Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp rèn nền nếp trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ 24 36 tháng tuổi trường mầm non phú xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 18 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
I. MỞ ĐẦU

Trang
2

1. Lý do chọn đề tài

2

2. Mục đích nghiên cứu

3

3. Đối tượng nghiên cứu

4

4. Phương pháp nghiên cứu

4

II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

4


2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

5

3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

7

3.1. Chăm sóc, giáo dục trẻ bằng tình cảm yêu thương trìu mến
của người mẹ.

7

3.2. Tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động tích cực với nhiều đồ
chơi mới, sáng tạo, đẹp mắt.

9

3.3. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp giáo
dục thích hợp

10

3.4. Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày

11

3.5. Rèn luyện nền nếp thói quen thường xuyên trong các hoạt
động và ở mọi lúc mọi nơi


11

3.6. Làm tốt công tác tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn và kỹ năng rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ

13

3.7. Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện
nền nếp, thói quen cho trẻ

13

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

14

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

16

1. Kết luận

16

2. Kiến nghị, đề xuất

17

Tài liệu tham khảo


19

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Giáo dục Mầm non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc
dân, chiếm vị trí quan trọng” [1]. Trong giáo dục Mầm non có nhiệm vụ xây
dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con
người. “Trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình, là tương lai của cả dân tộc, việc
bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ không phải của riêng ai mà mọi người trong xã
hội cùng với gia đình đều có trách nhiệm” [2]; chăm sóc giáo dục trẻ em ngay
từ những tháng năm đầu của cuộc đời là một việc làm hết sức cần thiết và vô
cùng quan trọng.
“Mỗi một đứa trẻ đều có một nhu cầu một sở thích riêng bao gồm cả về
thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng, hứng thú, tất cả các trẻ đều có quyền đòi
hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu của bản thân” [3]. Bên cạnh đó các nhà
giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng
hơn rất nhiều so với những gì chúng thể hiện ở lớp. Và để có thể làm bộc lộ
năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có một môi trường học tập cho phép chúng được
học tập mọi lúc, mọi nơi, học theo nhiều cách khác nhau. Để nuôi dưỡng trí
thông minh là chăm sóc bảo vệ và kích thích trẻ trong quá trình sinh trưởng.
Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng “trẻ có kinh nghiệm học từ những ngày
đầu tiên của cuộc đời. Vì vậy sự nuôi dưỡng trí lực của trẻ có thể bắt đầu ngay
sau khi trẻ sinh ra” [4]. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm,
kiên trì, hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà và cô giáo. Khi
trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một
môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có một

tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều
này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình. Trẻ
chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nền nếp, khi được sống trong
môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp đỡ của
người lớn.
Đúng vậy trong những năm qua ngành giáo dục đã có những biện pháp
chỉ đạo có hiệu quả tuyên truyền và giáo dục tại các trường mầm non. Bên
cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói quen nền nếp trong mọi hoạt động là
một việc làm vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy giáo dục trẻ ở nhà trường.
Thông qua việc làm này đã góp phần giúp trẻ có một thói quen tốt về nền nếp,
trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ phát triển, củng cố những tố chất vận động,
sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật, nhằm góp phần quan trọng trong việc hình
thành nhân cách cho trẻ. Nếu trẻ có thói quen nền nếp không tốt thì ảnh hưởng
rất nhiều đến các hoạt động hàng ngày, ảnh hưởng trực tiếp đến việc học tập
lĩnh hội kiến thức và sinh hoạt bình thường của trẻ.
Trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi là giai đoạn trẻ đang học nói bi bô và bắt
đầu nhận thức được việc mình làm và việc làm của người khác, việc làm đúng,
sai, tốt xấu, ở giai đoạn này trẻ bắt đầu đi học ở trường mầm non. Do đó nền
2


nếp thói quen của trẻ ở trường mầm non chưa được hình thành. Chính vì thế
vấn đề rèn nề nếp thói quen ở trường mầm non cho trẻ nhà trẻ là việc làm hết
sức quan trọng và cần thiết. Việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ sẽ là cái
kiềng vững chắc làm nền tảng cho việc hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ sau này.
Được sự phân công công việc của Ban Giám hiệu nhà trường, tôi được
phân công phụ trách nhóm trẻ 24 – 36 tháng, có nhiệm vụ chăm sóc giáo dục
trẻ tại nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi, qua đây tôi thấy khó khăn và trăn trở lớn
nhất của công việc là phải làm thế nào để rèn được nền nếp cho trẻ ngay từ đầu

để trẻ trong nhóm có một thói quen tốt trong học tập và trong sinh hoạt hàng
ngày. Tôi nhận thấy trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý phát triển rất mạnh.
Trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý do chưa quen tách rời bố mẹ, gia đình nên khi
mới nhập lớp, nhập trường trẻ còn sợ hãi mọi thứ đối với trẻ đều lạ lẫm, trẻ
tránh né cô giáo, tránh né bạn bè, không chấp nhận sự giúp đỡ của các cô giáo
thậm trí còn la khóc từ sáng đến trưa, trẻ không ăn, không ngủ, hoặc trẻ không
tham gia vào bất kỳ một hoạt động nào. Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu "Một số biện pháp rèn nền nếp trong sinh hoạt hàng ngày của
trẻ 24 - 36 tháng tuổi Trường mầm non Phú Xuân” để nghiên cứu và tìm ra
biện pháp cho bản thân thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ và rèn nền
nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ ngày càng tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Giúp trẻ biết xưng hô lễ phép với người lớn, biết ăn, ngủ đúng giờ, biết
đi vệ sinh đúng nơi quy định, biết giữ gìn đồ chơi và cất đồ chơi đúng nơi quy
định sau khi chơi, biết giữ gìn vệ sinh môi trường xung quanh sân trường và
lớp học, trẻ tự giác thực hiện theo yêu cầu của cô giáo và người lớn.
Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc rèn luyện nền nếp
trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi từ đó giữ được mối quan
hệ giữa cô với trẻ và giữa giáo viên với phụ huynh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi trường Mầm non Phú Xuân huyện Quan
Hóa do bản thân phụ trách.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu sử dụng tài liệu
- Phương pháp quan sát, đàm thoại
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp xử lí thống kê toán học.
- Phương pháp thực hành.
- Phương pháp nêu gương khích lệ.
3



II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lý luận cả sáng kiến kinh nghiệm
Giai đoạn trẻ 24 - 36 tháng tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình
thành và phát triển nhân cách trẻ, các mặt phát triển của trẻ hoà quyện vào nhau,
ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét, trẻ hoàn toàn còn non nớt, nhạy
cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi
mặt, trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý [5]. Bởi thế muốn rèn luyện nền nếp thói
quen ngay từ đầu cho trẻ, ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp cô giáo phải
làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận,
được an toàn, được yêu mến và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà
nhập. Quan hệ của cô với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ
mẹ con. Vậy hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non đòi hỏi phải rất
linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những
nhu cầu phát triển của trẻ.
Hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non có định hướng, có mục
đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn thay
đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình, có hứng thú. Vì thế nghệ
thuật chủ yếu của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên
mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm
với trẻ tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ, như thế trẻ dễ nghe theo
sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô một cách thoải mái, vui vẻ. Từ đó giúp trẻ
những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức
đồng thời hình thành và phát triển nhân cách tốt cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững
vàng và tự tin hơn. Muốn thực hiện những mục tiêu trên thì vấn đề rèn luyện nền
nếp thói quen ban đầu cho trẻ mầm non phải được chú trọng thường xuyên liên
tục và không ngừng được đổi mới. Đặc biệt là bản thân người giáo viên phải
thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn thường
xuyên được tiếp thu đầy đủ các chuyên đề, tiếp cận với cái mới một cách kịp

thời để thực hiện việc chăm sóc - giáo dục trẻ, đặc biệt là rèn luyện nền nếp thói
quen ban đầu cho trẻ đạt kết quả cao.
Về góc độ giáo dục nền nếp thói quen ban đầu đối với trẻ ở độ tuổi 24 - 36
tháng tuổi, nếu cứ thực hiện theo phương pháp cũ mà trước kia đã thực hiện thì
sẽ không đưa lại hiệu quả cao hơn, tính chủ động tích cực sẽ không phát huy
được khả năng sáng tạo, đồng thời kết quả về mặt trí tuệ của trẻ sẽ thấp, trẻ sẽ
phát triển một cách thụ động.
Vì vậy, chỉ có đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ thì mới tạo ra được môi
trường hoạt động tốt và tạo ra những cơ hội tốt cho trẻ phát huy khả năng chủ
động, sáng tạo một cách triệt để. Trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng
đặc biệt là trẻ 24 - 36 tháng tuổi. Nếu cô tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động
dưới nhiều hình thức, thông qua mọi hoạt động hàng ngày ở mọi lúc, mọi nơi...
thì việc rèn luyện nền nếp, thói quen cho trẻ sẽ được thuần thục hơn, kết quả sẽ
đạt cao hơn.
4


2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường Mầm non Phú Xuân nằm ở phía Bắc của huyện Quan Hóa trên
dọc quốc lộ 15A, nhà trường được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 1996.
Trước đây trường có nhiều điểm lẻ, nhưng đến nay do quy hoạch nhà trường đã
tham mưu cho cấp trên dồn các khu lẻ, nay chỉ còn 1 điểm chính và 1 điểm lẻ;
khoảng cách từ trường đến các thôn bản 1 - 1,5 km rất thuận tiện cho việc đưa
đón trẻ đến trường.
Trường có 7 phòng học trong đó phòng kiên cố là 4 phòng, phòng học
nhờ là 3 phòng. Ở khu chính có hệ thống trang thiết bị đồ dùng đồ chơi trong
nhà - ngoài trời đáp ứng cho công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục và các hoạt
động của nhà trường.
Tổng số nhóm, lớp trong toàn trường là 7 nhóm, lớp với tổng số trẻ là
137 cháu.

Trong đó: Nhóm trẻ 24 – 36 tháng là 2 nhóm với tổng số trẻ là 32 cháu
(Nam: 19 cháu, nữ: 13 cháu)
Tôi nghiên cứu vấn đề này tại trường Mầm non Phú Xuân, nơi tôi đang
công tác, bước vào thực hiện đề tài này, lớp tôi có những thuận lợi và khó
khăn sau:
2.1. Thuận lợi
Năm học 2018 – 2019 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm nhóm trẻ
24 – 36 tháng, có nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ tại nhóm trẻ 24 - 36 tháng
tuổi. Lớp được biên chế 2 giáo viên, các cô có lòng nhiệt tình, yêu nghề, mến
trẻ, nắm vững phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp với điều kiện thực tế
của địa phương.
Giáo viên là người địa phương thạo tiếng dân tộc nên việc tiếp cận trẻ
cũng dễ dàng hơn, môi trường trong và ngoài lớp học sạch sẽ, thoáng mát nên
trẻ có một môi trường học tập tốt.
Nhận được sự quan tâm của Ban giám hiệu về cơ sở vật chất, về chuyên
môn, xây dựng phương pháp đổi mới tổ chức các hoạt động giáo dục Mầm
non, tạo điều kiện giúp đỡ tôi thực hiện tốt chương trình giáo dục Mầm non.
Bản thân là một giáo viên với hơn 10 năm công tác trong ngành tôi
luôn nhiệt tình chăm sóc trẻ bằng tình yêu thương, đối xử công bằng với trẻ
trong lớp; đối với phụ huynh tôi luôn tuyên truyền tới các bậc phụ huynh về
vấn đề rèn nền nếp cho tr ẻ để phụ huynh cùng phối hợp rèn nề nếp cho các
cháu khi ở nhà.
2.2. Khó khăn
Trong nhóm lớp 100% là trẻ dân tộc (gồm dân tộc Thái, Mọi) nên trẻ rất
nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin, không thích giao lưu, việc tập nói tiếng Việt và
nhận biết và sử dụng tiếng phổ thông còn nhiều hạn chế.
Mặt bằng kinh tế của người dân còn thấp, chủ yếu làm ruộng, làm nương,
5



một số phụ huynh chưa nhận thức được rõ về tầm quan trọng của việc rèn nề nếp
thói quen trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị, đồ dùng phục vụ hoạt động đã có sự đầu
tư nhưng chưa đa dạng, vì vậy hạn chế kết quả hoạt động của trẻ.
Từ những thuận lợi, khó khăn nêu trên tôi đã phát huy tối đa các mặt
thuận lợi, khắc phục những khó khăn tìm ra các biện pháp tích cực để rèn luyện
cho trẻ đi vào nề nếp thói quen trong sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích hướng
dẫn trẻ đi vào nề nếp, tôi đã tiến hành khảo sát của trẻ như sau.
2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
Khảo sát thực trạng đầu năm
TT

Nề nếp của trẻ

Tổng số
Số
trẻ
trẻ

Đạt

Chưa đạt

Tỉ lệ %

Số trẻ

Tỉ lệ %

1 Xưng hô lễ phép


9

56,3%

7

43,7%

2 Ăn, ngủ đúng giờ

9

56,3%

7

43,7%

3 Đi vệ sinh đúng nơi quy định

8

50%

8

50%

7


43,7%

9

5 Giữ gìn vệ sinh môi trường

6

37,5%

10

62,5%

Thực hiện theo yêu cầu của
6 cô giáo và người lớn

8

50%

8

50%

Cất đồ dùng, đồ chơi đúng
4 nơi quy định

16


56,3%

Từ những thực trạng trên cho ta thấy kết quả của quá trình rèn luyện nề nếp
cho trẻ chưa được tốt. Cô giáo phải tạo cho trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực
hành hàng ngày qua các hoạt động. Vì vậy các biện pháp rèn luyện nề nếp cho trẻ
cần phải được lựa chọn phù hợp với trẻ. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện
pháp sau đây để bản thân cũng như các đồng nghiệp cùng tham khảo.
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Chăm sóc, giáo dục trẻ bằng tình cảm yêu thương trìu mến của
người mẹ
Trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng trẻ bắt đầu được đi lớp, trẻ bắt đầu rời khỏi
bàn tay ấp ủ yêu thương của cha mẹ, ông bà để đến chỗ mà với trẻ tất cả đều lạ
lẫm và mới mẻ, trường mới, cô mới, bạn mới vì thế các cháu mang đến trường,
đến lớp một tâm trạng vừa bỡ ngỡ lạ lẫm sợ hãi và khóc lóc, gào thét, cô có thể
đến bên bế trẻ âu yếm rồi trò chuyện dỗ dành, cô đưa trẻ đến gần các bức tranh
hỏi trẻ về nội dung bức tranh để trẻ quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ như: Bức
6


tranh này vẽ gì? Con thấy bạn nhỏ trong bức tranh đang làm gì? Con thấy bạn có
vui không? Con thấy không bạn được đến lớp được vui chơi múa hát bạn cười
xinh thế kia mà…Thông qua nội dung các bức tranh, với lời dẫn nhẹ nhàng đầy
tình cảm cô đã kích thích lòng ham muốn của trẻ được đến lớp, được vui chơi,
được múa hát, được có nhiều đồ chơi mới và có nhiều bạn mới. Thông qua các
hoạt động trên lớp, bằng tình cảm chân thành cô sẽ chiếm được trái tim của trẻ
trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ, trẻ sẽ được rèn luyện để có những thói quen
tốt, cứ như vậy trẻ sẽ thực sự yêu mến cô giáo,yêu quý các bạn và yêu mến lớp,
tình cảm thân mật giữa cô và các bạn ngày càng gắn bó và gần gũi hơn.


Hình ảnh cô đang cho trẻ xem tranh ảnh
3.2. Tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động tích cực với nhiều đồ chơi mới,
sáng tạo, đẹp mắt
Giai đoạn 24 - 36 tháng, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động với đồ
vật, trẻ học mà chơi, chơi mà học. Vì vậy muốn đưa chất lượng của việc rèn
luyện nề nếp thói quen cho trẻ tốt hơn cô giáo cần không ngừng và tích cực sưu
tầm, làm và sử dụng đồ dùng đồ chơi sao cho đẹp, sáng tạo, hấp dẫn, nhưng phải
đảm bảo an toàn, sử dụng hợp lý và phù hợp với nội dung với độ tuổi của trẻ để
thu hút trẻ vào mọi hoạt động một cách thoải mái và tự tin hơn, cô giáo đưa trẻ
đến các góc chơi, giới thiệu và trò chuyện với trẻ về đặc điểm và tác dụng các loại
đồ dùng, đồ chơi trong lớp, cô giáo có thể cùng trẻ gấp máy bay, làm những dây
7


xích nhiều màu sắc, hướng dẫn trẻ xâu các hột hạt….Từ đó giúp trẻ hứng thú
quên nổi nhớ bố mẹ và người thân trong gia đình của bé, trẻ chơi song cô hướng
dẫn trẻ xếp đồ chơi vào đúng nơi quy định.

Hình ảnh cô và trẻ cùng gấp máy bay trong lớp
3.3. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp giáo dục
thích hợp
Ngoài việc thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ là vấn đề trọng
tâm, giáo viên cần tiến hành tổ chức để đưa các cháu đi vào nề nếp thói quen ở
mọi lúc, mọi nơi. Vì thế mọi hoạt động trong ngày của trẻ cô giáo đều phải
nghiên cứu, lập ra chương trình kế hoạch bồi dưỡng đối tượng theo sự phân
nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách hợp lý:
Trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn; trẻ khá ngồi cạnh trẻ
trung bình; trẻ hiếu động, cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan, ngồi cạnh
cô giáo để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn.
Cô động viên khích lệ sự tiến bộ đối với những trẻ hiếu động, cá biệt khi

thấy trẻ ngoan hơn. Đặc biệt phải thường xuyên uốn nắn và tập cho trẻ cách đi,
đứng, xưng hô, cách trả lời cô khi cần thiết...bằng những hình thức trên giáo
viên sẽ dần ổn định đưa trẻ vào nề nếp thói quen trong mọi hoạt động, ở mọi lúc
8


mọi nơi. Đồng thời làm nảy sinh sự say mê hứng thú trong việc rèn luyện về nề
nếp thói quen cho trẻ đạt kết quả cao hơn.

Cô hướng dẫn cho trẻ ngồi hoạt động theo nhóm
3.4. Nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày
Trẻ 24 – 36 tháng tuổi với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phát triển mạnh,
trẻ còn bé hay tò mò thích bắt chước, tôi luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng,
sử dụng khen, chê đúng mực.

9


Hình ảnh cô giáo biểu dương khen trẻ trước lớp
Ví dụ: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc quần áo, đầu tóc
gọn gàng, sạch đẹp. Biết chào cô khi đến lớp, không khóc nhè…thông qua các
bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, cũng có thể giúp trẻ có thói
quen nề nếp tốt hơn. Trong các giờ hoạt động tôi hướng dẫn trẻ cách tự phục vụ
bản thân như hướng dẫn trẻ biết cách tự lau mặt, tự lấy và cất đồ chơi đúng nơi
quy định, dướng dẫn cách tự mặc quần, áo, đánh răng...
3.5. Rèn luyện nền nếp thói quen thường xuyên trong các hoạt động và
ở mọi lúc mọi nơi
Mỗi ngày đến lớp trẻ đều được tham gia với các nội dung hoạt động: Giờ
ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập, vui chơi, giờ đón, giờ trả...mọi sinh hoạt đều là
những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này để đưa các cháu vào

nền nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản. Thực tế các cháu còn rất
bé, chưa có ý thức được như các anh chị lớn, điều này cũng là một thử thách cho
cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên cô phải luôn nhẹ
nhàng gần gũi và tình cảm với trẻ để uốn nắn trẻ hoặc thông qua bài hát, bài thơ,
câu chuyện...trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen như Bé ngoan, Lời
chào buổi sáng, Mẹ yêu không nào; Các bài thơ, câu chuyện: Lời chào, Miệng
xinh, Cháu chào ông ạ! …Qua bài thơ, bài hát rèn cho trẻ thói quen khi chơi
xong biết cất dọn đồ chơi và để đúng nơi qui định.
Để rèn cho trẻ có thói quen tốt và ăn ngủ đúng giờ, giáo viên có thể sử
dụng các bài thơ “Giờ ăn” hay bài thơ “Giờ ngủ” và bài hát “chúc bé ngủ ngon”,
cô rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua các bài thơ “Chùi mũi” và bài thơ: “Rửa tay
sạch”…Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ của cô trẻ được uốn nắn kịp thời thường
xuyên, liên tục do đó việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ trong mọi hoạt
10


động mọi lúc, mọi nơi mang lại hiệu quả cao hơn, các cháu ngoan và nền nếp
hơn. Trong giờ hoạt động có chủ đích cô giáo kết hợp giáo dục rèn luyện vệ sinh
thân thể, giáo dục ý thức sử dụng đồ dùng đồ chơi…Trong giờ trả trẻ cô có thể
kết hợp với phụ huynh nhắc nhở trẻ ăn và ngủ đúng giờ, không ăn quà vặt hay
phải đi học đều thì sẽ được thưởng bé ngoan.

Hình ảnh trẻ tự cất khăn sau khi vệ sinh cá nhân
3.6. Làm tốt công tác tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn và kỹ năng rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ
Muốn đưa chất lượng về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt hiệu
quả cao, xuất phát từ tình hình thực tế, dựa vào đặc điểm sinh lý của trẻ để đi
sâu nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo những tài liệu có nội dung về đề tài, học hỏi
kinh nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân, nhận thức đúng đắn, hiểu được tầm
quan trọng của vấn đề, nắm vững tình hình cụ thể của lớp, của trẻ. Tích cực

tham khảo qua tài liệu, sách báo, internet, tạp chí giáo dục mầm non, tập san, tài
liệu bồi dưỡng thường xuyên…,cần chịu khó kiên trì và sáng tạo trong từng bài
dạy, từng tiết học và sáng tạo trong việc làm nhiều đồ dùng đồ chơi cho trẻ…
Xác định rõ những khó khăn và điều kiện thuận lợi của nhà trường, của lớp, của
bản thân. Từ đó tìm ra biện pháp thực hiện hữu hiệu nhất.

11


Hình ảnh Giáo viên nghiên cứu tài liệu
3.7. Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện nền
nếp, thói quen cho trẻ
Để thực hiện tốt việc rèn luyện nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ thì các
bậc phụ huynh giữ một vai trò quan trọng, do vậy tôi đã tuyên truyền với các bậc
phụ huynh về sự cần thiết của việc rèn luyện cho trẻ ở lứa tuổi này. Từ đó phụ
huynh cùng phối hợp với giáo viên để nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm
nguyên nhân để có biện pháp thích hợp kịp thời uốn nắn trẻ. Đồng thời trao đổi
với cha mẹ trẻ để rèn luyện thêm cho trẻ khi ở gia đình. Giúp việc rèn luyện thói
quen nề nếp của trẻ theo khoa học và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc ,
giáo dục trẻ. Vận động phụ huynh cùng sưu tầm tranh ảnh, nhữnh bài thơ, câu
chuyện có nội dung phù hợp, đóng góp nguyên vật liệu và cùng làm đồ dùng đồ
chơi phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt. Tôi thường sử dụng
tiếng dân tộc để giảng giải cho trẻ về những điều trẻ chưa biết. Tôi luôn luôn phải
phối kết hợp giữa tiếng dân tộc và tiếng phổ thông để trẻ dễ hiểu và dễ tiếp thu hơn,
qua đó viêc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ cũng đạt kết quả cao hơn.
Không chỉ có vậy, việc sử dụng tiếng địa phương để giao tiếp với trẻ cũng
thêm phần làm trẻ thấy gần gũi và an toàn khi ở bên cô vì cô cũng nói tiêng nói
giống bố mẹ, ông bà mình, đó cũng rất cần thiết nhất là với trẻ nhà trẻ, lứa tuổi
mới đầu đến trường.


12


Hình ảnh giáo viên trao đổi với phụ huynh trong giờ đón trẻ
4. Hiệu quả của sáng kiến
Với một năm học tôi kiên trì thực hiện một số hình thức rèn luyện nề nếp
thói quen ban đầu cho trẻ, đến nay trẻ đã thực sự yêu mến cô giáo, các bạn và
thích đi học, có nề nếp tham gia trong mọi hoạt động, trẻ có tác phong mạnh dạn
và tự tin hơn, cụ thể:
Trẻ có hành vi đạo đức tốt, không nói tục chửi bậy, biết vâng lời ông bà,
cha mẹ, yêu quý con vật, biết yêu thiên nhiên, biết quan tâm đoàn kết với bạn,
biết cảm ơn xin lỗi. Đặc biệt các cháu về nhà đã biết tự mình làm một số việc tự
phục vụ như tự xúc ăn, tự uống nước, biết gọi người lớn khi có nhu cầu đi vệ
sinh, khi chơi xong tự cất đồ chơi… biết đọc thơ, hát, kể chuyện, cho ông bà, bố
mẹ nghe. Vì vậy các bậc phụ huynh rất vui, càng yên tâm hơn khi gửi con đến
lớp. Từ đó phụ huynh quan tâm đến việc học tập của các cháu nhiều hơn. Các
cháu có nề nếp thói quen tự phục vụ nên tôi thực hiện nhiện vụ chăm sóc giáo
dục một cách dễ dàng.
Để minh chứng cho kết quả đạt được của các cháu rõ ràng hơn, dưới đây
là kết quả so sánh về việc thực hiện một số hình thức rèn luyện nề nếp thói quen
trong sinh hoạt hàng ngày cuối năm của trẻ.
TT

Nề nếp của trẻ

Đạt
Chưa đạt
Tổng số
Số
trẻ

Tỉ lệ % Số trẻ Tỉ lệ %
trẻ
13


1

Xưng hô lễ phép.

14

87,5%

2

12,5%

2

Ăn, ngủ đúng giờ.

13

81,3%

3

18,7%

3


Đi vệ sinh đúng nơi quy định.

16

100%

0

4

Cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy
định.

14

87,5%

2

12,5%

5

Giữ gìn vệ sinh môi trường.

13

81,3%


3

18,7%

6

Thực hiện theo yêu cầu của cô giáo
và người lớn.

13

81,3%

3

18,7%

16

Qua một năm thực hiện các hiện các biện pháp rèn luyện nề nếp thói quen
trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ, tôi đã được kết quả đáng khích lệ. Từ đó bản
thân tôi rút ra một số kinh nghiệm cho bản thân cũng như bạn bè đồng nghiệp và
các bậc phụ huynh.
Đối với bản thân
Luôn là tấm gương tốt, mẫu mực trong mọi hoạt động: lời ăn, tiếng nói,
hành động của mình khi cư xử với trẻ, với những người xung quanh; Cô phải yêu
nghề mến trẻ, tận tâm với công việc của mình; luôn tìm tòi nghiên cứu các
phương pháp, hình thức để dạy trẻ phù hợp và đạt kết quả cao; rèn nề nếp, thói
quen cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, phải đối sử công bằng với mọi trẻ.
Đối với giáo viên

Luôn tạo cơ hội cho trẻ tự làm các việc phù hợp với khả năng và độ tuổi
của trẻ và có hành vi văn hoá; Thường xuyên để tâm đến mọi hành động của trẻ
có hướng giáo dục đúng đắn; Thông cảm sẻ chia với trẻ khi trẻ gặp khó khăn.
Thường xuyên lắng nghe và trao đổi tận tình với trẻ, không trách phạt khi trẻ
mắc lỗi mà động viên nhắc nhở nhẹ nhàng.
Đối với phụ huynh
Nói năng cởi mở, thân thiện, khiêm tốn, lịch sự khi tiếp xúc. Tích cực trao
đổi và tôn trọng ý kiến của phụ huynh; Luôn quan tâm, tin tưởng khi gửi con tới
trường. có quan hệ khăng khít với giáo viên chủ nhiệm, luôn thông cảm với
công việc của cô giáo, có gì chưa được thì góp ý chân thành với giáo viên chủ
nhiệm và luôn ủng hộ nhiệt tình với mọi phong trào của trường, của nhóm/lớp.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm đã mang lại cho tôi nhiều kinh
nghiệm trong việc rèn nền nếp trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ 24 - 36 tháng
tuổi cũng như trong quá trình tổ chức các hoạt động khác cho trẻ. Việc rèn nền
nếp cho trẻ là một trong những trọng tâm của chương trình giáo dục cho trẻ
14


mầm non. Nhằm phát triển nhân cách toàn diện, góp phần quan trọng vào việc
chuẩn bị cho trẻ học ở phổ thông sau này. Những giải pháp trên đã giúp trẻ hình
thành những cơ bản trên cơ sở đầu tiên về giáo dục nhân cách và phát triển toàn
diện; trẻ biết xưng hô lễ phép với người lớn; có thói quen về việc ăn, ngủ đúng
giờ; biết tự đi vệ sinh đúng nơi quy định và khi có nhu cầu; biết cất đồ dùng đồ
chơi khi chơi xong; biết giữ gìn vệ sinh môi trường khi ăn quà xong biết bỏ rác
vào đúng nơi quy định…
Sáng kiến này có ảnh hưởng trực tiếp đến giáo viên đứng lớp, giúp giáo
viên hiểu sâu về tầm quan trọng của việc rèn nền nếp trong sinh hoạt hàng ngày
cho trẻ, từ đó giáo viên sẽ có những biện pháp để tổ chức hướng dẫn trẻ hoạt

động mọi lúc mọi nơi cũng như hoạt động chung đạt hiệu quả cao.
Phụ huynh cảm thấy mãn nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào
kết quả rèn luyện, giáo dục của nhà trường, không chê bai chỉ trích cô giáo mà
ngược lại cha mẹ biết thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cô giáo.
Là một giáo viên Mầm non phải cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và
vai trò trách nhiệm với cái tên “Người mẹ thứ hai” của trẻ. Thật sự yêu mến trẻ,
nhiệt tình và say mê với công việc, có tấm lòng yêu thương trẻ; Nghiên cứu
tham khảo tài liệu, học hỏi bạn bè đồng nghiệp không ngừng bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn; Giáo viên trao đổi thường xuyên với phụ huynh những
gì trẻ làm được và chưa làm được để cùng tìm ra nguyên nhân và cách dạy trẻ
tốt nhất, luôn tạo cơ hội cho trẻ tự làm các việc phù hợp với khả năng của trẻ và
có hành vi văn hoá.
Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, mẫu mực trong mọi hoạt động:
Lời ăn, tiếng nói, việc làm; tận tâm với công việc của mình. Luôn tìm tòi nghiên
cứu các phương pháp, hình thức để dạy trẻ phù hợp và đạt kết quả cao.
Rèn cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm, trẻ cá
biệt, không phân biệt giữa các trẻ. Tiếp tục thực hiện áp dụng những biện pháp
trên, phát huy những thành tích đã đạt được vào trong hoạt động thực tiễn, khắc
phục những thiếu sót trong quá trình thực hiện.
2. Những kiến nghị và đề xuất
2.1. Đối với nhà trường và giáo viên
Nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt: Thời gian, kinh
phí,...để giáo viên không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn. Cần trang bị
thêm phương tiện dạy học, đồ dùng, tranh ảnh, để phục vụ hoạt động của trẻ.
Giáo viên thường xuyên trao đổi kinh nghiệm trong quá trình chăm sóc và
giáo dục trẻ; tâm huyết với nghề, có tấm lòng yêu nghề, mến trẻ.
Sưu tầm, nghiên cứu để tìm những hình thức tổ chức cũng như các biện
pháp rèn luyện phù hợp nhất với trẻ. Kết hợp với phụ huynh để có biện pháp
giáo dục trẻ một cách tốt nhất ở gia đình và nhà trường.
2.2. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo

15


Bổ sung thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho
dạy và học.Tạo điều kiện cho giáo viên được đi tham quan, học tập ở các đơn vị
bạn nhiều hơn để trao đổi học hỏi kinh nghiệm.
2.3. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo
Tham mưu với các cấp có thẩm quyền đầu tư trang thiết bị đồ dùng cho
các nhóm lớp theo Thông tư 02/TT-BGDĐT; Cấp kinh phí mua sắm đồ chơi
ngoài trời cho các vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn.
Tham mưu UBND tỉnh bổ sung kinh phí cho giáo viên Mầm non được
hưởng chế độ phụ cấp dạy lớp ghép, dạy tang cường tiếng Việt cho trẻ người
dân tộc thiểu số.
Tiếp tục tăng cường mở các lớp tập huấn chuyên đề, tăng cường các giờ
thực hành chuyên đề, tăng số lượng giáo viên tham dự chuyên đề
Trên đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng và đạt kết quả khả quan trong
quá trình tổ chức nhằm rèn nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày cho trẻ nhà trẻ 24
-36 tháng tuổi trường Mầm non Phú Xuân huyện Quan Hóa. Tuy đã có nhiều cố
gắng nhưng do năng lực và thời gian có hạn nên không thể tránh khỏi những hạn
chế thiếu sót rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, Hội đồng
sáng kiến kinh nghiệm nhà trường và lãnh đạo cấp trên để tôi làm tốt hơn nữa
nhiệm vụ của mình và đặc biệt là đề tài này sẽ được hoàn thiện hơn, hiệu quả
hơn và phù hợp hơn với mục tiêu yêu cầu của công tác chăm sóc giáo dục trẻ
hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn!
.

Phú Xuân, ngày 20 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN
VỊ

NGƯỜI VIẾT

Hà Thị Xuân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục trẻ 24 - 36 tháng
tuổi - NXB giáo dục Việt Nam.
[2]. Tài liệu bồi dưỡng hè cho cán bộ quản lý và giáo viên Mầm non của
Bộ giáo dục và đào tạo, tập chí giáo dục Mầm non.
16


[3]. Đổi mới hình thức tổ chức hoạt động chương trình giáo dục trẻ mẫu
giáo, Viện chiến lược và chương trình giáo dục - NXB GD năm 2006.
[4]. Giáo dục Mầm non mới trong chiến lược phát triển giáo dục Việt
nam - NXB văn hóa thông tin năm 2012.
[5]. Tâm lý học trẻ em – Nhà xuất bản giáo dục.

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
17


Họ và tên tác giả: Hà Thị Xuân

Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Mầm non Phú Xuân

TT

1.

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh
Năm học
giá xếp loại giá xếp
đánh giá
(Phòng, Sở, loại (A,
xếp loại
Tỉnh...)
B, hoặc
C)

Biện pháp dạy tốt hoạt động Phòng GD&ĐT
Làm quen với chữ viết cho trẻ
Quan Hóa
MG 5 – 6 tuổi”.

A

2011-2012

Một số Phương pháp nâng

cao chất lượng cho trẻ mẫu Phòng GD&ĐT
giáo 5 – 6 tuổi làm quen với
Quan Hóa
hoạt động tạo hình.

C

2013-2014

3

Một số Phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu Phòng GD&ĐT
giáo 4 - 5 tuổi thông qua hoạt
Quan Hóa
động làm quen với tiếng việt

B

2015-2016

4

Phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 4 – 5 tuổi thông Phòng GD&ĐT
qua hoạt động làm quen với
Quan Hóa
tác phẩm văn học

C


2016-2017

C

2017-2018

1
2.
2
2
3.

4.

5

Tạo môi trường hoạt động
trong lớp để phát huy tính tích Phòng GD&ĐT
cực sáng tạo cho trẻ mẫu giáo
Quan Hóa
5 – 6 tuổi tại trường mầm non
Phú Xuân.

18



×