Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả dạy học truyện ngắn vợ nhặt của kim lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.5 KB, 21 trang )

1. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài
"Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và chiều sâu đáng
kinh ngạc. Nó giúp con người sống ra người hơn, sống tốt hơn. Nếu ta biết tìm trong
sách những vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất cuộc đời" (Thanh Thảo).
Văn chương có sức hấp dẫn thật kì diệu. Sứ mệnh của văn chương không chỉ mang đến
cho người đọc nhận thức, khám phá sâu sắc về cuộc sống muôn màu mà quan trọng
hơn, nhờ những “nguồn sáng, vệt sáng” được chiếu rọi trong những tác phẩm mà tâm
hồn con người sẽ sáng trong hơn, đẹp hơn, cao thượng hơn. Thứ khí giới thanh cao ấy
sẽ hướng con người ta đến cái Chân - Thiện - Mĩ của cuộc sống. Trong nhà trường,
nhiệm vụ của môn Ngữ văn rất quan trọng. Môn Ngữ văn lại là một môn học không
chỉ mang tính khoa họa mà còn mang tính nghệ thuật nên đòi hỏi người thầy phải
tìm tòi, sáng tạo những cách thức để giúp học sinh tiếp nhận và khám phá tác phẩm
văn học một cách hiệu quả nhất.
“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lại sẽ bắn anh bằng đại bác”.
Ngẫm cho kĩ, triết lí ấy quả thật sâu sắc. Quá khứ - hiện tại - tương lại luôn có sự kết nối.
Người ta sống trong hiện tại, luôn hướng về tương lại nhưng đừng bao giờ quên quá khứ.
Song có một thực tế phũ phàng rằng, cuộc sống hiện đại hôm nay, cái ấm no đủ đầy dễ
khiến nhiều người nhất là thế hệ trẻ không còn nhớ đến những đói khổ cơ hàn của ngày
trước. Để rồi lối sống ấy gây ra không ít những hậu quả khôn lường. Trong bối cảnh ấy,
những câu chuyện hấp dẫn, những áng văn hay về một “thời xa vắng” có ý nghĩa vô cùng
to lớn. Lần theo những trang sách, các em sẽ có những hiểu biết, trải nghiệm, thấu hiểu
hơn về cuộc sống và lĩnh hội được cho mình những bài học làm người quý giá. Tuy
nhiên, để đưa những văn bản ấy đến với tâm hồn người học, đòi hỏi người giáo viên dạy
Văn phải biết cách vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học thích hợp góp phần phát huy
sự chủ động sáng tạo của học sinh trong tiếp nhận cái hay và vẻ đẹp của văn chương.
“Nghệ thuật thì dài mà cuộc đời thì ngắn”(Hypocrat). Năm tháng đi qua, Kim
Lân đã về với đất mẹ hơn chục năm, ấy vậy mà đến với truyện ngắn Vợ nhặt của
ông, người ta vẫn cảm thấy vô cùng thích thú về áng văn viết về một thời đã xa
trong lịch sử dân tộc. Thời kì đói khổ, khi ranh giới sự sống và cái chết mong manh
như sợi tơ. Vậy mà giữa cái u sầm ấy, ánh sáng tình người, lòng yêu thương vẫn


chiếu rọi và thắp lên niềm vui, niềm hi vọng vào cuộc sống. Có thể khẳng định,
trong vô số những bài thơ, câu chuyện mà học sinh được học trong chương trình
THPT, truyện ngắn Vợ nhặt sẽ mãi khắc sâu trong tâm trí bao thế hệ học trò bởi sức
hấp dẫn và giá trị riêng của nó. Sức sống của truyện Vợ nhặt đâu chỉ viết về hiện
thực thê thảm của một thời đã qua khi “cái đói tràn về” mà còn nhắn gửi những
thông điệp ý nghĩa cho cuộc sống hôm nay. Thông điệp về sức mạnh của tình người
chiến thắng nghịch cảnh, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc giúp con người có
sức mạnh vượt qua hoàn cảnh éo le tăm tối. Hành động nghĩa hiệp nhân hậu của
anh Tràng, tấm lòng thơm thảo của bà cụ Tứ hay cái “thèn thẹn hay đáo để” của cô
1


thị trên đường về làm dâu sẽ chẳng thể nào nguôi quên trong tâm trí người học. Có
điều thầy cô giáo trên bục giảng cần làm gì để biến một tác phẩm văn học hay
thành giờ học thú vị, tạo hứng thú, phát huy tốt năng lục phẩm chất của học sinh?
Với những lí do cơ bản trên, cùng với kinh nghiệm mà bản thân đã tích lũy được
trong thực tiễn giảng dạy, xin được mạnh dạn trình bày Một số biện pháp góp phần
nâng cao hiệu quả dạy - học truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân( Ngữ văn 12 - Cơ
bản)
1.2 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là từ việc vận dụng các phương pháp, biện
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, các phương tiện thiết bị dạy học hiện đại nhằm
nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản văn học của học sinh, giúp học sinh tiếp nhận,
khám phá những giá trị nổi bật của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân từ đó bồi
dưỡng cho học sinh năng lực cảm thụ, đọc hiểu, tiếp nhận văn chương.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim
Lân (chủ yếu là phần trích học trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, tập 2, Nxb
Giáo dục, 2008; phần trích văn bản từ tr. 23 đến tr. 32).
1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp như:
Phương pháp thống kê: Chọn lựa và thống kê các ngữ liệu, dẫn chứng tiêu biểu
trong tác phẩm phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Phương pháp phân tích, so sánh:
phân tích ngữ liệu, kết hợp với đối chiếu, so sánh, nhằm khơi sâu, mở rộng cách
nhìn để cảm nhận chính xác vẻ đẹp của các vấn đề được tìm hiểu. Phương pháp vấn
đáp - gợi mở, nêu ví dụ; phương pháp diễn giải... và một số phương pháp khác.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Bám sát nguyên tắc dạy đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại
Văn chương tựa như một vườn hoa nhiều hương sắc, ở đó mỗi thể loại mang
vẻ đẹp và sức hấp dẫn riêng. Nếu thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp
thở con tim thì truyện lại hấp dẫn người đọc bởi sự đậm đặc của hiện thực đời sống
khách quan được tái hiện qua cốt truyện, hệ thống nhân vật. Do vậy, dạy đọc hiểu
văn bản theo đặc trưng thể loại là nguyên tắc hàng đầu mà bất cứ người giáo viên dạy
văn nào cũng cần phải tuân theo. Dạy thơ trữ tình cần bám sát đặc trưng thể loại thơ từ
đó hướng dẫn học sinh tiếp cận mạch cảm xúc, thế giới hình ảnh, âm điệu, nhịp điệu
cái hay vẻ đẹp của bài thơ, dạy kịch cần bắt đầu từ mâu thuẫn, xung đột đến hành
động kịch, các nhân vật kịch rồi mới đi đến ý nghĩa văn bản. Trong chương trình
THPT, số lượng các tác phẩm truyện chiếm số lượng khá nhiều. Bên cạnh các văn bản
truyện dân gian, truyện trung đại, các tác phẩm truyện hiện đại xuất hiện nhiều nhất. Ở
đó mỗi tác phẩm đề có vẻ đẹp riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà
văn. Tuy nhiên, tựu chung lại, khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản văn học thuộc
2


thể loại truyện, nhất thiết giáo viên cần nắm vững đặc trưng riêng của thể loại văn học
thú vị này. Theo quan niệm của chúng tôi, bước đầu tiên khá quan trọng là thầy cô
giáo cần giúp học sinh tìm hiểu bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác để có cơ sở cảm
nhận các tầng lớp nội dung và hiểu ý nghĩa của câu chuyện. Sở dĩ cần làm tốt điều này
bởi văn học và đời sống luôn gắn bó mật thiết, đặc biệt truyện luôn phản ánh đời sống

trong tính khách quan, “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” (Tô Hoài).
Bước thứ hai, định hướng học sinh tìm hiểu diễn biến cốt truyện qua các phần mở đầu,
vận động, kết thúc với các tình tiết, sự kiện biến cố cụ thể. Làm rõ giá trị của các yếu
tố đó trong việc phản ánh hiện thực đời sống và khắc họa bản chất, tính cách các nhân
vật. Chú ý tới nghệ thuật tự sự, sáng tạo tình huống truyện của nhà văn. Bước thứ ba,
đây là khâu quan trọng nhất khi đọc hiểu văn bản truyện. Đó là phân tích các nhân vật
trong dòng lưu chuyển của cốt truyện. Tập hợp thành hệ thống và làm rõ ý nghĩa của
các chi tiết miêu tả nhân vật về ngoại hình, hành động, nội tâm, ngôn ngữ. Tìm hiểu
mối quan hệ nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh.
Từ đó, cần hướng đến khái quát đặc điểm tính cách, vẻ đẹp của nhân vật trong truyện.
Khái quát những nội dung tư tưởng, ý nghĩa nhân sinh sâu sắc mà nhà văn gửi gắm
trong truyện. Một cách bao quát nhất, dạy đọc hiểu thể thoại truyện, không thể không
bám sát đặc trưng của thể loại này.
2.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục
tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc
HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo
được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một
chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng
lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học
sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên
cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ
sung các chủ đề học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề
phức hợp.Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và
phát triển năng lực tự học, trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng
tạo của tư duy. Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương
pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp
nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận
thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”. Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn
chặt với các hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều

kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học
trong lớp, học ở ngoài lớp... Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành
để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng
cao hứng thú cho người học. Với việc dạy đọc hiểu văn bản văn học, giáo viên cần chú
trọng phát triển năng lực tiếp nhận, khám phá cái hay vẻ đẹp của văn chương, hình thành
3


năng lực thẩm mĩ, năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng
Hiện nay trong trường THPT, phần lớn học sinh đều không đầu tư quan tâm học
các môn khoa học xã hội. Thực trạng đó bắt nguồn từ bối cảnh thời đại khoa học công
nghệ, đại đa số HS chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế…ít có
HS hứng thú học văn, thậm chí có phụ huynh, học sinh còn suy nghĩ học văn không
thiết thực. Văn có kém một chút, vào đời vẫn không sao, vẫn nói được, viết được, còn
không học ngoại ngữ, không học khoa học, kĩ thuật thì cơ hội phát triển thấp, không
kiếm được nhiều tiền. Bối cảnh đó dẫn đến trong các giờ học môn Ngữ văn học trò
không hứng thú, chưa đọc chuẩn bị bài ở nhà, thậm chí có em trong giờ học các môn
xã hội còn tranh thủ học các môn khoa học tự nhiên. Với phân môn Đọc văn, tiếp nhận
văn bản văn học, khám phá cái hay vẻ đẹp của nó không đơn giản. Yêu cầu quan trọng
của học văn là học sinh cần đọc văn bản. Tuy nhiên do chưa quan tâm đến môn học
nên nhiều học sinh không đọc tác phẩm, soạn bài trước khi lên lớp. Khi lên lớp, với
thời lượng có hạn, thầy cô không thể cho các em đọc lại toàn bộ văn bản mà chỉ có thể
cho đọc minh họa những đoạn tiêu biểu sau đó yêu cầu học sinh tóm tắt. Chính vì vậy
trong giờ học, nhiều học sinh cảm thấy xa lạ với văn bản, nhiều tác phẩm tự sự, học
sinh không biết tên nhân vật, diễn biến cốt truyện. Điều đó dẫn đến hệ quả khi đọc
hiểu văn bản, các em tiếp thu một cách thụ động. Thực trạng này dường như đi ngược
lại với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm, huy động
tính chủ động tích cực của người học, học sinh là người đồng sáng tạo với nhà văn.

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân tái hiện bức tranh hiện thực thê thảm về cuộc sống
của người dân lao động Việt Nam trước cách mạng tháng tám năm 1945. Với các em học
sinh hiện nay, hàng ngày tiếp xúc mạng xã hội, tiểu thuyết ngôn tình, những câu chuyện
xưa có lẽ không tạo nên sự thu hút, thậm chí có phần xa lạ. Bên cạnh đó, do dung lượng
tác phẩm dài, khi đưa vào chương trình sách giáo khoa, học sinh chỉ được đọc phần
trích của truyện nên không thể nắm trọn vẹn văn bản. Đây là khó khăn không nhỏ
mà giáo viên trải qua trong thực tiễn giảng dạy. Do đó tgiờ học diễn ra tương đối
đơn điệu. Tiến trình bài giảng chủ yếu là những lời thầy giảng, học sinh tiếp thu
khá thụ động, kết quả học tập chưa cao.
2.2.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên
- Về phía người dạy
Giáo viên khó khăn trong việc lựa chọn đơn vị kiến thức phù hợp cung cấp cho
học sinh qua bài học, chưa hứng thú say mê với bài dạy vì học sinh không chuyên tâm.
Do vậy đôi khi giáo viên cung cấp cho học sinh đủ kiến thức cơ bản phục vụ cho việc
thi tốt nghiệp còn việc học sinh thích thú say mê tìm hiểu văn bản hay không cũng
mặc. Bên cạnh đó, nhiều người dạy chưa thoát khỏi tình trạng truyền thụ kiến thức,
chủ yếu là thầy giảng trò nghe.
- Về phía người học
4


Học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo, tính chất thụ động thể hiện ở việc học thiếu
hứng thú, học đối phó, và về nhà chỉ còn biết học thuộc các ý trong vở để kiểm tra. Cách
học đó tất nhiên cũng không có điều kiện tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo, cũng không được
khuyến khích sáng tạo dẫn đến không nắm được chiều sâu kiến thức.
- Kết quả kiểm tra đánh giá
Năm học 2015 – 2016, tiến hành kiểm tra bài viết số 6 ở các lớp trực tiếp giảng
dạy với đề bài: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp hình tượng nhân vật bà cụ Tứ
trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Nhìn chung kết quả thu được còn thấp.
Số lượng bài viếtđạt điểm khá, giỏi hạn chế, bài viết điểm yếu, kém còn nhiều.

Bảng 1: Kết quả điểm kiểm tra đánh giá khi chưa áp dụng biên
pháp mới
Điểm trên trung bình
Điểm dưới trung bình
Tổng
bài Điểm 9,10 Điểm 7, 8
Điểm 5, 6
Điểm 3,4
Điểm 1,2
Lớp
kiểm
Số
Tỉ
Số
Số
Số
Số
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
tra
bài
lệ
bài
bài
bài
bài
12A1 42
0

0%
4
9,5% 31 73,9% 5 11,9% 2 4,7%
12A2 41
0
0%
5 12,1% 29 70,9% 6 14,6% 1 2,4%
12A4 42
0
0%
3
7,1% 32 76,3% 5 11,9% 2 4,7%
Từ thực trạng trên, chúng tôi đã tiến hành đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng
kĩ thuật dạy học tích cực, các phương tiện thiết bị dạy học hiện đại, vận dụng tích hợp
kiến thức liên môn... từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Cụ thể như sau:
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2. 3.1. Vận dụng tích hợp kiến thức liên môn góp phần nâng cao hiệu quả giờ học
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan tâm
nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn giảng dạy ở nhiều môn học. Môn Ngữ văn cũng
vậy, nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng
Việt đến Làm văn. Hơn thế nữa, việc vận dụng tích hợp kiến thức liên môn không chỉ
dừng lại trong bản thân môn Ngữ văn mà còn kết hợp với kiến thức về lịch sử, hội họa,
sân khấu điện ảnh. Việc tích hợp này chúng tôi đã tiến hành hiệu quả trong quá trình dạy
học truyện Vợ nhặt của Kim Lân. Đây là biện pháp quan trọng nhằm kích thích sự hứng
thú, tìm tòi sáng tạo của học sinh trong quá trình đọc hiểu khám phá văn bản, biến giờ
học văn trở nên sinh động, thu hút, đáng chờ đợi.
Trước hết, chúng tôi đã tích hợp kiến thức lịch sử để phục vụ cho bài giảng. Xưa kia
văn sử vốn bất phân, văn học bao giờ cũng bắt rễ sâu xa từ đời sống, thời đại nào, văn
học ấy. Do đó khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu truyện Vợ nhặt của Kim Lân, chúng tôi
thường lồng ghép với kiến thức về lịch sử Việt Nam những năm trước cách mạng tháng

tám năm 1945, đó là một thời đại đau thương, đói khổ của dân tộc dưới hai từ xiềng
xích Pháp, Nhật. Đặc biệt, từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, nhân dân ta phải gánh
chịu nạn đói vô cùng khủng khiếp. Năm đói Ất Dậu ấy trở thành nỗi ám ảnh với bao thế
5


hệ người dân Việt Nam, gần hai triệu người phải chết đói, làng xóm xác xơ, tiêu điều,
người dân kiệt cùng sức lực vì đói khát. Từ những câu chuyện về lịch sử, chúng tôi
hướng dẫn học sinh khám phá bức tranh hiện thực đời sống mà nhà văn khắc họa trong
truyện. Cụ thể hơn, bề rộng của bức tranh ấy là hình ảnh xóm ngụ cư tồi tàn, xơ xác khi
“cái đói tràn về”, bóng tối, cái chết, tiếng hờ khóc dường như trở thành một nỗi ám ảnh
với người dân nơi đây. Bề sâu của bức tranh đói khổ là số phận bi đát của người dân lao
động. Những đứa trẻ nơi xóm ngụ cư vì đói mà mặt mày ủ rủ, cô thị cũng vì đói mà
đánh mất cả sĩ diện ngồi ăn một chập bốn bát bánh đúc với một người xa lạ rồi theo
không người ta về làm vợ. Bên cạnh việc tích hợp kiến thức lịch sử, chúng tôi kết hợp
với phim tư liệu giúp học sinh có cái nhìn toàn diện hơn về nạn đói. Sau khi cho học
sinh tìm hiểu giá trị hiện thực của truyện, chúng tôi khắc sâu kiến thức bằng một đoạn
phim tài liệu đặc biệt về nạn đói khủng khiếp năm 1945: Những năm tháng không thể
lãng quên đã được phát sóng trên VTV1. Qua tìm hiểu văn bản, kết hợp với những câu
chuyện lịch sử và đoạn phim tư liệu, có thể nói, học sinh sẽ nắm vững vàng giá trị hiện
thực sâu sắc của tác phẩm. Không nhũng thế, các em sẽ rất xúc động khi được trở về với
một thời đại đói khổ lầm than của dân tộc “bát cơm chan đầy nước mắt”.
Bên cạnh việc tích hợp kiến thức lịch sử, chúng tôi còn vận dụng kiến thức của phân
môn lí luận văn học khi dẫn dắt học sinh tìm hiểu tình huống truyện. Tình huống
truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa. Đó là
môi trường, hoàn cảnh để nhân vật xuất hiện, tính cách phát triển và dụng ý của nhà
văn được bộc lộ sắc nét. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng cho rằng: “Tình huống
truyện là lát cắt, là khúc của đời sống, nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của
đời thảo mộc”. Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành
động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Trong tác phẩm “Vợ Nhặt”,

nhà văn đã sáng tạo nên một tình huống thật éo le, bi hài, buồn vui lẫn lộn. Anh
Tràng, một người lao động nghèo, xấu xí, thô kệch bỗng dưng nhặt được vợ một
cách dẽ dàng khi cái đói đang cận kề, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong
manh. Từ tình huống ấy, Kim Lân thể hiện một cách sâu sắc giá trị hiện thực và
nhân đạo của truyện, tính cách, số phận các nhân vật bộc lộ cụ thể, sinh động. Qua
tình huống truyện, người đọc thấy được tài năng nghệ thuật truyện ngắn bậc thầy
của nhà văn. Tòm lại, tích hợp kiến thức lí luận văn học là khâu không thể thiếu khi
dạy học tình huống truyện trong tác phẩm. Ngoài ra, sau khi dạy xong phần tình
huống, chúng tôi liên hệ đến bài thơ Vợ nhặt của tác giả Hoàng Văn Ngân để khắc
sâu và tạo ấn tượng cho học sinh. Một tác phẩm truyện lại được cảm nhận bằng thơ
học sinh sẽ rất thích thú.“Bốn bát bánh đúc thành cỗ cưới thật rồi. Xin từ điển hẫy
thêm thừ vợ nhặt. Ngòi bút Kim Lân ngỡ như đùa mà khóc. Đói quắt quay yêu tha
thiết con người...”. Ngoài ra sau khi học tìm hiểu thảo luận về nhân vật thị tôi liên
hệ đến bài thơ “Lời người vợ nhặt” khá hay và cảm động: “Anh nhặt em về giữa
một đám tang. Cả dân tộc chìm trong chết chóc. Tiếng quạ gào lên thành hồi thê

6


thiết. Đặc quánh không gian tử khí rợn người...”. Từ những dòng thơ ấy, câu
chuyện về anh Tràng nhặt vợ, cô thị vẻ ngoài chanh chua nhưng tiềm ẩn khát vọng
mãnh liệt sẽ đọng lại mãi trong tâm trí học trò.
Tích hợp kiến thức liên môn là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói
chung và môn Ngữ văn nói riêng. Khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu truyến ngắn Vợ
nhặt của Kim Lân, chúng tôi đã tiến hành tích hợp kiến thức văn học, lịch sử, điện
ảnh, thi ca từ đó góp phần nâng cao hiệu quả bài dạy. Thực tế, với việc tích hợp như
trên, học sinh hiểu bài, nắm kiến thức một cách vững vàng.
2.3.2. Chuyển thể tác phẩm văn học thành phim ngắn, giúp học sinh trải nghiệm
văn chương một cách sâu sắc, ấn tượng
“Trả tác phẩm về cho học sinh” là phương pháp tiếp cận môn Ngữ văn theo

hướng hoàn toàn mới mà hiện nay không ít các thầy cô đang thực hiện trong cả
nước. Nói cách khác, trong thực tiễn dạy học truyện Vợ nhặt của Kim Lân, chúng
tôi đã tiến hành chuyển thể tác phẩm Vợ nhặt thành một đoạn phim ngắn. Hoạt
động này diễn ra trước tiết học trên lớp. Quá trình thực hiện cụ thể như sau: trước
tiên chúng tôi phân công học sinh trong lớp 12A9 thành các nhóm với những nhiệm
vụ cụ thể. Nhóm thứ nhất gồm những em giữ vai trò là “nhà biên kịch trẻ”, công
việc của nhóm là từ việc đọc kĩ tác phẩm, các em sẽ chuyển thể diễn biến cốt
truyện “Vợ nhặt” thành kịch bản văn học. Học sinh có thể bổ sung ý tưởng mới
nhưng phải bám sát vào cốt truyện, lời thoại các nhân vật. Diễn biến đoạn phim
gồm bốn cảnh. Cảnh 1: Gặp gỡ: Tái hiện lại bối cảnh Tràng và thị gặp nhau trên
huyện, từ lúc bông đùa đến khi cô thị theo về làm vợ. Cảnh 2: Trên đường về: Chủ
yếu dựng nên cảnh xóm làng đói nghèo xơ xác, những người dân ngạc nhiên, bất
ngờ khi nhìn thấy Tràng dẫn cô thị về qua xóm ngụ cư trong buổi chiều chạng
vạng. Cảnh 3: Mẹ chồng nàng dâu gặp mặt: Cảnh này diễn ra tại nhà của Tràng, bà
cụ Tứ xuất hiện trong niềm ngạc nhiên, nghẹn ngào xúc động khi có một người lạ
trong nhà, lúc hiểu đầu đuôi câu chuyện bà thương thân, tủi phận rồi khuyên bảo,
động viên các con vượt qua đói khổ trước mắt. Cảnh 4: Bữa cơm ngày đói. Khung
cảnh căn nhà sân vườn gọn gàng hơn khi được thu dọn ngăn nắp, đặc biệt cảnh này
tái hiện xúc động bữa cơm ngày đói đón nàng dâu với một cái mẹt rách, niêu cháo
loãng, lùm rau chuối thái rối và nồi cháo cám chát đắng mà bà cụ Tứ “thiết đãi’
nàng dâu. Công đoạn viết kịch bản này giáo viên định hướng, giao nhiệm vụ cụ thể
cho nhóm làm việc sau đó cùng các em chỉnh sửa, hoàn thiện. Nhóm thứ hai cần
lựa chọn các em có năng khiếu về văn nghệ, có khả năng diễn xuất để trực tiếp
tham gia vào các vai diễn trên sân khấu. Sau khi hoàn thiện kịch bản, giáo viên giao
cho nhóm học thuộc rồi tập luyện diễn xuất trước cho thuần thục. Nhóm thứ ba có
nhiệm vụ chuẩn bị dựng bối cảnh, chuẩn bị các phụ kiện âm thanh, ánh sáng, trang
phục để phục vụ cho việc tiến hành diễn xuất của các bạn. Để tránh tình trạng tốn
kém, nhóm sẽ lựa chọn cảnh chợ cóc nghèo, nơi người dân quê buôn bán hàng vặt;
mượn một ngôi nhà nghèo còn lụp xụp của người dân nơi cư trú để quay cảnh bà cụ
7



Tứ gặp gỡ, nhận con dâu. Nhóm thứ tư đảm nhiệm vai trò quay phim. Các em có
thể sử dụng Camera hoặc điện thoại thông minh để quay lại diễn biến các cảnh
trong phim. Trong quá trình quay phim, các em sẽ sử dụng gam màu đen trắng cho
phù hợp với bối cảnh của truyện. Tất cả công đoạn viết kịch bản, âm thanh, lời
bình, quay và dựng phim học sinh phải tự làm mà không được thuê. Sau quá trình
chuẩn bị, vở diễn được tiến hành trong một buổi học ngoại khóa. Khi hoàn thành
sản phẩm, có thể trình chiếu lại trên lớp để cả lớp học tập rút kinh nghiệm trong giờ
đọc hiểu trên lớp. Với cách làm này, học sinh được tham gia vào việc hóa thân vào
tác phẩm văn học, ngoài ra chúng tôi phát huy được năng khiếu nghệ thuật của một
số em, có những em tham gia trực tiếp vào vai diễn, thể hiện khả năng diễn xuất ấn
tượng giúp người xem xúc động khi dõi theo câu chuyện về năm đói Ất Dậu 1945
ngày nào. Giữa cái đói quay quắt vẫn ngời sáng vẻ đẹp tình người, khát vọng sống
và hạnh phúc của người dân lao động.
2.3.3. Sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực tăng cường sự chủ động, sáng tạo của
học sinh khi đọc hiểu văn bản
Kỹ thuật dạy học tích cực có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích
cực của học sinh vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sáng tạo và sự cộng tác làm
việc của các em trong quá tiếp nhận kiến thức. Với phân môn Đọc văn, trước đây các
thầy cô giáo chủ yếu vận dụng phương pháp giảng bình, tiết học chủ yếu là hoạt động của
người giáo viên. Thầy giảng rồi bình, các em ngồi nghe say sưa không được tham gia
tích cực vào việc khám phá vẻ đẹp văn chương. Hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy
học đòi hỏi thầy cô cần vận dụng kỹ thuật dạy học tích cực để học sinh phát huy khả năng
tư duy, sáng tạo của mình.
- Vận dụng kĩ “các mảnh ghép” kết hợp phương pháp thảo luận nhóm. Khi dạy học
truyện Vợ nhặt của Kim Lân, tôi vận dụng kĩ “các mảnh ghép” để hướng dẫn học sinh
tìm hiểu về hệ thống nhân vật trong truyện là Tràng, thị và bà cụ Tứ. Hình thức học tập
này là sự kết hợp giữa các cá nhân, nhóm nhằm khám phá tri thức. Cụ thể chúng tôi xây
dựng phiếu học tập liên quan đến các nhân vật trong truyện để học sinh tìm hiểu, phân

tích. Lớp học gồm 4 tổ, mỗi tổ chia làm 2 nhóm khoảng 5 hoặc 6 học sinh. Các nhóm sẽ
xen kẽ tìm hiểu về ba nhân vật ( Tràng, bà chụ Tứ, thị) ở các phương diện ngôn ngữ, hành
động, diễn biết tâm trạng, đặc điểm tính cách trong 5 phút, sau đó cử đại trình bày sản
phẩm trên máy chiếu đa vật thể. Các nhóm khác cùng theo dõi, góp ý bổ sung, giáo viên
củng cố khắc sâu kiến thức cần nhớ về nhân vật để học sinh học tập.
Kĩ thuật mảnh ghép này sẽ mang lại hiệu quả rất tích cực, một mặt học sinh trong các
nhóm sẽ chủ động tiếp cận, tìm hiểu hai nhân vật, sau đó được bày tỏ suy nghĩ hiểu biết
của mình trước tập thể một cách chủ động. Một mặt với kĩ thuật mảnh ghép, giáo viên sẽ
tiết kiệm được thời gian vì trong phân phối chương trình, truyện Vợ nhặt được thực hiện
trong 2 tiết học.
- Sử dụng kĩ thuật động não: Kĩ thuật này giúp học sinh trong một thời gian ngắn
nảy sinh được nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Tôi sử dụng kĩ
8


thuật này cho phần giới thiệu vào bài nhằm kết nối tri thức cũ và mới, huy động ý
tưởng của các em. Kĩ thuật này sẽ được chúng tôi vận dung khi vào bài, phân tích
khát vọng sống sống, khát vọng hạnh phúc của các nhân vật.
- Sử dụng kĩ thuật “Trình bày một phút’: Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh
tổng kết lại kiến thức đã học và đặt câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc
bằng cách trình bày ngắn gọn, cô đọng ý kiến của mình trước lớp. Kĩ thuật này còn
giúp các em rèn luyện sự tự tin khi nói trước tập thể. Tôi sử dụng kĩ thuật này vào
cuối tiết học để đánh giá mức độ hiểu bài của các em với các câu hỏi:
? Thông điệp cuộc sống nhà văn gửi gắm qua tác phẩm là gì?
? Về một chi tiết nghệ thuật tâm đắc nhất trong truyện?
2.3.4. Dẫn dắt học sinh tiếp cận văn bản chủ động, tích cực qua hệ thống câu
hỏi ở nhiều mức độ khác nhau.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhu cầu tất yếu của giáo dục thời kì mới. Ở bất kì
môn học nào, việc dạy học cần phát huy được sự tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh, người thầy đóng vai trò định hướng, dẫn dắt học sinh tìm đến tri thức. Đọc văn là

một phân môn đòi hỏi nhiều những phát hiện, cảm nhận riêng sáng tạo của học sinh.
Tác phẩm văn học vốn đa nghĩa, văn bản chỉ có một nhưng hàm nghĩa lại vô cùng,
người đọc giữ vai trò đồng sáng tạo với nhà văn. Do vậy sử dụng hệ thống phương
pháp tối ưu có ý nghĩa quyết định đến việc khám phá vẻ đẹp của văn chương. Trong
thực tế giảng dạy phân môn Đọc - Hiểu văn bản, phương pháp thực hiện là vô cùng
phong phú. Có thể trao đổi, thảo luận nhóm; nêu vấn đề; phát vấn đàm thoại; giảng
bình; đọc diễn cảm... Tuy nhiên, việc chuẩn bị hệ thống câu hỏi theo nhiều mức độ
khác nhau đóng vai trò cốt yếu trong việc vận hành bài học theo hướng phát huy tính
chủ động sáng tạo của học sinh trong tiếp nhận văn bản. Theo chúng tôi, khi đặt câu
hỏi dẫn dắt học sinh đọc hiểu văn bản văn học cần đảm bảo các yêu cầu như: ngắn
gọn, rõ ràng, dễ hiểu; đúng lúc, đúng chỗ; phù hợp với trình độ học sinh; kích thích
suy nghĩ của học sinh; sắp xếp câu hỏi theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp. Xuất phát từ những yêu cầu trên, chúng tôi dự kiến hệ thống câu hỏi với các
cấp độ sau:
- Câu hỏi nhận biết, tái hiện kiến thức: Dạng câu hỏi này thường liên quan đến tri thức
đọc hiểu về tác giả, tác phẩm. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiều văn bản “Vợ nhặt”, tôi
vận dụng kiểu câu hỏi này để học sinh tìm hiểu tri thức cơ bản về tác giả Kim Lân,
hoàn cảnh sáng tác, diễn biến cốt truyện. Ví dụ như một số câu hỏi sau:
? Từ việc đọc phần Tiểu dẫn, anh/chị hãy cho biết những nét chính về cuộc đời, sự
nghiệp văn chương của Kim Lân?
? Nêu hoàn cảnh sáng tác của truyện? Bối cảnh hiện thực mà tác giả phản ánh trong
tác phẩm?
? Dựa vào việc đọc, chuẩn bị bài, hãy tóm tắt ngắn gọn truyện Vợ nhặt?
? Truyện thành công bởi tác giả sáng tạo được tình huống độc đáo? Vậy đó là tình
huồng gi? Tình huống ấy diễn ra trong hoàn cảnh nào?
9


- Câu hỏi gợi mở. Đây là hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh từng bước tham gia phát
hiện, phân tích, tìm hiểu kiến thức từ dễ đến khó, nhận biết đến thông hiểu và hiểu rõ

vấn đề. Với dạng câu hỏi này, thầy cô giáo cần biết cách dẫn dắt, hướng dẫn học sinh
từng bước tiếp cận kiến thức, qua đó thấu hiểu và nắm vững kiến thức. Có thể đơn cử
một vài câu hỏi như sau:
? Điểm lại các sáng tác chính của Kim Lân, có thể thấy số lượng tác phẩm ông viết
không nhiều, vậy điều gì giúp những sáng tác ít ỏi ấy của nhà văn hấp dẫn người đọc,
đi cùng năm tháng?
?Qua việc tóm tắt, có thể thâu tóm diễn biến cốt truyện Vợ nhặt thành mấy phần? Đặt
tiêu đề khái quát cho mỗi phần ấy?
? Nhan đề của truyện Vợ nhặt gợi cho anh/chị những cảm xúc, suy nghĩ gì? (Giáo
viên có thể gợi mở, việc dựng vợ gả chồng với mỗi người xưa nay có ý nghĩa như thế
nào? Tác giả dùng từ nhặt với hàm nghĩa gì?)
- Câu hỏi nêu vấn đề. Đây là dạng câu hỏi có tính cốt lõi, chủ đạo định hướng học sinh
cách tiếp cận văn bản. Có thể dẫn một vài ví dụ:
? Hành động anh thiết đãi cô thị bốn bát bánh đúc rồi đồng ý cho cô ta theo về làm
làm vợ góp phần bộc lộ phẩm chất gì đáng quý ở nhân vật Tràng?
? Những đối đáp của Tràng với người đàn bà cho thấy một cá tính như thế nào?
? Tràng có đơn giản là một anh chàng ngờ nghệch? Theo em, khi Tràng nói người
đàn bà xa lạ ra dọn đồ về cùng với mình là nói thật hay đùa? Có phải ngẫu nhiên mà
Tràng nói như thế hay không? Vì sao?
? Tại sao sau khi hiểu rõ sự tình (việc Tràng lấy vợ), bà cụ Tứ lại khóc? Giọt nước
mắt của người mẹ nghèo khổ ấy nói lên điều gì?
? Tâm trạng của bà cụ Tứ buổi sáng hôm sau đã thay đổi như thế nào? Vì sao trong
bữa cơm ngày đói, bà nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai?
- Câu hỏi khái quát, nâng cao vấn đề. Dạng câu hỏi này giúp học sinh nâng cao khả
năng khái quát tổng hợp kiến thức đã được tìm hiểu, phân tích văn bản. Kết thúc bài
học, tôi nêu những câu hỏi khái quát để học sinh tổng hợp kiến thức.
? Từ câu chuyện anh Tràng nhặt được vợ giữa hoàn cảnh đói khổ, nhà văn Kim Lân
muốn bộc lộ những tư tưởng tình cảm như thế nào?
? Bài học sâu sắc nhất mà anh/chị nhận thức được sau khi học truyện Vợ nhặt?
Nhìn chung, trong quá trình dạy học truyện Vợ nhặt, chúng tôi đã chủ trương xây

dựng hệ thống câu hỏi theo nhiều mức độ với mục đích từng bước dẫn dắt học sinh
tiếp cận văn bản, động não, suy nghĩ, tìm hiểu kiến thức từ đó phát huy sự chủ động
sáng tạo của các em trong tiếp nhận kiến thức. Đa phần các em đều tham gia trả lời tốt
các câu hỏi, nắm được nội dung bài học, có sự chủ động tích cực trong việc tham gia
vào tiết học.
2.3.5. Vận dụng kết hợp các phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại
Dạy Đọc - Hiểu văn bản văn học có ứng dụng công nghệ thông tin, các phương tiện
thiết bị dạy học hiện đại là một việc là đang ngày càng phổ biến từ khi tiến hành thay sách
10


đến nay. Trước đây, giờ giảng văn chủ yếu chỉ bao gồm Thầy – Trò – Văn bản cùng với
phấn trắng bảng đen. Sự hấp dẫn của giờ học là những lời giảng bình say sưa của thầy.
Học sinh ít được khám phá văn bản mà phần lớn cái hay vẻ đẹp của tác phẩm đều do
thầy tìm hiểu rồi cung cấp. Cách dạy đó phần nào làm hạn chế sự chủ động tích cực của
học sinh trong tiếp nhận văn bản. Hiện nay, theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học,
công nghệ thông tin, phương tiện thiết bị dạy học hiện đại được xem là yếu tố quan
trọng góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập.
Thực hiện giờ Đọc hiểu văn bản Vợ nhặt của Kim Lân, chúng tôi soạn giảng bằng
giáo án điện tử PowerPoint, sử dụng máy tính, máy chiếu, máy chiếu đa vật thể, loa làm
phương tiện hỗ trợ cho giờ học. Máy chiếu sẽ cung cấp kiến thức cơ bản nhất của bài
học. Máy chiếu đa vật thể sử dung hai chức năng cơ bản, vừa quan sát các nhóm học
sinh trao đổi thảo luận trong giờ học, vừa giúp các nhóm trình chiếu kết quả thảo luận
theo mảnh ghép của mình lên màn hình để các nhóm khác theo dõi, bổ sung ý kiến. Bên
cạnh đó, chúng tôi sử dụng phần mềm đọc phim cho học sinh xem một đoạn phim tư
liệu Những năm tháng không thể lãng quên. Đoạn phim này được chiếu sau khi các em
đã đọc và tóm tắt truyện, phân tích bức tranh hiện thực năm đói. Cách làm này giúp các
em được khắc sâu kiến thức, hiểu rõ hơn tác phẩm. Ngoài ra, sử dụng máy chiếu sẽ giúp
giáo viên cung cấp thêm những hình ảnh tư liệu về tác giả Kim Lân, tác phẩm tiêu biểu
của nhà văn. Đặc biệt là hình ảnh tư liệu về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945. Có

thể nói, với việc sử dụng đa dạng các phương tiện thiết bị như trên, giờ học sẽ thực sự
hấp hẫn, sinh động, lôi cuốn học sinh. Đây là nhân tố hỗ trợ quan trọng góp phần đổi
mới phương pháp dạy học môn Văn hiện nay.
Sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học là cần thiết song không lạm dụng biến giờ
đọc văn thành trình chiếu các slide chữ trên màn hình, học sinh chỉ hào hứng quan sát
mà không đọng lại kiến thức. Do vậy, khi tiến hành bài học chúng tôi sẽ sử dụng
phương tiện này khi cần thiết, có những đoạn vẫn dùng phương pháp giảng bình góp
phần khắc sâu giá trị đặc sắc của truyện, tạo ấn tượng cho người học.
Trên đây là các biện pháp chúng tôi đã sử dụng để góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học văn bản Vợ nhặt của Kim Lân. Từ việc tích hợp kiến thức liên môn đến vận dụng
các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, tất cả góp phần tạo nên những giờ học văn
hấp dẫn, hứng thú. Dưới đây là phần thiết kế giáo án cụ thể cho bài học.
2.3 6. Thiết kế bài giảng trên cơ sở vận dụng các biện pháp trên

VỢ NHẶT
( Kim Lân)
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp học sinh:
- Hình dung được cụ thể sự khủng khiếp của nạn đói ở nước ta năm 1945 và tội ác
diệt chủng của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật.
- Hiểu được niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin vào cuộc sống của
người dân lao động.
- Hiểu được những sáng tạo xuất sắc và độc đáo của tác giả ở thiên truyện, đặc biệt
11


là trong nghệ thuật trần thuật, việc tổ chức tình huống, diễn tả tâm lí nhân vật, tạo
không khí và dựng đối thoai.
- Hình thành kĩ năng phân tích văn bản tác phẩm theo thể loại truyện ngắn.
B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Giáo viên

- Đọc SGK, SGV, tài liệu tham khảo, sưu tầm tư liệu lịch sử, thơ ca, âm nhạc, đoạn
phim sẽ trình chiếu, hình ảnh về nạn đói, cuộc đời sự nghiêp của nhà văn
- Soạn bài, chuẩn bị máy tính, máy chiếu, loa, phiếu học tập
2. Học sinh
- Đọc truyện, tóm tắt văn bản, chuẩn bị bài theo hệ thống câu hỏi SGK, biên soạn
kịch bản phim, chuẩn bị dựng cảnh, trang phục...
C. PHƯƠNG PHÁP
Giáo viên hướng dẫn học sinh kết hợp giữa tóm tắt cốt truyện và đọc diễn cảm
một số đoạn trọng tâm của tác phẩm, hướng dẫn học sinh cảm nhận, phân tích,
đánh giá giá trị tác phẩm bằng phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, giảng bình...Kết
hợp giữa hình thức học tập toàn lớp và làm việc theo nhóm theo những nội dung
đơn vị kiến thức cụ thể.
D. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ
3. Tiến trình dạy học
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh I. Tiểu dẫn
tìm hiểu về tác giả, tác phẩm.
1. Tác giả: Kim Lân (1920-2007)
- Học sinh đọc sách giáo khoa
- Quê hương: làng Phù Lưu, xã Tân
- GV nêu câu hỏi để học sinh trao đổi, Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh
tìm câu trả lời.
- Kim Lân là cây bút có biệt tài truyện
? Từ việc đọc phần Tiểu dẫn, anh/chị ngắn, tuy số lượng không nhiều nhưng để
hãy cho biết những nét chính về cuộc lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người
đời, sự nghiệp văn chương của Kim đọc. Đề tài quen thuộc của nhà văn là
Lân?

cuộc sống nông thôn và người nông dân.
? Điểm lại các sáng tác chính của - Sáng tác chính: Nên vợ nên chồng
Kim Lân, có thể thấy số lượng tác (1955), Con chó xấu xí (1962).
phẩm ông viết không nhiều, vậy điều 2. Tác phẩm
gì giúp những sáng tác ít ỏi ấy của a. Hoàn cảnh sáng tác
nhà văn hấp dẫn người đọc?
Tiền thân của truyện ngắn Vợ nhặt là tiểu
? Nêu hoàn cảnh sáng tác của thuyết Xóm ngụ cư. Cuốn tiểu thuyết này
truyện? Bối cảnh hiện thực mà tác giả được viết ngay sau cách mạng tháng Tám
phản ánh trong tác phẩm?
thành công nhưng còn dở dang và mất
- Hs trả lời, gáo viên mở rộng nói về bản thảo. Hòa bình lập lại năm 1954, dựa
12


nạn đói năm 1945, cho học sinh xem
hình ảnh minh họa trên các slide
- GV dẫn dắt nêu vấn đề, hướng dẫn
học sinh tìm hiểu ý nghĩa nhan đề của
truyện.
? Nhan đề của truyện Vợ nhặt gợi cho
anh/chị những cảm xúc, suy nghĩ gì?
(Giáo viên có thể gợi mở, việc dựng
vợ gả chồng với mỗi người xưa nay
có ý nghĩa như thế nào? Tác giả dùng
từ nhặt với hàm nghĩa gì?)
- Hs tìm hiểu, trả lời, giáo viên củng
cố khắc sâu kiến trức trọng tâm

Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh

đọc hiểu văn bản
- GV nêu các câu hỏi, học sinh suy
nghĩ, trả lời
? Dựa vào việc đọc, chuẩn bị bà ở
nhài, hãy tóm tắt ngắn gọn truyện Vợ
nhặt?
?Qua việc tóm tắt, có thể thâu tóm
diễn biến cốt truyện Vợ nhặt thành
mấy phần? Đặt tiêu đề khái quát cho
mỗi phần ấy?
- Gồm 4 phần
+ Gặp gỡ
+ Trên đường về
+ Mẹ chồng nàng dâu gặp mặt
+ Bữa cơm ngày đói
? Cho biết bối cảnh thời gian diễn ra
câu chuyện?
- HS trả lời: Mở đầu truyện là buổi
chiều chạng vạng, kết thúc là buổi
sáng ban mai.
- Kết thúc phần này, GV chiếu lại

vào một phần cốt truyện cũ, nhà văn viết
Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con
chó xấu xí (1962).
b. Nhan đề của truyện
- Ngắn gọn nhưng hàm chứa ý nghĩa tư
tưởng sâu xa, tạo được ấn tượng, kích thích
sự chú ý của người đọc. Đây không phải là
cảnh lấy vợ đàng hoàng, có ăn hỏi, có cưới

xin theo phong tục truyền thống của người
Việt, mà là “nhặt được vợ”.
- Chỉ riêng hai chữ “Vợ nhặt” cũng đã
nói lên khá nhiều về cảnh ngộ, số phận
của Tràng và cả của người đàn bà xa lạ
nữa. Đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ.
Cái giá của con người chưa bao giờ lại rẻ
rúng đến như vậy. Chuyện Tràng nhặt
được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và
thân phận tủi nhục của người dân nghèo
trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Đọc, tóm tắt truyện
Truyện kể về Tràng một chàng trai nghèo
dân ngụ cư đã nhặt được vợ trong nạn đói
Ất Dậu (1945).Tràng là một người xấu xí
thô kệch, ế vợ.Tràng làm nghề kéo xe bò
thuê và sống với một mẹ già. Một lần kéo
xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng hò vu vơ
và đã quen với một cô gái. Vài ngày sau gặp
lại cô gái ấy trông thật rách nát và đói.
Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền
ăn một chập bốn bát bánh đúc và với những
câu nói đưa đẩy thì Thị đã nhận lời về làm
vợ Tràng. Chỉ bằng một vài câu bông đùa
mà Tràng lại nhặt được vợ trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Việc nhặt được vợ
đã làm cả xóm ngu cư ngạc nhiên và cả bà
Cụ Tứ ( mẹ Tràng ) cũng không khỏi ngạc
nhiên và lo lắng nhưng rồi bà cụ cũng đã

hiểu ra và chấp nhận người con dâu ấy.
“Bữa cơm” đón nàng dâu mới chỉ có cháo
13


đoạn phim các em đã quay trước đó với muối và rau chuối, kèm theo là nồi “chè
để khắc sâu cốt truyện,
khoán” của bà cụ Tứ. Buổi sáng hôm sau,
trong tiếng trống thúc thuế dồn dập, Thị nói
về chuyện Việt Minh phá kho thóc Nhật và
Tràng nhớ lại hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng
bay phấp phới.
2. Tìm hiểu chi tiết văn bản
- GV dẫn dắt học sinh tìm hiểu chi a. Tình huống truyện
tiết văn bản.
- Tình huống truyện trong vợ nhặt: Tràng
- GV dẫn dắt: Vấn đề cốt yếu trong nhặt được vợ một cách dễ dàng chỉ bằng
sáng tác truyện ngắn là nhà văn cần bốn bát bánh đúc và mấy câu nói bông
sáng tạo nên tình huống.
đùa.
? Cách hiểu của em về khái niện tình - Bối cảnh diễn ra sự kiện đó là nạn đói
huống truyện?
khủng khiếp năm 1945 đang đến hồi kinh
- HS tìm hiểu trả lời, GV củng cố
hoàng nhất, người chết như ngả rạ, đâu
? Truyện thành công bởi tác giả sáng đâu cũng tiếng hờ khóc, tiếng quạ gào thê
tạo được tình huống độc đáo? Vậy đó thiết và mùi gây của xác người chết đói.
là tình huồng gi? Tình huống ấy diễn - Đây là một tình huống truyện rất éo le,
ra trong hoàn cảnh nào?
không biết nên buồn, nên mừng hay nên

- HS tìm hiểu, trả lời. GV khắc sâu tủi, khiến mọi người rất ngạc nhiên.
kiến thức
+ Tràng là một nhân vật có ngoại hình
? Tại sao có thể nói, việc Tràng nhặt xấu. Đã thế còn dở hơi. Gia cảnh của
vợ là một tình huống rất éo le?
Tràng cũng rất ái ngại. Nguy cơ "ế vợ" đã
( Hoàn cảnh của Tràng, hoàn cảnh rõ. Đã vậy lại gặp năm đói khủng khiếp,
sống trước mắt nạn đói đang diễn ra cái chết luôn luôn đeo bám. Trong lúc
khủng khiếp)
không một ai (kể cả Tràng) nghĩ đến
chuyện vợ con thì đột nhiên Tràng có vợ.
Trong hoàn cảnh đó, Tràng "nhặt" được
vợ là nhặt thêm một miệng ăn cũng đồng
? Tình huống truyện đã tác như thế thời là nhặt thêm tai họa cho mình, đẩy
nào đến cảm xúc, suy nghĩ của các mình đến gần hơn với cái chết. Vì vậy,
nhân vật trong truyện? Vì sao họ lại việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo
có tâm trạng như vậy?
le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.
+ Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên. Bà cụ Tứ,
? Qua tình huống nhặt vợ của Tràng, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bản
nhà văn muốn thể hiện điều gì?
thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh
( Thể hiện hoàn cảnh bi đát của phúc của mình
người lao động, giá trị rẻ rúng của => Tình huống truyện là sáng tạo độc đáo
con người, tình người lúc đói khổ)
của nhà văn, góp phần phản ánh bức tranh
- HS suy nghĩ, động não trả lời câu hiện thực về nạn đói và số phận khốn khổ
14



hỏi. GV khắc sâu kiến thức, liên hệ
đến bài thơ Vợ nhặt:“Bốn bát bánh
đúc thành cỗ cưới thật rồi. Xin từ
điển hẫy thêm thừ vợ nhặt. Ngòi bút
Kim Lân ngỡ như đùa mà khóc. Đói
quắt quay yêu tha thiết con người...”.
- Gv hướng dẫn học sinh phân tích
các nhân vật trong truyện. Cách làm
cụ thể như sau: Chia lớp thành các
nhóm theo kĩ thuật mảnh ghép, mỗi
nhóm 4 – 6 học sinh: 3 nhóm tìm hiểu
về nhân vật Tràng, 3 nhóm tìm hiểu
về nhân vật bà cụ Tứ, 2 – 3 nhóm tìm
hiểu nhân vật người vợ nhặt. GV
hướng dẫn học sinh tìm hiểu: hoàn
cảnh, ngoại hình, diễn biến tâm trạng,
những phẩm chất khát vọng của nhân
vật ẩn sau ngôn ngữ và hành động, rút
ra thông điệp mà nhà văn muốn gửi
gắm.
- GV phát phiếu học tập theo mẫu sau
cho học sinh
+ Phiếu 1:
 Ghi thành viên của nhóm
 Nội dung thảo luận: Phân tích
nhân vật Tràng trong truyện
+ Phiếu 2:
 Ghi thành viên của nhóm
 Nội dung thảo luận: Phân tích
nhân vật thị trong truyện

+ Phiếu 3:
 Ghi thành viên của nhóm
 Nội dung thảo luận: Phân tích
nhân vật bà cụ Tứ trong truyện

của người dân lao động, thể hiện tấm lòng
nhân đạo sâu sắc của nhà văn.
b. Nhân vật trong truyện
 Tràng
- Là người lao động nghèo, tốt bụng và cởi
mở (giữa lúc đói, anh sẵn lòng đãi người
đàn bà xa lạ),
- Ở Tràng luôn khát khao hạnh phúc và có
ý thức xây dựng hạnh phúc. Câu “nói đùa
chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe
rồi cùng về” đã ẩn chứa niềm khát khao tổ
ấm gia đình và Tràng đã “liều” đưa người
đàn bà xa lạ về nhà. Tràng "nhặt" được vợ
trong hoàn cảnh éo le. Con người có ý thức
xây dựng hạnh phúc gia đình
- Diễn biến tâm trạng thái độ của Tràng.
+ Lúc đầu bông đùa cho đỡ mệt nhọc.
+ Sau đó khi cô thị theo về là vợ lo lắng
nhưng đánh liều ( qua cái tặc lưỡi Chậc
kệ!)
+ Trên đường về cảm giác vui mừng
“phớn phở” khi có người đàn bà đi bên
+ Buổi sáng đầu tiên khi có vợ: Tràng
thức dậy trong trạng thái êm ái, lơ lửng,
Tràng cảm thấy yêu thương và gắn bó với

căn nhà của mình, hắn thấy hắn nên
người.Tràng nghĩ đến trách nhiệm với gia
đình, nhận ra bổn phận phải lo lắng cho
vợ con sau này, anh cũng nghĩ tới sự đổi
thay cho dù vẫn chưa ý thức thật đầy đủ
 Thị
- Hoàn cảnh của thị gắn với một con số
không tròn trịa: không nhà, không người
thân, không tài sản, thậm chí không có
tên, nhà văn gọi chị là người đàn bà, là
thị. Số phận, những mảnh đời như thị có
lẽ không phải hiếm hoi trong bối cảnh
nạn đói năm 1945
- Ngoại hình: khuôn mặt lưỡi cày xám
xịt, bộ quần áo rách như tổ đỉa.
15


- HS các nhóm làm việc trong khoảng
10 – 15 phút. Sau đó giáo viên cho đại
diện các nhóm trình bày kết quả trong
phiếu học tập trên màn hình chiếu.
Phần này cho các em dùng máy chiếu
đa vật thể trình bày sản phẩm thảo
luận. Các nhóm khác theo dõi, nhận
xét bổ sung. GV chốt lại kiến thức cơ
bản.

- GV chốt lại nét khái quát nhất về các
nhân vật:Nhân vật văn học sinh ra từ

tâm trí nhà văn nhưng sống mãi trong
tâm trí người đọc. Qua truyện Vợ
nhặt, ta không thể quên Tràng người

- Diễn biến tâm trạng
+ Lúc đầu, thị là một người chao chát,
chỏng lỏn, không còn biết xấu hổ là gì. Vì
đói quá, không nơi nương tựa mà theo
Tràng về làm vợ chỉ bằng mấy câu nói tầm
phơ tầm phào. (chú ý lời nói, hành động ăn
bánh đúc, theo về làm vợ...)
+ Trên đường theo Tràng về nhà cái vẻ
"cong cớn" biến mất, chỉ còn người phụ nữ
biết xấu hổ, ngượng ngùng và cũng đầy nữ
tính (đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón
rách che nghiêng, thèn thẹn hay đáo để..).
+ Khi về tới nhà, thị ngồi mớm ở mép
giường và tay ôm khư khư cái thúng. Tâm
trạng lo âu, băn khoăn, hồi hộp khi bước
chân về "làm dâu nhà người".
+ Đặc biệt trong buổi sáng hôm sau: Thị là
một con người hoàn toàn khác khi trở
thành người vợ trong gia đình, chi ta dậy
sớm, quét tước, dọn dẹp. Đó là hình ảnh
của một người vợ biết lo toan, chu vén cho
cuộc sống gia đình. Hanh phúc và tình yêu
thương của Tràng, mẹ Tràng đã làm cho
người đàn bà ấy trở lại đúng là mình: đúng
mực, dịu dàng, hiền hậu, có trách nhiệm
với gia đình.

=> Ấn sâu sau vẻ ngoài đói rách, xấu xí,
thậm chí chua ngoa là khát vọng sống
mãnh liệt, là một người phụ nữ biết chăm
lo vun vé cho tổ ấm mới xây của mình.
 Bà cụ Tứ
- Hoàn cảnh: nghèo khổ, tội nghiệp
- Diễn biến tâm trạng
+ Lúc đàu ngạc nhiên khi thấy người đàn
bà xa lạ ngồi ngay đầu giường con trai
mình, lại chào mình bằng u, Tâm trạng
ngạc nhiên ấy được thể hiện qua động tác
đứng sững lại của bà cụ, qua hàng loạt
các câu hỏi: (…)
+ Khi hiểu ra cơ sự: từ tâm trạng ngạc
16


nông dân nghèo khổ nhưng nhân hậu,
luôn khao khát về hạnh phúc, mái ấm
gia đình; cô thị đằng sau vẻ ngoài
đanh đá, chua ngoa là người phụ nữ
hiền hậu đúng mực luôn khát khao
được sống đến mãnh liệt, bà cụ Tứ
người mẹ nông dân nghèo khổ nhân
hậu vị tha giàu lòng thương con, tựa
như bà tiên trong những câu chuyện
cổ tích, luôn nhen nhómthắp lên
ngọn lửa niềm tin, hi vọng cho con.
Mỗi nhân vật trong truyện mang một
vẻ đẹp riêng.


- Gv cho học sinh khái quát giá trị
hiện thực và nhân đạo của truyện
? Qua tìm hiểu văn bản, hãy cho biết
giá trị hiện thực của truyện?
- GV khắc sâu kiến thức, cho học sinh
xem một đoạn phim tư liệu về nạn đói
Những năm tháng không thể lãng quên

nhiên đến ai oán, xót thương, tủi phận,
thương cho con trai vì phải nhờ vào nạn
đói mà mới có được vợ, ai oán tủi cho
thân vì là mẹ mà không lo được cho con
mình. Những giọt nước mắt của người mẹ
nghèo và những suy nghĩ của bà là biểu
hiện của tình thương con.
+ Bà không chỉ hiểu mình mà còn hiểu,
cảm thông cho thị. Bà nghĩ có gặp bước
khó khăn này người ta mới lấy đến con
mình và con mình mới có vợ. Dù có ai
oán xót thương, cái đói đang đe dọa, cái
chết đang cận kề, thì bà nén vào lòng tất
cả để dang tay đón người đàn bà xa lạ
làm con dâu mình: "Ừ, thôi thì các con
cũng phải duyên phải số với nhau, u cũng
mừng lòng".
+ Bà đã chủ động nói chuyên với nàng
dâu mới để an ủi vỗ về và đọng viên. Bà
đọng viên con cái” ai giàu ba họ, ai khó
ba đời” có ra thì con cái chúng mày về

sau…
+ Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới,
bà cụ Tứ đã nhen nhóm cho các con niềm
tin, niềm hy vọng:"Tao tính khi nào có
tiền mua lấy con gà về nuôi, chả mấy mà
có đàn gà...”
=> Kim Lân đã khám phá ra một nét
độc đáo khi để cho một bà cụ gần đất xa
trời lại là người thắp lên và nhen nhóm
ngọn lửa niền tin, hi vọng vào tương lai,
một người mẹ nhân hậu, giàu lòng yêu
thương.
c. Giá trị hiện thực và nhân đạo của
truyện
- Hiện thực: Phản ánh tình cảnh bi thảm
của người nông dân trong nạn đói khủng
khiếp năm 1945.
- Nhân đạo:
+ Sự đồng cảm, xót thương đối với số
17


phận của những người nghèo khổ.
? Giá trị nhân đạo của truyện bộc lộ + Gián tiếp lên án tội ác của bọn thực dân
qua những phương diện nào? Liên hệ Pháp và phát xít Nhật.
đến giá trị nhân đạo trong các truyện + Thấu hiểu và trân trọng tấm lòng nhân
đã học để thấy được nét riêng của tác hậu, niềm khao khát hạnh phúc rất con
phẩm? ( Hai đứa trẻ - Thạch Lam, Chí người, niềm tin vào cuộc sống, tương lai
Phèo – Nam Cao, Vợ chồng A phủ - Tô của những người lao động nghèo
Hoài)

+ Dự cảm về sự đổi đời và tương lai tươi
sáng cho những người dân lao động
Hoạt động 3. Hướng dẫn học sinh nghèo khổ.
tổng kết kiến thức trọng tâm bài học III. Tổng kết
- HS đọc lại ghi nhớ SGK
1. Nội dung
? Cho biết nội dung tư tưởng của
Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít
truyện? Thông điệp nhà văn nhắn gửi đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945
đến người đọc qua câu chuyện là gì?
và khẳng định: ngay trên bờ vực của cái
- HS suy nghĩ trả lời
chết, con người vẫn hướng về sự sống, tin
tưởng ở tương lai, khát khao tổ ấm gia
- GV dẫn dắt học sinh bằng câu hỏi
đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
? Những đặc sắc về nghệ thuật của 2. Nghệ thuật.
truyện?
a. Xây dựng được tình huống truyện độc
đáo
? Bên cạnh sáng tạo tình huống truyện, b. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn;
em có nhận xét như thế nào về cách kể, dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết
ngôn ngữ truyện, cách xây dựng nhân đặc sắc.
vật của nhà văn?
c. Nhân vật được khắc họa sinh động, đối
thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí
- HS tìm hiểu, trả lời câu hỏi. GV củng tinh tế.
cố nội dung cốt lõi nhất
d. Ngôn ngữ một mạc, giản dị nhưng chắt
lọc và giàu sức gợi.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
- Kết quả vận dụng của bản thân
Với việc mạnh dạn áp dụng những phương pháp, biện pháp trên, đặc biệt việc tích
hợp kiến thức liên môn, sử dung phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực phát huy năng
lực học sinh, ứng dụng phương tiện thiết bị dạy học hiện đại, chúng tôi bước đầu đã
thu được hiệu quả nhất định. So với trước đó, giờ học vận dụng biện pháp trên, học
sinh thích thú và hứng khởi, đa phần các em rất chú ý tham gia bài học, tích cực thảo
luận, suy nghĩ và trả lời vấn đề. Không khí giờ học diễn ra sôi nổi, đặc biệt việc
chuyển thể tác phẩm thành kịch bản văn học đã tạo nên sự hào hứng của học sinh, các
em rất tích cực tham gia hoạt động này từ đó phát huy năng lực làm việc nhóm, năng
khiếu nghệ thuật của một số em học sinh. Đây là biện pháp góp phần trả tác phẩm về
18


phía người đọc, người đọc sẽ hóa thân vào tác phẩm, sống với nhân vật văn học.
Khi kiểm tra bài cũ, các em hiểu bài, nắm được kiến thức cơ bản, hiểu nội dung tư
tưởng và đặc sắc nghệ thuật của truyện. Sau khi học sinh học truyện Vợ nhặt của Kim
Lân theo cách đôỉ mới trên, trong những năm học gần đây, chúng tôi đã tiến hành ra đề
kiểm tra Bài viết số 6 ở các lớp, nhìn cung các em nắm được kiến thức, làm bài đạt kết
quả tốt. Kết quả điểm số các lớp trực triếp giảng dạy năm học 2017 – 2018 như sau:
Bảng 2: Kết quả kiểm tra đánh giá khi áp dụng biên pháp mới
Điểm trên trung bình
Điểm dưới trung bình
Tổng
bài Điểm 9,10 Điểm 7, 8
Điểm 5, 6
Điểm 3,4
Điểm 1,2
Lớp
kiểm

Số
Số
Số
Số
Số
tra
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
bài
bài
bài
bài
bài
12A6 40
2 5,0% 13 32,5% 25 62,5% 0
0%
0
0%
12A8 43
3 6,9% 15 34,8% 25 58,1% 0
0%
0
0%
12A9 42
4 9,5% 19 45,2% 19 45,2% 0
0%
0

0%
So sánh kết quả kiểm tra đánh giá, chúng tôi nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt trong
kết quả học tập của học sinh. Năm học trước, khi chưa áp dụng biện pháp mới, kết quả
bài kiểm tra của các em còn nhiều điểm yếu, kém, không có điểm giỏi. Sau khi dạy
theo cách mới, số điểm khá, giỏi ở các lớp chiếm tỉ lệ trên 35%. Đặc biệt không còn
học sinh đạt điểm yếu, điểm kém giảm mạnh không còn. Lớp 12A9 theo học ban khoa
học xã hội, các em trực tiếp biên kịch và tham gia các vai diễn hóa thân vào nhân vật
nên kết quả kiểm tra tốt, tỉ lệ điểm khá giỏi cao.
- Việc trao đổi, triển khai trong tổ chuyên môn
Trong những năm học vừa qua, tổ chuyên môn ngữ văn chúng tôi đã thường
xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên đề, trao đổi chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng
dạy học môn Ngữ văn tại trường THPT Hậu Lộc 4. Với đề tài trên, chúng tôi đã tiến
hành bàn bạc, xây dựng đóng góp ý kiến. Các đồng chí trong tổ rất tâm đắc, hào hứng
với các biện pháp chúng tôi trình bày. Do đó, một số thành viên trong tổ khi dạy
truyện Vợ nhặt của Kim Lân đã thử nghiệm và thu lại kết quả tốt. Học sinh hăng hái
học tập, tiếp thu tốt kiến thức. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ dự kiến tổ chức ngoại
khóa cho cả ba khối qua cuộc thi: Sân khấu hóa tác phẩm văn học trong chương trình
THPT. Có thể nói, việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn đã được chứng
tôi làm thường xuyên và hiệu quả trong những năm học gần đây.

19


3. Kết luận, kiến nghị
3. 1. Kết luận
Dạy học Ngữ văn vốn không dễ. Dạy Đọc - Hiểu văn bản văn học càng khó bới
nhiệm vụ chủ yếu của người giáo viên dạy văn là phải định hướng, mở đường cho học
sinh khám phá vẻ đẹp của văn chương. Đó là một thử thách không nhỏ đối với người
dạy. Đổi mới phương pháp giảng dạy góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học là một
yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt đối với giáo dục hiện nay. Do đó, trong quá trình giảng dạy,

thầy cô giáo cần không ngừng học tập nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, vận dụng
phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại kích thích sự tìm tòi sáng tạo của học sinh trong
quá trình học tập khám phá tri thức.
Trong phạm vi đề tài này, từ việc tìm hướng dạy một văn bản cụ thể (Truyện“Vợ
nhặt” của Kim Lân), tôi muốn thử nghiệm một số biện pháp góp phần nâng cao chất
lượng dạy học thể loại truyện. Kết quả của cách làm trên đã mang lại tín hiệu khả quan,
với những biện pháp cụ thể, chúng tôi đã tạo nên sự hứng thú, tích cực, chủ động cho
học sinh khi học một tác phẩm truyện ngắn trong chương trình. Những kinh nghiệm mà
chúng tôi chia sẻ bên trên được đúc kết từ thực tiễn dạy học của bản thân sau quá trình
đứng lớp. Do vậy rất mong sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp gần xa.
3.2. Kiến nghị
Dạy học văn trong bối cảnh văn chương ít được học sinh phụ huynh coi trọng như
hiện nay quả là một thử thách. Do đó tôi mong rằng Sở Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức
nhiều các đợt tập huấn chia sẻ phương pháp, kinh nghiệm giảng dạy môn Ngữ văn cho
giáo viên các trường trong tỉnh. “Dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao
quý”. Trong thực tế, rất nhiều tấm gương nhà giáo mẫu mực đã cống hiến tài năng trí
tuệ của mình phục vụ cho sự nghiệp giáo dục của đất nước. Tuy nhiên một thực tế cho
thấy, thu nhập của người giáo viên vẫn còn thấp so với mặt bằng chung, nhiều thầy cô
chưa yên tâm công tác, còn lo làm thêm cải thiện cuộc sống. Do đó để thầy cô bớt đi
gánh nặng mưu sinh, yên tâm giảng day, chúng tôi rất mong sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước với những chính sách thiết thực cho giáo dục.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 25 tháng 05 năm 2018
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Văn Luyện

20



21



×