NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
(Trích) Nguyễn Tuân
I/ TIỂU DẨN :
- Xuất xứ : Người lái đò sông Đà được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960).
- Hoàn cảnh ra đời : Đây là kết quả của những chuyến đi thực tế đến Tây Bắc vừa
để thỏa mãn thú phiêu lãng, vừa tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và chất vàng mười “thứ vàng
mười được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động và chiến đấu vùng Tây Bắc.
II/ ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN :
1/ Hình tượng con sông Đà : Con sông là cảm hứng muôn đời của thơ ca. Với Nguyễn
Tuân, sông Đà không còn là một thiên nhiên vô tri vô giác mà trở thành một hình tượng
văn học, một sinh thể có tính cách, có tâm trạng độc đáo. Sông Đà có hai nét tính cách đối
lập nhau “hung bạo và trữ tình” như nhà văn nhận xét trong tác phẩm. Lúc hung bạo, trở
mặt, sông Đà là “một thứ kẻ thù số một, luôn luôn làm mình, làm mẩy với con người và nó
ác như một mụ dì ghẻ”, nhưng khi trữ tình, sông Đà đầy chất thơ, dịu dàng và thân thiết
như “một cố nhân”. Hai nét tính cách đối lập của sông Đà phù hợp với khả năng chiếm
lĩnh thực tại của con người và phù hợp với phong cách của Nguyễn Tuân (tìm đến với
những vẻ đẹp khác thường, những cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ dữ dội).
a.Tính cách hung bạo : Tính cách hung bạo của sông Đà dược miêu tả ở vẻ bề
ngoài đầy sức mạnh hoang dại “ở chỗ vách thành dựng đứng”. Chỗ ấy sông hẹp như một
cái yết hầu …và nguy hiểm chỉ thấy mặt trời khi đúng ngọ. Sông Đà hẹp cho đến nỗi “con
nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà không chỉ
bằng thị giác mà còn bằng xúc giác “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy giữa mùa hè mà
cảm thấy ớn lạnh, mà còn thấy tối, thấy như hụt hẫng thất thần như dang ở con hẻm nào đó
mà ngóng vọng lên cửa sổ ở tầng nhà thứ mấy nào đó dang tắt phụt đèn điện”. Tất cả
những hình ảnh đó tạo cho con người cảm giác ghê rợn và nguy hiểm.
Cái nguy hiểm của sông Đà còn được thể hiện ở mặt nước sông Đà “ trên sông Đà
có nhiều vực xoáy, nhiều luồng chết, nhiều đá ghềnh và nhiều sóng thác”. Mà rõ nét nhất là
những quãng như : mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số đầy đá với sóng gió quanh năm
“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào
cũng đòi nỡ xuýt”. Câu văn của Nguyễn Tuân có nhịp điệu 3/3/3 như mô phỏng độ lượn
của mặt ghềnh. Ở mặt ghềnh mà con thuyền vượt qua chỉ thấy nước – đá – sóng – gió mà
thôi. Những từ lặp lại “nước-đá-sóng” như gối lên nhau hồi hoàn của mặt ghềnh nguy
hiểm. Nhờ vậy câu văn tạo nên một cảm giác mạnh của mặt ghềnh ào ạt. Nếu không phải
là cây bút tài hoa thì không thể tổ chức được một câu văn giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh
như thế.
Cái hung bạo dữ dội của sông Đà còn được thể hiện ở những cái hút nước, xoáy
nước như những cái giếng bê tông ở quãng Tà Mường Vát dưới Sơn La “nước ở đây thở và
kêu như cửa cống cái bị sặc’. Có khi nhà văn lại so sánh như những cái giếng sâu, nước ặc
ặc như rót dầu sôi vào và chẳng may con thuyền nào bị cái hút nó hút xuống “thuyền trồng
ngay cây chuối ngược đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút sau sẽ thấy tan xác ở khuỷu
sông bên dưới”. Nhờ thủ pháp so sánh, Nguyễn Tuân đã truyền được cảm giác mạnh cho
người đọc về sự nguy hiểm của mặt nước sông Đà. Ở chỗ này, nhà văn đã sử dụng con mắt
của điện ảnh để tưởng tượng “một anh quay phim táo tợn nào đấy, ngồi vào cái thuyền
thúng, cho nó hút vào cái đáy của hút nước khủng khiếp kia tạo cho người xem cảm giác
hãi hùng. Sức tưởng tượng kì diệu của Nguyễn Tuân trước thiên nhiên tạo
hóa.
- 1 -
Sự dữ dội của sông Đà còn ở âm thanh của thác nước. Dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân, sông Đà là loài thủy quái nham hiểm, ẩn chứa sức mạnh ghê gớm. Tiếng thác nước
được miêu tả từ xa cho đến gần. Khi ở xa, nó gầm gào qua những thác dữ, tiếng nước réo
gần mãi, lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như oán trách gì, lại như van xin, giọng
gằn mà đầy chế nhạo. Nhưng khi đến gần, nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá truông. Khủng khiếp thay là
thác sông Đà.
Cái dữ tợn của sông Đà còn được thể hiện ở đám đá hòn, đá tảng trên sông. Bằng
biện pháp nhân hóa, Nguyễn Tuân đã thổi hồn người vào đá sông làm cho nó trở nên sống
động hẳn. Đá ở đây, ngàn năm vẫn mai phục, mỗi hòn có một nhiệm vụ riêng (nó dàn
thạch trận, nó bày trận địa), hình dáng không giống nhau. Mặt hòn nào cũng nhăn nhúm,
cũng ngỗ ngược, hòn thì méo mó, hòn thì oai phong bệ vệ, lẫm liệt. Có hòn trông giống
như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Ngay cả khi thua
trận, hòn đá tướng tiu ngỉu, cái mặt xanh lè thất vọng. Ở chỗ này, một lần nữa chứng minh
khả năng tài hoa về ngôn ngữ của nhà văn.
b. Sông Đà trữ tình : Đối lập với con sông Đà hung bạo, nhà văn cũng phát hiện ra
một nét tính cách khác của sông Đà : thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả. Nét tính cách
này của sông Đà phù hợp với phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân; Ông thích khám
phá sự vật hiện tượng ở phương diện văn hóa và mĩ thuật. Nguyễn Tuân quan sát và miêu
tả sông Đà thơ mộng, trữ tình ở nhiều điểm nhìn khác nhau. Lúc thì nhà văn nhìn con sông
từ trên tàu bay (từ trên cao nhìn xuống), lúc thì từ trong rừng đi ra (bằng cái nhìn từ xa),
lúc thì trôi thuyền trên sông (bằng cái nhìn cận cảnh).
Ở mỗi một góc nhìn, nhà văn đã so sánh sánh sông Đà với nhiều đối tượng khác
nhau rất tài tình và rất biến hóa. Nhà văn đã so sánh sông Đà với hơn mười đối tượng, tạo
cho người đọc cảm giác ngạc nhiên, thán phục và nhận ra rằng không có nhà văn nào so
sánh hay hơn, tài tình hơn nhà văn Nguyễn Tuân. Từ trên cao nhìn xuống, sông Đà ngoằn
ngoèo như một sợi dây thừng. Nhìn từ xa “sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo và mù
khói Mèo đốt nương xuân”. Sau này, Nguyễn Tuân tiếp tục so sánh “sông Đà như một áng
tóc tuôn dài ngàn ngàn, vạn vạn sải”. Chỉ một so sánh độc đáo ấy, Nguyễn Tuân làm hiện
ra trước mắt người đọc hình ảnh một con sông có vẻ đẹp kiều diễm, duyên dáng, dịu dàng
mềm mại, tha thướt như một nàng thiếu nữ mà mây trời khói núi Tây Bắc trang điểm làm
diễm lệ thêm vẻ đẹp dòng sông. Vẻ đẹp màu nước sông Đà cũng mang một nét riêng hết
sức cá tính “mùa xuân xanh màu xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ như da mặt
người bầm đi vì rượu bữa”. Cách gọi tên màu sắc con sông quả thật chính xác, ấn tượng.
Có lẽ, Nguyễn Tuân yêu sông Đà bởi màu nước của nó “trong ra trong, đục ra đục chứ
không lờ lờ canh hến như ở sông gâm và sông Lô”.
Sông Đà cũng rất gợi cảm. Có lần nhà văn theo gót anh liên lạc, từ trong rừng đi ra,
con sông như một cố nhân gần gũi, thân thiết, tri âm tự bao giờ. Con sông gợi những niềm
thơ “màu nắng tháng ba Đường thi trong thơ Lí Bạch”; gợi những niềm vui trong sáng “bờ
sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bước trên sông Đà vui như thấy nắng giòn tan
sau kì mưa dầm, vui như nối lại giấc mơ vừa đứt quãng”. Tác giả cảm nhận con sông bằng
nỗi nhớ của một cố nhân “gặp thì vui mừng, xa thì nhung nhớ”.
Cũng có khi nhà thơ tiếp cận con sông bằng đôi mắt của lịch sử, của hồi ức, của
quá khứ. Ở chỗ này, nhà văn đã có những trang văn tuyệt bút đầy chất thơ, giàu tính nhạc
và rất tạo hình “thuyền tôi trôi trên sông Đà…Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.... thuyền tôi
- 2 -
trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu màu mà tịnh không một bóng người…
Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh. Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày
xưa..”. Đây không còn là văn xuôi nữa mà là một bức họa tuyệt đẹp, cái đẹp thể hiện ở
ngôn từ tài hoa của Nguyễn Tuân. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp muôn đời bất biến của con
sông chảy qua năm tháng lịch sử.
Tóm lại, Nhà văn đã vận dụng tất cả các giác quan và kiến thức ở nhiều lĩnh vực
khác nhau để miêu tả con sông Tây Bắc. Con sông dưới trang viết của Nguyễn Tuân là một
công trình nghệ thuật tuyệt vời, là một kì công của tạo hóa được viết bằng tình yêu quê
hương đất nước sâu nặng.
2/ Hình tượng người lái đò : trong khi hướng ngòi bút đến những gì phi thường,
Nguyễn Tuân còn đặc biệt chú ý đến hình ảnh của những người lao động, mà ông gọi là
thứ vàng mười, chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc. Trên con sông hung tợn đó hiện lên
hình ảnh người lái đò hiên ngang, vững chãi, tự do và đẹp như một huyền thoại.
Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò làm nghề đò dọc mười năm liền và đã
nghĩ nghề gần chục năm. Nhưng mười năm lái đò đã in dấu khá đậm nét ở ngoại hình “một
ông lão gần bảy mươi tuổi với cái đầu quắc thước đặt trên thân hình gọn quánh như chất
sừng, chất mun. tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh
gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong về một cái bến xa nào đó trong
sương mù”. Những câu văn này được viết ra không chỉ để miêu tả ngoại hình mà còn để ca
ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề của chính người lái đò.
Nguyễn Tuân cũng cho người đọc thấy được sự từng trãi, thành thạo nghề của
người lái đò “một tai lái tài hoa”. Ông lái đò đã đưa con đò vượt dòng sông đầy thác ghềnh
với một nghệ thuật cao cường. Nghệ thuật ở đây, theo tác giả là người lái đò nắm tất cả
quy luật tất yếu của dòng sông “ nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá nơi ải nước
này…với hơn 100 lần xuôi ngược thì con sông là một trường thiên anh hùng ca mà ông
thuộc cả những dấu chấm câu, những đoạn xuống dòng. Ông còn nhớ như đóng đanh vào
lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Ông lái đò quả là linh
hồn của sông nước vì khi đã nắm chắc quy luật tất yếu đó thì người ta có quyền tự do,
ngang dọc trên sông. Ông lão đã đưa con thuyền vượt bao cửa tử để đến với cửa sinh, xuôi
dòng bình yên. Ở đây với cách nói của mình, tác giả đã bày tỏ sự thán phục của mình về
một con người được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà.
Chỉ từng trãi thôi chưa đủ, đối với sông Đà hung bạo, ai chế ngự được nó đòi hỏi
phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn
Tuân đưa nhân vật vào hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó tất cả những phẩm chất ấy được bộc
lộ, nếu không phải trả giá bằng sinh mạng của bản thân mình. Nhà văn gọi đây là cuộc
chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, một quãng thủy chiến ở mặt
trận sông Đà. Đó chính là những cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều
hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương hiện ra với tâm địa và diện mạo của một
thứ kẻ thù số một. Còn ông lão là “một viên tướng ngày xưa lao trận đổ bát quái đã bày sẵn
với nhiều cạm bẫy nguy hiểm”.
Ở vòng vây thứ nhất, con thuyền và sóng nước giằng co dữ dội. Ông lái đò “hai tay
giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa”. Tuy sóng nước như quân liều mạng ùa
vào tấn công “chúng đội cả con thuyền lên, thúc gối vào bụng và hông thuyền, thậm chí
đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất : đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đòn âm vào chổ hiểm,..
- 3 -
cướp lấy cán chèo võ khí trên cánh tay người lái đò”. Ông lão vẫn không hề nao núng, mà
trái lại rất bình tĩnh đây mưu trí như một vị chỉ huy. Ngay cả khi bị thương, ông vẫn cố nén
vết thương “hai chân vẫn kẹp lấy cuống lái” và trên cái thuyền sáu bơi chèo đó vẫn nghe
tiếng chỉ huy ngắn gọn, sáng suốt. Vậy là trùng vi thạch trận thứ nhất đã xong. Không một
phút nghỉ ngơi, ông lái đò phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai. Lúc này cả con thác là một
bãi đá ngầm, chỉ duy nhất ở phía hữu ngạn con sông là có thể vượt qua. Ông lái đò nhanh
nhạy nhận ra luồng sinh, luồng tử và cứ nắm chắc lấy cái bờm đúng sóng của cửa sinh, lái
miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Thế là vào cửa sinh an toàn. Còn trùng vi thứ ba,
trùng vi cuối cùng “ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả”. Ông lái đò
nhanh tay chớp lấy thời cơ “cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng vào cửa giữa đó. Thuyền
vút qua cổng đá, cánh mở cánh khép, cửa trong lại cửa ngoài. Thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Thế là hết thác.
Dòng sông vặn mình vào một bến cát.
Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Tiếp đó là những giờ phút ung dung, thanh
thản với sông nước thanh bình “đêm hôm ấy, nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống
cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá, hang cá mùa
khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đồng ruộng. Chả thấy ai bàn thêm
lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước với đủ cả tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
Đoạn văn cũng làm nổi bật hình ảnh ông lão lái đò rất đời thường rất khiêm tốn và cũng rất
bình dị. Đây quả đúng là thứ vàng mười của tâm hồnTây Bắc.
Tóm lại, qua hình tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân muốn khẳng định
người anh hùng đâu chỉ xuất hiện ở nơi duy nhất là chiến trường, mà ngay cả trong cuộc
sống hàng ngày của nhân dân ta. Cũng như sự tài hoa trí dũng cũng không cần phải tìm ở
đâu, mà ngay trong những con người lao động bình thường, vô danh đang có mặt trên mọi
miền đất nước. Như vậy trong việc nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, anh
hùng, Nguyễn Tuân đã có cách nhìn mang tính nhân dân cao hơn so với những trang viết
của ông trước CMT8.
III/ TỔNG KẾT :
Ghi nhớ - SGK (trang 193 – Sách Ngữ văn CTC).
AI ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
(Trích) Hoàng Phủ Ngọc Tường
I. TIỂU DẪN :
1.Tác giả:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước. Quê gốc ở tỉnh Quảng Trị. Sinh
năm 1937 tại thành phố Huế. Tốt nghiệp trường ĐHSP Sài Gòn, từng dạy học ở trường
Quốc học Huế, đã tham gia phong trào cách mạng ở nội thành, từng thoát li lên chiến khu.
Năm 1990, ông là tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Cửa Việt.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn hiện đại của Huế, chuyên viết thể loại bút kí.
Văn của ông có sự kết hợp đặc sắc giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa lý luận sắc bén và
suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Lối hành văn
hướng nội, mê đắm, súc tích và tài hoa. Năm 2007, ông được nhận giải thưởng Nhà nước
về văn học nghệ thuật.
-Tác phẩm chính : Ngôi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa
(1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986), Hoa trái quanh tôi(1995), Bản di chúc của
“Cỏ lau”(1997), Ngọn núi ảo ảnh (1999)…
Thơ có : Những dấu chân qua thành phố (1976), Người hái phù dung (1992)….
- 4 -
2.Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”:
- Bài “Ai đặt tên cho dòng sông?” là một trong những bài tùy bút đặc sắc của
Hoàng Phủ Ngọc Tường được viết ở Huế vào dịp tiết Cốc Vũ ngày 4.1.1981, sau được in
trong tập bút kí cùng tên (1986).
-Bài tùy bút có ba phần:
• Phần một nói về cảnh quan thiên nhiên của sông Hương.
• Phần hai và ba là phương diện lịch sử và văn hóa của sông Hương.
- Đoạn trích này nằm ở phần một cộng với lời kết của toàn tác phẩm. Tuy nhiên
đoạn trích không chỉ đề cập tới cảnh quan thiên nhiên sông Hương xứ Huế mà còn thấy
được sự gắn bó với lịch sử và văn hóa của cố đô Huế. Tác phẩm tiêu biểu cho văn phong
của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
3.Chủ đề : Bài bút kí ca ngợi vẻ đẹp huyền ảo thơ mộng của sông Hương, gắn với bao
địa danh và tâm hồn con người nơi cố đô Huế. Đến kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường con
sông Hương đã trở thành một người con gái đẹp có tâm hồn, có cá tính dịu dàng và một vẻ
đẹp sang trọng đằm thắm, một vẻ đẹp đầy văn hoá
II.ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN:
1. Vẻ đẹp của sông Hương
Vẻ đẹp của sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên: Khác với nhiều con sông “sông
Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”, nghĩa là sông Hương gắn liền với Huế. Điểm
nhìn nghệ thuật của bài thơ là sông Hương.
-Sông Hương ở đầu nguồn(thượng nguồn): Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng
chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ này sông Hương
mang tính lưỡng thể : sông Hương ở đầu nguồn rất hùng vĩ với sức sống mãnh liệt, hoang
dại “một bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng dữ dội “rầm rộ giữa
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những
đáy vực bí ẩn”; Nhưng cũng dịu dàng và say đắm “giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ
của hoa đỗ quyên rừng”. Tác giả kết luận “Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan
dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dào
dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do để càng mạnh mẽ hơn, đắm say hơn ở địa phận thượng
nguồn.
-Sông Hương ở đồng bằng: Sông Hương được thay đổi về tính cách: “Sông như
chế ngự được bản năng của người con gái” để “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Bằng trí tưởng tượng và biện pháp
nhân hoá sông Hương được ví như “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng
Châu Hoá đầy hoa dại”. Chính những hiểu biết về địa lí đã giúp tác giả miêu tả tỉ mỉ về
sông Hương với những nét riêng “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh
đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “dòng sông mềm như tấm lụa, với
những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Sông Hương còn đẹp như bức tranh
có đường nét, có hình khối “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với
những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”. Không những thế, người
đọc còn bắt gặp vẻ đẹp đa màu mà biến ảo, phân quang màu sắc của nền trời Tây Nam
thành phố: “sớm xanh , trưa vàng, chiều tím”.
+Sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới chân “những rừng thông u tịch với
những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn”. Đó là vẻ đẹp mang
màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa
Thiên Mụ.
- 5 -