Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Tiên Phước, Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.55 KB, 62 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................Trang 01
Chương 1:
MẤY VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO Ở
HUYỆN TIÊN PHƯỚC,TỈNH QUẢNG NAM
1.1. Một số vấn đề về quản lý nhà nước về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở
nước ta............................................................................................................
1.1.1. Khái niệm, chủ thể, khách thể, mục tiêu và nguyên tắc quản lý nhà nước
đối với các hoạt động của tôn giáo............................................................
1.1.2. Nội dung quản lý.......................................................................................
1.1.3. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với các hoạt động của tôn giáo …….
1.1.4. Về thẩm quyền quản lý ............................................................................
1.2. Tình hình tôn giáo ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
1.2.1 Quá trình du nhập và phát triển ................................................................
1.2.2. Những hoạt động trong thời gian qua........................................................
1.2.3. Nhận xét chung về tôn giáo ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
Chương 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA
TÔN GIÁO Ở HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM
THỜI GIAN QUA.
2.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tình hình của huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam và Thực trạng hoạt động tôn giáo..........................................................
2.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tình hình của huyện Tiên Phước, Quảng Nam
2.1.2. Thực trạng hoạt động tôn giáo của huyện Tiên Phước
2.2. Nhận xét chung..........................................................................................
Trang 1

1


2.2.1 Ưu điểm.....................................................................................................


2.2.2. Hạn chế, khuyết điểm......................................................................
Chương 3:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Dự báo tình hình hoạt động của tôn giáo ở huyện Tiên Phước, tỉnh
Quảng Nam và công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo này trong thời
gian tới
3.2. Một số giải pháp.........................................................................................
3.2.1. Những giải pháp cơ bản............................................................................
3.2.2. Những giải pháp cụ thể.............................................................................
KẾT LUẬN........................................................................................................

Trang 2

2


LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và tồn tại trong một giai đoạn
nhất định của lịch sử loài người. Trong quá trình hình thành và phát triển, tôn
giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, tâm lý, đạo
đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Tín
ngưỡng, tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của nhân dân, nhưng tôn giáo với tư
cách là một thực thể xã hội, là một lĩnh vực của đời sống xã hội thì cũng phải
được nhà nước quản lý như quản lý các lĩnh vực khác. Vấn đề quản lý nhà nước
về tôn giáo là một yêu cầu khách quan, cần thiết, bởi vì có được quản lý thì hoạt
động tôn giáo mới thực sự diễn ra bình thường, quan hệ giữa các tôn giáo, giữa
các tín đồ mới thực sự bình đẳng, quyền tự do theo hoặc không theo một tôn
giáo nào của công dân mới được đảm bảo và tôn giáo không bị lợi dung nhằm

mục đích chính trị hay ý đồ xấu.
Việt Nam là một quốc gia có mặt nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, đa
dạng về tổ chức, khác nhau về số lượng có nguồn gốc phát sinh, du nhập, phát
triển ảnh hưởng trong đời sống chính trị, văn hóa, xã hội. Trong những năm gần
đây, tình hình hoạt động của các tôn giáo diễn ra khá sôi động, phức tạp, với sự
tác động nhiều mặt của tình hình thế giới. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo trong
tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã có quan điểm, chính sách đúng đắn về
tôn giáo nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp
luật; tôn trọng giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo; phát huy được tính tích cực của
tôn giáo để phục vụ lợi ích cho Tổ quốc, cho dân tộc, cho quần chúng tín đồ,
phù hợp với Hiến chương, pháp luật, với đạo đức, truyền thống của dân tộc…
Đồng thời hạn chế, ngăn chặn những yếu tố tiêu cực của các tôn giáo như:
Những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức, phản văn hóa; nhất là những hành vi
lợi dụng tôn giáo để gây phương hại đến an ninh quốc gia.
Trang 3

3


Tiên Phước là một huyện trung du miền núi nằm ở phía tây của tỉnh Quảng
Nam, trên địa bàn huyện có đông chức sắc, tu sĩ, tín đồ các tôn giáo. Với sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể
các cấp về thực hiện các chính sách đối với tôn giáo, đã tác động tích cực, sâu
sắc đến các tầng lớp nhân dân - nhất là đồng bào có đạo - giúp các tôn giáo hoạt
động theo đường hướng "tốt đời, đẹp đạo". Đời sống vật chất, tinh thần của tín
đồ được cải thiện làm cho đồng bào có đạo và chức sắc tôn giáo an tâm, phấn
khởi tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới, vào chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng quê hương Tiên Phước ngày càng
giàu đẹp. Tuy nhiên, thời gian qua trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng

Nam vẫn còn một số phần tử xấu có tư tưởng cực đoan, thù địch tiến hành
những hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nhằm chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân. Bên cạnh đó vẫn có tình trạng lúc này hay lúc khác hoạt động
của một số tôn giáo diễn ra không bình thường, vi phạm một số quy định của
nhà nước về xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, in ấn phát hành kinh sách, lợi
dụng hoạt động từ thiện, nhân đạo để khuyếch trương thanh thế. Hiện tượng bói
toán, mê tín còn diễn ra phổ biến. Một số chức sắc các tôn giáo ngấm ngầm
chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các dòng tu, hội đoàn,
các tín đồ thông qua các hình thức sinh hoạt phong phú đã thu hút khá đông
thanh thiếu niên tham gia sinh hoạt tôn giáo. Hoạt động truyền đạo trái phép của
một số tôn giáo vẫn còn xảy ra ở một số địa phương xa trung tâm huyện. Việc
các thế lực phản động lợi dụng tôn giáo để kích động quần chúng chống đối
chính quyền vẫn còn ngấm ngầm diễn ra ở một số nơi.
Trước tình hình đó, Huyện ủy đã tăng cường chỉ đạo quản lý nhà nước đối
với tôn giáo và đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên Công tác quản
lý nhà nước đối với tôn giáo còn nhiều hạn chế, sự phối hợp giữa các ngành, các
Trang 4

4


cấp thiếu tập trung và đồng bộ, việc phân định chức năng quản lý của các cấp
chính quyền chưa rõ ràng, còn đùn đẩy cho nhau. Điều đó vô tình đã tạo ra sơ
hở, thiếu chặt chẽ, giải quyết không đúng thẩm quyền. Nhận thức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn
giáo còn hạn chế. Do đó, một số cơ quan quản lý nhà nước cũng còn vi phạm
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Trên cơ sở tình hình thực tế hoạt động của các tôn giáo và việc thực hiện
quản lý nhà nước đối với tôn giáo, tìm ra những phương hướng và giải pháp để
nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước trên địa bàn huyện Tiên Phước,

tỉnh Quảng Nam nhằm vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh của
quần chúng, vừa đảm bảo cho cho chính sách tôn giáo không bị vi phạm, vừa
đấu tranh có hiệu quả chống địch lợi dụng tôn giáo là việc làm cần thiết. Với
kiến thức cơ bản lĩnh hội được trong thời gian học tập, nghiên cứu tại Học viện
Chính trị khu vực III tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của
tôn giáo tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam - Thực trạng và giải pháp”
làm luận văn tốt nghiệp chương trình cao cấp lý luận chính trị khóa học 2013 2015 với mong muốn được tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu cả về lý luận và thực
tiễn về tôn giáo, chính sách tôn giáo, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo…nhằm giúp cho bản thân có thêm những kiến thức, kinh nghiệm
cần thiết trong quá trình công tác. Đồng thời phát hiện, đúc rút được những vấn
đề trong thực tiễn để suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm góp
phần nhỏ bé của mình vào công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Trang 5

5


Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là công tác quản lý nhà nước của các
cơ quan làm công tác tôn giáo tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đối với
tôn giáo. Đề tài chỉ tập trung vào các nội dung cụ thể của công tác này. Hoạt
động của tôn giáo tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam cũng là một đối tượng
nghiên cứu mà đề tài phải đề cập đến.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Về không gian giới hạn tại địa bàn huyện
Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Về thời gian tập trung từ khi có Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo (năm 2004) đến nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục tiêu: Thông qua tổng kết thực tiễn sau thời gian thực hiện Pháp lệnh

Tín ngưỡng, Tôn giáo rút ra một số kinh nghiệm về công tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động của các tôn giáo và nêu lên một số giải pháp đối với công tác
này trong thời gian đến.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài sẽ tập trung vào một số
nhiệm vụ chính sau:
+ Khảo sát hoạt động của tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với tôn
giáo tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, đồng thời chỉ ra những ưu điểm và
hạn chế trong việc thực hiện quản lý nhà nước đối với tôn giáo trong thời gian
qua.
+ Dự báo tình hình hoạt động của tôn giáo trong thời gian tới; đề xuất một
số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở
huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.
4. Phương pháp nghiên cứu:

Trang 6

6


Về mặt phương pháp luận xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về quản lý nhà nước đối với tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn
quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam thời
gian qua. Về phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, sử dụng phương pháp lịch
sử và logic.
5. Ý nghĩa của đề tài:
Qua nghiên cứu thực hiện đề tài, sẽ nâng cao sự nhận thức của bản thân về
công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo. Đối với địa phương, đề tài sẽ đề
xuất một số giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo
tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam thời gian tới.

6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Mấy vấn đề về quản lý nhà nước đối với tôn giáo và tình hình
tôn giáo ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động của tôn giáo ở
huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo trong thời gian tới.
Hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với
thầy giáo hướng dẫn Th.S Văn Nam Thắng cùng các thầy, cô giáo giảng dạy tại
Học viện Chính trị khu vực III. Xin chân thành cảm ơn Phòng nội vụ huyện Tiên

Trang 7

7


Phước,Tỉnh Quảng Nam đã quan tâm tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực
hiện luận văn này.
Tuy nhiên đây là vấn đề rất phức tạp, nhạy cảm trong tình hình hiện nay,
trong khi đó kinh nghiệm thực tiễn của bản thân còn quá ít ỏi, nhận thức còn
nhiều hạn chế, mong được sự chia sẽ, giúp đỡ tận tình của quý thầy cô giáo. Xin
chân thành cảm ơn!

Chương 1:
MẤY VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO
Ở HUYỆN TIÊN PHƯỚC,TỈNH QUẢNG NAM
1.1. Một số vấn đề về quản lý nhà nước về tôn giáo trong thời kỳ Đổi
mới ở nước ta:

1.1.1. Khái niệm, chủ thể, khách thể, mục tiêu và nguyên tắc quản lý nhà
nước đối với các hoạt động của tôn giáo:

Trang 8

8


Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng
của công tác tôn giáo. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều
nhấn mạnh đến vai trò của công tác này. Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3/2003
Về công tác tôn giáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX cũng đã xác
định một trong những giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo là phải “tăng
cường quản lý nhà nước về tôn giáo”. Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo, về mặt lý luận cần nhận thức rõ và thống nhất một số vấn đề
cơ bản sau:
Khái niệm “quản lý nhà nước” được hiểu ở cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp
như sau:
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước,
sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư
pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực
Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của
các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp).
Vậy, chủ thể quản lý nhà nước là các cá nhân hay tổ chức mang quyền lực
Nhà nước tác động tới đối tượng quản lý. Còn đối tượng quản lý nhà nước là
toàn bộ công dân Việt Nam và những người không phải là công dân Việt Nam
đang sống, làm việc trên lãnh thổ Việt Nam cùng toàn bộ các lĩnh vực của đời
sống xã hội.

Từ các khái niệm quản lý nhà nước như trên, khái niệm quản lý nhà nước
đối với tôn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp, cụ thể:
Nghĩa rộng: Đó là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để
tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo

Trang 9

9


của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu
cụ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Đó là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp)
để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo đúng qui định của pháp luật.
Theo đó, quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở cả 2 nghĩa rộng, hẹp, đều
tập trung, trước hết và chủ yếu là quản lý các “hoạt động tôn giáo”. Cụ thể hơn,
đó là các hoạt động tôn giáo liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Tại khoản 5, điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã nêu:
“Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản
lý tổ chức của tôn giáo”.
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền
những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền
đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ tôn giáo được tín đồ thực
hiện, còn đối với những người chưa phải là tín đồ thì hoạt động truyền đạo giúp
họ hiểu, tin và theo tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo để phát triển lực
lượng tín đồ. Tất nhiên, việc truyền đạo phải tuân thủ các quy định của pháp luật
và nội dung, phương pháp truyền đạo phải đúng với giáo lý của tôn giáo đó.

Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ,
nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn đức tin
tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay của cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức của tôn giáo nhằm thực hiện Hiến chương, điều
lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động đó, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền
đạo với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp trong
hoạt động hành đạo có hoạt động truyền đạo.

Trang 10

10


Từ đó chúng ta thấy, chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo nếu theo nghĩa
rộng của khái niệm, thì đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp,
hành pháp và tư pháp; còn theo nghĩa hẹp, nó chỉ gồm các cơ quan nhà nước
thuộc hệ thống hành pháp các cấp: Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp. Ngoài
ra còn có các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền
quản lý như Bộ nội vụ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên – Môi trường, Ban Tôn giáo Chính phủ.
Còn khách thể quản lý nhà nước đối với tôn giáo, đó là hoạt động tôn giáo
của các tổ chức tôn giáo, của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành. Là công dân Việt
Nam, tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung
của người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của
người có đạo.
Theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, tín đồ là những người tin theo một
tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Chức sắc tôn giáo là tín đồ có chức
vụ, phẩm sắc trong tôn giáo. Còn nhà tu hành, đó là tín đồ tự nguyện thực hiện
thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin

theo. Người làm công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo, với họ, có một đòi
hỏi bắt buộc là phải nắm vững về đặc điểm của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, với
tư cách là khách thể quản lý nhà nước.
Ở nước ta, tín đồ tôn giáo có đặc điểm là: Đa số họ là nông dân, vốn có
bản chất cần cù lao động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù kẻ xâm lược và
tầng lớp bóc lột. Song bên cạnh đó, do cả vô thức và ý thức, một số tín đồ hoạt
động tôn giáo chưa tuân thủ pháp luật, tai hại hơn, bị các thế lực thù địch lợi
dụng, nghe theo kẻ xấu tham gia vào các vụ việc phức tạp, điểm nóng tôn giáo.
Một đặc điểm khác là, trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng
nhất) giữa mặt công dân và mặt tín đồ. Là công dân, họ có mọi quyền và nghĩa
vụ đối với nhà nước như mọi công dân khác. Là người có tín ngưỡng, tôn giáo,
họ có niềm tin ở Chúa, Phật..., có quyền lợi và trách nhiệm đối với giáo hội. Đây
chính là đặc điểm quan trọng cần phải nắm vững.
Trang 11

11


Còn chức sắc, nhà tu hành tôn giáo cũng có những đặc điểm chung của
một tín đồ, song họ còn có các đặc điểm riêng. Đó là: Họ là những người được
tổ chức tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, nên có năng lực quản đạo và trình độ
thần học cao; được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm. Họ đại diện ở
những mức độ khác nhau cho các tổ chức tôn giáo. Họ vừa chăn dắt tín đồ, vừa
quản lý nền hành chính đạo theo thẩm quyền. Trong quan hệ với tín đồ, họ là
những người rất gần gũi, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của tín đồ. Như
thế, họ có vị trí, vai trò và ảnh hưởng rất lớn, rất sâu sắc trong tín đồ, được tín đồ
yêu quí, trân trọng và bảo vệ.
Tiếp nữa, người làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cũng phải nắm
vững đặc điểm của tổ chức tôn giáo. Đó là: Tổ chức tôn giáo điều hành các hoạt
động tôn giáo; đại diện cho tín đồ trong quan hệ với Nhà nước và với các tổ

chức khác có liên quan. Mỗi tôn giáo có bộ máy tổ chức riêng, hoạt động theo
Hiến chương, Điều lệ của mình. Các tôn giáo có tư cách pháp nhân đều thể hiện
đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Đa số các tổ chức tôn
giáo có liên hệ đồng đạo với tổ chức tôn giáo nước ngoài.
Ngoài ra, khách thể quản lý nhà nước về tôn giáo còn có cả cơ sở vật chất
phục vụ các sinh hoạt tôn giáo. Trong đó, cơ sở thờ tự không đơn giản chỉ là một
thực thể vật chất, mà còn bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, hội họp, văn hóa... Còn
đồ dùng việc đạo như kinh sách, tượng thờ, tranh ảnh, hoành phi, câu đối, lư
hương, chuông mõ, nhạc cụ,…mỗi thứ có chức năng, công dụng riêng trong sinh
hoạt tôn giáo, nhưng đều có đặc điểm là có giá trị vật chất và có ý nghĩa biểu
đạt. Ngoài ra, phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo cộng đồng còn có vườn hoa,
trường học, nhà dòng, cơ sở từ thiện, nhà trẻ, bệnh xá,… Nó là tài sản của giáo
hội và là nơi diễn ra các hoạt động tôn giáo, được Nhà nước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giao cho tổ chức tôn giáo quản lý.
Như vậy, việc nắm chắc những đặc điểm của khách thể quản lý là một yêu
cầu tiên quyết đối với chủ thể quản lý, giúp cho công tác quản lý nhà nước về
tôn giáo có hiệu lực mạnh và hiệu quả cao.
Trang 12

12


1.1.2. Nội dung quản lý
Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo được xác định trên hai
nguyên tắc: Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ thuần túy tôn giáo
của các giáo hội và của các tổ chức tôn giáo; mọi tôn giáo bao gồm thể nhân tôn
giáo (tức người có niềm tin theo một tôn giáo và đã gia nhập vào một tôn giáo
nào đó - được hiểu bao gồm cả tín đồ, nhà tu hành, chức sắc của các tổ chức tôn
giáo có tư cách pháp nhân hoặc chưa được Nhà nước công nhận và cho phép
hoạt động) và pháp nhân tôn giáo (tức các tổ chức giáo hội, các tổ chức tôn giáo

ở Trung ương và ở các cơ sở được Nhà nước cho phép hoạt động) đều phải hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp, Pháp luật của Nhà nước và chịu sự quản lý
của Nhà nước.
Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về tôn giáo được ghi nhận tại Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và được cụ thể hoá tại Nghị định số 22 của Chính phủ,
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh này và Nghị định số
92/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo. Còn trước Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước ta mới chỉ có
Nghị định số 69 (năm 1991), Quy định về các hoạt động tôn giáo, và Nghị định
số 26 (năm 1999), Về các hoạt động tôn giáo. Như vậy, cho đến thời điểm này,
công cụ trực tiếp cho quản lý nhà nước về tôn giáo chính là Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo, còn luật thì chưa có.
Vì thế, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ở nội dung tôn
giáo, Báo cáo chính trị đã nêu: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc,
tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công
Trang 13

13


nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết
đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ,
phá hoại khối đoàn kết dân tộc” .
Còn trong Cương lĩnh xây dựng đất nước - bổ sung, phát triển, năm 2011
khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử

lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng
tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.
Theo đó, quan điểm về vấn đề tôn giáo có những điểm mới là “Tiếp tục
hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm
của Đảng”; “quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
theo Hiến chương, Điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công
nhận, đúng quy định của pháp luật”.
Từ đó, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, từ mục tiêu, nguyên tắc và
nội dung cho đến phương pháp, cần phải được xác định rõ ràng và bổ sung cho
phù hợp với quan điểm của Đảng.
Về mục tiêu, đó là:
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với tôn giáo trước hết phải bảo đảm được
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân, để các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường, theo hướng tuân thủ
pháp luật. Rằng: “Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực
hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt,
phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo" .
Thứ hai, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được
những giá trị văn hoá và mặt tích cực, khắc phục được những hạn chế, tiêu cực
của tôn giáo trong sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo phải thực hiện
được mục tiêu đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có
Trang 14

14


tín ngưỡng, tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ tư, quản lý nhà nước về tôn giáo phải đảm bảo tăng cường được vai

trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo.
Với mục tiêu đó, công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo phải được
dựa trên 3 nguyên tắc sau:
Một, phải đứng vững trên đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước về tôn giáo.
Hai, phải đảm bảo để mọi tôn giáo hoạt động theo hướng tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật; để những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, vì lợi ích chính
đáng và hợp pháp của tín đồ được đảm bảo; hoạt động mê tín dị đoan phải bị
phê phán và loại bỏ.
Ba, phải xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật mọi hành vi lợi dụng tôn giáo
để chống phá chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, xuất
phát từ quan điểm của Đảng và theo quy định pháp luật, có thể khái quát như
sau:
Trước hết, với tính cách là một quy trình của quản lý nhà nước đối với tôn
giáo thì bao gồm những nội dung (nội dung quản lý chung):
- Xây dựng chiến lược dài hạn, kế hoạch năm năm và hàng năm thuộc lĩnh
vực tôn giáo;
- Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
- Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
- Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;

Trang 15

15


- Quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo;

- Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức làm công tác tôn giáo;
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về hoạt động tôn giáo.
Tất cả những nội dung trên đều có ý nghĩa xác định cụ thể, nhưng lại có
mối quan hệ mật thiết với nhau, vì thế không thể xem nhẹ một nội dung nào.
Tiếp theo, quản lý nhà nước về tôn giáo với tính cách là giải quyết bằng
quyền lực nhà nước các hoạt động tôn giáo ở những lĩnh vực cụ thể khác nhau,
thì nó bao gồm các nội dung sau (nội dung quản lý cụ thể):
- Quản lý nhà nước các hoạt động tín ngưỡng;
- Quản lý việc đăng kí hoạt động của tổ chức tôn giáo và công nhận tổ
chức tôn giáo;
- Quản lý việc chia tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc;
- Việc đăng kí người vào tu và hoạt động của dòng tu, tu viện, hội đoàn
tôn giáo;
- Quản lý việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; cách
chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển trong tôn giáo;
- Quản lý về đại hội, hội nghị, đăng ký Hiến chương, điều lệ sửa đổi (nếu
có) của tổ chức tôn giáo;
- Về việc đăng kí hoạt động tôn giáo (thường xuyên, đột xuất, ngoài cơ sở
tôn giáo);
- Quản lý việc xây, sửa, cải tạo các công trình tôn giáo, công trình phụ trợ
thuộc cơ sở tôn giáo;
- Về đất đai, tài sản tôn giáo;
Trang 16

16


- Về hoạt động in ấn, xuất bản, phát hành các ấn phẩm tôn giáo;

- Quản lý việc kinh doanh, xuất, nhập khẩu kinh sách tôn giáo và đồ dùng
việc đạo;
- Quản lý việc mở trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động
tôn giáo chuyên nghiệp, giải thể trường đào tạo; quản lý đối với trường trong
việc tuyển sinh người Việt Nam và người nước ngoài.
- Quản lý việc quyên góp; hoạt động từ thiện nhân đạo của các tôn giáo;
- Quản lý việc quan hệ quốc tế của các tổ chức và cá nhân tôn giáo;
- Quản lý về việc đình chỉ hoạt động tôn giáo.
Quản lý nhà nước đối với tôn giáo có một số phương pháp chủ yếu được
áp dụng như: Phương pháp giáo dục, thuyết phục, phương pháp hành chính,
phương pháp kinh tế, phương pháp cưỡng chế và phương pháp tổng hợp.
Như vậy, quản lý nhà nước đối với tôn giáo là tất yếu, không chỉ ở nước ta
mà còn đối với các nước khác. Tuy nhiên, về mục đích, nội dung cụ thể của
quản lý nhà nước về tôn giáo cũng khác nhau qua mỗi giai đoạn. Vậy, chủ thể
quản lý cần nắm vững quan điểm lịch sử cụ thể để công tác này có hiệu quả,
hiệu lực cao nhất.
1.1.3. Pháp luật về quản lý nhà nước đối với các hoạt động của tôn
giáo:
Từ năm 1945 đến nay, pháp luật về tôn giáo đã có bước phát triển đáng
kể. Trong mỗi giai đoạn pháp luật về tôn giáo đã kịp thời thể chế hóa những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo. Đặc biệt trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, pháp luật về tôn giáo đã có những đóng góp
quan trọng trong việc củng cố sự đoàn kết, phát huy sức mạnh nội lực của toàn
dân tộc trong phát triển kinh tế và giữ vững ổn định chính trị- xã hội. Thể chế
hóa Nghị quyết 25 tại Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về công tác tôn giáo, ngày 18-6-2004, tại phiên họp thứ 19 Ủy ban
Trang 17

17



thường vụ Quốc hội (khóa XI) đã thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo;
ngày 29-6-2004, Chủ tịch nước đã ký lệnh số: 18/2004/L/CTN công bố, Pháp
lệnh có hiệu lực từ ngày 15/11/2004. Sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số: 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo và gần đây nhất là Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và biện
pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 01-01-2013
thay thế Nghị định 22. Đây là những văn bản quy phạm pháp luật cao nhất để
làm cơ sở về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Trong đó, có một số
nội dung quy định về tôn giáo cụ thể như sau:
- Đối với hoạt động tôn giáo của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành:
Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi,
quản lý tổ chức của tôn giáo. Điều 9, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo nêu rõ:
“Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức
thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ
nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo; hoạt động tôn giáo
phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của người khác, thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo bảo đảm an toàn tiết kiệm, tôn trọng quy định của cơ sở tôn
giáo và tuân thủ quy định của pháp luật”. Điều 11: xác định quyền của chức sắc,
nhà tu hành: “Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm
vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo”. Trong trường
hợp giảng đạo, truyền đạo của chức sắc nhà tu hành ngoài cơ sở tôn giáo phải có
văn bản đề nghị gửi Uỷ ban nhân dân huyện nơi dự kiến thực hiện. Kèm theo
văn bản đề nghị là ý kiến của tổ chức tôn giáo trực thuộc hoặc tổ chức tôn giáo
trực tiếp quản lý chức sắc, nhà tu hành.
Về nghĩa vụ: Nhà nước khuyến khích chức sắc, nhà tu hành giáo dục cho
tín đồ lòng yêu nước, thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân, ý thức chấp hành
pháp luật. Đồng thời, yêu cầu người phụ trách tổ chức tôn giáo ở cơ sở cần đăng

Trang 18

18


ký chương trình hoạt động tôn giáo mỗi năm một lần để chính quyền biết và tạo
điều kiện giúp đỡ các sinh hoạt tôn giáo. Những gì đã đăng ký, thì không phải
xin phép lần hai, trừ một số trường hợp ngoại lệ như quy mô của cuộc lễ quá
lớn, các sinh hoạt nghi thức tôn giáo vượt ra ngoài phạm vi cơ sở tôn giáo thì
phải thông báo cho chính quyền xã, huyện biết trước và khi được chấp thuận
mới được tổ chức hoạt động.
- Về phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, nhà tu
hành:
Theo quy định của pháp luật, đây là công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo;
tổ chức tôn giáo thực hiện phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử
theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức mình đã được Nhà nước phê duyệt (Điều
22). Những người được xem xét phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử,
suy cử do tổ chức tôn giáo lựa chọn, quyết định phải đáp ứng các điều kiện theo
quy định của pháp luật: là công dân Việt Nam, có tư cách đạo đức tốt, có tinh
thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà
nước. Trường hợp có yếu tố nước ngoài thì còn phải có sự thỏa thuận trước với
cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung ương (Ban tôn giáo Chính phủ).
Sau khi thực hiện phong chức, phong phẩm hoặc bầu cử, tổ chức tôn giáo có
trách nhiệm đăng ký về người được phong với chính quyền sở tại để họ có đầy
đủ tư cách hoạt động tôn giáo trong chức trách được giao.
Về việc thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành:
Khi thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành tổ chức tôn
giáo có trách nhiệm thông báo với Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đi và đăng ký
với Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đến. Thông báo thuyên chuyển phải bằng
văn bản và gửi đến Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đi chậm nhất 03 ngày làm

việc kể từ ngày có quyết định thuyên chuyển. Về đăng ký thuyên chuyển, tổ
chức tôn giáo phải gửi đầy đủ hồ sơ theo quy định đến Uỷ ban nhân dân huyện
nơi đến, sau 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Uỷ ban nhân dân cấp
huyện nơi đến không có ý kiến khác thì chức sắc, nhà tu hành có quyền hoạt
Trang 19

19


động tôn giáo theo nội dung đã đăng ký. Trường hợp vi phạm pháp luật về tôn
giáo mà đã bị chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xử lý vi phạm hành chính hoặc
đã bị xử lý hình sự thì khi thuyên chuyển phải được sự chấp thuận của Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh nơi đến.
- Về tổ chức tôn giáo:
Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo
lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất đinh được Nhà nước công
nhận. Tổ chức tôn giáo cơ sở là đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo bao gồm Ban
hộ tự hoặc Ban quản trị chùa của đạo Phật, Giáo xứ của đạo Công giáo, Chi hội
của đạo Tin lành, Họ đạo của đạo Cao đài, Ban trị sự xã, phường, thị trấn của
Phật giáo Hòa Hảo và đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo khác.
Đến hết năm 2014, ở nước ta đã có 14 tôn giáo với 40 tổ chức tôn giáo và
1 pháp môn tu hành được Nhà nước công nhận, cấp dăng ký hoạt động với gần
26 triệu tín đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nước). Tuy nhiên, đến nay vẫn còn
một số tôn giáo, trong đó có tổ chức tôn giáo có đông tín đồ, một số “tôn giáo
mới” xuất hiện đang được Nhà nước ta xem xét cụ thể. Để từng bước giải quyết
vấn đề này, Điều 16 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đưa ra 5 điều kiện cần và đủ
để một tổ chức được công nhận là một tổ chức tôn giáo bao gồm: Là tổ chức của
những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi không trái với
thuần phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc; có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn
chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái với quy

định của pháp luật; có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn
định; có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp; có tên gọi không trùng với
tên gọi của tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
Trong các điều kiện trên thì “có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động
tôn giáo ổn định” là một trong những điều kiện quan trọng, một tổ chức trước
khi được công nhận là tổ chức tôn giáo phải đăng ký hoạt động và đã có quá
trình hoạt động tuân thủ pháp luật trong một thời gian nhất định cộng với hội đủ
các điều kiện còn lại thì sẽ được công nhận về mặt tổ chức; theo thẩm quyền luật
Trang 20

20


định. Trường hợp tổ chức tôn giáo đó có đăng ký hoạt động và đã được cấp giấy
đăng ký song chưa đủ thời gian hoạt động ổn định thì chưa được công nhận về
mặt tổ chức. Tuy nhiên tín đồ tôn giáo đó được phép sinh hoạt bình thường;
được thực hiện lễ nghi tôn giáo theo truyền thống; song vì chưa đủ điều kiện
pháp nhân hoàn chỉnh nên họ không được mở trường lớp đào tạo, không được
giao đất, xây dựng nơi thờ tự hoặc phong chức, phong phẩm như các tôn giáo
được Nhà nước bảo hộ và công nhận.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, quy định trên đây là rất cần thiết và
cũng rất tiến bộ, vừa đáp ứng được yêu cầu quản lý, lại vừa đảm bảo quyền tự
do tôn giáo của nhân dân.
Về đăng ký hoạt động tôn giáo, tổ chức phải có hồ sơ gửi Ban Tôn giáo
Chính phủ hoặc cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo cấp tỉnh.
Về tổ chức cơ sở tôn giáo: Thì điều 17, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã
quy đinh rõ: cho phép tổ chức tôn giáo được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp
nhất các tổ chức trực thuộc của mình theo Hiến chương, Điều lệ hoặc giáo luật.
quy định này sẽ giúp cho các tổ chức tôn giáo điều chỉnh về mặt “hành chính
đạo” được phù hợp với thực tiễn, nhất là nhiều bức xúc đang diễn ra ở đơn vị cơ

sở của tổ chức tôn giáo. Quy định mới đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của
các giáo hội và bà con tín đồ các tôn giáo trong xu thế khách quan là tôn giáo
đang tự đổi mới về tổ chức để tồn tại và thích nghi với hoàn cảnh mới. Chế định
này đã mở ra cơ hội thông thoáng hơn về mặt tổ chức cơ sở cho hoạt động tôn
giáo, đồng thời cũng giúp công tác quản lý được chặt chẽ hơn, giảm thiểu các
trường hợp “bung ra”, tự phát về tổ chức đơn vị mà chủ thể quản lý không kiểm
soát được.
- Vấn đề tài sản thuộc cơ sở tôn giáo:
Vấn đề tài sản tôn giáo là một thực thể khách quan. Trong pháp lệnh chỉ
nêu lên nguyên tắc chung: “Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo
được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm việc xâm phạm tài sản đó” (Điều 26). “Cơ
Trang 21

21


sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng,
cho trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân
ngoài nước theo quy định của pháp luật” (Điều 28). Riêng vấn đề tài sản đất
được khẳng định: Đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, đất
thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo những
người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của
tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động, được sử dụng ổn định lâu dài, việc
quản lý và sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai (Điều
27). Việc giải quyết nhà đất tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng do lịch sử để lại về cơ
bản được xử lý theo Nghị quyết số 23/2003/QHXI và Chỉ thị: 1940/CT-TTg
ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
Đối với việc sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới các công trình tín ngưỡng,
tôn giáo theo quy định của pháp luật về xây dựng, khi xây dựng loại công trình
này bắt buộc phải có giấy phép của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Vì công trình tín

ngưỡng, tôn giáo là công trình đặc thù, thường mang tính ổn định lâu dài, có tính
văn hóa, tính nghệ thuật kiến trúc. Trong trường hợp mà công trình buộc phải di
dời theo yêu cầu quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội thì chính quyền phải trao
đổi trước với người đại diện hợp pháp tại cơ sở đó và thực hiện đền bù theo quy
định của pháp luật.
Ngoài ra, pháp luật còn cho phép tổ chức tôn giáo được tổ chức quyên góp,
nhận tài sản hiến, tặng trên cơ sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và
tổ chức, cá nhân ngoài nước theo quy định của pháp luật. Việc tổ chức quyên
góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo phải công khai, rõ ràng mục đích sử
dụng và trước khi quyên góp phải thông báo với Uỷ ban nhân dân nơi tổ chức
quyên góp. Không được lợi dụng việc quyên góp để phục vụ lợi ích cá nhân
hoặc thực hiện những mục đích trái pháp luật. (Điều 28)
- Về hoạt động xã hội của tổ chức, cá nhân tôn giáo
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định rõ: Đối với tổ chức tôn giáo, Nhà
nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo hỗ trợ phát triển các
Trang 22

22


hình thức mở trường, lớp nhà trẻ, mẫu giáo, hỗ trợ phát triển các cơ sở giáo dục
mầm non, tham gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, nhưng không được
nhân danh tổ chức tôn giáo đứng tên trực tiếp mở trường lớp; hỗ trợ cơ sở chăm
sóc sức khoẻ người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS, bệnh nhân
phong, tâm thần và tham gia các hoạt động khác vì mục đích từ thiện nhân đạo
phù hợp với Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy định của pháp
luật.
Còn đối với chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo với tư cách công dân
được Nhà nước khuyến khích tham gia các hoạt động xã hội hóa về giáo dục, y
tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật. (Điều 33)

- Về chống truyền đạo trái phép:
Truyền đạo trái phép là việc truyền đạo trái pháp luật và trái quy ước,
hương ước của thôn, ấp, làng, bản. Đây là một chủ đề lớn được đề cấp trong
Nghị quyết Trung ương. Tuy nhiên, vấn đề chống truyền đạo trái phép trong
Pháp lệnh mới có những quy định khung, chưa có những quy định cụ thể đầy đủ
và hiệu lực để giải quyết cụ thể. Các điều 8 và Điều 15 của Pháp lệnh và điều 2
trong Nghị định 92 chỉ có các quy định nghiêm cấm (không được làm) đối với
các hành vi lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền phá hoại
hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền
chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại
đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Một chế định khác có chế tài rõ ràng
hơn đó là việc đình chỉ hoạt động tôn giáo đối với tổ chức, cá nhân khi hoạt
động tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự
công cộng hoặc môi trường; tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền
thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc; xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm,

Trang 23

23


danh dự, tài sản của người khác; có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng
khác.
Việc đình chỉ sẽ bằng các quyết định hành chính của chính quyền áp dụng
các điều khoản của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính tương tự.
- Về quan hệ quốc tế của tổ chức cá nhân tôn giáo:
Tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc có quyền thực hiện các hoạt

động quan hệ quốc tế theo quy định của Hiến chương, Điều lệ hoặc giáo luật của
tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt Nam, phải tôn trọng nguyên tắc độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau. (Điều 34)
Có một số trường hợp khi tiến hành các hoạt động quan hệ quốc tế phải có
sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ mới được thực hiện. Đó là khi mời
tổ chức, người nước ngoài vào Việt Nam để tiến hành các hoạt động trao đổi,
hợp tác quốc tế có liên quan đến tôn giáo; hai là khi tham gia hoạt động tôn giáo
hoặc cử người tham gia khóa đào tạo về tôn giáo ở nước ngoài như đi học ngắn
hạn hoặc dài hạn (Điều 35). Ngoài ra, chức sắc, nhà tu hành tôn giáo ra nước
ngoài du lịch, thăm thân nhân, chữa bệnh...được thực hiện như những công dân
khác theo pháp luật về xuất nhập cảnh.
Pháp lệnh cũng có hai quy định đối với người nước ngoài cư trú hợp pháp
tại Việt Nam. Đó là khi vào Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam; được
mang theo xuất bản phẩm tôn giáo và các đồ dùng tôn giáo khác để phục vụ nhu
cầu của bản thân; được tạo điều kiện sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín
đồ tôn giáo Việt Nam; khi họ có nhu cầu bức thiết thực hiện các nghi thức tôn
giáo cho bản thân mình thì được mời chức sắc tôn giáo là người Việt Nam đến
giúp đỡ thực hiện.
Còn đối với chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài được giảng đạo tại
cơ sở tôn giáo của Việt Nam nếu được tổ chức tôn giáo Việt Nam đề nghị và
được cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung ương chấp thuận, phải tôn
Trang 24

24


trọng quy định của tổ chức tôn giáo của Việt Nam và tuân thủ quy định của pháp
luật Việt Nam.
1.1.4 Về thẩm quyền quản lý của cấp tỉnh, huyện, xã:

Về thẩm quyền quản lý của cấp tỉnh, huyện, xã thực hiện theo Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số: 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ, cụ thể như
sau:
a) UBND cấp tỉnh:
Có 18 nội dung công việc, gồm:
* 10 Chấp thuận:
- Việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng quy định tại điều 4 khoản 2 (Điều 5 khoản 3)
- Việc thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở (Điều
10 khoản 2 điểm b)
- Việc mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo (Điều 18
khoản 2)
- Thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành vi phạm
pháp luật về tôn giáo đã bị xử lý (Điều 23 khoản 3)
- Hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đăng ký hàng năm của tổ chức tôn
giáo cơ sở (Điều 25 khoản 1 điểm a)
- Hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo không thuộc các trường hợp quy
định tại điều 27, 28 của Nghị định (Điều 29 khoản 2)
- Việc cải tạo, nâng cấp xây dựng mới công trình tôn giáo (Điều 34 khoản 4)
- Các cuộc lễ diễn ra ngoài cơ sở tôn giáo có sự tham gia của tín đồ đến từ
nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh hoặc từ nhiều tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương (Điều 31 khoản 2)
- Hiến chương, Điều lệ sửa đổi (Điều 30, khoản 1)

Trang 25

25


×