Tải bản đầy đủ (.docx) (207 trang)

Ảnh hưởng của đạo đức nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông hồng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 207 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ THÚY CHINH

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
ĐỐI VỚI XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2019


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ THÚY CHINH

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
ĐỐI VỚI XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.

PGS, TS Nguyễn Thị Ngân


2.

TS Phạm Thị Hoàng Hà

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả

Trần Thị Thúy Chinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
1.2. Đánh giá chung các công trình tổng quan và vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu của luận án
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC
NHO GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA

2.1. Đạo đức Nho giáo
2.2. Gia đình văn hóa và xây dựng gia đình văn hóa

2.3. Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa
Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Những nhân tố tác động đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với
xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
3.2. Thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình
văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - một số biểu hiện chủ yếu
3.3. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng
gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT
HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA
ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY

4.1. Quan điểm cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa
vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa
vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH


: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

ĐĐNG

: Đạo đức Nho giáo



: Gia đình

GĐTT

: Gia đình truyền thống

GĐVH

: Gia đình văn hóa

KTTT

: Kinh tế thị trường

MQH

: Mối quan hệ


NXB

: Nhà xuất bản

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội, gia đình luôn có vị trí đặc
biệt quan trọng, bởi gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình yên ấm, hạnh
phúc là “tế bào” lành mạnh để xã hội ổn định và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình
tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là
gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chú ý hạt
nhân cho tốt” [29, tr.523]. Nhận thức được tầm quan trọng của gia đình, để
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
đất nước, trong Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 tại Hội nghị lần thứ
năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về Xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta xác định:
Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa
gia đình, nhà trường và xã hội. Trong chặng đường gần 20 năm xây dựng gia
đình văn hóa (GĐVH), bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, thì còn
tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, mà một trong những nguyên nhân đó là sự tác
động của các yếu tố văn hóa truyền thống, trong đó có đạo đức Nho giáo.
Nội dung đạo đức Nho giáo đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau, bên

cạnh nội dung chủ yếu về “luân thường” thì còn có tư tưởng “hiếu đễ”, tư
tưởng “tứ đức”... Mặc dù, nội dung đạo đức của Nho giáo có sự thay đổi trong
quá trình tồn tại và phát triển qua các thời kỳ, nhưng nhìn chung nó đã thẩm
thấu và ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là
đến đời sống gia đình, không chỉ ở trên mảnh đất nó sinh ra mà còn ở các
quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Du nhập vào Việt Nam, đạo đức Nho
giáo được dung hợp và hòa đồng vào đời sống người Việt, tạo thành một bộ
phận của văn hóa truyền thống Việt Nam, được “Việt Nam hóa” thành Nho
giáo bản địa. Tồn tại lâu dài trong lòng xã hội Việt Nam, Nho


2
giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống tinh thần của xã hội, đặc biệt trong văn hóa, đạo đức của các gia
đình.
Đồng bằng sông Hồng là cái nôi của nền văn minh lúa nước, là địa bàn
duy trì sự tồn tại, phát triển lâu dài của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam
trong lịch sử, vì thế Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng được
dung dưỡng và ảnh hưởng sâu sắc đến vùng đất này. Các chuẩn mực đạo đức
Nho giáo đã thẩm thấu một cách tự nhiên vào từng gia đình, cá nhân, góp
phần hình thành nên các phong tục, tập quán của cộng đồng truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, tạo nên tính đặc thù về văn hóa ở nơi đây. Do đó, trong
quá trình xây dựng GĐVH ở vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) đã chịu ảnh
hưởng sâu sắc bởi các yếu tố đạo đức Nho giáo (ĐĐNG), đặc biệt trong các
mối quan hệ (MQH) đạo đức gia đình. Một mặt, ĐĐNG đề cao sự tôn ti, trận
tự, nền nếp gia phong; đề cao tình yêu thương và trách nhiệm giữa các thành
viên trong GĐ; đề cao sự hiếu kính; đề cao lối sống tình nghĩa giữa gia đình
đối với cộng đồng... điều này phù hợp với những tiêu chí của GĐVH, góp
phần củng cố, xây dựng các mối quan hệ đạo đức gia đình. Mặt khác, chủ
nghĩa gia đình trị, bè phái dòng họ; nghi lễ, thủ tục rườm rà; tính gia trưởng

cực đoan, tư tưởng trọng nam khinh nữ… trong quan niệm của đạo đức Nho
giáo lại đi ngược với tiêu chí tiến bộ, văn minh của GĐVH, trở thành lực cản
lớn trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả lựa chọn vấn
đề: “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa ở
vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình,
với mong muốn đánh giá một cách khách quan ảnh hưởng của đạo đức Nho
giáo đối với xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay; đồng thời tìm ra các
giải pháp phù hợp để phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của ĐĐNG, góp phần xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH phát triển bền
vững.


3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây
dựng GĐVH vùng ĐBSH và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, ngoài phần tổng quan tình hình
nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối
với xây dựng GĐVH.
Thứ hai, làm rõ thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Thứ ba, xác định quan điểm cơ bản và đề xuất các giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức
Nho giáo đối với xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo đức Nho
giáo đối với xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Đạo đức Nho giáo và xây dựng GĐVH có nội
dung khá rộng. Do vậy, luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung chủ
yếu của đạo đức Nho giáo có ảnh hưởng trực tiếp và nhiều nhất đối với xây
dựng GĐVH, đó là: Tư tưởng “tam cương”, tư tưởng “ngũ thường”, tư tưởng
“hiếu” và tư tưởng “tứ đức”. Về xây dựng GĐVH, luận án tập trung nghiên
cứu các mối quan hệ đạo đức trong gia đình, đó là mối quan hệ giữa: cha mẹ
và con cái, chồng và vợ, anh - chị - em, và mối quan hệ giữa gia đình với cộng
đồng, nhằm hướng tới xây dựng gia đình “no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn
minh” [19, tr.128].


4
Không gian nghiên cứu: Luận án giới hạn và tập trung nghiên cứu một
số tỉnh, thành phố, đó là: Thành phố Hà Nội, tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Thái Bình,
tỉnh Ninh Bình.
Thời gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức Nho
giáo đối với xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH trong giai đoạn hiện nay (từ năm
1998 - triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà
nước về vấn đề gia đình, xây dựng GĐVH; Tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và
phát triển những giá trị khoa học của một số công trình nghiên cứu đã công bố
liên quan đến nội dung của luận án.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: phương pháp logic - lịch sử; so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê…
Đặc biệt, trong luận án, tác giả có sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ
thể cơ bản sau:
-

Phương pháp phân tích tài liệu.

Luận án sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để thu thập, nghiên cứu,

đánh giá vấn đề. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được từ các nguồn: Văn kiện Đại
hội và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam; Hồ
Chí Minh toàn tập - phần về gia đình (GĐ) và GĐVH; sách, báo, tạp chí
chuyên ngành; các báo cáo khoa học của các đề tài nghiên cứu có liên quan;
các niên giám thống kê được công bố hàng năm của Tổng cục thống kê; báo
cáo của cơ quan quản lý thuộc các tỉnh, thành phố, các tổ chức chính trị - xã
hội có liên quan và các tài liệu tham khảo khác. Những dữ liệu thu được từ
quá trình phân tích tài liệu giúp tác giả có cái nhìn tổng quan, cụ thể về thực
trạng ảnh hưởng của ĐĐNG đối với xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.


5
-

Phương pháp quan sát thực tế.

Phương pháp quan sát thực tế thông qua cuộc sống và cách thức ứng xử
thường ngày giữa các thành viên trong gia đình vùng ĐBSH để hiểu rõ hơn về

ảnh hưởng của ĐĐNG đến văn hóa gia đình và xây dựng GĐVH ở vùng
ĐBSH. Những thông tin thu được từ phương pháp quan sát thực tế giúp tác
giả có thêm dữ liệu để luận giải và đánh giá về đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát xã hội học/ điều tra bằng bảng hỏi.
Phương pháp khảo sát xã hội học (điều tra bằng bảng hỏi) được tác giả
sử dụng để thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này
được tác giả thực hiện qua quy trình các bước như sau:
Thứ nhất, xây dựng bảng hỏi. Để thấy rõ được thực trạng ảnh hưởng
của ĐĐNG đối với xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay, tác giả xây dựng
01 bảng hỏi để khảo sát ý kiến của người dân. Trên cơ sở các thông tin thu
thập được, tác giả tiến hành xây dựng cấu trúc bảng hỏi để thu thập thông tin
định lượng. Bảng khảo sát ý kiến người dân gồm 14 câu hỏi, tập trung vào các
vấn đề chính, đó là: Đánh giá của người dân về ảnh hưởng của ĐĐNG đến
các MQH (cha mẹ - con cái; chồng - vợ; anh - em) trong gia đình và mối quan
hệ giữa gia đình với cộng đồng trên cả hai mặt (tích cực và tiêu cực); phương
thức ảnh hưởng và những giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của ĐĐNG đối với xây dựng GĐVH ở địa phương.
Sau khi hoàn thành bảng hỏi, tác giả đã tiến hành điều tra thử 10 bảng hỏi
(phiếu) để kiểm tra tính sát thực của các câu hỏi và phương án trả lời. Trên cơ
sở đó, tác giả hoàn thiện bảng hỏi để tiến hành khảo sát.
Thứ hai, chọn mẫu. Sau khi bảng hỏi được hoàn thành, tác giả tiến hành
chọn mẫu và thu thập thông tin. Trong số 11 tỉnh, thành phố của vùng ĐBSH, tác
giả đã lựa chọn 04 tỉnh, thành phố để tiến hành khảo sát định lượng, đó là: thành
phố Hà Nội, tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Thái Bình và tỉnh Ninh Bình. Việc lựa chọn 04
tỉnh, thành phố đại diện này dựa trên cơ sở về mặt địa lý đặc trưng của Vùng, về
trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa thành thị và nông thôn; đặc biệt là yếu tố


6
lịch sử văn hóa gắn với sự ảnh hưởng của ĐĐNG. Về số lượng phiếu, tác giả

tiến hành khảo sát 600 phiếu, mỗi tỉnh khảo sát 150 phiếu.
Thứ ba, tiến hành thu thập dữ liệu. Sau khi hoàn thành phiếu khảo sát, tác
giả tiến hành khảo sát dựa trên mẫu đã xác định trước, đó là người dân ở 04 tỉnh,
thành phố (thành phố Hà Nội; tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Thái Bình và tỉnh Ninh Bình).

Thứ tư, xử lý dữ liệu bằng chương trình ecxel. Sau khi hoàn thành việc
thu thập thông tin thông qua bảng hỏi, tác giả sử dụng phần mềm ecxel để xử
lý dữ liệu thu thập được.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo
ảnh hưởng đối với các mối quan hệ gia đình trong xây dựng GĐVH.
Thứ hai, góp phần làm rõ thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
đối với xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng
tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Về mặt khoa học
Thành công của luận án góp phần cung cấp luận cứ, cơ sở khoa học cho
việc đề xuất, thực thi chính sách liên quan đến công tác gia đình, đến việc
phát huy ảnh hưởng tích cực và khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức
Nho giáo trong xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về
ĐĐNG, về xây dựng GĐVH. Các tỉnh, thành phố vùng ĐBSH có thể sử dụng
kết quả nghiên cứu này vận dụng vào việc xây dựng GĐVH ở địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình của tác giả đã được công
bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.



7
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Nghiên cứu về Nho giáo, đạo đức Nho giáo; nghiên cứu về gia đình,
GĐVH; nghiên cứu sự ảnh hưởng của Nho giáo, vận dụng Nho giáo vào việc
xây dựng gia đình thì có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, tiếp cận,
luận giải dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể phân thành các nhóm sau đây:
1.1.1. Những nghiên cứu về Nho giáo, đạo đức Nho giáo và sự ảnh
hưởng của nó trong xã hội Việt Nam
Các công trình đi sâu luận giải nguồn gốc, nội dung của Nho giáo;
nghiên cứu về quá trình du nhập và phát triển Nho giáo ở Việt Nam; nghiên
cứu về sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam trên các
các lĩnh vực chính trị - xã hội, hệ tư tưởng, văn hoá, đạo đức, giáo dục - khoa
cử... Cụ thể được biểu hiện ở các công trình tiêu biểu sau đây:
Quang Đạm, Nho giáo xưa và nay [17]. Cuốn sách bao gồm 10 chương,
tập trung trình bày một cách cụ thể các vấn đề liên quan đến Nho giáo, như:
phạm trù tam tài: trời, đất và người; đạo đức và chính trị; phạm trù Nhà, Nước
và Thiên Hạ; vấn đề học tập; vấn đề con người… từ đó đối chiếu, so sánh sự
tồn tại của các nội dung này trong xã hội xưa và nay như thế nào. Từ đó, cho
chúng ta thấy sự phát triển xuyên suốt của Nho giáo trong tiến trình lịch sử
của nó có nhiều sự biến đổi gắn với sự thay đổi của thời đại.
Nguyễn Tài Thư, Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ [90]. Luận án
đã luận giải những quan điểm của Nho giáo sơ kỳ xoay quanh vấn đề con
người, nguồn gốc, bản chất, vai trò của con người... Từ nền tảng cơ sở lý luận
đó, luận án nêu lên những yêu cầu đối với giáo dục con người Việt Nam trong
thời đại mới, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách.

Nguyễn Tài Thư, Nho học và Nho học ở Việt Nam (Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn) [92]. Cuốn sách tập trung luận giải 3 nội dung chính: Nho học ở


8
Trung Quốc - lịch sử và hiện tại; Nho học và một số vấn đề lịch sử tư tưởng
Việt Nam; Vai trò của Nho học trong lịch sử và hiện tại ở Việt Nam. Thông
qua 3 nội dung chính, cuốn sách cho chúng ta một cái nhìn tổng thể có tính
lôgic - lịch sử về Nho học không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở Việt Nam.
Phan Đại Doãn, Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam [15]. Trong cuốn
sách này, tác giả đã phân tích rõ những nét cơ bản của tiến trình xác lập vị thế và
những thành tựu của Nho giáo trong chặng đường lịch sử từ thế kỷ XV đến đầu
thế kỷ XX. Đây là thời kỳ mà Nho giáo ở Việt Nam chiếm địa vị độc tôn trong
sự toàn thịnh của chế độ quân chủ chuyên chế ở nước ta. Tác giả cũng chỉ rõ,
mặc dù Nho giáo ở Việt Nam hiện nay không còn đáp ứng được yêu cầu của xã
hội, nhưng những thành tựu của nó, đặc biệt là những tiến bộ, hợp lý về xây
dựng gia đình, xây dựng cộng đồng, tu dưỡng cá nhân…cần được khai thác, phát
huy theo hướng gạn đục khơi trong, góp phần vào sự phát triển đất nước.

Nguyễn Đăng Duy, Nho giáo với văn hóa Việt Nam [16]. Thông qua 9
chương, cuốn sách đã cho chúng ta thấy được một cách toàn diện các nội
dung cơ bản của Nho giáo và sự tác động của nó đến văn hóa Việt Nam trên
tất cả các mặt, như: Nho giáo - chữ nho với khoa cử; Nho giáo với vũ trụ
quan; Nho giáo với nhân sinh quan; Nho giáo với văn học nghệ thuật; Nho
giáo với văn hóa gia đình; Nho giáo với đạo đức; Nho giáo với văn hóa chính
trị; Nho giáo với y học… Từ đó rút ra những giá trị tích cực cần được phát
huy, vận dụng trong xã hội đương đại.
Nguyễn Khắc Viện, Bàn về đạo Nho [117]. Tác giả đã nêu ra mặt tích cực
và hạn chế của Nho giáo. Đặc biệt ông nhấn mạnh mặt tích cực của đạo Nho khi
cho rằng: “Đạo Nho đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành lòng

yêu nước. Nguyễn Đình Chiểu, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng là những
nhà Nho, không thể xuyên tạc sự thật, bảo những chí sĩ ấy không liên quan gì
đến Nho giáo cả”. Khi đánh giá những điều tâm đắc của mình về Nho giáo, Ông
đánh giá cao tư tưởng về “Đạo làm người” và “Đối nhân xử thế” của Nho giáo.
Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội [40].
Trong cuốn sách này, tác giả đã nghiên cứu một cách toàn diện về những nội


9
dung cơ bản của Nho giáo, sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam, cũng như
những ảnh hưởng của nó đến lịch sử đất nước ta. Từ đó, tác giả đưa ra nhận
xét, đánh giá, luận giải về những đóng góp, tác động tích cực của Nho giáo
(đặc biệt là đạo đức Nho giáo) cần được kế thừa và phát huy, đồng thời chỉ ra
những hạn chế, lạc hậu, bảo thủ của tư tưởng Nho giáo cần xóa bỏ trong quá
trình xây dựng xã hội và con người hiện nay.
Nguyễn Văn Hoài, Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê
Thánh Tông đến Minh Mệnh [28]. Thông qua cuốn sách, tác giả luận giải bức
tranh tổng thể về lịch sử tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam, đặc biệt tập trung
vào hai triều đại phong kiến Lê Thánh Tông và Minh Mệnh. Tác giả đi sâu
nghiên cứu thể chế chính trị và hoạt động của nhà nước phong kiến cùng các hiện
tượng, quá trình chính trị xã hội, tư tưởng, văn hóa dưới ảnh hưởng của Nho giáo
trong việc khẳng định mạnh mẽ ý thức dân tộc, củng cố quốc gia thống nhất.
Đồng thời cuốn sách cũng đánh giá khách quan về tư tưởng chính trị Nho giáo
nói riêng và vai trò của Nho giáo nói chung ở Việt Nam, từ đó góp phần giải bài
toán “truyền thống và hiện đại”, tạo động lực cho công cuộc đổi mới đất nước.
Nguyễn Thị Nga, Hồ Trọng Hoài, Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con
người [57]. Các tác giả đã phân tích một cách sâu sắc, toàn diện quan điểm của
Nho giáo về giáo dục, vai trò của giáo dục đối với việc hình thành nhân cách con
người, các chuẩn mực đạo đức cơ bản trong giáo dục đạo làm người…, từ đó đưa
ra đánh giá, phê phán và rút ra những giá trị vận dụng vào việc giáo dục con

người Việt nam hiện nay, đặc biệt là giáo dục về phẩm chất đạo đức.
Nguyễn Thị Thanh Mai, Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức
người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay [51]. Trong luận án này, tác
giả đi sâu tìm hiểu các nội dung chủ yếu và một số nét riêng biệt của đạo đức
Nho giáo ở Việt Nam so với Trung Quốc, phân tích thực trạng ảnh hưởng của đạo
đức Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay ở nước ta
và một số vấn đề đặt ra từ sự ảnh hưởng này, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản
để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho


10
giáo trong việc xây dựng đạo đức con người, đặc biệt là đạo đức người cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
Lương Khải Siêu, Triết học Nho gia [70]. Thông qua cuốn, sách tác giả
đã trình bày những nội dung cơ bản liên quan đến triết học Nho gia, như: triết
học Nho gia là gì? Tại sao phải nghiên cứu triết học Nho gia? Phương pháp
nghiên cứu triết học Nho gia, quá trình phát triển triết học Nho gia, những vấn
đề quan trọng của triết học Nho gia. Qua những nội dung đó, cho chúng ta
thấy cái nhìn toàn diện về triết học Nho gia, trong đó có tư tưởng về đạo đức.
Phan Bội Châu, Khổng học đăng [10]. Phan Bội Châu đã có những đánh
giá toàn diện về Nho giáo, đặc biệt là các nội dung của Nho giáo được trình bày
trong các cuốn sách kinh điển Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, Đại học. Ông
khẳng định: “Nghiên cứu lại tứ thư theo quan niệm mới có liên hệ với lịch sử
Trung Quốc, Việt Nam và với một số nước khác trên thế giới, đồng thời chỉ ra
cái hay, cái tích cực, phê phán những cái tiêu cực có liên quan đến tư tưởng Nho
giáo, rút ra bài học kinh nghiệm, đem ứng dụng vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam”. Và như lời nhận xét của Nhà xuất bản Minh Anh: “có lẽ đây là di cảo có
giá trị và công phu nhất của cụ Phan Bội Châu. Với nhan đề “Khổng học đăng”,
nhà chí sĩ tiền bối có ý đưa ra cái tinh hoa của nền Khổng học, một nền cổ học
siêu việt đã chế ngự nền tư tưởng phương Đông”.


Lê Văn Thăng, Ảnh hưởng của tư tưởng “ngũ thường” đối với văn
hóa Việt Nam [80]. Thông qua bài viết, tác giả đã luận giải quá trình du nhập,
truyền bá tư tưởng “ngũ thường” vào Việt Nam và sự ảnh hưởng của nó đến
văn hóa Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại. Từ đó rút ra ý nghĩa trong
việc vận dụng, kế thừa tư tưởng “ngũ thường” vào việc xây dựng văn hóa ở
Việt Nam hiện nay.
Ngộ Mộc Tài, Nghiên cứu về “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” [77]. Thông
qua bài viết, tác giả đã luận giải nội dung cơ bản của tư tưởng “nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín”, từ đó rút ra giá trị của nó trong việc giáo dục đạo đức con
người Trung Quốc ngày nay.


11
Cao Vọng Chi, Đạo hiếu trong Nho gia [11]. Cuốn sách trình bày một
cách hệ thống về nội dung tác phẩm “Hiếu Kinh” của Nho gia, về cơ sở của
hệ tư tưởng, những lời dạy của chữ “hiếu” đối với các đối tượng khác nhau
trong xã hội và tác động của đạo Hiếu đối với các nước chịu sự ảnh hưởng
của Nho gia, trong đó có Việt Nam.
Trần Thị Lan Hương, Đạo đức trung, hiếu trong Nho giáo và ý nghĩa
của nó đối với việc giáo dục ý thức trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay [32]. Tác
giả đi sâu nghiên cứu những nội dung cơ bản của đạo đức trung, hiếu trong
lịch sử từ Nho giáo nguyên thủy đến Hán Nho và Tống Nho; chỉ ra một số yếu
tố cơ bản quy định sự tiếp biến của Nho giáo ở Việt Nam và một số nội dung
cơ bản của đạo đức trung, hiếu trong Nho giáo ở Việt Nam. Tác giả khẳng
định: Những quan điểm đạo đức trung, hiếu đã được luật hóa gắn với nghĩa vụ
và trách nhiệm của con người trong xã hội phong kiến, do đó nó ảnh hưởng
sâu đậm đến ý thức trách nhiệm của con người Việt Nam trong lịch sử. Tác
giả đã khẳng định những giá trị cơ bản của đạo đức trung, hiếu trong xã hội
Việt Nam hiện đại, từ đó đề ra những nội dung cơ bản của việc giáo dục ý

thức trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay trên nền tảng đạo đức trung, hiếu của
Nho giáo. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh việc giáo dục ý thức trách
nhiệm của cá nhân đối với chính bản thân mình, với gia đình và xã hội.
Nguyễn Thị Vân, Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và ảnh hưởng
của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay [115]. Trong luận án này, tác giả
đã phân tích tác động hai mặt của thuyết Tam tòng, Tứ đức đối với người phụ nữ
Việt Nam hiện nay cả trong gia đình và ngoài xã hội trên hai mặt tích cực và tiêu
cực. Từ đó, tác giả chỉ rõ một số vấn đề đặt ra cần giải quyết và đề xuất những
giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của
thuyết Tam tòng, Tứ đức đến người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Tần Tại Đông, Trần Hoa Châu, Nhân [21]. Cuốn sách tập trung luận giải
vai trò đức “nhân” của Nho giáo đối với xây dựng, giáo dục đạo đức của con
người, từ tu dưỡng tâm tính, kiểm soát nghiêm khắc bản thân, xây dựng chuẩn


12
mực hành vi trong đối nhân xử thế, trong giao tiếp xã hội, trong chốn “quan
trường” đến trong quản lý, trong dùng người.
Tiêu Hồng Quân, Nghê Diệc Trinh, Nghĩa [65]. Cuốn sách tập luận
giải vai trò đức “nghĩa” của Nho giáo giáo dục đạo đức con người hướng tới
Đạo nghĩa - con đường chân chính của loài người, hướng đến trọng đạo nghĩa
trong giao tiếp giữa người với người, hướng đến làm giàu phải hướng đến
việc nghĩa, hướng đến quản lý xã hội phải biết chính nghĩa…
Hạng Cửu Vũ, Chiêm Dật Thiên, Lễ [121]. Thông qua cuốn sách các
tác giả khẳng định vai trò đức “lễ” của Nho giáo trong việc giáo dục, rèn
luyện tu dưỡng đạo đức cá nhân, trong xử lý công việc, trong đối nhân xử thế,
trong giao kết bạn bè, trong thực hiện lễ tiết đời sống hàng ngày, trong quan
trường, trong quản lý con người…
Lê Văn Phục, Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho giáo Việt Nam và Nho
giáo Trung Quốc [63]. Thông qua bài viết tác giả luận giải xét về mặt nguồn gốc

cũng giống như các nước Nhật Bản, Triều Tiên - Hàn Quốc, Nho giáo

ở Việt Nam được bắt nguồn từ Trung Quốc. Nho giáo được du nhập và truyền
bá vào Việt Nam từ rất sớm. Khi đến Việt Nam về cơ bản kinh điển, hệ thống
của Nho giáo vẫn được giữ nguyên, tuy nhiên, khi du nhập vào một môi
trường mới, với con người, văn hóa xã hội mới thì cũng có ít nhiều thay đổi.
Du nhập và truyền bá vào Việt Nam, Nho giáo được dung hợp và hòa đồng
vào cách nghĩ của người Việt Nam, đã tạo thành một bộ phận của văn hóa
truyền thống Việt Nam, được “Việt Nam hóa” thành Nho giáo Việt Nam. Cho
nên giữa Nho giáo Trung quốc và Nho giáo Việt Nam bên cạnh những nét
tương đồng thì cũng có nhiều nét khác biệt.
Hoàng Thị Thu Trang, Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đời sống
tinh thần của người Việt Nam hiện nay [102]. Tác giả đã phân tích làm rõ những
nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo ở Trung Quốc và sự du nhập vào Việt
Nam. Cùng với việc phân tích làm rõ sự ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến
đời sống tinh thần của người Việt Nam, tác giả đã nêu rõ phương thức ảnh
hưởng; những nội dung ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trên một số phương


13
diện: Về đời sống chính trị, đời sống pháp luật, đời sống đạo đức của người
Việt Nam; chỉ ra nguyên nhân dẫn tới sự ảnh hưởng đó là xuất phát từ nguyên
nhân: Kinh tế, lịch sử, gióa dục, văn hóa… Từ đó tác giả chỉ ra những phương
hướng và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc phục
ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đến đời sống tinh thần của người
Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Những nghiên cứu về gia đình, xây dựng gia đình văn hóa ở
Việt Nam
Nghiên cứu về gia đình, GĐVH, cho đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu khác nhau, các công trình đã tập trung nghiên cứu các vấn đề liên

quan đến sự biến đổi gia đình, sự giao thoa ảnh hưởng các giá trị truyền thống
đến việc xây gia đình; nghiên cứu về việc xây dựng gia đình văn hóa… Cụ thể
được biểu hiện trong các công trình nghiên cứu sau đây:
Phạm Xuân Nam, Gia đình Việt Nam - các giá trị truyền thống [55].
Trong cuốn sách này, tác giả nhấn mạnh vai trò của các giá trị gia đình truyền
thống. Những giá trị truyền thống quý báu đã được gia đình Việt Nam gìn giữ
và phát huy trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước. Tác giả cũng đưa ra
những dự báo về xu hướng vận động, biến đổi của các giá trị truyền thống
trước sự tác động của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế là căn
cứ cho những cơ sở khoa học. Nhưng làm thế nào để giữ gìn và phát huy được
những giá trị truyền thống đó thì chưa được tác giả đề cập.
Đặng Cảnh Khanh, Gia đình, trẻ em và sự kế thừa các giá trị truyền thống

[37]. Cuốn sách gồm ba chương, trình bày một cách hệ thống về các vấn đề
liên quan đến gia đình, trẻ em và mối quan hệ giữa gia đình với việc giữ gìn,
phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Từ đó tác giả đã nêu ra thực
trạng giáo dục giá trị truyền thống trong các gia đình, nhà trường và xã hội
hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm phát huy các giá trị
truyền thống trong xây dựng gia đình thời đại mới. Đây là cuốn sách có giá trị
lý luận và thực tiễn to lớn để tác giả vận dụng vào việc nghiên cứu vấn đề xây
dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay.


14
Nguyễn Ngọc Lê, Để gia đình phát triển bền vững [44]. Trong bài viết
này, tác giả đã chỉ ra những vấn đề đáng báo động trong gia đình trẻ hiện nay
như tình trạng bạo lực gia đình, ly hôn, đặc biệt là sự mâu thuẫn tư tưởng
trong gia đình trẻ hiện nay về các vấn đề như: Quyền chăm sóc cha mẹ, ông
bà, thờ cúng tổ tiên; việc sinh con trai, con gái; bất đồng về tư tưởng bình
đẳng giới… Từ những vấn đề báo động trên, tác giả đề xuất những giải pháp

để khắc khục các vấn đề bất ổn trong gia đình hiện nay và góp phần xây dựng
gia đình phát triển bền vững.
Viện Xã hội học, Đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược gia đình Việt
Nam giai đoạn 2005- 2010 tại 8 tỉnh phía Bắc [119]. Báo cáo đã chỉ ra thành
công và hạn chế trong việc thực hiện Chiến lược gia đình đối với từng mục tiêu
và chỉ tiêu cụ thể. Một số thành tựu là: Số gia đình đạt tiêu chuẩn “Gia đình văn
hóa” đã tăng nhanh trong những năm vừa qua, nhiều tỉnh đạt trên 80%. Các cặp
vợ chồng sinh con thứ ba giảm rõ rệt. Tỷ lệ các vụ bạo lực gia đình và tỷ lệ gia
đình mắc vào tệ nạn xã hội có xu hướng giảm. Đồng thời, báo cáo tổng kết cũng
chỉ ra một số hạn chế trong triển khai, thực hiện từng mục tiêu cụ thể.

Nguyễn Thị Thọ, Xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay [83].
Cuốn sách đã luận giải một số vấn đề lý luận về đạo đức gia đình và đạo đức
gia đình Việt Nam; luận giải về sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức
gia đình Việt Nam, chỉ ra sự tác động tích cực, sự tác động tiêu cực, từ đó xác
định những vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với đạo đức gia đình nước ta hiện
nay. Giá trị lớn nhất của cuốn sách là tác giả đề xuất một số giải pháp định
hướng đối với việc xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay.
Bùi Thị Ngọc Lan, Mấy vấn đề đặt ra trong xây dựng gia đình văn hóa
thời kỳ đổi mới [41]. Từ việc nghiên cứu và chỉ ra những yếu tố tác động đến quá
trình xây dựng gia đình văn hóa hiện nay, tác giả đã nêu lên những vấn đề bất
cập về chính sách và quản lý nhà nước trong xây dựng gia đình văn hóa thời kỳ
hội nhập hiện nay. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng bất


15
cập trên, góp phần phát triển phong trào xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nguyễn Thế Long, Gia đình - Những giá trị truyền thống [47]. Thông
qua tập hợp các bài viết, tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về các giá trị

văn hóa truyền thống của gia đình và đất nước, từ đó khẳng đình: đất nước ta
hiện nay cần phải kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống này
trong xây dựng gia đình mới, gia đình văn hóa hiện nay. Đặc biệt, tác giả cho
rằng: Các gia đình hiện nay cần giáo dục con kế thừa và phát huy các giá trị
truyền thống, các giá trị đạo đức của gia đình và dân tộc như: truyền thống
nhân nghĩa, hiếu thảo, uống nước nhớ nguồn… Đây là việc làm cần thiết và
rất quan trọng trong xây dựng gia đình và xã hội hiện nay.
Nguyễn Thị Hoa, Động cơ hoạt động xây dựng gia đình văn hóa của nhân
dân trong phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư [26]. Thông qua kết quả khảo sát gần 600 khách thể trên 4 đại bàn (Hà Nội,
Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng), tác giả đã chỉ ra những động cơ khác
nhau của các gia đình trong việc đăng ký thực hiện xây dựng GĐVH như: Vì lợi
ích mà hoạt động này mang lại cho gia đình họ và cho xã hội; vì muốn làm giống
như mọi người; vì tinh thần thi đua; vì danh dự và thành tích của địa phương…
Trong đó, động cơ để có được lợi ích mà hoạt động này đem lại là động cơ của
hầu hết các gia đình. Qua khảo sát, tác giả cũng cho thấy, ở những nhóm khách
thể khác nhau thì động cơ tác động cũng có sự khác nhau. Từ kết quả khảo sát
của tác giả cho thấy: nhóm gia đình ở thành thị và nhóm gia đình có học vấn các
cao thì càng ít bị tác động bởi các động cơ trên. Đây là một nghiên cứu có giá trị
khoa học sâu sắc, Từ kết quả nghiên cứu này có thể rút ra bài học về việc sự
dụng cơ chế tâm lý xã hội vào việc thu hút sự tham gia của nhân dân vào hoạt
động xây dựng GĐVH ở ĐBSH một cách hiệu quả hơn.
An Thị Ngọc Trinh, Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong xây
dựng văn hóa gia đình hiện nay [103]. Trong luận án này, tác giả đã tập trung
vào nghiên cứu một số giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc và nhấn


16
mạnh sự cần thiết phải giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống này
trong xây dựng văn hóa gia đình hiện nay. Từ cơ sở lý luận đó, Tác giả đi vào

nghiên cứu thực trạng việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống trong
gia đình Việt Nam hiện nay, chỉ rõ một số vấn đề bất cập đặt ra và đặc biệt là
đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả các giá trị văn hóa
truyền thống trong các gia đình hiện nay.
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Sơ kết chiến lược phát triển gia đình
Việt Nam, các văn bản, đề án về công tác gia đình giai đoạn 2011 - 2015 và tổng
kết kế hoạch hành động phòng, chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008 - 2015

[5]. Cuốn kỷ yếu gồm bài viết của nhiều tác giả, các ban ngành tổng kết về
Chiến lược gia đình Việt Nam với các con số báo cáo về việc thực hiện công
tác gia đình; những thành tựu và hạn chế của công tác này gia đoạn 2011 2015. Cuốn kỷ yếu cũng gồm có một phần đánh giá về việc tổng kết kế hoạch
hành động phòng, chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008-2015. Đây là cơ sở
quan trọng cho việc nghiên cứu về gia đình, trong công tác xây dựng GĐVH
và phòng chống bạo lực gia đình hiện nay.
Trần Thị Thái Hà, Giáo dục các hộ gia đình nông thôn hiện nay - thực
trạng và giải pháp [24]. Cuốn sách gồm 4 chương, phân tích khá toàn diện vấn
đề giáo dục của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn cả về mặt lý luận và thực
tiễn trên cơ sở nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng các kết quả khảo sát được thực
hiện ở các vùng, miền trong phạm vị cả nước. Từ kết quả khảo sát thực trạng
giáo dục của nhiều vùng nông thôn điển hình trong cả nước, tác giả chỉ ra các
nguyên nhân, đồng thời đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hiệu
quả giáo dục của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay.

1.1.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của Nho giáo, đạo đức Nho
giáo đối với xây dựng gia đình
Có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Nho giáo
và đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình ở Việt Nam, tiêu biểu như:


17

Vũ Khiêu, Nho giáo và gia đình [39]. Cuốn sách trình bày về các vấn đề
như: quan điểm của Nho giáo về gia đình; về vị trí, vai trò của gia đình và những

nguyên tắc, quy tắc ứng xử trong các mối quan hệ gia đình, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh đến phạm trù “hiếu”. Cùng với đó, ông nêu lên quan điểm của một số

nhà Nho Việt Nam bàn về vấn đề Nho giáo và gia đình, ảnh hưởng của quan
điểm Nho giáo (đặc biệt quan điểm về đạo đức) đối với việc xây dựng gia đình
trong xã hội hiện đại. Từ đó rút ra những giá trị vận dụng vào quá trình xây dựng

gia đình trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Minh Anh, Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình
gia đình mới ở Việt Nam hiện nay [1]. Tác giả đã đưa ra quan niệm của Nho
giáo về gia đình, về vai trò của gia đình đối với xã hội, về các chuẩn mực đạo
đức khắt khe của Nho giáo trong các quan hệ gia đình. Từ đó tác giả khẳng
định công cuộc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam cần lọc bỏ đi những yếu tố
phản tiến bộ của đạo đức Nho giáo, kế thừa và phát huy những giá trị tích cực
của nó vào quá trình xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Phan Mạnh Toàn, Lễ giáo Nho gia Phong kiến với vấn đề xây dựng gia
đình nước ta hiện nay [94]. Tác giả đưa ra quan niệm Nho giáo về vai trò của
gia đình, khẳng định tính ưu việt của Nho giáo so với các tôn giáo khác trong
quan niệm về gia đình. Tác giả đã phân tích mặt tích cực và hạn chế của lễ
giáo Nho gia. Từ đó đặt ra vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam hòa thuận, trên
kính dưới nhường, yêu thương đùm bọc nhau… thì nhất thiết phải vận dụng lễ
giáo Nho gia. Đồng thời cần lọc bỏ yếu tố lạc hậu, bảo thủ của lễ giáo đạo
Nho trong quá trình xây dựng gia đình ở nước ta hiện nay.
Lê Văn Phục, Vận dụng những giá trị truyền thống của Nho giáo trong
việc xây dựng gia đình văn hóa [61]. Tác giả đã đi sâu luận giải những giá trị
của đạo đức Nho giáo đối với việc xây dựng gia đình trong xã hội ngày xưa,
tạo dựng nên những gia đình truyền thống gia giáo tốt đẹp. Từ đó chỉ ra

những yếu tố hợp lý, có giá trị để vận dụng vào xây dựng gia đình văn hóa ở
Việt Nam hiện nay, đặc biệt đối với phương diện đạo đức trong gia đình.


18
Lê Văn Phục, Từ chữ Hiếu của Nho giáo đến việc giáo dục đạo hiếu
trong gia đình ở Việt nam hiện nay [62]. Tác giả đưa ra quan niệm của Nho
giáo về chữ hiếu, về vai trò của chữ hiếu trong sự ổn định của gia đình. Ảnh
hưởng của chữ hiếu đến cách giáo dục gia đình trong các triều đại phong kiến
Việt Nam. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo hiếu trong gia đình Việt
Nam trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường hiện nay. Đồng
thời tác giả đã đề xuất các giải pháp vận dụng chữ hiếu của Nho giáo vào xây
dựng đạo đức gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Thái Doãn Việt, Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo
đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay [120]. Trong luận án này, tác giả đã
làm rõ nội dung cơ bản của Nho giáo về đạo đức và đạo đức gia đình; nhấn
mạnh đạo đức Nho giáo là nhân tố trực tiếp tác động đến giáo dục đạo đức gia
đình truyền thống Việt Nam. Luận án còn làm rõ những nhân tố tác động,
phương thức, thực trạng của ảnh hưởng đạo đức nho giáo đối với đạo đức gia
đình hiện nay ở Việt Nam. Luận án cũng xác định các vấn đề đặt ra, phương
hướng và giải pháp để xây dựn gia đình Việt Nam trên cơ sở phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo.
Từ cơ sở lý luận trên, tác giả đã phân tích làm rõ những nhân tố tác
động đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong giáo dục đạo đức gia đình ở
Việt Nam hiện nay và phương thức ảnh hưởng của nó; thực trạng ảnh hưởng
của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện
nay. Từ thực trạng này, tác giả chỉ rõ những vấn đề đặt ra cần giải quyết, từ đó
nêu ra những phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, khắc
phục mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo đến việc giáo dục đạo đức trong gia
đình ở Việt Nam hiện nay.

Lê Văn Phục, Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo - Lịch sử và sự tác
động ở Việt Nam [64]. Cuốn sách gồm 4 chương đi sâu trình bày có hệ thống các
nội dung cơ bản: chương 1: trình bày lịch sử ra đời và phát triển tư tưởng “ngũ
thường” của Nho giáo qua các thời kỳ lịch sử gắn liền với sự phát triển của Nho
giáo; chương 2: trình bày quá trình Nho giáo nói chung, “ngũ thường” nói riêng


19
du nhập và phát triển ở Việt Nam, trải qua quá trình tồn tại lâu dài Nho giáo nói
chung và tư tưởng “ngũ thường” nói riêng dần dần ăn sâu bám rễ, trở thành nét
văn hóa không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, góp phần
đáng kể vào việc tạo dựng nên nền văn hóa Việt Nam; chương 3: phân tích làm
sáng tỏ sự kế thừa và vận dụng tư tưởng “ngũ thường” vào việc giáo dục đạo đức
con người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử của các nhà nho Việt; chương 4:
cuốn sách nêu lên một số ý tưởng, kế thừa, phát huy những giá trị tích cực của tư
tưởng “ngũ thường” trong việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam, thể hiện
trên ba phương diện đạo đức gia đình, đạo đức nhà trường và đạo đức xã hội.
Nhìn chung, các tác giả đã lược đi những mặt hạn chế, khai thác những luận điểm
tích cực của Nho giáo và vận dụng nó vào xây dựng gia đình. Những tư tưởng
Nho giáo được các tác giả khai thác nhiều như tư tưởng về “ngũ thường”, tư
tưởng “hiếu đễ”, tư tưởng “nhân nghĩa”…, đó là những phạm trù cơ bản của Nho
giáo có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng gia đình ổn định, hạnh phúc.

1.1.4. Những nghiên cứu về xây dựng gia đình, gia đình văn hóa và
ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình, gia đình văn
hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng
Nghiên cứu về xây dựng gia đình, GĐVH, và sự kế thừa, vận dụng giá
trị đạo đức Nho giáo vào việc xây dựng gia đình, GĐVH ở vùng đồng bằng
sông Hồng cho đến nay có nhiều công trình khác nhau, cụ thể là:
Mai Huy Bích, Đặc điểm gia đình đồng bằng sông Hồng [2]. Trong

cuốn sách này, tác giả nêu ra những đặc điểm về cấu trúc, quy mô, cách thức
giáo dục, biểu hiện tâm lý của các thành viên và các mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình. Tác giả luận giải sâu sắc về nguồn gốc những
phong tục, tập quán của gia đình đồng bằng sông Hồng dẫn đến các đặc điểm
tâm lý, tính cách và quy mô, cấu trúc gia đình hiện nay.
Chu Thị Thoa, Bình đẳng về giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng
sông Hồng hiện nay [84]. Tác giả đã trình bày cơ sở lý luận về vấn đề gia đình và
vấn đề bình bẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng. Thực


20
trạng bất bình đẳng giới trong quan hệ vợ chồng, anh em, con cái của gia đình
ở nông thôn đồng bằng sồng Hồng. Luận án vạch ra nguyên nhân và những
tác động dẫn đến tình trạng này. Từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản và
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Nguyễn Thị Luân, Một số vấn đề cần quan tâm trong xây dựng gia đình
văn hóa ở làng nghề truyền thống tỉnh Bắc Ninh [48]. Trong bài viết này, tác giả
đã khẳng định vai trò của việc xây dựng gia đình văn hóa có ý nghĩa quan trọng
trong việc phát triển làng văn hóa ở làng nghề Bắc Ninh. Cùng với sự phát triển
về kinh tế thì các làng nghề truyền thống này cũng vẫn còn lưu giữ nhiều thói
quen và những yếu tố truyền thống quý báu của gia đình, tiêu biểu là truyền
thống trọng tình nghĩa, truyền thống kính hiếu ông bà, cha mẹ… Bên cạnh đó,
cũng có những thói quen, nét tâm lý gây cản trở quá trình xây dựng gia đình văn
hóa, đặc biệt là tư tưởng gia trưởng, tư tưởng cọi trọng con trai, chỉ truyền bí kíp
gia truyền của gia đình cho con trai… Từ đó, tác đã đã đề xuất các giải pháp
khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những điểm tích cực trong tâm lý, văn
hóa của các gia đình làng nghề truyền thống ở tỉnh Bắc Ninh.
Cao Thị Vũ Quỳnh, Xây dựng mô hình gia đình văn hóa ở Thủ đô Hà Nội


[68]. Tác giả đã nghiên cứu thực tiễn phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở
Thủ đô Hà Nội, đánh giá những thành tựu đạt được và những khó khăn hạn
chế trong việc xây dựng gia đình văn hóa trên địa bàn. Từ đó, tác giả đề xuất
những khuyến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại trong
hoạt động xây dựng gia đình văn hóa trên địa bàn Thủ đô.
Nguyễn Thị Kim Hoa, Mấy vấn đề về thực trạng xây dựng gia đình văn
hóa tại đồng bằng sông Hồng [27]. Tác giả khẳng định tính cấp thiết của việc
xậy dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng. Qua khảo sát thực
trạng xây dựng gia đình văn hóa ở 1 số tỉnh của đồng bằng sông Hồng (Hưng
Yên, Vĩnh Phúc, Hải Phòng), tác giả đã thu thập được các kết quả khảo sát, từ đó


×