thể, trong thời gian nhất định thì sự vật, hiện tượng trong quá trình phát
triển đi lên nó cũng phải trải qua những bước quanh co, phức tạp thậm chí có cả
những sự thụt lùi, thoái trào đồng thời cũng có cả những bước nhảy vọt.
c. Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan.
+ Thế giới thống nhất là ở tính vật chất, mà vận động lại là thuộc tính cố hữu
của vật chất. Do vậy trong vận động, có sự vận động tiến lên đó là phát triển. Vậy
phát triển là tất yếu khách quan của thế giới vật chất.
+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng nguồn gốc của sự
phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn nội tại của nó quy định.
Phát triển là quá trình tự thân của sự vật, hiện tượng không do một lực lượng nào
từ bên ngoài hay do ý thức con người chi phối.
- Tính phổ biến.
+ Các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều luôn luôn vận động, biến đổi và
phát triển không ngừng. Sự phát triển đó là khuynh hướng chung chủ yếu của thế
giới vật chất. Do đó sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực, ở bất kỳ một sự vật, hiện
tượng nào trong thế giới.
+ Bởi vì: ở đâu có vật chất thì ở đó có vận động, mà có vận động có nghĩa là
có phát triển trong tư duy , xã hội, tự nhiên ..
Vậy sự phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng.
- Tính đa dạng.
+ Sự phát triển diễn ra không phải bằng con đường bằng phẳng, mà có
những bước quanh co, phức tạp, bao hàm cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.
Thậm chí có những sự thụt lùi tạm thời, những bước nhảy vọt, những sự vận động
chệch hướng. Dường như có sự quay trở về vị trí ban đầu, lặp lại nhưng trên một
cơ sở mới cao hơn.
+ Bởi vì: Các sự vật, hiện tượng tồn tại trong không gian, và thời gian khác
nhau. Do đó chúng chịu sự tác động, ảnh hưởng của các sự vật, hiện tượng các yếu
tố và các quá trình khác nhau…

d. Nguồn gốc, phương thức, khuynh hướng và kết quả của sự phát triển
- Nguồn gốc động lực của sự phát triển: Là sự thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng.
- Phương thức, hình thức của sự phát triển chính: Là quá trình tích luỹ dần
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
19


- Khuynh hướng của sự phát triển: Sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa
liên tục.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển chỉ ra cho chúng ta trong hoạt động thực tiễn phải
có quan điểm phát triển. Phải có tư duy linh hoạt, mềm dẻo và biện chứng. Nghĩa là:
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phát triển,
biến đổi của chính bản thân sự vật, hiện tượng đó. Thấy rõ tính quanh co, phức tạp
của quá trình phát triển như là hiện tượng phổ biến.
- Phải thấy được chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ đó tìm ra cái
mới, tiến bộ trong sự vận động phát triển đó. Không những thấy sự vật như là cái
đang có, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
- Kiên quyết đấu tranh chống lại cái cũ lạc hậu, kìm hãm sự phát triển. Tích
cực, ủng hộ cái phát triển tiến bộ, tôn trọng cái mới. Đồng thời không được coi nhẹ
cái cũ.
- Quán triệt quan điểm phát triển đòi hỏi trong tư tưởng chúng ta phải chống
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến hoặc tuyệt đối hoá một nhận thức nào đó về sự
vật.
KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống các nguyên
lý, những phạm trù cơ bản, những qui luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực.
Nghiên cứu nắm chắc nội dung của Phép biện chứng duy vật là việc hết sức cần
thiết nhằm xây dựng thái độ lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của

Đảng ta, đồng thời góp phần hữu ích vào công cuộc đó.

20


Bài 4
NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG
THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI

Vị trí của quy luật: Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là 1 trong 3 quy luật cơ bản của
PBCDV chỉ rõ cách thức của sự vận động, biến đổi của sự vật hiện tượng.
1. Khái niệm về chất, lượng
a. Khái niệm chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó,
mà không phải là cái khác.
- Chất của một sự vật là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính tạo thành tính
quy định của sự vật để phân biệt nó với cái khác.
+ Thuộc tính là biểu hiện những tính chất, đặc điểm, khía cạnh nào đó của
sự vật trong sự tác động qua lại với sự vật khác.
+ Chất của sự vật không phải là một thuộc tính riêng lẻ hay là sự cộng lại
của các thuộc tính mà là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính.
Lưu ý:
* Phân biệt chất và thuộc tính chỉ có ý nghĩa tương đối, tuỳ thuộc quan hệ
đang xét.
* Các thuộc tính của sự vật có vị trí không ngang bằng nhau, có thuộc tính
cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành
chất căn bản của sự vật. Mỗi sự vật chỉ có một chất căn bản, nó quy định sự tồn tại

hay mất đi của bản thân sự vật.
- Mỗi SV có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật có một phức hợp
những đặc trưng về chất. Do đó, mỗi sự vật có vô vàn chất.
VD: Đồng (Cu) là chất dẫn điện, chất dẫn nhiệt, chất xúc tác trong các phản
ứng hoá học…
- Chất không những được xác định bởi các yếu tố cấu thành mà còn xác định
bởi cấu trúc của SV, bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó.
Ví dụ: Than chì và kim cương đều do nguyên tố Cácbon tạo thành, nhưng lại
khác biệt rất căn bản về chất. Sự khác nhau về chất ấy được quyết định bởi phương
thức liên kết khác nhau của các phân tử Các bon.
- Chất biểu hiện tính tương đối ổn định của sự vật, là cái vốn có, không tách
rời sự vật, chất là chất của sự vật, chất tồn tại khách quan.
b. Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị
bằng số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự
vật cũng như các thuộc tính của nó .
- Lượng được xác định bởi số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận cấu
thành sự vật và các đại lượng đặc trưng cho sự vật ấy.
Ví dụ: Một phân tử nước H2O được cấu tạo bởi 2 nguyên tử Hyđrô và 1
nguyên tử Ôxy.
21


- Có những lượng của sự vật được xác định bằng những đơn vị đo lường cụ
thể và chính xác, nhưng cũng có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu
tượng và khái quát hoá.
Ví dụ: Trình độ giác ngộ cách mạng của một con người,…
- Lượng cũng là tính quy định vốn có của sự vật, nó mang tính khách quan.
Vì nó là yếu tố bên trong sự vật, mà sự vật tồn tại khách quan nên lượng
cũng tồn tại khách quan, do đó căn cứ vào lượng có thể phân biệt được sự khác

nhau giữa các sự vật (dù mới chỉ là sự khác nhau bề ngoài).
Ví dụ: Nước hiện nay dân số hơn 1,3 tỷ người là Trung Quốc.
- Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối tuỳ theo mối quan hệ đang
xem xét, còn trong một mối quan hệ xác định thì chất nào lượng nấy.
Ví dụ: Ôxy và Hyđrô là các chất, nhưng lại là lượng cấu tạo nên phân tử
nước H2O.
2. Nội dung cơ bản của quy luật
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng; sự vận động của sự vật
diễn ra bắt đầu từ sự biến đổi dần dần về lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng vượt
qua giới hạn “độ” sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước
nhảy; chất mới ra đời sẽ tạo khả năng mới cho sự biến đổi của lượng mới, cứ như
vậy làm cho sự vật phát triển không ngừng.
Quy luật lượng chất nói lên sự tác động biện chứng giữa hai mặt trong sự vật
đó là sự vận động thống nhất giữa hai mặt lượng và chất.
- Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất.
+ Lượng là lượng của một chất xác định, chất là chất của một sự vật cụ thể;
đi liền với một tính quy định về lượng là một tính quy định về chất, và ngược lại.
+ Sự thống nhất giữa lượng và chất là điều kiện tồn tại của mọi SVHT.
* Không có sự thống nhất giữa lượng và chất thì không có SVHT nào tồn
tại, song sự thống nhất ấy không phải là tuyệt đối, vĩnh viễn.
* Đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập nên chỉ được duy trì trong một
khoảng giới hạn nhất định gọi là “độ”.
- Sự biến đổi của sự vật bao giờ cũng đi từ sự thay đổi dần dần về lượng đến
biến đổi về chất.
+ Sự thay đổi dần dần về lượng là quá trình tích luỹ dần dần các yếu tố, các
đặc trưng, các thuộc tính, các tính quy định của sự vật mới trong giới hạn độ của sự
vật cũ.
+ Khi lượng biến đổi đạt đến điểm nút diễn ra sự chuyển hoá những thay đổi
về lượng thành thay đổi về chất.
- Sự biến đổi về lượng phải đạt tới một giới hạn nhất định mới dẫn tới sự

biến đổi về chất. Khoảng giới hạn mà sự biến đổi về lượng chưa dẫn tới sự biến đổi
về chất được gọi là “độ”.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó
là khoảng giới hạn, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản
về chất của sự vật.
- Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất
của sự vật được gọi là điểm nút.
Ví dụ: Nước H2O từ < 0oC đến >100oC: 0oC và100oC được gọi là điểm nút.
22


Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi 2 điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi
đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và chất
tạo thành một độ mới với điểm nút mới.
- Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là
bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về
chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
- Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất không xảy ra trong mọi
điều kiện, mà chỉ xảy ra trong điều kiện nhất định.
- Chất mới ra đời lại tạo khả năng mới cho sự biến đổi về lượng.
Vì: SV mới ra đời lại có kết cấu mới của lượng - chất, trong kết cấu đó chất
mới sẽ tạo điều kiện, khả năng cho lượng biến đổi.
3. Các hình thức của bước nhảy
Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú với
những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy được quyết định bởi bản
thân sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó SV thực hiện bước nhảy.
a. Căn cứ vào nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật
- Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy diễn ra trong thời gian ngắn làm biến
đổi tất cả các bộ phận cấu thành sự vật.

Ví dụ: Giải phóng năng lượng dưới dạng vụ nổ nguyên tử (khối lượng
Uranium 235 (U235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử
trong chốc lát).... Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 ở nước ta.
- Bước nhảy dần dần: là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng
cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ
dần dần mất đi.
Ví dụ: Quá trình chuyển hoá từ vượn thành người diễn ra hàng vạn năm.
Quá trình cách mạng đưa nước ta vốn là nước kinh tế lạc hậu quá độ đi lên CNXH,
bỏ qua chế độ TBCN.
Lưu ý: Phân biệt bước nhảy dần dần với tích luỹ về lượng.Tích luỹ về
lượng: diễn ra một cách liên tục trong khuôn khổ chất đang có; bước nhảy dần dần
là sự chuyển hoá từ chất này sang chất khác.
b. Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật
- Bước nhảy toàn bộ: là bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các
bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật.
Ví dụ: Sự chuyển biến của một hình thái kinh tế - XH trong lịch sử xã hội.
- Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số bộ phận,
một số yếu tố của sự vật đó.
Ví dụ: Quá trình phát triển đi lên CNXH ở nước ta đang diễn ra từ thay đổi
cục bộ (từng mặt) đi đến toàn bộ.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết
từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Chống: tư tưởng
chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn”.
- Khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước
nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về
23


chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hoá sang những thay đổi mang tính

chất cách mạng.
Chống: tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh”, chỉ coi sự phát triển chỉ là sự
thay đổi đơn thuần về lượng.
- Trong hoạt động thực tiễn, con người phải biết vận dụng linh hoạt các hình
thức của bước nhảy.
Sự vận dụng này tuỳ thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện
khách quan và những nhân tố chủ quan, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, từng điều
kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất đa
dạng, phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy
toàn bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của
từng yếu tố.
II. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI
LẬP

Vị trí quy luật: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 1
trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ rõ nguồn gốc, động lực
của sự phát triển, là hạt nhân của phép biện chứng.
1. Khái niệm về mặt đối lập và mâu thuẫn
a. Khái niệm mặt đối lập
Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau ở
trong cùng một sự vật hiện tượng.
Mặt đối lập không tồn tại một mình mà chỉ tồn tại trong trong mối liên hệ
với mặt đối lập khác.
Ví dụ: Điện tích âm - dương (điện tích); Tốt - xấu (đạo đức con người)
b. Khái niệm mâu thuẫn
Mâu thuẫn là phạm trù dùng để chỉ hai mặt đối lập cùng tồn tại trong một
SVHT có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.
- Mâu thuẫn được tạo dựng bởi hai mặt đối lập.
- Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành

mâu thuẫn biện chứng.
Các mặt đối lập tuy có xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau nhưng chúng lại
gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau để tạo thành mâu thuẫn.
- Đặc trưng cơ bản của mâu thuẫn:
+ Tính khách quan.
Bất cứ SV nào cũng có một cấu trúc nhất định, được cấu tạo bởi các mặt, các yếu
tố, bộ phận. Các mặt, các yếu tố, các bộ phận này luôn tác động qua lại, liên hệ với
nhau. Sự tác động, liên hệ này là khách quan, vốn có của bản thân SV. Trong sự tác
động của các mặt, các yếu tố, các bộ phận đó có những mặt có khuynh hướng trái
ngược nhau tạo thành mâu thuẫn. Do đó, mâu thuẫn có tính khách quan.
+ Tính phổ biến.
Mâu thuẫn tồn tại trong mọi SVHT và trong mọi lĩnh vực cả trong tự nhiên,
xã hội và tư duy. Trong 1SV, mâu thuẫn tồn tại trong suốt quá trình tồn tại và phát
triển của SV từ khi ra đời cho đến khi kết thúc.
24


Ví dụ: Mâu thuẫn trong tự nhiên: các điện tích trái dấu, đồng hoá - dị hoá,
biến dị - di truyền,…
* Trong XH: LLSX - QHSX, giai cấp thống trị - giai cấp bị trị,…
* Trong tư duy: đúng - sai, tiến bộ - lạc hậu, biện chứng - siêu hình….
+ Tính đa dạng, phong phú, muôn vẻ.
Các SVHT đa dạng, phong phú, muôn vẻ. Mà trong SVHT lại tồn tại nhiều
mâu thuẫn, do đó mâu thuẫn mang tính phong phú, muôn vẻ.
Tính đa dạng, phong phú, muôn vẻ của MT luôn gắn liền với tính riêng biệt
của mâu thuẫn, vì mâu thuẫn của SV này khác với mâu thuẫn của SV khác, mâu
thuẫn này khác với mâu thuẫn kia của cùng một SV.
2. Nội dung cơ bản của quy luật
CNDVBC khẳng đinh: Thống nhất và đấu tranh là hai trạng thái đối lập của
một mâu thuẫn. Sự thống nhất (trong đấu tranh) của các mặt đối lập là tương đối,

tạm thời, là tiền đề cho sự tồn tại của các sự vật hiện tượng; sự đấu tranh (trên cơ
sở của thống nhất) của các mặt đối lập là tuyệt đối, vĩnh viễn, là nguồn gốc, động
lực bên trong của sự vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng..
- Mọi sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất của các mặt đối lập.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là một trạng thái của mâu thuẫn, trong
đó các mặt đối lập cùng tồn tại bởi sự ràng buộc, nương tựa vào nhau, mặt đối lập
này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề tồn tại.
Ví dụ:
* Các hạt mang điện tích (+) và điện tích (–) trong nguyên tử phải dựa vào
nhau để tồn tại. Nếu tổng số điện tích (–) lớn hơn điện tích (+) hoặc ngược lại thì
nguyên tử sẽ bị phá vỡ trở thành ion.
* Sự nương tựa vào nhau cùng tồn tại của GCTS và GCVS trong xã hội tư
bản. GCVS phải bán sức lao động cho GCTS để nuôi sống bản thân, tái sản xuất
sức lao động và nuôi sống gia đình; trái lại, GCTS nhờ bóc lột sức lao động của
GCVS mà thu được ngày càng nhiều của cải, nhiều giá trị thặng dư do đó càng
nhanh chóng giàu hơn.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là một trường hợp đặc biệt về sự đối lập
giữa các mặt, ở đó chúng có những đặc trưng, những yếu tố nào đó giống nhau,
đồng nhất với nhau. Chính sự thống nhất, đồng nhất này mà các mặt đối lập có thể
chuyển hoá được cho nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua,
tương đối, tương ứng với trạng thái đứng im tương đối của sự vật, là cơ sở cho sự
tồn tại của sự vật hiện tượng.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, là nguồn gốc, động lực của sự
vận động và phát triển của các SVHT.
+ Đấu tranh của các mặt đối lập là trạng thái của mâu thuẫn, ở đó các mặt
đối lập tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng.
* Sự đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình các mặt đối lập làm đối tượng
để thâm nhập vào nhau, làm cho cả mặt này lẫn mặt kia luôn vận động, biến đổi.
VD: Trong XHTB luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa GCTS và GCVS. GCTS

ra sức bóc lột, hạn chế tối đa mọi quyền lợi của GCVS; GCVS muốn lật đổ sự
thống trị, bóc lột của GCTS.
25


×