Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo trường MN hòa lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.14 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết: Môi trường là yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất
nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên: Môi trường
chính là không gian sống của toàn thể con người và sinh vật trên trái đất. Nhờ có
môi trường chúng ta mới có thể lưu trữ nguồn gen, các loài động thực vật, các
vẻ đẹp, cảnh quan có giá trị thẩm mỹ, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo. Là
nơi bảo vệ con người và sinh vật khỏi những tác động từ bên ngoài, bởi nơi con
người sinh sống và phát triển chính là hệ hành tinh của hệ mặt trời trái đất.
Chính vì vậy, hành tinh này cũng sẽ chịu các tác động từ vũ trụ như tia cực tím,
lực hút của trái đất… Nhờ có môi trường, chúng ta hoàn toàn an toàn trước các
tác nhân nguy hiểm đó. Là nơi chứa đựng các loại chất thải phát sinh trong quá
trình sống, lao động và sản xuất, các loại chất thải, nước, phải phát sinh từ sinh
hoạt hay hoạt động công nghiệp sẽ được phân hủy thành chất đơn giản hơn,
tham gia vào các quá trình sinh địa hóa tự phân hủy và kiến tạo theo quy luật…
Chính vì vậy, môi trường chính là một yếu tố vô cùng quan trọng và căn bản để
đảm bảo cuộc sống của con người.
Tuy nhiên vấn đề môi trường trên thế giới và Việt Nam nói riêng đang
ngày càng ô nhiễm trầm trọng: Đối với môi trường nước, nguồn nước ở một số
nơi bị ô nhiễm, nhất là ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh. Với môi trường không khí tại các điểm nút giao thông, các công trình khu
vực xây dựng, có dấu hiệu gia tăng nhất là các khu vực đô thị lớn. Tại thành phố
Hồ Chí Minh nồng độ chất ô nhiễm trong không khí CO2 tăng 1,44 lần. Còn tại
Hà Nội, nếu không có giải pháp nào thì nồng độ chất thải do bụi mỗi năm có thể
đạt 200mg/m3 vào năm 2020, gấp 10 lần mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế
giới. Cùng với ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai đang trở
nên đáng báo động. Do tình trạng khai thác khoáng sản, đất, đá, nước thải, bụi
bẩn, quặng, xỉ ngấm xuống các nguồn nước, phát tán ra môi trường làm thay đổi
hệ sinh thái rừng, suy thoái ô nhiễm đất nông nghiệp.
Với một môi trường ô nhiễm nặng nề như vậy đã dẫn đến những hậu quả


không lường đó là hạn hán lũ lụt xảy ra liên tục ở Việt Nam, tỉ lệ người ung thư,
người mắc các bệnh về hô hấp ngày càng cao, hiện tượng lũ lụt liên tiếp ở miền
Trung, tình trạng thiếu nước ở đồng bằng Sông Hồng... Ảnh hưởng tới sinh hoạt
và sức khoẻ của con người.
Đây là một vấn đề vô cùng rộng rãi và phức tạp đòi hỏi phải giải quyết
nhanh chóng với sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và thường xuyên của mọi cá
nhân, mọi cộng đồng, mọi quốc gia và toàn thể nhân loại. Vì một thế giới ngày
mai nói chung, một tương lai một Việt Nam xanh - sạch - đẹp nói riêng và vì
cuộc sống của chính chúng ta cũng như của các thế hệ mai sau, mỗi người, mỗi
nhà và mỗi cơ quan, xí nghiệp, tập thể chúng ta hãy nâng cao ý thức, trách
nhiệm bảo vệ môi trường của mình bởi con người chúng ta là nhân tố quan trọng
quyết định cho sự tồn vinh của nhân loại. Chính vì vậy mà việc bảo vệ môi
1


trường không còn là việc của riêng của một dân tộc, đất nước, hay một vùng
miền hoặc tổ chức cá nhân nào.
Nhận thức được tầm quan trọng về vấn đề bảo vệ môi trường Đảng, Nhà
nước đã có nhiều chính sách, chủ trương: Tại các lần Đại hội IX, X, XI, Hội
nghị Trung Ương 7 khóa XI ban hành nghị quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động
ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý bảo vệ tài nguyên môi
trường”. Trong văn kiện Đại hội XII, chỉ rõ: Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2016-2020, chiến lược bảo vệ môi trường đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Chỉ
thị số 36CT/TW, ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị, Quyết định số 1362/QĐ-TTg
ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ “Đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường vào hệ thống giáo dục quốc dân”.
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã ban hành nhiều văn bản trong hệ thống giáo
dục quốc dân nói chung và giáo dục mầm non nói riêng, nhằm giúp cho giáo
viên có kiến thức về môi trường, để từ đó giáo dục trẻ có thái độ yêu quý, gần
gũi với thiên nhiên, có ý thức giữ gìn, bảo vệ phong cảnh, địa danh nổi tiếng của

quê hương, quan tâm đến vấn đề môi trường của trường lớp học, gia đình, tích
cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường. Hàng năm Phòng Giáo Dục
huyện Hậu Lộc mở các lớp chuyên đề bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, giáo
viên, nhân viên về kiến thức, kỹ năng giáo dục vệ môi trường. Ở trường mầm
non xây dựng nhiều tiết mẫu thực hành phương pháp giáo dục bảo vệ môi
trường cho 100% giáo viên, nhân viên được tham gia dự và học hỏi kinh nghiệm
để áp dục vào giáo dục trẻ bảo vệ môi trường tại các nhóm lớp giáo viên phụ
trách.
Là một địa phương có diện tích tương đối rộng nhân khẩu đông 11.500
khẩu, kinh tế đa ngành nghề tập chung chủ yếu: Nông nghiêp, kinh doanh dịch
vụ, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản nên vấn đề môi trường ảnh hưởng rất lớn
(rác thải, nước thải sinh hoạt...) và ý thức bảo vệ môi trường của dân cư còn có
hạn như vấn đề xả rác ra môi trường. Chính vì vậy mà nội dung giáo dục bảo vệ
môi trường là rất cần thiết. Thông qua những nội dung giáo dục bảo vệ môi
trường, tuyên truyền giúp cho các bậc cha mẹ và cộng đồng có kiến thức cơ bản
về giáo dục bảo vệ môi trường và tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ môi
trường.
Xuất phát từ những lý do và ý nghĩa vai trò quan trọng trên tôi đã quyết
định lựa chọn và giành nhiều thời gian tâm huyết để nghiên cứu, tìm ra “Một số
biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ
mẫu giáo trường mầm non Hòa Lộc”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề ra “Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả giáo dục bảo vệ môi
trường cho trẻ mẫu giáo trường mầm non Hòa Lộc”
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh khối mẫu giáo
trường mầm non Hòa Lộc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp lý luận: Tìm ra nguyên nhân và cách giải quyết, chứng
minh đạt được kết quả.

2


- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Là phương pháp nghiên cứu từ thực
tiễn tìm ra kết quả.
- Nhóm phương pháp toán học: Là dùng con số toán học để thực hiện trong quá
trình nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra: Là thu thập thông tin, chứng cứ để nghiên cứu đề tài.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá: Thu lại kết quả sau khi thực hiện nhiệm vụ.
- Phương pháp nêu gương khen thưởng: Tìm ra những điển hình tiên tiến.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận:
Chúng ta đều biết môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống
con người và sự phát triển kinh tế văn hoá của đất nước và của cá nhân. Môi
trường hiện tại đang có những thay đổi bất lợi cho con người, đặc biệt là những
yếu tố mang tính chất tự nhiên như là đất, nước, không khí, hệ động vật, thực
vật. Tình trạng môi trường thay đổi và bị ô nhiễm đang diễn ra trên phạm vi mỗi
quốc gia cũng như trên toàn cầu. Chưa bao giờ môi trường bị ô nhiễm nặng như
bây giờ. Chính vì vậy việc giáo dục bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ thiên
nhiên, tài nguyên đa dạng sinh học nói riêng, là vấn đề cần thiết, cấp bách và bắt
buộc khi giảng dạy trong trường Phổ thông nói chung, mầm non nói riêng. Vì nó
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản có liên quan đến môi trường, sự ô
nhiễm môi trường, biện pháp giảm thiểu ô nhiễm… Tăng cường sự hiểu biết về
mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với tự nhiên trong sinh hoạt và lao
động sản xuất, góp phần hình thành ở học sinh ý thức và đạo đức mới đối với
môi trường, có thái độ và hành động đúng đắn để bảo vệ môi trường. Vì vậy,
giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh là việc làm có tác dụng rộng lớn nhất,
sâu sắc và bền vững nhất.
Bảo vệ môi trường không chỉ là của riêng một ai, khi làm việc gì đó hãy
nghĩ rằng mỗi việc làm của chúng ta đều tác động tới môi trường. Nếu đó là tác

động tốt thì chúng ta nên tích cực và phấn đấu nhiều hơn nữa. Còn nếu tác động
xấu nhưng ta không thể tránh được thì hãy làm sao cho tác động đó là tối thiểu,
bởi môi trường đó chưa hẳn đã tác động đến chúng ta mà nó có tác động rất lớn
đến con em chúng ta, thế hệ tương lai nói riêng và con người nói chung.
Hiện nay cùng với tầm quan trọng của môi trường xã hội thì môi trường ở
các trường học nói chung và trường học mầm non nói riêng là một vấn đề cần
được quan tâm chú trọng và đặt lên hàng đầu. Vì để đảm bảo cho trẻ có một môi
trường phát triển lành mạnh thì việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường không chỉ là
nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm của mỗi bậc học nói chung và bậc học mầm
non nói riêng. Việc giáo dục trẻ em có những hiểu biết về môi trường, có ý thức,
hành vi bảo vệ môi trường phải được quan tâm đúng mức từ lứa tuổi mầm non.
Là một người quản lý giáo dục nhà trường, giáo dục những thế hệ tương
lai của đất nước, tôi nhận ra một điều quan trọng trong công việc của mình là
cần phải tìm ra những biện pháp tốt nhất để giúp cho giáo viên có những phương
pháp, biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ ngay từ bậc học mầm
non một cách hiệu quả. Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non là cần
3


được hình thành và rèn luyện từ rất sớm, từ lứa tuổi mầm non giúp con trẻ có
những khái niệm ban đầu về môi trường sống của con người nói chung và bản
thân nói riêng là cần thiết. Giáo viên có thể tổ chức hoạt động giáo dục trẻ một
số kiến thức đơn giản về môi trường sống gần gũi xung quanh trẻ; sự ô nhiễm
môi trường; các mối quan hệ giữa môi trường với con người... Từ đó trẻ biết
cách sống tích cực với môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ
cả về cơ thể và trí tuệ.
Tuy nhiên nội dung này khi đưa vào thực tế lồng ghép giáo dục cho trẻ
chưa thật sự đạt hiệu quả vì đôi khi giáo viên chưa chú trọng đến vấn đề giáo
dục bảo vệ môi trường cho trẻ, chưa xây dựng được biện pháp kế hoạch cụ thể
để lồng ghép giáo dục trẻ thậm chí ngay bản thân giáo viên cũng không biết

mình cần phải giáo dục cho trẻ cái gì? Giáo dục như thế nào?... Dẫn đến kết quả
không như mong muốn.
2.2. Thực trạng sáng kiến kinh nghiệm
Trường mầm non Hòa Lộc được thành lập năm 1975. Nhà trường hiện tại
có 48 cán bộ, giáo viên, nhân viên trong đó: Cán bộ quản lý: 03 đ/c. Giáo viên:
31 đ/c, trong đó giáo viên mẫu giáo là 27 đ/c, giáo viên nhóm trẻ là 04 đ/c; Nhân
viên : 16 đ/c. Trường có 22 nhóm lớp với 686 cháu. Trong đó: 04 nhóm trẻ tổng
số: 75 cháu; 18 lớp mẫu giáo tổng số: 611 cháu. Tỷ lệ bán trú: 100%.
* Thuận lợi
- Trường mầm non Hòa Lộc luôn được sự quan tâm của lãnh đạo địa
phương và chỉ đạo sát sao của Phòng giáo dục huyện Hậu Lộc: Trang bị về cơ sở
vật chất cơ bản đầy đủ, khuôn viên trường lớp khang trang, trường đã hoàn thiện
các hạng mục và đã đạt trường chuẩn quốc gia mức độ I vào tháng 11 năm 2017,
nhiều giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện nhiều năm liền.
- Đội ngũ Giáo viên có trình độ 100% đạt chuẩn, trên chuẩn là 92%, tâm huyết
với nghề, có tinh thần cao trong học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, yêu nghề, mến trẻ, tôn trọng trẻ luôn đặt mục tiêu tự học, tự bồi
dưỡng, tham gia cải tiến, đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường giúp trẻ phát triển
một cách toàn diện. Quan hệ tốt với đồng nghiệp, cộng đồng và cha mẹ học sinh
kỹ năng tuyên truyền với phụ huynh về kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường
tốt. Có hiểu biết về phong tục tập quán, ngôn ngữ và điều kiện sống của cộng
đồng dân cư nơi địa bàn trường đóng. Có kỹ năng phân tích chương trình và xây
dựng kế hoạch dạy học, thiết kế các hoạt động sao cho phù hợp với điều kiện
của địa phương và tình hình thực tế nhà trường. Xử lý các tình huống giáo dục,
tổ chức, quản lý lớp học tốt. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của trẻ đúng quy
định.
- Đầu năm học nhà trường mở các lớp học chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên
trong đó có chuyên đề bảo vệ môi trường cho mọi cán bộ giáo viên nhân viên
học tập, tiếp thu kiến thức, vận dụng để giáo dục trẻ, thông qua các hoạt động

trong ngày về bảo vệ môi trường theo hướng tích hợp có chất lượng.
- Là địa phương có truyền thống hiếu học nên nhà trường thuận lợi trong công
tác tuyển sinh trẻ đầu năm. Trẻ đến trường được sắp xếp lớp theo đúng độ tuổi,
có khả năng nhận thức tốt.
4


Ảnh 1: Trường mầm non Hòa Lộc.
Ảnh 2: Dãy phòng học phía đông Trường mầm non Hòa Lộc.
* Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì trường mầm non Hòa Lộc nơi
tôi công tác cũng còn gặp không ít những khó khăn:
- Việc nâng cao kiến thức bảo vệ môi trường mới chỉ dừng lại ở các nguồn thông
tin từ truyền hình, báo chí và tuyên truyền. Trong quá trình soạn, giảng một số
giáo viên đã thực hiện giảng dạy lồng ghép kiến thức bảo vệ môi trường vào các
hoạt động hàng ngày của trẻ nhưng thiếu đồng bộ và chưa thực sự khoa học do
tuổi nghề của các đồng chí ít, kinh nghiệm chưa nhiều, một số giáo viên không
phải là người địa phương nên chưa nắm được phong tục tập quán và cách sinh
hoạt về phong tục của nhân dân, cũng như của trẻ trên địa bàn. Phương pháp dạy
học sử dụng đồ dùng còn lúng túng chưa khoa học, năng lực tổ chức, quản lý lớp
học còn lỏng lẻo, các giáo viên phụ chưa phát huy được vai trò của mình trong
các hoạt động học của trẻ. Việc tích hợp bảo vệ môi trường vào các hoạt động
còn ít. Kỹ năng tuyên truyền phổ biến kiến thức với phụ huynh còn hạn chế,
chưa thường xuyên liên tục.
- Phần lớn cha mẹ trẻ mưu sống bằng đa ngành nghề và đặc biệt là nghề ngư
nghiệp nên ít có thời quan tâm đến con em mình đặc biệt là vấn đề giáo dục con
ý thức bảo vệ môi trường. Nhiều gia đình nuông chiều con nên đi vệ sinh, rửa
tay chưa biết khoá vòi nước, một số trẻ có ý thức khóa vòi nước nhưng khóa
chưa kín...Đây là một khó khăn trong vấn đề tuyên truyền và phối kết hợp với
các bậc phụ huynh.

- Phương tiện phục vụ cho việc giáo dục trẻ như: Máy chiếu, dụng cụ đồ dùng
sử dụng để giáo dục môi trường chưa được đầu tư nhiều và đồng bộ như: Cây
bóng mát ít, thùng rác, tủ giá kệ đựng đồ chơi đã hỏng nhiều. Chính vì vậy mà
công tác giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non Hòa
Lộc chúng tôi hiệu quả chưa cao.
* Kết quả khảo sát thực trạng:
Bảng 1A: Khảo sát thực trạng đội ngũ giáo viên mẫu giáo trường mầm non
Hòa Lộc
Tổng
Trình độ
Phẩm chất
Đạo đức nghề Chuyên môn
Năng lực sư
số
chính trị
nghiệp
nghiệp vụ
phạm
giáo Đ C T T K T Y T K T Y T K T Y T K T Y
viên H Đ C
B
B
B
B
mẫu
giáo
27 25 01 01 27 0 0 0 27 0 0 0 13 10 4 0 13 11 3 0
Tỷ lệ

92

.6

3.7

3.7

100

0

0

0

100

0

0

0

48
.1

37
.1

14.
8


0

48
.1

40.
8

11
.1

Bảng 1B: Kết quả đối với giáo viên về bảo vệ môi trường
Nội dung khảo sát trên giáo viên

5


Hiểu biết tầm quan
trọng của vấn đề
BVMT và luôn
gương mẫu

Nắm vững được nội
dung, kiến thức
chuyên đề giáo dục
BVMT cho trẻ

T


K

TB

Y

T

K

TB

Y

T

K

TB

Y

T

K

TB

Y


27

7

8

11

1

6

7

13

1

7

8

11

1

9

9


8

1

Tỷlệ %

25.
9

29.6

40.
8

3.7

22.
2

25.
9

48.
2

3.7

25.
9


29.
6

40.
8

3.7

33.
3

33.
3

29.
6

3.7

Tổng số
giáo viên
Mẫu
giáo

Kỹ năng lồng ghép
Tuyên truyền, phối
giáo dục BVMT cho
KH cùng phụ huynh
trẻ phù hợp và sáng
về GDBVMT cho trẻ

tạo

Bảng 1C: Kết quả khảo sát trên trẻ
Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo
Biết chăm sóc Biết giữ gìn Biết cất dọn
Phân biệt
Nhắc nhở
và bảo vệ cây trật tự vệ
đồ dùng đồ
được những
người lớn
(tưới nước, sinh công
chơi đúng
hành động
không được
nhổ cỏ không cộng, vệ
nơi quy định đúng, hành
xả rác bừa
Độ TS
bẻ cành…) sinh trường
động sai với
bãi.
tuổi trẻ
lớp, biết tiết
môi trường
kiệm nước
Đạt
K
Đạt
K

Đạt
K Đạt
K
Đạt
K
Đ T K T Đ
T K T Đ T K T Đ T K T Đ T K T
B

3-4
tuổi
4-5
tuổi
5-6
tuổi
Cộng
%

B

B

B

B

191

52


76

51

12

52

76

51

1
2

52

76

51

1
2

53

80

49


9

52

76

51

12

222

76

70

65

11

72

77

65

8

72


77

65

8

70

76

65

11

70

76

65

11

198

62

64

66


6

62

65

66

5

62

65

66

5

62

65

66

5

62

65


66

5

611

19
0

21
0

18
2

29

18
6

21
8

18
2

2
5

18

6

21
8

18
2

18
5

22
1

18
0

25

18
4

21
7

18
2

28


30
.4

35
.7

29
.8

4.
1

30
.4

35
.7

29
.8

2
5
4
.
1

30.
3


36
.2

29.
4

4.
1

30
.1

35
.5

29
.8

31
.1

34
.4

29.
8

4.7

Nguyên nhân: Chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức về bảo vệ môi trường

đặc biệt là kỹ năng lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường của một số giáo viên
chưa khoa học, còn lúng túng, chưa tìm ra các phương pháp, biện pháp khoa
học, công tác phối kết hợp giữa giáo viên và cha mẹ trẻ chưa đạt hiệu quả. Các
điều kiện để thực hiện giáo dục bảo vệ môi trường chưa đồng bộ: Học sinh trong
các nhóm lớp đông, giáo viên thiếu. Cây xanh bóng mát còn ít, cơ sở vật chất
như các dụng cụ chứa đựng còn chưa đồng bộ... Ý thức bảo vệ môi trường của
trẻ chưa cao do môi trường sinh hoạt của trẻ ở gia đình đa phần là con em nông
thôn nên trẻ chưa có nhiều điều kiện được cha mẹ giáo dục cách bảo vệ môi
trường.
Từ những kết quả khảo sát thực trạng và những nguyên nhân trên, là một
quản lý chuyên môn tôi thiết muốn nâng cao được chất lượng giáo dục trong nhà
trường thì việc đầu tiên là phải giáo dục cho trẻ những ý thức về bảo vệ môi
6

4.6


trường. Tôi luôn suy nghĩ và trăn trở xem mình phải làm gì và làm thế nào để
cùng với các đồng chí giáo viên nâng cao kết quả giáo dục bảo vệ môi trường
cho trẻ đồng thời tuyên truyền các bậc cha mẹ trẻ, đánh thức ở họ ý thức. Vì vậy
tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp thực hiện sau đây để chỉ đạo giáo viên
giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ khối mẫu giáo đạt hiệu quả hơn.
2.3. Các biện pháp thực hiện:
* Biện pháp 1: Nắm bắt chuyên môn, tâm tư, nguyện vọng của giáo viên để
tham mưu phân công nhiệm vụ.
Để phân công giảng dạy có hiệu quả, phải xuất phát từ mục đích của việc
giảng dạy đó là chất lượng của trẻ. Chính vì vậy việc phân công, sử dụng cán bộ
giáo viên, nhân viên hợp lý trong trường sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học và
ngược lại nếu phân công và sử dụng không đúng người, đúng việc thì mục tiêu
đạt ra của người lãnh đạo khó có thể thành công.

Chính vì vậy tôi đã tham mưu với Hiệu trưởng căn cứ vào kết quả đánh
giá xếp loại giáo viên của năm học trước, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, hoàn
cảnh gia đình của đội ngũ giáo viên để phân công đúng người, đúng việc, đúng
năng lực sở trường tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên phát huy khả năng của
bản thân. Bởi đặc điểm của giáo viên mầm non phần lớn là nữ, thời gian cho
công việc ở trường từ 6 giờ 30 phút đến tận17giờ nên những giáo viên con nhỏ,
chồng công tác xa nhà, có bố mẹ chồng già yếu có thể phân công phụ lớp;
những giáo có nhiều kinh nghiệm, nhiệt tình phân công chủ nhiệm nhóm lớp 3-4
tuổi vì đặc điểm của trẻ 3-4 tuổi gần như trẻ nhà trẻ do vậy phải nhẹ nhàng, yêu
chiều trẻ hơn so với các độ tuổi 4-5 tuổi và 5-6 tuổi; Những giáo viên trẻ, khỏe,
năng lực chuyên môn tốt, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin thành thạo,
nhiệt tình trong công việc phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5-6 tuổi vì đối với trẻ
5-6 tuổi không chỉ đòi hỏi lượng kiến thức cao mà còn phải chuẩn bị các điều
kiện tốt nhất cho các em chuẩn bị vào lớp một.
* Biện pháp 2 : Xây dựng kế hoạch, thực hiện chuyên đề và chỉ đạo giáo
viên thực hiện tốt, luôn gương mẫu trong việc bảo vệ môi trường.
Bám sát nhiệm vụ năm học của bậc học mầm non Năm học 2018 – 2019
nhà trường tiếp tục thực hiện chủ đề “Đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất
lượng toàn diện” thực hiện tốt chuyên đề bảo vệ môi trường và một số chuyên
đề trọng tâm “Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”...Ngay từ
đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch chuyên đề bảo vệ môi trường trình và
tham mưu với Hiệu trưởng trong việc tổ chức và triển khai nội dung chuyên đề
bảo vệ môi trường đến toàn thể cán bộ giáo viên. Đặc biệt chỉ đạo tổ chuyên
môn xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện lồng ghép phù hợp từng chuyên đề
trọng tâm trong năm học vào các nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ
theo từng chủ đề phù hợp với từng độ tuổi. Đặc biệt năm học này nhà trường
tiếp tục triển khai và thực hiện chuyên đề xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm, trong đó chuyên đề bảo vệ môi trường cũng là một nội dung mà
nhà trường quan tâm và chú trọng.
- Tham mưu Hiệu trưởng hỗ trợ kinh phí, tài liệu, điều kiện về cơ sở vật chất,

các học liệu và thời gian để tổ chức thực hiện chuyên đề.
7


- Triển khai chuyên đề tại trường đến từng giáo viên nắm bắt, chỉ đạo xây dựng
02 lớp điểm khối 5- 6 tuổi, 02 lớp khối 4 - 5 tuổi, 01 lớp khối 3- 4 tuổi và nhận
thấy giáo viên đã áp dụng chuyên đề vào thực tiễn, hướng dẫn, giáo dục và tổ
chức cho các cháu thực hành bảo vệ môi trường.
Ảnh 3: Giáo viên đang học chuyên đê
Xây dựng kế hoạch chỉ đạo chuyền đề trong năm học. Triển khai đầy đủ
những chuyên đề mới cũng như tiếp tục chỉ đạo thực hiện lồng ghép các chuyên
đề về bảo vệ môi trường tiết kiện năng lượng, chuyên đề phát triển vận động và
chuyên đề giáo dục kỹ năng sống, chuyên đề giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Đối với chuyên đề “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm” Chỉ đạo giáo viên
bám sát nội dung chuyên đề để lên kế hoạch cụ thể, phù hợp với từng nội dung
công việc và từng độ tuổi để thực hiên.
Đối với môi trường trong lớp: Chỉ đạo giáo viên sắp xếp không gian gọn
gàng, khoa học, trang trí góc lớp đẹp, Ví dụ: Ở độ tuổi 3-4 tuổi chỉ đạo giáo viên
bố trí phòng lớp gọn gàng, sạch đẹp, ngăn nắp và hướng dẫn trẻ khi sử dụng
song đồ dùng phải biết cất đúng nơi quy đinh, gọn gàng; Trẻ 5-6 tuổi tôi chỉ đạo
giáo viên phát động trẻ quyên góp các loại nguyên vật liệu như: Vỏ sữa, chai
nước khoáng, lọ nhựa, nhặt lá khô dùng để làm các loại đồ dùng như: Chai nước
khoáng có thể dùng cho hoạt động làm quen với Toán (đếm) hay Tạo hình vẽ
thêm các họa tiết tạo thành các con vật, làm chậu trồng cây cảnh, hộp sữa có thể
làm thành hàng rào phục vụ cho hoạt động góc...Từ những công việc đơn giản
đó chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục trẻ biết cách tận dụng các nguyên vật
liệu phế thải vừa không tốn về kinh tế mà lại bảo vệ được môi trường, không xả
rác ra môi trường làm ô nhiễm môi trường.
Đối với môi trường bên ngoài: Tham mưu Hiệu trưởng quy hoạch cho phù
hợp với diện tích không gian nhà trường để xây dựng các khu vực: Trồng hoa,

trồng cây cảnh, khu vực trồng rau, trồng cây bóng mát, khu tạo sân cỏ... Các
biểu bảng bên ngoài, hình ảnh thân thiện mang ý nghĩa tuyên truyền. Phân công
cho mỗi lớp cụ thể để chăm sóc và bảo vệ.
Đối với môi trường xã hội: Đặc biệt chú trọng xây dựng các mối quan hệ
Cô- trò- cha mẹ trẻ. Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác tuyên truyền nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục nói chung và giáo dục bảo vệ môi trường nói riêng. Từ
những công việc đơn giản đó chỉ đạo giáo viên lồng ghép giáo dục trẻ biết cách
tận dụng các nguyên vật phế thải vừa không tốn về kinh tế mà lại bảo vệ được
môi trường, không sả rác ra môi trường làm ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh đó giáo viên phải luôn là người nâng cao trách nhiệm bảo vệ
môi trường, luôn linh hoạt sắp xếp gọn gàng khoa học tạo môi trường trong mọi
hoạt động cho trẻ và là tấm gương trong mọi hành động, thái độ, hành vi đối với
việc bảo vệ môi trường để cho trẻ học hỏi và noi theo. Bởi lẽ ở độ tuổi này với
trẻ cô giáo luôn là thần tượng của trẻ, vì vậy trẻ thường bắt chước làm theo cô.
Từ đó chúng ta có thể khẳng định việc làm và hình tượng của cô giáo có một vai
trò rất lớn đối với việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ.
Phát động phong trào làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo từ nguyên vật liệu
phế thải có sự góp sức của cha mẹ trẻ để làm ra các đồ dùng đồ chơi phục vụ
cho việc dạy và học, nhằm tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của
8


cán bộ giáo viên, nhân viên trong nhà trường thông qua việc gom nhặt những vật
liệu phế thải làm ra những đồ dùng đồ chơi có giá trị sử dụng để giáo dục trẻ.
Đây là một phương châm vừa tiết kiệm, vừa bảo vệ môi trường Xanh - Sạch Đẹp. Kết quả đa số các cháu đã biết giữ gìn vệ sinh phòng, lớp, không vứt rác
bừa bãi, bỏ rác vào thùng rác đúng nơi quy định, biết chăm sóc cây (tưới nước,
bắt sâu, không ngắt hoa, lá, cành). Cha mẹ trẻ đã từng bước ý thức trong việc
nhắc nhở con em giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. Góp phần nâng cao hiệu quả
bảo vệ môi trường trong trường mầm non.
Ảnh 4: Cha mẹ trẻ ủng hộ nguyên vât liệu cho giáo viên

Ảnh 5: Đồ dùng, đồ chơi tự làm từ nguyên vật liệu phế thải
* Biện pháp 3: Hướng dẫn giáo viên chuẩn bị các điều kiện về kiến thức, nội
dung giáo dục bảo vệ môi trường.
Việc ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin là phổ biến ở trong mọi
ngành nghề trong đó có công tác giáo dục, bởi lẽ sử dụng công nghệ thông tin
giúp giáo viên năng động truyền tải đến trẻ những kiến thức qua những tư liệu
hình ảnh thật sinh động. Từ đó hình thành cho trẻ có tư duy trực tiếp để phát huy
tính tích cực của trẻ. Trong giờ đón, trả trẻ chỉ đạo giáo viên có thể cho trẻ xem
những hình ảnh như: Tệ nạn chặt phá rừng, lũ lụt, thiên tai, dịch cúm gia cầm,
đốt rừng lấy củi. Rồi những hình ảnh trẻ em tắm nước bẩn, phóng uế bừa bãi…
Bên cạnh đó tôi sưu tầm những hình ảnh mang tính giáo dục treo ở góc tuyên
truyền như: Trẻ tích cực diệt ruồi muỗi, rửa tay đúng dưới vòi nước sạch, rửa
mặt sạch sẽ... Hình ảnh bé tắt quạt, ti vi để tiết kiệm điện, quét rác đổ vào thùng,
bé tưới cây xanh cùng cô, bé ngồi xe máy bịt khẩu trang và đội mũ bảo hiểm qua
những hình ảnh đó tôi có thể tiến hành ứng dụng dạy trẻ trên tiết học hoặc trong
các hoạt động để khắc sâu kiến thức giáo dục môi trường cho trẻ, trẻ hứng thú
thì kết quả đạt được càng cao. Vì vậy nhà trường cũng luôn chú trọng đến vấn đề
tạo điều kiện giúp giáo viên tiếp cận với tin học, hiện tại nhà trường đã có 18
máy tính cài đặt mạng Intenet cho giáo viên truy cập mạng và soạn bài. Bên
cạnh đó hướng dẫn giáo viên sưu tầm các bài thơ, câu chuyện có nội dung giáo
dục bảo vệ môi trường để thông qua đó truyền tải các kiến thức tới cho trẻ dễ
nhớ, dễ hiểu tránh sự nhàm chán. Phát động phong trào trồng và chăm sóc cây
xanh. Mỗi nhóm lớp đầu năm đăng ký trồng 02 đến 03 chậu cây cảnh, từ 01 đến
02 cây xanh bóng mát và chăm sóc một khu vườn trường.
* Biện pháp 4: Giáo dục bảo vệ môi trường thông qua việc chỉ đạo giáo
viên các lớp động viên Cha mẹ trẻ quyên góp các nguyên liệu phế liêu và
hướng dẫn trẻ mẫu giáo tự làm một số đồ dùng đồ chơi từ nguyên vật liệu
phế thải.
Giáo viên làm đồ dùng dạy học là công việc thường xuyên của nhà
trường, bên cạnh đó việc huy động cha mẹ trẻ quyên góp các nguyên liệu phế

liệu và hướng dẫn trẻ tìm kiếm, lựa chọn những mẫu đồ dùng, đồ chơi đơn giản
được tận dụng từ nguyên vật liệu phế thải để cùng cô làm đồ dùng đồ chơi từ các
nguyên vật liệu phế liệu là công việc cần thiết.
Ví dụ: Đối với trẻ 3- 4 tuổi cô hướng dẫn trẻ thu lượm lá cây rụng để cùng cô
tạo hình các con vật, các vật dụng đơn giản: đồng hồ, trong chóng...
9


- Trẻ 4-5 tuổi trẻ cùng cô thu lượm vỏ hộp sữa, chai nước khoáng dùng vào các
hoạt động hàng ngày của trẻ như: Hoạt động làm quen với toán, hoạt động góc...
- Trẻ 5- 6 tuổi tận dụng bìa cát tông, túi bóng, vải vụn, giấy báo có thể tạo ra
các bó hoa, lọ hoa, trang phục cho búp bê hột hạt, vỏ ngao, sỏi để xếp hoa, quả,
con vật, đồ vật...Thông qua đó cô giáo dục trẻ ý thức tiết kiệm và ý thức lao
động sáng tạo.
Quá trình trẻ được tự tay làm những đồ chơi, con vật, đồ vật mà trẻ thích
từ những lá cây, hộp giấy là một trong những nguyên vật liệu phế liệu của môi
trường sẽ giúp trẻ phát triển kỹ năng khám phá hứng thú với môi trường xung
quanh, kỹ năng khéo léo sáng tạo, biết tận dụng những nguyên vật liệu bỏ đi có
thể giúp trẻ tái sử dụng vừa tiết kiệm kinh tế, vừa làm cho môi trường thêm sạch
đẹp. Từ đó hình thành cho trẻ ý thức tự lập, tự giác và tinh thần đoàn kết cùng
nhau bảo vệ môi trường. Đây là một trong những hoạt động có hiệu quả đưa kết
quả của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ được nâng cao.
Ảnh 6: Trẻ 5-6 tuổi làm đồ dùng đồ chơi cùng cô.
* Biện pháp 5: Chỉ đạo giáo xây dựng kế hoạch thực hiện giáo dục bảo vệ
môi trường thông qua việc tích hợp, lồng ghép vào các chủ đề theo năm học.
Tích hợp và lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường là giáo dục tổng thể
nhằm trang bị những kiến thức về môi trường cho trẻ thông qua các hoạt động
hàng ngày của trẻ phù hợp với từng độ tuổi và khả năng nhận thức của trẻ tại
trường mầm non nhằm tránh sự chồng chéo và lập lại kiến thức giúp trẻ hứng
thú với nội dung của hoạt động học và với phần lồng ghép nội dung giáo dục

bảo vệ mội trường. Ngoài ra phải tăng cường tính chủ động học tập lĩnh hội các
kiến thức của trẻ ở phần lồng ghép nhằm giúp trẻ tự nhận thức được vấn đề
thông qua quá trình trải nghiệm để đánh giá giữa lý thuyết và thực tiễn. Từ đó
tạo cho trẻ cơ hội được tham gia nhiều vào các hoạt động khác nhau: Phát triển
thể chất, Khám phá khoa học, Âm nhạc, Làm quen tác phẩm văn học, Tạo
hình... mỗi hoạt động trên đều có những đặc trưng riêng và có ưu thế khác nhau
như: trẻ quan sát, đàm thoại, thực hành trải nghiệm, thí nghiệm, chơi các trò
chơi... với trẻ để trẻ nhận ra được những việc làm tốt, không tốt, những hành
động đúng - hành động không đúng kích thích trẻ suy nghĩ, bộc lộ tình cảm, có
thái độ phù hợp với môi trường .
Tuy nhiên, để đạt hiệu quả cao, bản thân chỉ đạo giáo viên phải biết căn
cứ vào mục đích, yêu cầu và nội dung của chủ đề để lựa chọn nội dung giáo dục
phù hợp một cách hợp lý.
Ví dụ: Đối với lớp 4-5 tuổi, ở chủ đề Trường mầm non, Bản thân hay Gia đình.
Chỉ đạo giáo viên ngoài việc cung cấp kiến thức về chủ đề như: Giới thiệu các
khu vực trong trường, các khu vệ sinh, nơi bỏ rác, sự cần thiết của việc rửa tay,
rửa mặt (trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh hay sau các giờ hoạt động, khi tay bẩn)
phải lồng ghép giáo dục trẻ ý thức vệ sinh nhà cửa, trường lớp sạch sẽ, không
hái hoa bẻ cành, biết chăm sóc bảo vệ cây xanh trong sân trường và ở các nơi
công cộng khác, biết rửa tay trước khi ăn, ăn chín uống sôi, đeo khẩu trang khi
ra ngoài đường, khi ngửi thấy mùi lạ không ăn, không uống nước ngọt pha nhiều
phẩm màu...
Đối với chủ đề: “Bản Thân” Trẻ 5-6 tuổi:
10


Trong giờ hoạt động chính: Định hướng cho giáo viên xây dựng các hoạt động
học với nội dung và hình thức tổ chức sinh động đan xen giữa hoạt động động
và tĩnh với mục đích là giáo dục trẻ biết ích lợi của việc giữ gìn vệ sinh thân thể,
vệ sinh môi trường đối với sức khoẻ con người. Trẻ có hành vi và thói quen tốt

trong ăn uống: Mời cô, mời bạn, không ăn quà vặt ngoài đường...Nhận biết ký
hiệu thông thường: Nhà vệ sinh nam, nữ, thùng đựng rác... và biết tránh xa một
số vật dụng, nơi nguy hiểm đối với bản thân: Dao, kéo, ổ cắm điện, ao, hồ, yêu
quý, gìn giữ và bảo vệ chăm sóc đồ dùng cá nhân. Biết suy nghĩ và giải quyết
những vấn đề có liên quan đến bảo vệ môi trường trong cuộc sống hàng ngày.
ví dụ: Điều gì sẽ xẩy ra nếu nhiều người không biết bỏ giác vào đúng chỗ quy
định, nếu ra khỏi phòng không tắt điện.
Trong giờ hoạt động âm nhạc bài hát “Cùng nhau bảo vệ môi trường” Cô
có thể đặt câu hỏi giáo dục trẻ qua bài hát: Rác trước khi bỏ vào thùng phải làm
gì? (Phải phân loại rác)…Qua đó giáo dục trẻ đã biết có hành vi đúng sai khi
chăm sóc bản thân và môi trường, tự làm một số công việc đơn giản hàng ngày:
Vệ sinh cá nhân, trực nhật.
Hay ở chủ đề “Gia đình. Cô cho trẻ thấy được sự thay đổi của môi trường
xung quanh nhà của trẻ, nhận biết được môi trường sạch, môi trường bẩn trong
gia đình. Nhận biết được môi trường trong gia đình bao gồm các phòng ở, nhà
vệ sinh, sân vườn, các đồ dùng và sự sáp đặt trong gia đình. Biết quý trọng giữ
gìn đồ dùng trong gia đình, cất đồ dùng, đồ chơi đúng chỗ, bỏ rác đúng nơi quy
định, không khạc nhổ bừa bãi, có ý thức về những điều nên làm như: khoá vòi
nước không sử dụng, tắt điện khi ra khỏi phòng, biết tác hại của môi trường bẩn
(bị ô nhiễm) đối với sức khỏe con người và cách bảo vệ cho môi trường không
bị ô nhiễm...
Trong hoạt động học dự giờ góp ý giáo viên nhóm 5-6 tuổi: Giờ khám phá
khoa học: “Đồ dùng sử dụng bằng điện trong gia đình bé” Trẻ biết một số đồ
dùng sử dụng bằng điện trong gia đình như: Bóng điện để thắp sáng, quạt, tivi,
đài, tủ lạnh, ấm điện siêu tốc…Góp ý chỉ đạo giáo viên giáo dục trẻ những kỹ
năng sử dụng đồ dùng bằng điện đúng cách vừa tiết kiệm lại có thể bảo quản đồ
dùng. Cô đưa ra các tình huống nhằm lồng ghép nội dung “sử dụng năng lượng
tiết kiệm, hiệu quả” như khi ra khỏi phòng các con phải làm gì?
Đối với trẻ 3-4 tuổi hoạt động ngoài trời: Cô và trẻ cùng trò chuyện về
công việc của trẻ ở nhà. Cô giáo dục trẻ biết giúp đỡ bố mẹ sắp xếp dọn dẹp sân

vườn, biết chăm sóc cây cảnh, cây hoa có trong nhà mình (không bẻ cây, nhặt lá
vàng bỏ vào thùng rác…)
* Biện pháp 7: Chỉ đạo lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ thông
qua hoạt động trải nghiệm.
Giáo dục bảo vệ môi trường ở trường mầm non thông qua trẻ mẫu giáo sẽ
hình thành những phản xạ, những thói quen đầu tiên trong việc bảo vệ môi
trường. Thông qua các hoạt động trải nghiệm sẽ hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ
môi trường, Giáo dục trẻ có thái độ, ứng xử đúng đắn môi trường, tôn trọng và
giữ gìn môi trường, biết cách sống tích cực và thân thiện với môi trường, tôn
trọng và giữ gìn môi trường.
11


Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ ở trường mầm non có rất nhiều
các hoạt động giáo dục, Hoạt động học: Tạo hình, âm nhạc, kể chuyện...;Hoạt
động vui chơi; Hoạt động ngoài trời; Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh...Thông qua các
hoạt động này, chỉ đạo giáo viên lên kế hoạch tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt
động với những trải nghiệm khác nhau. Từ đó trẻ được tiếp cận với những tình
huống có vấn đề và tự đưa cách giải quyết vấn đề đó. Bởi vì học thông qua hoạt
động trải nghiệm là một cách học thông qua làm, với quan niệm học là quá trình
tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa trên những đánh giá, phân
tích trên những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có. Như vậy, thông qua các hoạt
động trải nghiệm trẻ được cung cấp các kiến thức, kĩ năng từ đó hình thành năng
lực, phẩm chất và kinh nghiệm. Mặt khác, trong các hoạt động trải nghiệm, giáo
viên mầm non có vai trò định hướng, hỗ trợ, đánh giá, phân tích trên những kinh
nghiệm, kiến thức sẵn có. Như vậy thông qua các hoạt động trải nghiệm, trẻ rất
hứng thú và kiến thức, kĩ năng được hình thành một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
Ví dụ: Đối với trẻ 5-6 tuổi chỉ đạo giáo viên thông qua các hoạt động như:
Hoạt động ngoài trời, các hoạt động khám phá khoa học, giáo viên có thể lôi
cuốn trẻ tham gia vào các cuộc trò chuyện bằng những câu hỏi ngắn về kinh

nghiệm của trẻ, tạo hứng thú bước đầu cho trẻ đối với những nội dung đặt ra về
bảo vệ môi trường như: Tại sao chúng ta phải trồng cây xanh? Cây sống được là
nhờ đâu? Muốn cây xanh trong sân trường xanh tốt chúng ta phải làm gì? và làm
như thế nào?...Tùy theo từng điều kiện, cô có thể thiết kế các thí nghiệm cho trẻ.
Hàng ngày cô cùng trẻ tưới nước cho hạt và cùng nhau xem quá trình nẩy mầm
của hạt. Đối với các con vật nuôi, cây xanh cho trẻ tìm hiểu về đặc điểm, giá trị,
vẻ đẹp của con vật, cây hoa lá... nói về sự sinh trưởng của cây xanh, cô cùng trẻ
tham gia hoạt động thực tế: “gieo hạt”. Cô cho trẻ xem về quá trình phát triển,
thay đổi của đối tượng: Hạt - nảy mầm - cây có chồi - lá non - lá xanh thẫm...
sau đó trẻ được xem cả quá trình lao động chăm sóc cây trồng, trò chuyện cùng
trẻ: Điều gì xẩy ra nếu không có nước? Phải làm những công việc gì để bảo vệ
nguồn nước? Chúng ta phải làm gì để góp phần tiết kiệm nguồn nước? Chính
những hoạt động trải nghiệm này sẽ mang lại cho trẻ sự hứng thú khi hàng ngày
được chăm sóc và tham gia các hoạt động như các bác nông dân thật thụ. Từ đó
trẻ biết trân trọng cây xanh và bảo vệ môi trường, yêu quý lao động và tôn trọng
người lao động.
- Thông qua hoạt động chơi:
Hoạt động vui chơi có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của trẻ mầm
non nói chung và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường nói riêng. Hoạt động vui
chơi nhằm thỏa mãn nhu cầu được vui chơi của trẻ, tạo cơ hội cho trẻ được trải
nghiệm, vận dụng, củng cố kiến thức, kĩ năng, thái độ, tích cực khám phá thế
giới xung quanh. Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Trẻ
tham gia chơi, suy nghĩ về các ý tưởng chơi, giao tiếp để duy trì các mối quan hệ
trong khi chơi hay tư duy để tạo ra các tình huống chơi. Các góc chơi có thể tổ
chức cho trẻ như là góc đóng vai (tái hiện lại công việc của nhân viên môi
trường), góc xây dựng (xây công viên xanh sạch đẹp), góc nghệ thuật (làm đồ
chơi từ nguyên vật liệu phế thải, vẽ tranh về môi trường), góc khám phá khoa
học (làm các thí nghiệm tìm hiểu về các hiện tượng tự nhiên, tìm nguyên nhân
12



gây ô nhiểm môi trường), góc văn hóa địa phương (tìm hiểu về các phong tục
tập quán, các quy trình tạo ra sản phẩm của các làng nghề). Trong đó góc văn
hóa địa phương là một góc chơi mới nhưng có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp trẻ
được trải nghiệm mang đậm nét văn hóa đặc trưng của địa phương, vùng miền
từ đó giúp trẻ hình thành hành vi ứng xử đúng đắn với môi trường xung quanh.
Thông qua vai chơi, hoàn cảnh chơi, các tình huống chơi trẻ biết phân biệt
hành vi đúng, sai trong việc bảo vệ môi trường từ đó có ý thức đúng đắn với môi
trường sống. Căn cứ vào nội dung giáo dục cô sắp xếp các góc chơi phù hợp, thu
hút trẻ vào các góc chơi. Trong quá trình chơi cô đưa ra các tình huống có vấn
đề và để trẻ tự giải quyết.
Ví dụ: Đối với góc chơi xây dựng: Để vận chuyển được các nguyên vật liệu về
xây nhà các con cần gì? Làm cách nào để vận chuyển được các nguyên vật liệu
đó mà không ảnh hưởng đến môi trường như bụi, vương vãi cát đá ra các tuyến
đường? Hay đối với vai chơi nấu ăn cô có thể hỏi trẻ khi nhặt rau phần lá héo và
cuống các con làm gì? chính những câu hỏi, lời dẫn dắt của giáo viên dần hình
thành ở trẻ ý thức bảo vệ môi trường.
Hoạt động chơi ngoài trời: đây là cơ hội để trẻ được tiếp xúc với đa dạng
các đối tượng về môi trường, cỏ cây, hoa lá, các hiện tượng thiên nhiên xung
quanh trẻ. Trong quá trình quan sát môi trường, giáo viên dùng biện pháp đàm
thoại, tạo tình huống có vấn đề để trẻ tự giải quyết. Ví dụ: Quan sát cây bị héo.
Cô hỏi nguyên nhân vì sao cây lại bị héo? Cây sống được là nhờ vào đâu? Muốn
cây xanh chúng ta phải làm gì? Chính những tình huống, những câu hỏi, lời dẫn
dắt của giáo viên dần dần hình thành, khơi dậy ý thức trong trẻ.
- Thông qua tổ chức giờ ăn, ngủ cho trẻ:
Thông qua các công việc hàng ngày như ăn, ngủ, vệ sinh cũng là một cơ
hội tốt để trẻ được trải nghiệm. Đây là hoạt động nhằm hình thành các nề nếp
thói quen trong sinh hoạt, đáp ứng sinh lí, trẻ được vui vẻ và thoải mái. Tuy
nhiên cần phải căn cứ vào từng đặc điểm của từng lứa tuổi để chỉ đạo giáo viên
thực hiện các nội dung giáo dục cho phù hợp như đối với trẻ độ tuổi 3-4 tuổi trẻ

chưa tự phục vụ bản thân một cách linh hoạt và thành thục do vậy cô phải
thường xuyên hướng dẫn và giúp đỡ trẻ như: Cô kê bàn ăn nhắc nhở trẻ không
được xô đẩy làm hư hỏng bàn ghế, hay khi trẻ ăn do kỹ năng bê bát và xúc cơm
chưa thành thạo nên cô phải thường xuyên nhắc nhở trẻ cách cầm bát cho không
bị rơi, xúc cơm thế nào cho không bị vãi... Đối với trẻ 5-6 tuổi do đặc điểm của
trẻ đã biết tự phục vụ do vậy chỉ đạo giáo viên trong giờ ăn thường xuyên nhắc
trẻ phải biết giúp cô kê bàn ngay ngắn, biết lấy khay (đựng cơm thừa, cơm rơi
vãi và 1 khay để khăn ướt lau miệng). Sau đó ra xếp hàng rửa tay bằng xà phòng
theo qui trình 6 bước (cô bao quát nhắc nhở trẻ thực hiện). Trong khi ăn cô nhắc
trẻ ăn ngon miệng, nhai kỹ, ăn hết xuất, khi ho phải lấy tay che miệng, không
nói chuyện trong khi ăn tạo những thói quen văn minh lịch sự trong khi ăn. Ăn
xong biết xếp bát, thìa vào nơi quy định một cách gọn gàng, giúp cô lau bàn ăn
sau đó trẻ đi đánh răng, lau miệng, nhắc nhở trẻ tiết kiệm nước bằng cách lấy
cốc hứng nước, không vặn vòi nước chảy liên tục khi đánh răng.
Ảnh 7: Giáo dục trẻ 3-4 tuổi; 5-6 tuổi thông qua giờ ăn.
Ảnh 8: Giáo dục trẻ 4-5 tuổi thông qua giờ ngủ.
13


Nhắc trẻ giữ gìn vệ sinh phòng, nhóm sạch sẽ, đi vệ sinh phải đúng nơi
quy định, đi xong để dép lên giá xếp ngay ngắn theo tổ, sau đó biết lấy gối đi
ngủ, biết gấp quần áo và để đúng nơi quy định. Từ đó trẻ có ý thức gọn gàng,
ngăn nắp và có ý thức xây dựng bảo vệ môi trường chung.
- Thông qua hoạt động dạo chơi, đi thăm quan. Trẻ được quan sát trực tiếp với
môi trường tự nhiên, các địa danh xung quanh trường, lớp để trẻ cảm nhận về vẻ
đẹp của môi trường quanh trẻ và có ý thức giữ gìn và bảo vệ: Cô cho trẻ được đi
thăm quan môi trường trong lớp học của những lớp học khác, khu vực quanh
trường và thăm quan nghĩa trang liệt sĩ, uỷ ban nhân dân xã Hòa Lộc, Nhà thờ
anh hùng liệt sỹ Nguyễn Chí Hiền. Yêu cầu trẻ nhận xét về vệ sinh môi trường ở
tại nơi đó và tìm ra cách khắc phục bảo vệ môi trường.

- Thông qua hoạt động lao động. Căn cứ vào từng độ tuổi để có thể chỉ đạo giáo
viên có kế hoạch trong việc thực hiện giáo dục.
Đối với trẻ 5-6 tuổi. Giáo viên phân nhóm trẻ, giao nhiệm vụ cho từng
nhóm tìm kiếm và sưu tầm các đồ dùng, nguyên liệu để thực hiện nhiệm vụ.
Biện pháp này giúp trẻ tăng cường hoạt động và có ý thức làm việc theo nhóm.
Khi tổ chức các hoạt động này cô giáo cho trẻ trải nghiệm, trao đổi với nhau.
Sau đó lắng nghe ý kiến của trẻ, động viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho trẻ
được thực hiện ý tưởng của mình.
Ví dụ: cô giáo tổ chức cho trẻ mỗi tuần một buổi lao động như nhổ cỏ cho vườn
rau của bé, vườn hoa trong sân trường. Qua đó giáo dục trẻ biết chăm sóc bảo vệ
thiên nhiên góp phần vào bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp.
- Vào giờ sinh hoạt chiều giáo viên tận dụng thời gian để giáo dục trẻ thói quen
trực nhật cuối ngày theo nhóm, cùng nhau chăm sóc góc thiên nhiên của lớp, sắp
xếp, lau dọn kệ đồ chơi, nhắc nhở bạn cùng nhau thực hiện.
Với biện pháp này sẽ giúp trẻ có tinh thần làm việc tập thể, đua nhau cùng
làm, bạn nào cũng muốn góp công sức của mình vào những công việc của nhóm.
Thường vào các buổi chiều thứ 6 cuối tuần giáo viên cho trẻ lao động vệ sinh
môi trường xunh quanh trường lớp như :
- Tổ 1: Lau chùi đồ dùng, đồ chơi, các giá đựng đồ dùng đồ chơi.
- Tổ 2: Thu gom rác xung quanh trường (nhặt giấy vụn, vỏ bim bim, vỏ hộp sữa,
thu gom lá bỏ vào thùng rác).
- Tổ 3: Sắp xếp đồ chơi đúng nơi quy định.
Bên cạnh đó cô giáo đưa ra kế hoạch trực nhật và lịch phân công trực nhật
để giúp trẻ biết được công việc của mình trong ngày. Nhìn vào bảng là trẻ biết
hôm nay mình được phân công làm gì vừa tạo điều kiện cho trẻ được thực hành
lao động vừa kết hợp củng cố nhận biết con số, thứ trong tuần và số lượng các
bạn trực nhật. Trẻ hứng thú say mê tích cực rõ rệt hơn với việc bảo vệ môi
trường.
Ảnh 9: Trẻ 5-6 tuổ lau chùi đồ dùng - đồ chơi.
- Thông qua hội thi và giáo dục mọi lúc mọi nơi. Hoạt động hội thi có một vị trí

rất quan trọng trong việc giáo dục trẻ bảo vệ môi trường. Thông qua việc tổ chức
hội thi, hình thành ở trẻ các kỹ năng, thái độ, hành vi tích cực về các địa danh và
môi trường, biết bảo vệ, giữ gìn môi trường và các địa danh nơi diễn ra lễ hội.
Đây là con đường trực tiếp giúp trẻ hiểu một cách dễ dàng và chính xác nhất về
14


hiện thực xã hội xung quanh trẻ, giúp trẻ tích lũy kinh nghiệm và xác định được
vị trí, vai trò của bản thân đối với môi trường. Từ đó hình thành ở trẻ trách
nhiệm đối với môi trường và biến hành động vì môi trường. Khi trẻ được tham
gia các hội thi sẽ giúp trẻ phát huy tối đa khả năng của bản thân và tinh thần hợp
tác của nhóm, từ đó việc lĩnh hội tri thức về môi trường cũng như các vấn đề bảo
vệ môi trường sẽ được dễn ra tích cực, để lại ấn tượng hơn. Các hoạt động cho
trẻ tham gia như vẽ tranh về chủ đề môi trường, biểu diễn thời trang thân thiện
với môi trường, thi tìm hiểu kiến thức về môi trường, thi làm đồ dùng đồ chơi từ
các nguyên vật liệu tái sử dụng.
Ảnh 10: Trẻ 4-5 tuổi Biểu diễn thời trang- trang phục từ các nguyên vật liệu tái
chế.
- Thông qua hoạt động nêu gương. Đây cũng là một trong những hoạt động để
giáo viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục, giúp cho trẻ có ý thức bảo vệ môi trường
một cách hiệu quả nhất. Vào những buổi nêu gương cô cho trẻ nêu kể những
việc làm tốt giúp cô giáo và các bạn như: biết kê bàn ăn, biết gấp khăn, biết đổ
khay thức ăn thừa vào nồi, biết nhặt rác để vào thùng, xếp ghế, có kỹ năng sống
như biết chào hỏi, khi mắc lỗi với cô hoặc bạn thì biết xin lỗi, khi có người khác
giúp đỡ hay cho quà thì biết xin và cảm ơn...Trong những buổi nêu gương như
vậy đã giúp trẻ làm tốt hơn những công việc hàng ngày trẻ lao động giúp cô. Cô
giáo tuyên dương trẻ, khích lệ trẻ kịp thời và cho trẻ được cắm cờ. Vào những
buổi nêu gương giáo viên thường xuyên cho trẻ kể những việc làm tốt mà trẻ đã
làm trong ngày và được cắm cờ, trong đó cô chú trọng đến vấn đề giáo dục bảo
vệ môi trường bằng cách tuyên dương, khen ngợi những trẻ đã làm giúp cô như

nhặt lá rụng, xếp ghế, quét lớp, trải thảm, cất gối...
* Biện pháp 8: Tuyên truyền và phối hợp với Cha mẹ trẻ, Các tổ chức
chính trị xã hội trong công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường.
Công tác tuyên truyền, phối kết hợp giữa Nhà trường - Gia đình - Xã hội
có tầm quan trọng rất lớn tới nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ mầm
non đặc biệt là trẻ mẫu giáo, qua hoạt động giáo dục trẻ ý thức bảo vệ môi
trường. Bởi sau mỗi một thành công và kết quả gặt hái được của nhà trường thì
vai trò của lãnh đạo chính quyền địa phương. Trong mỗi khó khăn của từng năm
học thì lãnh đạo chính quyền địa phương, các đoàn thể, Hội cha mẹ trẻ là nguồn
động viên khích lệ và luôn sát cánh bên nhà trường chúng tôi cả tinh thần lẫn vật
chất. Trong năm học tôi đã xây dựng kế hoạch tham mưu với hiệu trưởng nhà
trường, phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể, hội cha mẹ trẻ cùng tham gia
các hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ như: Tổ chức buổi lao động
theo tháng, quý để cho phụ huynh cùng với giáo viên trong nhà trường lao động
tạo ra khuôn viên như: Vườn rau sạch; Trồng cây bóng mát; Tổng dọn vệ sinh…
Bên cạnh đó tôi đã chỉ đạo cho giáo viên tuyên truyền cha mẹ của từng
lớp về sự ô nhiễm môi trường của địa phương hiện nay bằng cách: Trưng bày
các góc chơi, sản phẩm của trẻ để giới thiệu; Qua buổi đón trả trẻ nhắc nhở các
bậc cha mẹ thường xuyên giáo dục con em bảo vệ môi trường, và tuyên truyền
để xe đúng khu vực; Lồng vào các buổi sinh hoạt họp ban đại diện Hội cha mẹ
học sinh trao đổi về tầm quan trọng của việc giáo dục bảo vệ môi trường; Tuyên
15


truyền bằng góc tranh ảnh ngoài cửa lớp học về các khu ô nhiễm môi trường,
khu rác thải chưa được xử lý.
Ảnh 11: Họp hội cha mẹ trẻ tại nhóm lớp 3-4 tuổi C1.
Ảnh 12: Giáo viên cùng với cha mẹ trẻ lao động bảo vệ môi trường.
Vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ về nguồn nguyên vật liệu thải bỏ đi để giáo
viên tận dụng, cùng các cô làm đồ chơi phục vụ cho hoạt động chơi và học cho

trẻ như: sách báo cũ, vỏ hộp, mẫu gỗ, lốp xe hỏng làm cầu bập bênh, làm đu dây
cho trẻ chơi ở sân vận động...Thông qua công tác tuyên truyền, vận động này phụ
huynh sẽ hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
con trẻ không phải chỉ ở phía nhà trường mà còn ở gia đình nữa. Điều đó đã khẳng
định rằng công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường đã có sự đồng thuận
và đạt kết quả cao.
Ngoài ra nhà trường luôn kết hợp tham mưu với chính quyền địa phương,
ban ngành đoàn thể đặc biệt là Trạm y tế xã tổ chức các buổi tuyên truyền đến
các bậc cha mẹ trẻ về những tác hại của dịch bệnh do môi trường bị ô nhiễm tác
động đến sức khỏe của trẻ. Và tư vấn hỗ trợ mua đủ thùng đựng rác và hệ thống
thoát nước, nước thải phục vụ cho hoạt động hàng ngày của trẻ. Từ đó vận động
tuyên truyền chung tay xây dựng và bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp để giáo
dục cho trẻ trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội.
* Biện pháp 8. Kiểm tra đánh giá.
Kiểm tra đánh giá là khâu then chốt cuối cùng của các biện pháp thực
hiện. Việc kiểm tra đánh giá khách quan, nghiêm túc, đúng cách, đúng hướng sẽ
là động lực mạnh mẽ khích lệ sự vươn lên của giáo viên cũng như của trẻ. Vì
vậy khâu kiểm tra đánh giá là một việc làm thường xuyên và liên tục, là chức
năng quan trọng của người cán bộ quản lý. Kiểm tra là một hoạt động khoa học
nên cần có kế hoạch, có mục đích rõ ràng cho từng nội dung cụ thể.
Ngay từ đầu năm học, bản thân tôi tham mưu Hiệu trưởng xây dự kế
hoạch kiểm tra hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày, xây dựng cụ thể, chi tiết, đối
tượng và thời gian. Trong công tác kiểm tra chúng ta cần phối hợp nhiều hình
thức kiểm tra như kiểm tra trực tiếp, kiểm tra gián tiếp, kiểm tra theo định kì,
kiểm tra đột xuất, kiểm tra toàn diện, kiểm tra theo chuyên đề.
Kết quả trong năm học tổ chuyên môn đã kiểm tra toàn diện được 100%
giáo viên; Kiểm tra chuyên đề mỗi giáo viên kiểm tra 2 lần/năm. Việc kiểm tra

đột xuất một số nội dung: Kiểm tra việc thực hiện chương trình, kiểm tra
hồ sơ, giáo án, kiểm tra thực hiện chế độ sinh hoạt, kiểm tra việc đánh giá

chất lượng. Nếu kết quả chưa cao, tôi thông báo kiểm tra có báo trước.
Trong trường hợp kết quả chưa đạt yêu cầu thì bản thân chưa đưa ra đánh
giá kết luận mà yêu cầu giáo viên có năng lực hỗ trợ, giúp đỡ, xây dựng
nội dung giáo án và tiếp tục kiểm tra trong thời hạn nhất định. Với hình
thức như vậy năng lực, kỹ năng của giáo viên sẽ nâng lên và tự rút ra bài
học kinh nghiệm; Kiểm tra kỹ năng của trẻ:Thông qua các tình huống giáo
dục bảo vệ môi trường hàng ngày, qua sản phẩm của trẻ.
Qua kiểm tra, đã uốn nắn một số thiếu sót của giáo viên trong công
tác giáo dục. Từ đó đó giúp cho người quản lý ngăn ngừa kịp thời những
16


thiếu sót, sai phạm có biện pháp chỉ đạo cụ thể giúp cho giáo viên ôn luyện
kiến thức, xây dựng kế hoạch bối dưỡng giúp cho trẻ có những kiến thức,
kỹ năng trong các hoạt động.
Có như vậy thì mới tạo ra được niềm tin và hiệu quả của việc nâng cao
hiệu quả giáo dục bảo vệ môi trường cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường.
* Biện pháp 9: Nêu gương khen thưởng.
Công tác nêu gương khen thưởng có vị trí ý nghĩa, vai trò rất quan trọng,
là động lực thúc đẩy tinh thần hăng say lao động của tập thể cán bộ giáo viên, là
biện pháp để người quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, chính trị của cơ quan
đơn vị mình nhằm khuyến khích, động viên mọi người hăng say lập thành tích.
Bởi những cá nhân, tổ chức sau khi được khen thưởng sẽ có nhiều động lực để
phát huy tính tích cực của cá nhân và người chưa được khen thưởng sẽ thấy
được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, cần phải phấn đấu để được ghi nhận trong
thời gian tới. Nhận thức được điều đó, công tác thi đua khen thưởng trong năm
học 2018-2019 của nhà trường luôn được chú trọng, nó thật sự đã phát huy được
sức mạnh tổng hợp của tập thể nhà trường. Các phong trào thi đua được nhân lên
với nhiều hình thức phong phú như: Phong trào chỉ đạo lớp điểm; Phong trào
trang trí lớp; Chăm sóc vườn hoa - rau đẹp; Thao giảng dự giờ; Hội thi làm đồ

dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu tái chế; Phong trào viết sáng kiến kinh
nghiệm, Hội thi “Bé khỏe - bé tài năng”...Thông qua các phong trào thi đua để
tìm ra được những đồng chí giáo viên giỏi có năng lực đạt kết quả cao trong
những đợt phát động, những hội thi, từ đó tôi đã nêu gương và biểu dương kịp
thời những tấm gương điển hình này trong nhà trường cho tập thể giáo viên học
tập và noi theo.
Ảnh 13: Ban Giám Hiệu phát thưởng cho Học sinh có thành tích xuất sắc.
Ảnh 14: Hội khuyến học tặng quà cho Giáo viên có thành tích xuất sắc.
Để thực hiện tốt công tác thi đua khen thưởng, bản thân ngay từ đầu năm
học đã tham mưu và xây dựng kế hoạch cụ thể cho mỗi nội dung công việc và
xây dựng quy chế thi đua khen thưởng trình với hội đồng nhà trường, xin ý kiến
hỗ trợ của hội cha mẹ trẻ nên được nhiều giáo viên ủng hộ quyết tâm lập thành
tích trong năm học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
* Kết quả sau khi đã áp dụng giải pháp và biện pháp
Bảng 2A : Kết quả trên giáo viên:
Nội dung khảo sát trên giáo viên
Tổng số
Hiểu biết tầm
Nắm vững được
Kỹ năng lồng Kỹ năng tuyên
giáo viên
quan trọng của
nội dung, kiến
ghép giáo dục truyền, phối hợp
Mẫu giáo
vấn đề BVMT và
thức chuyên đề
BVMT cho trẻ cùng phụ huynh
luôn gương mẫu

giáo dục BVMT
phù hợp và
về GDBVMT cho
cho trẻ
sáng tạo
trẻ
27

T

K

TB

Y

T

K

TB

Y

T

K

TB


Y

T

K

TB

Y

10

12

5

0

10

12

5

0

10

11


6

0

10

11

6

0

18.
5

0

18.
5

0

37

40.
8

22.
2


0

37

40.
8

22.
2

0

Tỷ lệ %
7

3 44.
5

7

3 44.
5

17


Bảng 2B: Kết quả trên trẻ.
Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo
Độ
tuổi


TS
trẻ
mẫu
giáo

Biết chăm sóc
và bảo vệ cây
(tưới nước, nhổ
cỏ, không bẻ
cành…)
K
Đ

Đạt

3-4
tuổi
4-5
tuổi
5-6
tuổi
Cộng
%

191
222
198
611


T

K

8
0
7
8
6
9
2
2
7
3
7.
2

63
82
66
211
35.
5

Biết giữ gìn
trật tự vệ sinh
công cộng, vệ
sinh trường
lớp, biết tiết
kiệm nước


T
B
4
8
6
2
6
3
1
7
3
2
8.
3

0
0
0
0
0

K
Đ

Đạt
T

K


8
0
7
8
6
9
2
2
7
3
7.
2

6
3
8
2
6
6
2
1
1
3
5.
5

Biết cất dọn đồ
dùng đồ chơi
đúng nơi quy
định


T
B
4
8
6
2
6
3
1
7
3
2
8.
3

0
0
0
0
0

K
Đ

Đạt
T

K


8
0
7
8
6
9
2
2
7
3
7.
2

6
3
8
2
6
6
2
1
1
3
5.
5

Phân biệt được
những hành
động đúng,
hành động sai

với môi trường

T
B
4
8
6
2
6
3
1
7
3
2
8.
3

0
0
0
0
0

Nhắc nhở người
lớn không được
xả rác bừa bãi.

K
Đ


Đạt
T

K

TB

8
4
8
2
7
7
2
4
3
3
9.
8

6
1
8
4
7
6
2
2
1
3

6.
2

46

K
Đ

Đạt
T

K

0

84

56

0

82

45

0

77

147


0

243

24

0

39.
8

6
1
8
4
7
6
2
2
1
3
6.
2

T
B
4
6
5

6
4
5
1
4
7
2
4

Qua kết quả khảo sát sau khi áp dụng thực hiện chỉ đạo nâng cao hiệu quả
giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo ở trường Mầm non Hòa Lộc đã đạt
được:
- Đối với giáo dục: Chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng ý thức bảo vệ
môi môi trường được nâng lên rõ rệt.
- Bản thân không ngừng rèn luyện tư tưởng, đạo đức lối sống và không ngừng
học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, khắc phục mọi khó khăn, tìm ra các
giải pháp, biện pháp, sắp xếp, bố trí thời gian khoa học và điều hành công việc
khoa học để nâng cao hiệu quả công việc, nhiệm vụ của nhà trường một cách kịp
thời và đạt kết quả cao.
- Từ việc áp dụng các biện pháp đã giúp giáo viên nâng cao kiến thức bảo vệ
môi trường không chỉ dừng lại qua các nguồn thông tin từ tài liệu, truyền hình,
mà đã hình thành cho giáo viên nhiều kỹ năng, ứng dụng, biết lồng ghép trong
các hoạt động hàng ngày của trẻ một cách khoa học và thuần thục. Có ý thức
làm gương trước trẻ, kiên trì rèn luyện nề nếp, thói quen tốt cho trẻ trong việc
bảo vệ môi trường, đã giáo dục cho trẻ biết yêu quý, gần gũi với môi trường,
hình thành cho giáo viên có kỹ năng trong trong công tác tuyên truyền về giáo
dục bảo vệ môi trường trong nhà trường, cha mẹ trẻ và cộng đồng.
- Thông qua các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường đã hình thành cho trẻ kỹ
năng thói quen tốt như: sắp xếp đồ dùng, đồ chơi ngăn nắp gọn gàng, biết bỏ rác
đúng nơi quy định, biết chăm sóc bảo vệ cây cối, vật nuôi...Giúp cho trẻ yêu

quý, gần gũi thiên nhiên, có ý thức tự giác bảo vệ môi trường, có phản ứng với
các hành vi ảnh hưởng xấu đến môi trường như xả rác không đúng nơi quy định,
dẫm đạp lên cỏ cây, hái hoa, khạc nhổ bừa bãi nơi công cộng.
18

0
0
0
0
0


- Thông qua công tác tuyên truyền và phối kết hợp đã lôi cuốn các bậc cha mẹ
trẻ và cộng đồng có hiểu biết cơ bản về môi trường, bảo vệ môi trường, tích cực
tham gia các hoạt động xây dựng môi trường “Xanh- sạch- đẹp, an toàn’’ cho trẻ
ở mọi nơi, làm gương cho trẻ, cùng giáo viên rèn luyện nề nếp tốt cho trẻ, giáo
dục trẻ bảo vệ môi trường...Hy vọng bằng những biện pháp này kết quả giáo dục
bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo trong bậc học mầm non nói chung và trẻ
mẫu giáo trường mầm non Hòa Lộc nói riêng sẽ không dừng lại ở kết quả trên
mà sẽ đạt kết quả cao hơn nữa.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHI
3.1. Kết luận
Bậc học mầm non là nền tảng đầu tiên của ngành giáo dục, việc lồng ghép
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo là yếu tố quan trọng trong
việc hình thành và phát triển toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mỹ. Hình thành nhân
cách con người mới Xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt góp phần tạo nên một thế giới
Xanh - Sạch - Đẹp cho hôm nay và cho ngày mai.
Để làm được điều đó là những người làm giáo dục, ngay từ bây giờ chúng
ta phải giúp trẻ có những kiến thức và kỹ năng thực hành bảo vệ môi trường phù
hợp với từng độ tuổi, với khả năng của trẻ, điều quan trọng giáo viên phải luôn

gương mẫu cho trẻ làm theo, luôn có ý thức hướng dẫn trẻ một cách thân thiện,
ân cần, kiên trì, không được bỏ qua giai đoạn. Trên cơ sở đó giáo dục trẻ biết
yêu quý, gần gũi môi trường và đánh giá các hành vi tốt, xấu của con người
trong việc chăm sóc bảo vệ môi trường.
Đặc biệt qua giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ còn để nhắc nhở người
lớn và đánh thức ở họ biết bảo vệ môi trường sống cho trẻ em cũng như bảo vệ
cho một môi trường sống an toàn, sạch sẽ, lành mạnh và phong phú. Vì vậy giáo
dục bảo vệ môi trường cho trẻ là vấn đề quan trọng và vô cùng cần thiết. Đòi hỏi
người cán bộ quản lý phải có sự năng động, sáng tạo, có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức lối sống, chủ động trong công tác chỉ đạo
chuyên môn, chất lượng giáo dục trong nhà trường, biết xây dựng kế hoạch và
chỉ đạo tốt việc thực hiện các chuyên đề, xây dựng kế hoạch một cách khoa học
và chỉ đạo thực hiện lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo.
Coi trọng việc phân công giáo viên đứng lớp, căn cứ vào quy định và yêu cầu
của từng công việc cụ thể, năng lực của từng người, kết hợp tối đa năng lực và
nguyện vọng của giáo viên để phân công công việc phù hợp. Coi trọng việc bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên. Bởi giáo viên là lực lượng
trực tiếp tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ trong trường mầm non.
Hơn ai hết đội ngũ cán bộ giáo viên phải là người nắm vững chuyên môn để
thực hiện nhiệm vụ được giao. Tham mưu tích cực với các cấp lãnh đạo để mua
sắm, bổ sung xây dựng hệ thống sử lý rác thải, chất thải trong nhà trường đặc
biệt là các thùng chứa rác để ở vị trí phù hợp tiện sử dụng cho phụ huynh và trẻ
trong việc bảo vệ môi trường. Chỉ đạo thực hiện đúng chương trình, chế độ sinh
hoạt theo quy định từng độ tuổi phù hợp với chủ đề và thời điểm. Thường xuyên
làm tốt công tác kiểm tra nội bộ trường học, bởi qua kiểm tra để thu thập thông
tin, điều chỉnh mọi hoạt động của giáo viên nhằm thiết lập các tiêu chuẩn đo
lường kết quả, phân tích, điều chỉnh những sai lệch, đồng thời động viên,
19



khuyến khích những việc làm đúng, phát hiện những giáo viên làm tốt, giáo viên
làm chưa tốt để đánh giá một cách chính xác. Với bất kỳ hình thức kiểm tra nào
cũng cần đánh giá đúng mức, thưởng, phạt công khai, công minh để tìm ra các
giải pháp mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
trẻ mẫu giáo trong nhà trường. Không ngừng quan tâm, động viên, biểu dương
khích lệ cô và trò.
3.2. Kiến nghị
* Đối với Phòng giáo dục và Đào tạo.
Mở các lớp tập huấn, chuyên đề cho giáo viên rèn luyện thêm các kỹ năng
về giáo dục bảo vệ môi trường. Đầu tư thêm kinh phí cho bậc học mầm non và
hỗ trợ thêm các trang thiết bị có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường như: Máy
chiếu, Đĩa DVD, tập san...Về nạn phá rừng, sóng thần, rác thải, khí thải, khói
bụi...Để sử dụng cho việc giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ.
* Đối với địa phương
Thường xuyên tuyên truyền trên các thông tin đại chúng tới toàn thể các
tổ chức chính trị và nhân dân trong xã công tác Bảo vệ môi trường, đôn đốc
công ty môi trường thu gom giác thải kịp thời trên địa bàn toàn xã nói chung và
tại cơ sở giáo dục mầm non nói riêng.
* Đối với nhà trường.
Có nhiều biện phát để cải tạo đất vườn trường, tăng cường trồng nhiều
cây xanh đặc biệt là cay bóng mát, các loại cây rau xanh. Có kế hoach kịp thời
đầu tư và nâng cấp, thay thế các hệ thống cống rãnh thoát nước, nguồn nước thải
nhà vệ sinh và thùng đựng rác...
* Đối với giáo viên.
Giáo viên phải có trách nhiệm và xem công tác tuyên truyền và phối kết
hợp cùng các bậc phụ huynh cũng như nhân dân có ý thức bảo vệ môi trường là
nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên. Kiến thức, kỹ năng, năng lực của giáo
viên là tiền đề cơ bản, giáo dục cho trẻ có hiệu quả thực sự.
Trên đây là những biện pháp mà thực tế tôi đã thực hiện và thành công.
Nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót nên rất mong sự đóng góp ý kiến

của Hội đồng khoa học, các bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi hoàn thiện và
đạt kết quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HĐKH
NGÀNH

Hòa Lộc, Ngày 15 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép nội dung của người khác
Người viết sáng kiến

Đõ Thị Hà

Trần Thị Mai
20



×