Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VỀ SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG SINH CỦA NGƯỜI DÂN TẠI MỘT SỐ XÃ, HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.9 KB, 73 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH

BÁO CÁO ĐỀ TÀI SINH VIÊN NCKH

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN
QUAN VỀ SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG SINH CỦA
NGƯỜI DÂN TẠI MỘT SỐ XÃ, HUYỆN KIẾN XƯƠNG,
TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2017

Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Văn Tiến
Chủ nhiệm đề tài: SV. Vũ Thị Lan– Lớp YTCC3- K2


THÁI BÌNH – NĂM 2017BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH

BÁO CÁO ĐỀ TÀI SINH VIÊN NCKH

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN
QUAN VỀ SỬ DỤNG THUỐC KHÁNG SINH CỦA
NGƯỜI DÂN TẠI MỘT SỐ XÃ, HUYỆN KIẾN XƯƠNG,
TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2017

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Văn Tiến
Chủ nhiệm đề tài:

SV. Vũ Thị Lan – Lớp YTCC3-K2

Sinh viên tham gia:


1. Phạm Thanh Phúc – Lớp YTCC3-K2
2. Trần Thị Vân – Lớp YTCC3-K2
3. Vũ Thị Thanh Nhàn – Lớp YTCC3-K2
4. Nguyễn Tuyết Chinh – Lớp YTCC3-K2

THÁI BÌNH – 2017

MỤC LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT

AMR

Antimicrobial Resistance – Kháng kháng sinh

BHYT

Bảo hiểm y tế

CBYT

Cán bộ y tế

CSYT

Cơ sở y tế

ĐTNC


Đối tượng nhiên cứu

ĐĐNKH

Đặc điểm nhân khẩu học

ĐKKT

Điều kiện kinh tế

KCB

Khám chữa bệnh

KS

Kháng sinh

KKS

Kháng kháng sinh

NC

Nghiên cứu

SDKS

Sử dụng kháng sinh


TĐHV

Trình độ học vấn

TT-GDSK

Truyền thông – Giáo dục sức khỏe

TYT

Trạm y tế

WHO

World Health Organization – Tổ chức Y tế Thế giới

YHCT

Y học cổ truyền



DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH


ĐẶT VẤN ĐỀ


Kháng sinh (KS) được đưa vào sử dụng từ những năm đầu của thế kỷ XX
và là một trong những loại thuốc coi là vũ khí để điều trị các bệnh lý nhiễm
khuẩn. Tuy nhiên, những loại thuốc này đã và đang được sử dụng chưa hợp lí,
thuật ngữ “đề kháng kháng sinh” đã trở nên quen thuộc và trở thành một vấn đề
mang tính chất toàn cầu. Nhiều nghiên cứu tiến hành trên Thế giới và Việt Nam
cho thấy đã xuất hiện vi khuẩn kháng thuốc KS ngay cả những loại KS thế hệ
mới và có xu hướng ngày càng tăng dần theo thời gian [14]. Tại Việt Nam, số
lượng vi khuẩn kháng thuốc và mức độ kháng ngày càng gia tăng. Tỷ lệ kháng
với KS carbapenem, nhóm KS mạnh nhất hiện nay lên đến 50% [10].
Sự kháng thuốc (AMR) không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con
người mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế mỗi quốc gia. Đó là do phải tăng thời
gian điều trị, tăng chi phí cho y tế vì phải tăng liều dùng, SDKS thế hệ mới và
bệnh nhân phải chấp nhận các phản ứng có hại của KS nhiều hơn. Tỷ lệ KKS
ngày càng gia tăng đã giới hạn các lựa chọn trong điều trị các bệnh nhiễm trùng
và các bệnh truyền nhiễm [16].
Nguyên nhân chủ yếu, cốt lõi của tình trạng này là do việc sử dụng thuốc
KS của người dân còn chưa hợp lý, đó là tự ý mua và sử dụng thuốc không theo
đơn của bác sỹ. Tỷ lệ sử dụng thuốc KS không theo đơn dao động từ 48% ở
Saudi Arabia đến 78% tại Yemen, Uzbekistan. Những lý do phổ biến nhất mà sử
dụng KS không theo đơn là ho (40%), và cúm (34%), 49% số người được hỏi
ngưng thuốc KS khi họ cảm thấy tốt hơn [19] và các loại KS được tự sử dụng
thường xuyên nhất là amoxicillin 18,3%, cefuroxime 7,9%, ciprofloxacin 2,3%
[18]. Tại Việt Nam, phần lớn KS được bán mà không có đơn 88% (thành thị) và
91% (nông thôn). Mua KS để điều trị ho 31,6% (thành thị) và sốt 21,7% (nông
thôn). Ba loại KS được bán nhiều nhất là ampicilin/amoxicillin (29,1%),
cephalexin (12,2%) và azythromycin (7,3%) và thời gian SDKS từ 1-3 ngày
7


chiếm 42,6% nơi mua thuốc chủ yếu của người dân là quầy thuốc tư (46,2%) và

trạm y tế (47,6%) [8].
Vấn đề sử dụng thuốc KS không hợp lý là một trong những nguyên nhân
hàng đầu dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh (KKS), gây ảnh hưởng đến sức
khỏe người sử dụng, gia tăng chi phí, thời gian điều trị, là mối đe dọa nghiêm
trọng và là thách thức cho điều trị trong tương lai. Đây không phải là vấn đề cần
giải quyết của riêng ngành y tế, các ban ngành liên quan mà hơn hết tất cả người
dân cần có cần có nhận thức đúng và thực hành sử dụng kháng sinh (SDKS) hợp
lí để bảo vệ nguồn kháng sinh cho thế hệ sau cũng như làm giảm thiểu tình trạng
kháng kháng sinh hiện nay. Nhằm phản ánh thực tiễn việc sử dụng thuốc KS với
mong muốn nâng cao kiến thức và thực hành của người dân, cung cấp thông tin
kịp thời cho các nhà quản lý, các nhà lãnh đạo, chúng tôi thực hiện nghiên cứu:
“Kiến thức, thực hành và một số yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng
sinh của người dân tại một số xã, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình năm
2017”, nhằm mục tiêu:
1 Mô tả kiến thức và thực hành về sử dụng thuốc kháng sinh của người dân tại
một số xã, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình năm 2017.
2 Xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về sử dụng thuốc
kháng sinh của người dân tại một số xã, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
năm 2017.

8


Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược về kháng sinh
1.1.1. Khái niệm
Kháng sinh là những chất do vi sinh vật tiết ra hoặc những chất hóa học
bán tổng hợp, tổng hợp, với nồng độ rất thấp, có khả năng đặc hiệu kìm hãm sự

phát triển hoặc diệt được vi sinh vật [4].
1.1.2. Phân loại thuốc kháng sinh
Có nhiều cách phân loại kháng sinh, tùy theo mục đích nghiên cứu và
cách sử dụng thuốc.
1.1.2.1. Dựa vào nguồn gốc
• Kháng sinh có nguồn gốc từ sinh vật, xạ khuẩn
• Nhóm kháng sinh có nguồn gốc hóa dược hay do con người tổng hợp nên
1.1.2.2. Dựa vào cơ chế tác dụng
• Thuốc ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn: họ β-lactam, vancomycin
• Thuốc ức chế hoặc thay đổi tổng hợp protein của vi khuẩn: cloramphenicol,
tetracylin, macrolid, lincosamid, aminoglycosid
• Thuốc ức chế tổng hợp acid nhân: quinolon, rifampicin
• Thuốc ức chế chuyển hóa: Co-trimoxazol
• Thuốc làm thay đổi tính thấm màng tế bào vi khuẩn: amphotericin
1.1.2.2. Dựa vào mức độ tác dụng
• Thuốc kháng sinh diệt khuẩn (bactericidial antibiotics): penicillin,
cephalosporin, aminosid
• Thuốc kháng sinh kìm khuẩn (bacteriostatics antibiotics): tetracylin,
cloramphenicol, macrolid
1.1.2.3. Dựa vào phổ tác dụng của kháng sinh
• Nhóm có phổ tác dụng hẹp: chỉ tác dụng chủ yếu lên một loại hay một nhóm
vi khuẩn nào đó
• Nhóm kháng sinh có phổ tác dụng rộng: tác dụng với cả vi khuẩn Gr +, Gr-,
ricketsiea, virus cỡ lớn, đơn bào
• Nhóm kháng sinh sung ngoài hay các thuốc không hoặc ít được hấp thu ở
đường tiêu hóa
• Nhóm kháng sinh chống lao
• Nhóm kháng sinh chống nấm
9



1.1.2.4. Dựa vào cấu trúc hóa học
• Nhóm β-lactam
- Penicilin: benzylpenicilin, oxacilin, ampicilin…
- Cephalosporin, cefaclor ,cefotaxim …
- Các β-lactam khác: carbapenem, monobactam, chất ức chế β-lactamase
• Nhóm aminoglycosid (aminosid): streptomycin, gentamicin, tobramycin…
• Nhóm macrolid: erythromycin, clarithromycin, apiramycin…
• Nhóm lincosamid: lincomycin, thiamphenicol.
• Nhóm tetracylin: tetracylin, doxycylin …
• Nhóm peptid
- Glucopeptid: vancomycin
- Polypeptid: polymycin, bacitracin…

• Nhóm quinolon: acid nalidixic, ciprofioxaxin, ofloxaxin…
• Nhóm co-trimoxazol: co-trimoxazol [3]

1.1.2. Vấn đề sử dụng thuốc an toàn hợp lý
1.2.2.1. Sử dụng thuốc hợp lý
Hội nghị Nairobi, Kenya năm 1985 đã định nghĩa về sử dụng thuốc hợp lý
như sau [2]:
“Sử dụng hợp lý thuốc là việc đảm bảo cho người bệnh nhận được các
thuốc thích hợp với yêu cầu của lâm sàng, liều lượng phù hợp với từng cá thể,
trong thời gian vừa đủ và với giá thành thấp nhất cho mỗi người cũng như trong
cộng đồng của họ”.
1.1.2.2. Nguyên tắc sử dụng kháng sinh an toàn, hợp lý (sử dụng kháng sinh
đúng).
- Đi khám bệnh và dùng KS theo đơn, hướng dẫn của bác sĩ.
- Nên mua KS ở những cơ sở hợp pháp như: hiệu thuốc quốc doanh, hiệu
thuốc có đăng ký, nhà thuốc có đăng ký.

- Khi mua KS phải yêu cầu người bán ghi rõ họ tên và hàm lượng thuốc trên
từng bao gói riêng biệt.
- Cách dùng:
+ Không nên dùng nhiều loại KS phối hợp, trừ khi thầy thuốc có yêu cầu cụ
thể với một số bệnh.
+ Khi cần phải uống nhiều loại thuốc thì phải pha riêng từng loại, không nên
trộn chung.
10


+ Không pha KS với nước hoa quả, nước chè…
+ Khi dùng KS cho trẻ em phải nhớ chú ý liều theo tuổi hoặc cân nặng.
- Khi cho trẻ em dùng KS phải chú ý sự chỉ dẫn của bác sĩ và tuân thủ theo
đúng sự chỉ dẫn đó.
- Trong khi SDKS, nếu thấy hiện tượng khó chịu, buồn nôn, mẩn ngứa,…
phải dừng thuốc ngay và đến khám lại tại các CSYT.
- Nếu dùng KS 2-3 ngày mà không có hiện tượng đỡ bệnh phải báo lại cho
cán bộ y tế xem xét lại, không tự ý thay thuốc khác.
- Không dùng KS theo kinh nghiệm truyền miệng hay sự mách bảo của
người khác.
- Tuân thủ đúng theo đơn của bác sĩ.
- Chỉ dùng KS để chữa các bệnh nhiễm khuẩn, không dùng KS để phòng
bệnh khi bệnh chưa xảy ra.
- Dùng KS phải: đúng liều, đúng lúc, đủ thời gian.
+ Đúng liều: liều của 1 lần uống, liều của 1 ngày uống, liều cho trẻ.
+ Đúng lúc: trước bữa ăn, trong bữa ăn, sau bữa ăn, bất cứ lúc nào tùy từng
loại thuốc, theo hướng dẫn sử dụng.
+ Đủ thời gian: một đợt điều trị ít nhất là 5 ngày [6], [7].
1.1.3. Tác dụng không mong muốn
* Phản ứng dị ứng:

- Sốc phản vệ: là một trong những phản ứng dị ứng nguy hiểm nhất có thể
xảy ra khi sử dụng KS, đặc biệt là các KS penicilin.
- Hội chứng Stevens-Jhonson và Lyell: cũng là những hội chứng dị ứng rất
nguy hiểm có tỷ lệ tử vong cao.
- Các phản ứng dị ứng khác: nổi ban, mày đay, viêm mạch hoại tử, viêm da
khớp, giảm bạch cầu….[4], [2], [3].
* Bội nhiễm
Bội nhiễm là hiện tượng nhiễm khuẩn trong hoặc sau khi dùng KS, đặc biệt
là các KS phổ rộng hoặc khi phối hợp nhiều loại KS mà các KS này thải nhiều

11


qua phân. Các KS này tiêu diệt hệ vi sinh vật có ích nên tạo điều kiện thuận lợi
cho các chủng vi khuẩn gây bệnh phát triển [4], [3].
* Các tác dụng không mong muốn khác:
- Rối loạn tiêu hóa (erythromycin).
- Độc với thận, thính giác (các aminoglycosid, cephalosporin).
- Độc với hệ tạo máu (cloramphenicol).
Ảnh hưởng tới sự phát triển của răng, xương (tetracyclin)… [3], [4].
1.2. Thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh
1.2.1. Thực trạng sử dụng kháng sinh trên thế giới
Sự ra đời của thuốc KS vào những năm đầu của thế kỷ XX đã đánh dấu một
bước ngoặt lớn trong việc điều trị các bệnh nhiễm khuẩn. Nhưng thực tế việc sử
dụng thuốc KS hiện nay đã và đang là mối quan tâm lớn của toàn cầu bởi việc
sử dụng thuốc của người dân một cách bừa bãi. Nghiên cứu mô tả cắt ngang của
Katherine được thực hiện tại 3 nhà thuốc của thành phố Valdivia, phía Nam
Chile (2008) cho thấy: 75% người dân tự SDKS trong cộng đồng, và phụ nữ là
đối tượng chủ yếu SDKS không theo đơn của bác sỹ. Lý do chính cho việc sử
dụng thuốc không cần đến đơn là bệnh nhẹ như: đau đầu (19%), cảm lạnh thông

thường (8,8%),… và tái sử dụng đơn thuốc là 46% [25].
Việc SDKS không theo đơn của bác sỹ mà tự ý mua thuốc tại các hiệu thuốc
để điều trị là tình trạng xảy ra phổ biến ở nông thôn. Theo Skliros và cộng sự
(2010), nghiên cứu về tự sử dụng thuốc KS tại cộng đồng nông thôn ở Hi Lạp
cho thấy: 44,6% người dân sử dụng thuốc không theo đơn ít nhất một lần trong
12 tháng qua và 72,6% sử dụng thuốc không cần đơn là từ các hiệu thuốc trong
cộng đồng. Các KS được tự sử dụng thường xuyên nhất là amoxicillin 18,3%,
cefuroxime 7,9%, ciprofloxacin 2,3%. Việc SDKS không có đơn với lý do
thường gặp nhất là sốt 41,2%, cảm lạnh thông thường 32,0% và đau họng là
20,6% [30].
Một nghiên cứu ở Ấn Độ cho thấy KS được bán không theo đơn chiếm
17,5% các trường hợp mua thuốc và 23% tổng chi phí mua thuốc. Các biệt dược
của penicillin, co-trimoxazol và tetracyclin chiếm 64,8%. Hầu hết các chỉ định
của KS là cho các rối loạn đường hô hấp trên, đường tiêu hóa và một số trường
12


hợp khác. Thời gian sử dụng thuốc thông thường là dưới 5 ngày. Có khi KS
được mua nhiều lần khác nhau nhưng cũng không có ý kiến của thầy thuốc [23].
Theo nghiên cứu của Nakajima và cộng sự (2010) tại Mông Cổ tìm hiểu
việc tự SDKS của người dân trong cộng đồng cho thấy: trong 619 khách hàng
mua thuốc có 48% khách hàng mua ít nhất một loại KS, và chỉ có 42% có đơn
của bác sỹ. Trong số 67% khách hàng mua thuốc được cung cấp thông tin về
liều lượng và thời gian sử dụng thuốc thì chỉ có 9% được cung cấp các thông tin
liên quan đến ảnh hưởng bất lợi do thuốc gây ra. Nghiên cứu cũng được tiến
hành trên đối tượng là bác sỹ và cho thấy một thực tế là có một số thuốc KS đã
trở nên kém hiệu quả lâm sàng giữa năm 2001 và 2006. Và sau đó nghiên cứu
cũng đã đưa ra khuyến cáo là cần có một cơ quan pháp lý để thúc đẩy việc thực
thi của pháp luật về các qui định của thuốc tại Mông Cổ, để tạo nhận thức về sự
nguy hiểm của KS đối với người dân và các chiến dịch nâng cao kiến thức cho

người dân là điều cần thiết [27].
KS là thuốc đặc trị vi khuẩn nhưng không diệt được virus, mà virus lại là
nguyên nhân chính gây nên bệnh cúm và một số bệnh khác. Colett, Pappas,
Hayden đã nghiên cứu kiến thức của cha mẹ trẻ về nhiễm khuẩn hô hấp thường
gặp và liệu pháp KS cho thấy 46% số người được hỏi tin tưởng rằng KS có thể
tiêu diệt được virus và 60% số người được hỏi chưa từng nghe nói đến KS [22].
1.2.2. Tình hình sử dụng kháng sinh ở Việt Nam
Trong những năm qua ngành Y tế đã có nhiều nỗ lực trong việc cung ứng
cũng như phân phối thuốc, trong đó gồm có thuốc KS. Hiện nay có 93 doanh
nghiệp trong nước sản xuất dược phẩm, trong đó 53 cơ sở đạt tiêu chuẩn thực
hành tốt sản xuất thuốc của Tổ chức y tế thế giới (GMP-WHO). Hầu hết các cơ
sở sản xuất trong nước về cơ bản chủ yếu nhập bán thành phẩm và đóng gói một
số loại thuốc bao gồm cả một số KS thông thường như Beta- lactam, tetracyclin,
chloramphenicol và gentamicin từ bán thành phẩm nhập khẩu [10], hàng năm
vẫn còn gần 100 tấn KS các loại được nhập vào Việt Nam với khoảng 350-400
triệu USD, còn trong nước sản xuất khoảng 200 triệu USD trong đó tỷ lệ KS
chiếm 30-40% [15].
13


Thị trường cung ứng thuốc đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng song
bên cạnh đó việc SDKS chưa thật hợp lý vẫn là một nỗi nhức nhối của ngành y
tế Việt Nam hiện nay. Theo Nguyễn Quang Trung và cộng sự (2006) cho thấy:
thói quen tự mua thuốc của người dân tại các hiệu thuốc tây trước khi đến khám
và điều trị tại các CSYT còn khá phổ biến, người dân tự đi mua thuốc điều trị
các bệnh thông thường mà không cần đi khám. Điều đó khiến cho bệnh nhiễm
trùng tiến triển nặng hơn, tốn kém hơn mà lẽ ra có thể điều trị hiệu quả nếu được
chỉ định đúng ngay từ ban đầu. Như vậy bán thuốc không cần kê đơn ở các hiệu
thuốc là rất phổ biến. Hơn nữa sự tuyên truyền giáo dục người dân về SDKS còn
hạn chế nên họ đã tự mua KS và sử dụng mà không cần đến đơn thuốc [17].

Theo kết quả khảo sát về việc bán thuốc KS ở các hiệu thuốc vùng nông
thôn và thành thị các tỉnh phía Bắc cho thấy nhận thức về KS và KKS của người
bán thuốc và người dân còn thấp, đặc biệt ở vùng nông thôn. Phần lớn KS được
bán mà không có đơn 88% (thành thị) và 91% (ở nông thôn). Mua KS để điều trị
ho 31,6% (thành thị) và sốt 21,7% (nông thôn). Ba loại KS được bán nhiều nhất
là ampicillin/amoxicillin (29,1%), cephalexin (12,2%) và azythromycin (7,3%).
Người dân thường yêu cầu được bán KS mà không có đơn 49,7% (thành thị) và
28,2% (nông thôn) [5].
Để tìm hiểu những lí do cho việc SDKS không hợp lý trong cộng đồng như thế
nào và các loại KS thường dùng và dùng nhiều nhất đã được một số nghiên cứu
tiến hành tìm hiểu và đã đưa ra một số thông tin sau:
Theo nghiên cứu cắt ngang của Đặng Thị Hường và Trịnh Hữu Vách (2005)
trên 800 đối tượng có vai trò quyết định việc dùng thuốc trong gia đình tại 2 xã của
tỉnh Thái Bình cho thấy: 31,85% cho rằng KS để điều trị nhiễm trùng, 34% dùng
KS điều trị cảm cúm, 58,3% để điều trị ho kèm theo có sốt, 74,8% dùng KS khi có
mụn nhọt, chỉ có 9,6% biết đến KS. Tỷ lệ SDKS không có đơn chiếm gần một nửa
đối tượng nghiên cứu (49%), thời gian SDKS từ 1-3 ngày chiếm 42,6% nơi mua
thuốc chủ yếu của người dân là quầy thuốc tư (46,2%) và trạm y tế (47,6%).
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người dân sử dụng thuốc KS không hợp lý còn rất cao và
cũng nói lên được kiến thức về KS của người dân nơi đây còn nhiều hạn chế [8].
14


Năm 2013, nghiên cứu về thực trạng SDKS của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi
tại huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên của Nguyễn Thị Quỳnh Trang cho thấy tỷ lệ
các bà mẹ có kiến thức về sử dụng thuốc KS an toàn, hợp lý còn khá hạn chế
(58,6%) và biết tác hại khi sử dụng thuốc không hợp lý chỉ chiếm 21,4%. SDKS
chiếm chủ yếu là các bệnh liên quan đến đường hô hấp (91,1%) và chỉ có 20,9% bà
mẹ SDKS cho trẻ theo đơn của bác sỹ, 13,3% tuân thủ đúng theo đơn, trong đó lý
do SDKS không theo đơn của bác sỹ là do bệnh nhẹ chiếm chủ yếu (84%), 75%

ngừng dùng thuốc sau 2- 3 ngày bệnh thuyên giảm [16].
Năm 2009, theo nghiên cứu của Trần Thị Lan Anh và Tạ Thu Lan về “ Phân
tích chi phí sử dụng thuốc KS BHYT tại bệnh viện E” cho thấy: trong 7 nhóm KS
được sử dụng tại bệnh viện E năm 2009, nhóm beta – lactam được sử dụng nhiều
nhất chiếm 77,8% tổng giá trị sử dụng các thuốc KS. Theo cách phân loại nhóm
beta – lactam, có 3 phân nhóm, nhóm cephalosporin được sử dụng chủ yếu chiếm
đến 97,8% chi phí của nhóm, các cephalosporin được sử dụng ở cả 4 thế hệ, trong
đó thế hệ 2, thế hệ 3 được sử dụng nhiều nhất, đặc biệt cephalosporin thế hệ 3 có
những 19 biệt dược và giá trị sử dụng chiếm 64,7% của nhóm [1].
1.3. Tình hình kháng kháng sinh của vi khuẩn
1.3.1. Tình hình kháng kháng sinh trên thế giới
Kháng kháng sinh (KKS) là tình trạng các vi sinh vật như vi khuẩn, virus, nấm
và kí sinh trùng thay đổi cách thức hoạt động, làm cho các thuốc trị bệnh do chúng
gây ra trở nên vô hiệu [18]. Cơ chế kháng cự mới đang xuất hiện và lan rộng trên
toàn cầu, đe dọa khả năng điều trị các bệnh truyền nhiễm phổ biến, dẫn đến kéo dài
bệnh tật, khuyết tật, và tử vong. Nếu không có KS hiệu quả để phòng ngừa và điều
trị các bệnh nhiễm trùng, thủ thuật y khoa như ghép tạng, hóa trị liệu ung thư, bệnh
tiểu đường và phẫu thuật lớn trở nên rủi ro rất cao. Sự kháng thuốc làm tăng chi phí
chăm sóc sức khỏe với thời gian lưu trú dài hơn trong các bệnh viện và chăm sóc
đặc biệt hơn yêu cầu. Chủ đề Ngày Sức khỏe Thế giới 7/4/2011 là “Chống kháng
thuốc: không hành động hôm nay, không chữa khỏi mai sau”. Đây là lần thứ 42, Tổ
chức Y tế Thế giới lại nêu lên một vấn đề sức khẻ của năm, nhằm thức tỉnh cộng
đồng về vấn đề vi sinh vật kháng thuốc đang đe dọa toàn cầu.

15


Mới đây các nhà khoa học Mỹ cho biết một trường hợp đầu tiên tại nước này
mắc phải siêu vi khuẩn có thể khiến mọi loại thuốc KS mất tác dụng.
Theo Washington Post, một loại E.coli có khả năng kháng loại KS colistin, được

tìm thấy trong nước tiểu của một phụ nữ 49 tuổi, bang Pennsylvania. Colistin là
loại KS gần như mạnh nhất, thường được các bác sĩ sử dụng trong trường hợp các
loại KS khác thất bại [28].

.
Hình 1. Loại siêu vi khuẩn mới có khả năng chống lại loại thuốc kháng sinh
mạnh nhất [28]
Sự phát triển của sự kháng thuốc (AMR) là một hiện tượng tự nhiên. Tuy
nhiên, những hành động của con người thúc đẩy sự xuất hiện và lây lan của
AMR. Sử dụng không phù hợp thuốc KS đã dẫn đến sự phát triển của các vi
khuẩn gây bệnh, dẫn đến khoảng 700.000 người chết mỗi năm. Đến năm 2050,
nếu xu hướng hiện nay tiếp tục, con số này dự kiến sẽ tăng lên đến 10 triệu. Việc
giảm hiệu quả của thuốc KS sẽ dẫn đến tình trạng kháng thuốc và tạo thành một
mối đe dọa nguy hiểm đến sức khỏe con người [32].
Một báo cáo mới về tình hình kháng của Streptococus pneumonia từ Ấn Độ
cho biết các chủng kháng thuốc của Streptococus pneumonia kháng Penicillin đã
được biết đến trên toàn thế giới và đến nay nó đã kháng với nhiều loại thuốc:
kháng với cotrimoxazole và tetracyclin là 24% tiếp theo là kháng với
erythromycin và ciprofloxacin là 14% [26].
16


Vi khuẩn lao kháng thuốc đang nhanh chóng nổi lên trên toàn thế giới.
WHO báo cáo sự gia tăng đáng báo động không chỉ bệnh lao đa kháng thuốc mà
còn siêu kháng thuốc của bệnh lao trên toàn cầu. Hiện đã có khoảng 0,5 triệu
trường hợp lao siêu kháng thuốc. Tỷ lệ tử vong trong trường hợp lao đa kháng
thuốc cao (50 -60%) và thường gắn liền với một khoảng ngắn của bệnh (4 -16
tuần). Một trong số các yếu tố đã được xác định cho sự phát triển của các trường
hợp đa kháng thuốc là sử dụng thuốc chống lao phổ biến và rộng rãi mà không
cần đơn thuốc của bác sĩ. Vì vậy sự hiểu biết tốt hơn về tỷ lệ kháng thuốc chống

bệnh lao là một trong những yếu tố quan trọng trong việc kiểm soát bệnh lao
trên toàn thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển [33].
Việc tỷ lệ KKS ngày càng gia tăng đã giới hạn các lựa chọn trong điều trị
các bệnh nhiễm trùng và các bệnh truyền nhiễm, và làm tăng kinh phí của các
quốc gia nhằm tăng lợi ích xã hội từ phòng bệnh. Chính vì vậy KS cần được
quản lý nghiêm ngặt. Hiệu quả của một loại thuốc kháng khuẩn mang lại lợi ích
chung toàn cầu. Nghiên cứu cho rằng cần sử dụng nhiều hơn nguồn kinh tế như
là một sự đầu tư cho việc đề ra các chính sách để quản lý tình hình KKS, trong
đó bao gồm cả sự hiểu biết về các hành vi sức khỏe chính gây ra KKS và bổ
sung thêm các phương pháp khác để tìm ra sự tiến hóa đa dạng của kháng KS
trên thế giới [24].
1.3.2. Tình hình kháng kháng sinh của vi khuẩn tại Việt Nam
Tình trạng KKS ở Việt Nam đang ở mức báo động, xuất hiện nhiều loại siêu
vi khuẩn kháng tất cả loại thuốc, phổ biến nhất là nhóm vi khuẩn gram âm
đường ruột.
Tại sự kiện công bố báo cáo Thực trạng kháng sinh thế giới 2015 diễn ra ở
Hà Nội chiều 29/10, Nguyễn Vũ Trung, Phó giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt
đới Trung ương cảnh báo về tình trạng KKS của Việt Nam đang ở mức báo
động. Số lượng vi khuẩn kháng thuốc, mức độ kháng ngày càng gia tăng. Tỷ lệ
kháng với KS carbapenem, nhóm KS mạnh nhất hiện nay lên đến 50%, đặc biệt
là các vi khuẩn gram âm. Bà Đỗ Thúy Nga, đại diện đơn vị nghiên cứu lâm sàng
Oxrford Mỹ cũng thông báo tỷ lệ vi khuẩn E.coli kháng với KS carbapenem.
17


Trong số 26 nước báo cáo, tỷ lệ kháng cao nhất tại Ấn Độ 11%, Việt Nam đứng
thứ hai với 9%, sau đó đến Bulgaria. Tỷ lệ khuẩn kháng với KS cephalosporin
thế hệ ba lên đến hơn 60% [13].
Tại Việt Nam, một nghiên cứu ở TP Hồ Chí Minh cho thấy trong 10 năm, tỉ
lệ các chủng Pneumococcus kháng penicilin phân lập từ máu và dịch não tủy

tăng từ 8% (1993 – 1995) lên 56% (giai đoạn 1999 – 2002). Năm 2000 – 2001,
Việt Nam có tỉ lệ kháng penicilin (71,40%) cao nhất trong 11 nước khu vực
Châu Á [11], [15]. Trong khoảng năm 2000 – 2002, tỷ lệ Haemophillus
influenzae kháng ampicilin đã được ghi nhận là khoảng 57% [29].
Một nghiên cứu khác của Trần Quốc Kham (2003) về tình hình kháng lại KS
của một số loại vi khuẩn thường gặp tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình cho
thấy: 78,4% vi khuẩn S. pneumonia đã kháng với co – trimoxazol và 36% kháng
với gentamycin. Kết quả của nghiên cứu đã cho thấy thực tế các vi khuẩn
thường gặp đã kháng với KS rất mạnh [9].
Trong chương trình nghiên cứu quốc gia về kháng kháng sinh (ANSORP),
Việt Nam có mức độ kháng cao với penicillin (71,4%) và erythromycin (92,1%)
[31]. Hơn nữa, 75% phế cầu khuẩn kháng với ít nhất 3 loại KS trở lên. Tỉ lệ
kháng Shigella cao cũng được ghi nhận, cụ thể là: trimethoprimsulfamethoxazole (81%), tetracycline (74%), ampicillin (53%), ciprofloxacin
(10%), và ceftriaxone (5%) [35]. Một nghiên cứu khác tại khu vực phía Nam Việt
Nam (2006-2008) chỉ ra rằng 15,3% kháng ceftriaxone [36]. Ở Việt Nam, tỉ lệ các
chủng Salmonella typhi đã KKS vẫn chiếm tỉ lệ tương đối cao với khoảng 50%
năm 2004. Mức độ kháng axit nalidixic tăng rõ rệt trong vòng 12 năm, từ 4% lên
97% năm 2005 [34].
1.4. Một số nghiên cứu về kiến thức và hành vi sử dụng kháng sinh của
người dân.
1.4.1. Trên thế giới
Một nghiên cứu của Awad AI và Aboud EA về kiến thức, thực hành SDKS
của người dân tại Kuwait năm 2015 cho thấy: 72,8% số người được hỏi đã được
kê KS trong vòng 12 tháng trước thời gian nghiên cứu, và 36% trong số họ đã
18


không hoàn thành quá trình điều trị. Hơn một phần tư (27,5%) là tự SDKS để
điều trị chủ yếu là lạnh thông thường, đau họng và ho. Gần 47% người tham gia
còn thiếu kiến thức về SDKS hợp lý, an toàn và khả năng kháng thuốc KS [18].

Năm 2007, theo nghiên cứu của Cliodna A. M. McNulty và cộng sự về kiến
thức SDKS đã đưa ra con số 97% người dân cho rằng không nên sử dụng kháng
sinh khi không cần thiết. Tuy nhiên 38% số người được hỏi nghĩ rằng kháng
sinh để điều trị ho và cảm lạnh, 54% nghĩ rằng thuốc KS có thể tiêu diệt được
virus và 43% người tham gia không biết đến KS có thể tiêu diệt được các vi
khuẩn thường sống trên da và ở đường ruột [21].
Năm 2014, một nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành của người dân
về việc SDKS trong 3 nước châu Á cho thấy tỷ lệ sử dụng thuốc KS không có
đơn dao động từ 48% ở Saudi Arabia đến 78% tại Yemen, Uzbekistan. Những lý
do phổ biến nhất mà SDKS không theo đơn là ho (40%), cúm (34%) và 49% số
người được hỏi ngưng thuốc KS khi họ cảm thấy tốt hơn. Sự hiểu biết về việc
SDKS thích hợp của người dân còn nhiều hạn chế [19].
Nghiên cứu của Chan (2006), về kiến thức, thái độ, thực hành SDKS của các
bà mẹ cho trẻ khi mắc nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính ở trẻ em tại Malaysia
cho thấy trong số các bà mẹ có gần 68% họ tin rằng KS là hữu ích cho điều trị
cảm lạnh thông thường, ho (chiếm 69%) và sốt (chiếm 76%). Trong đó 29% các
bậc cha mẹ cho rằng dùng KS là cần thiết, 17% cho rằng KS không cần kê đơn,
28% cha mẹ yêu cầu bác sĩ cho thuốc KS và 93% nhận được những gì họ yêu
cầu cho con của họ khi bị nhiễm trùng đường hô hấp cấp. Khi SDKS thì 85%
dừng lại khi triệu chứng giảm, 15% cho trẻ dùng KS còn sót lại của lần điều trị
trước, 24% đã chia sẻ thuốc KS và 5,5% đã mua thuốc KS cho con của họ mà
không cần tham khảo ý kiến của bác sỹ. Nghiên cứu đã cho thấy kiến thức và
thực hành của các bà mẹ còn rất hạn chế khi SDKS cho trẻ [20].
Nghiên cứu của Yousef và cộng sự (2008) tại Jordan cũng cho thấy việc
SDKS không an toàn, hợp lý còn phổ biến (42,5%). Lý do phổ biến nhất cho
việc tự sử dụng thuốc là bệnh nhẹ (46,4%), thời gian chờ đợi bác sỹ dài (37,7%)
và tránh chi phí cho khám bác sỹ là 31,4%. Người dân có xu hướng lựa chọn
19



thuốc dựa vào lời khuyên của nhân viên bán thuốc 14,2%, bạn bè/hàng xóm
17,6%, lời khuyên từ bác sỹ 21,9%. Ngoài ra người dân lựa chọn thuốc theo
kinh nghiệm trước với bệnh và những triệu chứng tương tự 27% - 33,5% [37].
1.4.2. Tại Việt Nam
Nghiên cứu của Phạm Đình Luyến và Nguyễn Ngọc Tất về “Khảo sát sự lựa
chọn dịch vụ y tế và thói quen sử dụng KS của các hộ gia đình thị xã Tây Ninh,
tỉnh Tây Ninh” (năm 2010) cho thấy gần 40% người dân tự mua thuốc điều trị
khi có bất kỳ triệu chứng bệnh nào không thông qua thăm khám bởi bác sỹ, gần
15% người dân không biết gì về KS và 2/3 người dân được hỏi không biết
SDKS đúng cách [11].
Một nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành SDKS của các hộ gia
đình tại xã Việt Đoàn - Tiên Du - Bắc Ninh của Trịnh Ngọc Quang (2006) cho
thấy: tỷ lệ người dân sử dụng thuốc không theo đơn của bác sĩ là 51,1%. Tỷ lệ
SDKS chiếm tỷ lệ cao nhất là khi mắc các bệnh về viêm đường hô hấp (31,9% 38,3%), tỷ lệ dùng KS từ 1 – 3 ngày là 46,8%. Địa điểm người dân chọn mua
thuốc chủ yếu là quầy thuốc tư nhân (31%). Nghiên cứu chỉ ra mối liên quan
giữa kiến thức SDKS với trình độ học vấn, kinh tế, nghề nghiệp và nhóm tuổi [14].
Theo Cao Thị Mai Phương khi nghiên cứu thực trạng SDKS cho bệnh nhi
trước khi điều trị tại khoa Nhi của Trung tâm y tế huyện Gia Lâm – Hà Nội trên
356 bà mẹ và người chăm sóc của trẻ cho thấy 43% SDKS không có đơn, 57%
SDKS để điều trị bệnh đường hô hấp, 21,8% KS dùng để điều trị bệnh đường
tiêu hóa và 18,8% SDKS khi bị sốt. Thời gian điều trị bằng thuốc KS dưới 3
ngày chiếm 37,6%. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trình độ học vấn có liên quan đến
kiến thức và thực hành SDKS của các bà mẹ, nghề nghiệp có liên quan đến kiến
thức SDKS (p <0,05) [12].
2

Khung lý thuyết
Dựa trên mô hình ứng xử trong hành vi chăm sóc sức khỏe của Green &

Kreuter, 1999 nghiên cứu xây dựng khung lý thuyết sau:


20


Sử dụng thuốc KS chưa an

Chương 2

toàn, hợp lý

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, địa bàn và thời gian nghiên cứu
Yếu tố tiền đề
Yếu tố tăng cường

-

Yếu tố tạo điều

2.1.1. Địa bàn
ĐĐNKH:
tuổi,nghiên
nghề cứu
nghiệp, - Tình trạng sức khỏe của
kiện
người dân: ông/bà có hay
đánh
chính
về kiến

TĐHV,Để
điều
kiệngiá
kinh
tế. xác, khách quan và thực tiễn sự khác biệt
- Tiếp
cậnthức
thông
ốm không, mức độ bệnh,
và thực
hành
dụng dân
KS, về
nhóm nghiên
cứumắc
đã thực
3tinxã: thị trấn
Kiến
thức
củasửngười
loại bệnh
phải,hiện
tuổi,trên
- Tính sẵn có: hiệu
giới
Thanh
Nê,

Thanh
Tân,



Ninh
thuộc
huyện
Kiến
Xương,
tỉnh
Thái nhiều,
Bình. dễ
sử dụng thuốc KS:
thuốc
- Gia đình, bạn bè, hàng
mua
2.1.1.2.
Kiến
Xương
Các
bệnhHuyện
sử dụng
thuốc
KS
xóm
Vấn đề Huyện
cần quan
tâmXương
khi SDKS
- Kinh
thânthuộc vùng đồng bằng
Kiến

tỉnh Thái
Bìnhnghiệm
là mộtbản
huyện
Sử dụng thuốc KS đúng chỉ - Đơn thuốc cũ
châu thổ sông Hồng. Huyện có diện tích 200 km 2, nằm ở phía Tây Bắc thành
định
- Quan niệm
Sử
dụng
thuốc
KS
đúng
cách
- trấn.
Hướng
dẫnsốcủa
thuốc
phố Thái Bình, có 36 xã và một thị
Dân
củathầy
huyện
năm 2016 là 274.318
Hiểu biết tác hại khi dùng - Hướng dẫn của người bán
người.KS
Vềkhông
Y tế, hợp
ở huyện
đa khoa, 142 CSYT tư nhân và 37 Trạm
thuốc

lí có 1 bệnh viện
hàng
Thực
hành của người dân về
y tế xã.
sử
dụngĐặc
thuốc
KS:
2.1.1.3.
điểm
3 xã nghiên cứu

Sử dụng+ thuốc
KS Thanh
theo đơn
Thị trấn
Nê:
Tuân thủ điều trị: liều lượng,
Thịcách
trấndùng
Thanh Nê nằm ở phía Tây Bắc huyện Kiến Xương, cách thành
thời gian,
- Thực
hành mua
phố khoảng
15 thuốc
km. Theo thống kê đến năm 2016, thị trấn có 2.217 hộ dân với
- Cách xử trí khi có tác dụng phụ
7.680cầu

người,
đó nam
- Yêu
đượctrong
hướng
dẫnchiếm
sử 47,86%, nữ chiếm 52,14%.
dụng + Xã Vũ Ninh:
-

Xã Vũ Ninh nằm ở phía Tây Bắc của huyện Kiến Xương, cách trung tâm
huyện 9 km và cách thành phố Thái Bình khoảng 7 km về phía Đông Nam thành
phố. Nơi đây đất đai rất màu mỡ, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Theo số
liệu điều tra năm 2016, xã Vũ Ninh có tổng số dân là 7.968 người.
+ Xã Thanh Tân:
Là một xã thuộc huyện Kiến Xương cách trung tâm thành phố Thái Bình
khoảng 11 km. Dân số là: 5.194 người (2016). Về kinh tế, chủ yếu là kinh tế
nông nghiệp chiếm hơn 80%. Thành phần kinh tế: Giàu: 1%; Khá: 44%; Trung
21


bình: 51%; Nghèo: 4%; Không có hộ đói. Hiện tại TYT xã Thanh Tân có 01 bác
sĩ KCB cho nhân dân trong địa bàn. Có 01 cán bộ YHCT để có thể phát triển và
sử dụng kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền trong chăm sóc sức khoẻ ban
đầu cho nhân dân.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu
Người dân từ 18 – 75 tuổi đang sinh sống trên địa bàn được lựa chọn vào
nghiên cứu, không phân biệt giới, nghề nghiệp, tôn giáo.
* Tiêu chuẩn chọn mẫu:
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Đưa vào nghiên cứu các trường hợp sau:

 Tại mỗi hộ gia đình chọn một người có thể là chủ hộ hoặc là người

trưởng thành có vai trò trong việc quyết định sử dụng thuốc kháng
sinh chữa bệnh cho bản thân, những người trong gia đình.
 ĐTNC tự nguyện và hợp tác tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
 Những đối tượng có rối loạn về tâm thần, không có khả năng trả
lời.
 Những đối tượng từ chối phỏng vấn.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Tổng thời gian nghiên cứu: 1/2017 – 06/2017.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp dịch tễ học mô tả qua điều
tra cắt ngang bằng phỏng vấn trực tiếp nhằm tìm hiểu kiến thức, thực hành và
mọt số yếu tố liên quan về sử dụng thuốc kháng sinh của người dân theo bộ câu
hỏi.
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
 Cỡ mẫu

Cỡ mẫu được tính toán dựa vào công thức ước tính cho tỷ lệ:
22


n = Z2

(1−

α
)

2

×

p (1 − p)
d2

Trong đó:
• α: Mức ý nghĩa thống kê (α = 0,05).
• Z(1-α/2): Giá trị Z thu được tứng với giá trị α (Z(1-α/2) = 1,96).
• d: Khoảng sai lệch mong muốn giữa tỷ lệ p thu được từ mẫu và tỷ lệ thực từ
quần thể (chọn d = 0,05).
• p: là tỷ lệ ước tính người dân có kiến thức đúng về sử dụng thuốc kháng sinh.
Do chưa có nghiên cứu trước đó nên chúng tôi chọn p = 0,5.
Thay vào công thức trên: n = 384. Gia tăng 10% trừ trường hợp không
hợp tác hoặc vắng đối tượng, cỡ mẫu nghiên cứu được làm tròn là 420 người
dân.
 Phương pháp chọn mẫu: Sử dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn
 Các bước tiến hành chọn mẫu cụ thể như sau:

- Bước 1: Chọn có chủ đích 3 đơn vị xã của huyện Kiến Xương: Thị
trấn Thanh Nê, xã Vũ Ninh, xã Thanh Tân Mỗi xã điều tra 140 đối
tượng
- Bước 2: Lập danh sách tất cả các thôn của từng xã, mỗi xã chọn
mẫu ngẫu nhiên đơn được 3 thôn
- Bước 3: Với mỗi thôn được chọn của 3 xã, tiến hành chọn mẫu
ngẫu nhiên đơn đối tượng đầu tiên, các đối tượng tiếp theo được
chọn theo phương pháp cổng liền cổng (door to door) cho đến khi
đủ số lượng mẫu nghiên cứu thì dừng lại.
 Phương pháp thu thập thông tin:

- Công cụ thu thập thông tin: Đây là một bộ câu hỏi phỏng vấn được
thiết kế trên phần mềm ODK Collection để thu thập thông tin bao gồm
2 phần:
+ Phần I: Thông tin chung của đối tượng: 7 câu hỏi về tên, địa chỉ,
tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế.
+ Phần II: Thông tin về kiến thức, thực hành sử dụng thuốc KS:
23


• Phần A: Kiến thức về sử dụng thuốc kháng sinh: gồm 12 câu hỏi
về kiến thức sử dụng thuốc kháng sinh.
• Phần B: Thực hành về sử dụng kháng sinh: gồm 12 câu hỏi về
thực hành sử dụng thuốc kháng sinh.
- Thử nghiệm phiếu điều tra: Phiếu điều tra sau khi được thiết kế được
tiến hành thử nghiệm trong 2 ngày với 20 người dân tại thành phố Thái Bình,
tỉnh Thái Bình.
2.2.3. Tổ chức thu thập số liệu
Điều tra viên là sinh viên lớp YTCC3 - K2, YHDP5 – K6, Trường Đại học
Y Dược Thái Bình. Nhóm điều tra viên sẽ được tập huấn về công cụ thu thập
thông tin cho các điều tra viên với các nội dung sau:
-Làm quen với các câu hỏi trên phần mềm ODK Collection.
-Phương pháp điều tra và cách thu thập thông tin cho từng câu hỏi.
-Phương pháp chọn mẫu, chọn đối tượng vào nghiên cứu.
-Ghi lại các câu trả lời và phản hồi của đối tượng nghiên cứu.
2.3. Các biến số trong nghiên cứu
Gồm có các nhóm biến số và chỉ số được trình bày ở Bảng sau:
Công cụ
Tên

Định nghĩa/


Loại

biến

Giải thích

biến

Chỉ số

thu thập
thông
tin

Tuổi

Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Năm sinh tính theo Liên
Tỷ lệ % người dân Phiếu
dương

lịch

của tục

ĐTNC

thuộc nhóm tuổi:


phỏng

+ 18 - 39 tuổi

vấn

+ 40 - 59 tuổi
Giới

ĐTNC là nam giới Nhị

+ 60 - 75 tuổi
Tỷ lệ % người dân:

Phiếu

hay nữ giới

+ Nam

phỏng

+ Nữ

vấn

phân

24



Học vấn

Trình độ học vấn cao Thứ

Tỷ lệ % người dân có Phiếu

nhất của ĐTNC

trình độ:

phỏng

+ Không biết đọc/viết

vấn

bậc

+ Dưới cấp 3
Nghề

Là nghề nghiệp hiện Định

+ Cấp 3 trở lên
Tỷ lệ % người dân làm Phiếu

nghiệp

tại của người dân danh


nghề:

phỏng

dành nhiều thời gian

+ Nông dân

vấn

nhất cho công việc

+ Công chức/viên chức
+ Công nhân

Điều

Ý kiến tự đánh giá Định

+ Nghề khác
Tỷ lệ % điều kiện kinh Phiếu

kiện

của người dân về danh

tế của người dân:

phỏng


kinh tế

điều kiện kinh tế gia

+ Nghèo

vấn

đình hiện tại

+ Trung bình
+ Khá

Nghe

+ Giàu
Thông tin về kiến thức sử dụng kháng sinh của người dân
Mô tả người dân đã Nhị
Tỷ lệ % người dân nghe Phiếu

thông tin từng nghe về thuốc phân

về thuốc kháng sinh :

phỏng

về thuốc kháng sinh bao giờ

+ Có


vấn

KS
Nguồn

những Định

+ Không
Tỷ lệ % những nguồn Phiếu

cấp danh

thông tin về cho người phỏng

chưa
Tìm

cung cấp nguồn

hiểu
cung

thông tin thông tin cho người

dân

về KS
dân về KS
Tên một Tìm hiểu kiến thức Định


Tỷ lệ % người dân có Phiếu

số thuốc của người dân về tên danh

kiến thức đúng về tên phỏng

KS
một số loại thuốc KS
Lý do sử Là những bệnh/triệu Định

một số thuốc KS
vấn
Tỷ lệ % những bệnh/triệu Phiếu

dụng

chứng cần SDKS để danh

chứng người dân cần phỏng

thuốc KS điều trị
Căn cứ Là đối tượng được Định

SDKS để điều trị
vấn
Tỷ lệ % đối tượng được Phiếu
25

vấn



×