Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2d trường TH cẩm phú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.94 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT CẨM THỦY

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 2D TRƯỜNG TIỂU HỌC
CẨM PHÚ-CẨM THỦY – THANH HÓA.

Người thực hiện: Vũ Thị Hồng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Cẩm Phú.
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2019


MỤC LỤC

TRANG


A. PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài :

1


2. Mục đích nghiên cứu:.............................................................................

2

3. Đối tượng nghiên cứu:............................................................................

2

4 . Phương pháp nghiên cứu.: .....................................................................

2

B. PHẦN NỘI DUNG

2

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.………………………………………......................

2

II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY- HỌC TẬP ĐỌC ………………....

3

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP

4

1. GV phải nắm vững nội dung và mục
tiêu dạy học ………………….


5

4

2. Tăng cường sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực...........................

13

2.1 Kỹ thuật Đọc tích cực...................................................................

14

2.2 Kỹ thuật Viết tích cực...................................................................

14

2.3 Kỹ thuật trình bày một phút..................................................................

15

2.4 Kỹ thuật KWL................................................................................

15

3.Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động đọc tại thư viện...........

18

IV. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:…………………………………


18

C. PHẦN KẾT LUẬN:……………………………………………………

19

1.Kết luận:.............................................................................................

19

2. Kiến nghị...........................................................................................

20


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ XXI, điều kiện kinh tế xã hội nước ta có những thay đổi
to lớn. Đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế sâu rộng. Cơ cấu kinh tế, trình độ phát triển sản xuất, khoa học kĩ thuật,
nhu cầu xã hội, thu nhập quốc dân....có những bước phát triển quan trọng, chúng
ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới. Vị thế của Việt
Nam trên trường thế giới ngày càng được nâng cao. Vấn đề hội nhập, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vấn đề kinh tế tri thức, công nghệ thông tin,
xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa trong kinh tế đang thường xuyên đặt ra và
ngày càng cấp bách. Những thay đổi đó trong kinh tế xã hội, trong giáo dục đã
dẫn tới những yêu cầu mới trong dạy tiếng nói chung, tiếng mẹ đẻ nói riêng (tài
liệu BDTX cho GV Tiểu học - chu kì III - 2003 - 2007)
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học được dạy và học thông qua nhiều phân

môn. Trong đó phân môn tập đọc là một trong những phân môn có giá trị đặc
biệt quan trọng nó góp phần rèn luyện các hiểu biết, kỹ năng vận dụng Tiếng
Việt và từng bước hoàn thiện cả bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
Mục tiêu của dạy học tập đọc là dạy cho học sinh có 4 kĩ năng: đọc đúng, đọc
nhanh, đọc có ý thức và đọc diễn cảm được thể hiện bằng hình thức đọc to thành
tiếng và đọc thầm bằng mắt. Thông qua việc đọc để giúp cho học sinh có vốn
kiến thức ngôn ngữ, tư duy, đời sống và kiến thức văn học phong phú từ đó phát
triển ngôn ngữ tư duy cho học sinh. Thông qua đó giáo dục tư tưởng, tình cảm,
thẩm mĩ cho học sinh.
Ngoài ra nó còn cung cấp cho các em một số kiến thức về kĩ năng đọc cơ
bản, cần thiết thông qua một hệ thống câu hỏi sau bài đọc. Từ đó học sinh hiểu
và sử dụng trong khi nói và viết một cách thành thạo, chính xác. Đồng thời góp
phần rèn luyện tư duy và giáo dục thẫm mĩ cho học sinh.
Sau nhiều năm giảng dạy ở trường Tiểu học Cẩm Phú tôi nhận thấy việc
dạy kĩ năng đọc đã có nhiều thành công song cũng còn một số hạn chế nhất
định. Vẫn còn học sinh chưa biết đọc từ ngữ chính xác, chưa nhanh, cách diễn
đạt còn ấp úng, cách giao tiếp còn rụt rè, ...Vậy làm thế nào để các em thích học
tập đọc. Làm thế nào để các em có vốn kĩ năng đọc tốt? Làm thế nào để các em
có kĩ năng chắt lọc giọng đọc đúng, đọc hay, phù hợp với hoàn cảnh và tự tin
trong giao tiếp ? Đó là điều mà tôi luôn trăn trở. Bản thân là một giáo viên trực
tiếp giảng dạy, tôi thấy mình cần phải nỗ lực trau dồi kiến thức, nghiên cứu tìm
ra phương pháp dạy đạt hiệu quả để giúp các em lĩnh hội tốt kiến thức phân môn
Tập đọc, tạo cho các em có kĩ đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm, sử
dụng lời nói chính xác. Đồng thời rèn luyện ý thức yêu quý Tiếng Việt, giữ gìn
sự trong sáng của Tiếng Việt. Xuất phát từ những lí đo trên, trong quá trình
giảng dạy, tôi đã nghiên cứu để tìm ra cách rèn kĩ năng đọc đạt hiệu quả nhất.
Đặc biệt là phần môn rèn kĩ năng đọc. Vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số
4



biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2D Trường Tiểu học Cẩm PhúCẩm Thủy – Thanh Hóa ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này sẽ giúp chúng ta tìm ra được giải pháp tốt để thực hiện nâng
cao chất lượng dạy học Tiếng Việt nói chung và học sinh lớp 2D nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc trong môn Tập đọc. Đối tượng cụ thể là
học sinh lớp 2D – Trường Tiểu học Cẩm Phú, Cẩm Thủy, Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này những phương pháp bản thân sẽ sử dụng đó là:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nhằm nắm vững mục tiêu yêu cầu về
kiến thức kĩ năng cần đạt phân môn Tập đọc.
- Phương pháp điều tra thực tế, thu thập thông tin: Nhằm có được thông
tin cơ bản nhất về chất lượng học Tập đọc của học sinh lớp 2D.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Tính và phân tích số liệu thu được.
- Phương pháp quan sát: Giúp học sinh nắm được những thông tin cần
thiết để học tốt phân môn Tập đọc.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Một trong những vấn đề quan trọng trong dạy rèn kĩ năng đọc là đổi mới
phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó giáo
viên đóng vai trò là người tổ chức hoạt động, mỗi học sinh đều được hoạt động,
đều được bộc lộ mình và được phát triển. Bởi vậy việc dạy đọc ở bậc tiểu học có
nhiệm vụ vô cùng quan trọng giúp học sinh phong phú hoá, tích cực hoá kĩ năng
đọc. Nghĩa là học sinh không những được mở rộng cách đọc mà còn hiểu nội
dung bài một cách chính xác. Đồng thời giúp học sinh nắm được cách đọc. Bên
cạnh đó giúp học sinh rèn kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm
nhằm phát triển kỹ năng, kỹ xảo trong việc đọc.
Khi dạy các bài tập đọc, các bài tập tìm hiểu đề thì dạy kĩ năng đọc là dạy
thực hành trên quan điểm giao tiếp, dạy từ trên bình diện phát triển lời nói. Đó
chính là làm giàu âm độ, cường độ đọc cho học sinh, giúp học sinh mở rộng phát

triển cường độ, âm độ lên cao. Nắm chắc kĩ năng đọc. Từ đó giúp học sinh đọc
đúng chuẩn tiếng phổ thông, phù hợp với mục đích và môi trường giao tiếp đồng
thời góp phần rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh. Thực tế cho
thấy các em còn lúng túng khi đọc các từ hay nói thông thạo khi ở nhà (Từ địa
phương). Mặt khác kĩ năng đọc của các em còn hạn chế và nhiều lúc chưa hợp
lí cả về tốc độ, cường độ, âm độ. Chính vì vậy, khi dạy Tập đọc cho học sinh tôi
luôn có sự suy nghĩ tìm ra hướng đi cho bài giảng của mình đạt hiệu quả cao
5


nhất để học sinh nhớ lâu cách thức đọc, kĩ năng đọc của các em được phát triển
thêm, các em biết vận dụng từ một cách phù hợp và giúp học sinh hiểu và cảm
nhận được những bài thơ, bài văn hay, làm được các bài tập của các môn học
được tốt...
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY- HỌC TẬP ĐỌC
Năm học 2018-2019, tôi được phân công giảng dạy lớp 2D, qua một số
tiết dạy của phân môn đọc tôi nhận thấy khả năng trả lời các câu hỏi các em còn
yếu. Để có các giải pháp tốt cho vấn đề này tôi tiến hành khảo sát thực tế để có
đánh giá đúng về thực trạng dạy và học của phân môn Tập đọc. Kết quả của lớp
như sau:

Số HS
Lớp
lớp

2D

24

HTT


HT

CHT

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

3

12,5

15

62,5

6

25

Từ kết quả trên tôi nhận thấy kĩ năng đọc của các em còn hạn chế, hiểu

biết thực tế còn ít. Do vậy chất lượng đọc của các em chưa cao. Tôi đã chọn để
thực hiện sáng kiến của mình.
Mặt khác qua dự giờ thăm lớp, tìm hiểu tài liệu, trao đổi trực tiếp với giáo
viên và học sinh khối 2 tại trường Tiểu học Cẩm Phú. Tôi nhận thấy một số vấn
đề sau:
*Về phía nhà trường:
Luôn trang bị, cập nhật cho giáo viên những phương pháp dạy học mới,
tích cực nhằm dạy học đạt hiệu quả. Đồng thời dưới sự chỉ đạo chuyên môn của
Sở, Phòng Giáo Dục, trường, tổ chuyên môn có vai trò tích cực, giúp giáo viên
đi đúng nội dung, chương trình, quy trình dạy phân môn Tập đọc qua các buổi
sinh hoạt chuyên môn.
Về giáo viên:
Đa số các đồng chí giáo viên trong trường đều có trình độ đạt chuẩn hoặc
trên chuẩn nên trong quá trình dạy học các đồng chí đã truyền thụ đầy đủ, chính
xác kiến thức và nắm chắc các nội dung cơ bản của tiết dạy. Giáo viên nghiên
cứu và chuẩn bị bài soạn khá chu đáo trước khi đến lớp. Phối hợp phương pháp
và hình thức dạy học theo từng nội dung kiến thức linh hoạt, phù hợp với lớp.
Trong quá trình lên lớp dạy các tiết Tập đọc lớp 2, giáo viên đã có nhiều
cố gắng nghiên cứu tài liệu, tham khảo sách giáo viên, thiết kế… để nắm kiến

6


thức trọng tâm, lập kế hoạch bài dạy và các hoạt động dạy học cụ thể để vận
dụng cho tiết dạy đạt kết quả cao.
Về học sinh:
Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học nói chung và của học sinh khối
2 nói riêng còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực quan nên kiến thức về
kĩ năng đọc trong cuộc sống thực tế của học sinh còn ít, và các em chủ yếu là
con em dân tộc Mường nên ở nhà các em đa số giao tiếp bằng tiếng Mường đến

lớp các em lại phải đọc tiếng phổ thông nên cũng ảnh hưởng đến việc tiếp thu
bài học. Hơn nữa đa số các em đều là gia đình thuần nông, nhiều em bố mẹ đi
làm ăn xa phải ở với ông bà, không được sự quan tâm, giúp đỡ hợp lí trong quá
trình học ở nhà, nên cũng ảnh hưởng một phần trong quá trình tiếp thu kiến thức
của học sinh.
Về môn Tập đọc:
Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng có nội dung
phong phú, sách giáo khoa được trình bày khoa học, phù hợp với tâm lý lứa tuổi
các em. Đặc biệt là ở lớp 2 các em phần nào cũng đã nắm vững kiến thức, kỹ
năng của phân môn Tập đọc như kỹ năng đọc đúng, đọc nhanh. Đây là cơ sở
giúp các em học tốt phân môn Tập đọc ở lớp 2 đạt kết quả cao. Tuy nhiên đọc
hiểu là môn học khó, đòi hỏi các em phải có sự tư duy trong việc giải quyết các
câu hỏi của bài Tập đọc, nên đôi khi các em ngại đọc, hơn nữa do đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực
hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
Từ thực trạng trên tôi đã nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp rèn kĩ
năng đọc cho học sinh lớp 2D trong phân môn Tập đọc.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
1. Giáo viên phải nắm vững nội dung và mục tiêu dạy học của phân
môn Tập đọc lớp 2 để thiết kế các hoạt động dạy học phù hợp với năng lực
chung của cả lớp và năng lực của từng học sinh.
Cũng như các môn học khác, khi dạy học phân môn tập đọc giáo viên
phải nắm vững nội dung và mục tiêu môn học. Vì khi đã nắm vững nội dung và
mục tiêu môn học, giáo viên sẽ dễ dàng thiết kế các hoạt động dạy học phù hợp
giúp học sinh nắm kiến thức một cách vững chắc. Để giải quyết được vấn đề
này, tôi đã tìm hiểu chương trình sách Tiếng Việt lớp 2. Tôi thấy các dạng bài
Tập đọc là cơ sở để hình thành kiến thức rèn kĩ năng đọc cho các em. Nhưng
trên thực tế, kiến thức về đọc hình thành kỹ năng, kỹ xảo luôn có sự liên quan
chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau.
Ở lớp 2 mục tiêu của môn Tiếng Việt được cụ thể hóa thành những yêu

cầu về kiến thức và kĩ năng đối với học sinh như sau:

7


- Đọc đúng và trôi chảy một đoạn văn, đoạn đối thoại hoặc một bài văn
ngắn, bước đầu biết đọc thầm.
- Hiểu được ý chính của đoạn.
- Biết dùng mục lục sách giáo khoa khi đọc.
- Thuộc lòng một số bài văn vần trong sách giáo khoa.
Phân môn Tập đọc là rèn cho học sinh các kĩ năng đọc ( đọc thành tiếng,
đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó thông qua hệ thống
bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi, những câu hỏi khai thác nội dung bài
đọc, phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên,
xã hội và con người, cung cấp vốn từ, vốn diễn đạt, những hiểu biết về tác phẩm
văn học. Từ đó góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn
của giáo viên - Trao đổi, nhận xét về kết quả, rút ra kiến thức cần đạt.
Để học sinh nắm được nội dung bài và vận dụng vào để đọc các yêu cầu
của các môn học cũng như vận dụng trong cuộc sống cần vận dụng linh hoạt
nhiều hình thức dạy học, giúp học sinh được luyện tập thực hành nhiều, mạnh
dạn tự tin trong giao tiếp, tạo giờ học sinh động hấp dẫn gây hứng thú học tập
cho học sinh. Để giải quyết tốt vấn đề trên tôi đã thực hiện như sau:
1.1. Đọc đúng và trôi chảy một đoạn văn, đoạn đối thoại hoặc một
bài văn ngắn, bước đầu biết đọc thầm.
Ngay từ tuần 1 với tiết Tập đọc: “Có công mài sắt có ngày nên kim” Tuần
1 (Trang 4).
Với yêu cầu bài này ở lớp 2: Rèn kĩ năng đọc thành tiếng: Đọc đúng, rõ
ràng toàn bài, biết nghỉ hơi sau các dấu chấm, dấu phẩy, giữa các cụm từ.
Rèn kĩ năng đọc- hiểu: Hiểu lời khuyên từ câu chuyện: Làm việc gì cũng
phải kiên trì, nhẩn nại mới thành công và trả lời được các câu hỏi trong bài đọc.

Với yêu cầu này ở lớp 2 các em cũng đã được đọc nhưng sau khi hoàn
thành nội dung bài này nhiều em vẫn đọc sai lỗi chính tả như: Em Thiện,
Nguyễn Bá Trường: Từ đọc sai: nguệch ngoạc, quyển, vài dòng,...
Nguệch ngoạc em đọc thành “ngệch ngạc”, vài dòng em đọc thành ‘‘ vài
dồng”. Tôi đã yêu cầu các em đọc đúng theo giọng đọc mẫu của giáo viên. Phân
tích cấu tạo của tiếng, từ: “Nguệch gồm âm ng- vần uêch – thanh nặng khác với
tiếng ngệch gồm âm đầu ng – vần êch – thanh nặng, uêch khác êch. Ngoạc gồm:
âm đầu: ng – vần oac – thanh nặng khác với ngạc gồm âm đầu ng- vần ac –
thanh nặng. Vần oac khác ac.
Tôi rất băn khoăn với kết quả này và tôi trăn trở nghiên cứu SGK Tiếng
Việt lớp 2 và nhận thấy: Với dạng bài này xuyên suốt 15 chủ điểm của chương
trình học lớp 2 đều có.Vì vậy khi hướng dẫn học sinh đọc, trả lời câu hỏi tôi
nhắc học sinh chú ý đến cách đọc mẫu của giáo viên và hiểu nội dung của bài
Tập đọc yêu cầu theo chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 2. Nhưng trong thực tế do các
8


em đọc còn ít, sự nhận thức về từ trong lớp cũng có sự khác biệt và có phần hạn
chế. Vì vậy sự hướng dẫn, gợi ý để các em vận dụng đọc để trả lời câu hỏi bài
đọc quan trọng. Dựa vào các gợi ý mẫu để định hướng cho học sinh trong trả lời
câu hỏi, đồng thời giúp cho các em hiểu rõ hơn yêu cầu bài Tập đọc và sau khi
áp dụng cách dạy này tôi quyết định cho học sinh thực hiện lại bài Tập đọc đó
vào tiết luyện buổi chiều, kết quả không còn em đọc sai, các em đã đọc đúng từ,
câu, đoạn văn.
Với những em đọc sai: nguệch ngoạc, mải miết, ôn tồn,….Tôi đã sửa lại
như sau: Trước hết tôi yêu cầu học sinh đọc kỹ từng tiếng: Cấu tạo các con chữ
trong tiếng.
Kết quả áp dụng cách dạy trên đa số các em đã trả lời theo yêu cầu của
bài và còn tìm được rất nhiều từ khó.
1.2. Hiểu được ý chính của đoạn.

Theo nội dung dạy học của phân môn Tập đọc lớp 2, loại bài Tập đọc này
chiếm tỉ lệ không nhiều và có cấu tạo đơn giản. Nội dung xây dựng loại bài này
đã có thứ tự các số trước mỗi đoạn , học sinh dễ nhận biết thứ tự các đoạn trong
bài thông qua việc sắp xếp thứ tự các đoạn cho trước để học sinh có thể đọc
theo nhóm từng đoạn trong bài. Dạng bài tập này phù hợp với trình độ của HS
giai đoạn bậc Tiểu học. Ngoài tác dụng giúp HS nắm được ý chính của mỗi đoạn
thông qua các câu hỏi ở cuối bài. Mỗi đoạn là những câu hỏi gợi mở để các em
trả lời. Hiểu được ý chính mỗi đoạn.
Ví dụ 1: Bài: Mẫu giấy vụn - Tuần 6 - SGK - trang 48.
Đoạn 1: câu hỏi tìm hiểu: Mẫu giấy vụn nằm ở đâu? Có dễ thấy không?
( Mẫu giấy vụn nằm ngay giữa lối ra vào, rất dễ thấy).
Để giúp học sinh trả lời được câu hỏi 1, tôi đã cho học sinh đọc thầm Đoạn 1 thảo
luận nhóm đôi sẽ trả lời được câu hỏi 1.

Học sinh học nhóm đôi
9


Điển hình: Trong câu hỏi 2: Cô giáo yêu cầu cả lớp làm gì?
Khi hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi này. Tôi cho HS quan sát bức
tranh minh hoạ có hình ảnh tương thích với câu hỏi.
Sau khi HS quan sát tranh, đọc thầm đoạn 2 xong các em có thể nêu ngay
được câu trả lời đó là ( Cô giáo yêu cầu cả lớp lắng nghe và cho cô biết mẫu
giấy đang nói gì?). Câu trả lời này cũng là ý cần tìm trong đoạn 2.
Hoặc tôi cho cả lớp cùng tham gia đọc đoạn 4 giải quyết câu hỏi 3 trong
thời gian ngắn nhưng lại hiệu quả. Bạn gái nghe thấy mẫu giấy nói gì?(Sau khi
đọc thầm đoạn 4, quan sát tranh bạn gái đang cầm mẫu giấy bỏ vào thùng rác)
học sinh đã trả lời được: Bạn gái nghe thấy mẫu giấy nói: ‘‘Các bạn ơi hãy bỏ tôi
vào sọt rác!”.
Tương tự với các bài tập đọc khác tôi đều đưa ra cách này thì học sinh đã

trả lời được câu hỏi, học sinh hoàn thành bài nhanh, cuốn hút nhiều học sinh
tham gia trả lời yêu cầu của câu hỏi.
Một kiểu nữa của dạng bài tập đọc để hiểu ý của đoạn. Tôi đã cho các em
thảo luận nhóm, các câu hỏi mỗi nhóm một tờ phiếu, các nhóm thảo luận lần
lượt ghi câu trả lời.
Ở cách này giáo viên phải chú ý đến số lượng học sinh của mỗi nhóm sao
cho đều nhau và chia các nhóm sao cho phù hợp: năng lực của mỗi nhóm đều
phải có học sinh hoàn thành tốt và học sinh hoàn thành, chưa hoàn thành để tạo
động cơ thi đua giữa các nhóm.
Ngoài cách dạy trên tôi còn tổ chức cho học sinh chơi trò chơi tiếp sức,
trò chơi có tên gọi: Đọc đúng, đọc nhanh chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm
mang một cái tên và cử đại diện 5 bạn cho mỗi nhóm.
Cách chơi: Mỗi nhóm sẽ được phát một phiếu có ghi yêu cầu trả lời một
câu hỏi, bạn chơi được lần lượt trả lời câu hỏi của nhóm mình tìm được vào
phiếu (mỗi bạn 1 phút), hết thời gian một phút bạn nào tìm được hay chưa tìm
được câu trả lời ngắn gọn để ghi vào phiếu cũng về chỗ để bạn khác lên. Và cứ
như thế cho đến hết 5 bạn chơi của mỗi nhóm. Sau khi chơi xong tôi tổ chức cho
học sinh kiểm tra chéo giữa các nhóm. Nhóm thắng cuộc là nhóm tìm được câu
trả lời chính xác và đọc đúng, nhanh thì nhóm đó thắng cuộc.
Nhóm1

Mẫu giấy vụn nằm ở
đâu?

Mẫu giấy vụn nằm ngay giữa lối ra vào.

Nhóm 2

Cô giáo yêu cầu cả lớp
làm gì?


Cô giáo yêu cầu cả lớp lắng nghe và cho
cô biết mẫu giấy đang nói gì?

10


Nhóm 3

Bạn gái nghe thấy
mẫu giấy nói gì?

Các bạn ơi hãy bỏ tôi vào sọt rác!

Nhóm 4

Ý cô giáo muốn nhắc Phải luôn có ý thức vệ sinh trường lớp
nhỡ học sinh điều gì? sạch, đẹp.

Đồng thời để nâng cao mức độ hiểu và nâng cao kĩ năng đọc hiểu bằng
cách yêu cầu học sinh đọc đúng phương pháp, rõ ràng tốc độ, ngữ điệu, diễn
cảm, đọc theo vai.
Ngoài trò chơi trả lời câu hỏi tôi còn cho các em chơi trò chơi thi đọc
phân vai giữa các nhóm.
Giáo viên nêu tên trò chơi: Thi đọc phân vai, trong thời gian 5 phút nhóm
thắng cuộc sẽ là nhóm nhập vai tốt.
Ví dụ 2: Bài Tập đọc - Tuần 7: Người thầy cũ – trang 56.
Phần hoạt động Luyện đọc lại - cuối bài.
Hỏi: Bài tập đọc có mấy nhân vật( 1 người dẫn truyện và 3 nhân vật: Thầy
giáo, bố Dũng và Dũng)

Tôi đã lí giải với các em rằng: Với mỗi nhân vật chúng ta thể hiện giọng
đọc, sắc thái, tình cảm khác nhau.
Người dẫn truyện: Nhanh nhẹn, hấp dẫn.
Nhân vật Thầy giáo giọng đọc trang nghiêm, đầm ấm, diễn cảm.
Nhân vật bố Dũng: giọng từ tốn, ôn tồn, lễ phép.
Nhân vật Dũng: Thể hiện cử chỉ điệu bộ thán phục ngước nhìn thầy giáo và
bố. Cho 3 nhóm lần lượt lên thực hiện đọc phân vai, học sinh đã hăng hái thi đọc và
rất có hiệu quả cao trong đó có 6 em tôi đang thực nghiệm. Các em đã nhập được
vai rất phù hợp.
Qua kết quả trên chứng tỏ các em đã nắm bắt được cách đọc và vận dụng
tốt vào vai của từng nhân vật.
Cách dạy trên học sinh rất thích học, giờ học sôi nổi, trong một thời gian
ngắn học sinh có thể hoàn thành bài Tập đọc nhanh hơn và học sinh ghi nhớ
nhanh hơn củng cố được kĩ năng đọc cho học sinh. Nhất là 6 em: Anh, Thiện,
Tuấn, Nam, Ái, Quỳnh.
1.3. Biết dùng mục lục sách giáo khoa khi đọc.
Để dạy cho học sinh kĩ năng này, trong quá trình dạy tôi đã nắm vững các
mục lục, đồng thời là căn cứ vào mục lục sách để học sinh có thể tìm nhanh

11


được bài tập đọc là ở tuần nào? Chủ điểm nào? Phân môn nào? Nội dung tên bài
là gì? Trang bao nhiêu?
Ví dụ 1: Bài Tập đọc: Mục lục sách - Phân môn Tập đọc- Tiếng Việt
3 - Tuần 5 - Trang 43 - về chủ điểm: Trường học dạy ngày 03 /10 / 2018.
Đây là dạng bài Tập đọc để học sinh đọc tốt được dạng bài này, ngoài
việc giúp học sinh nắm được các tiêu chí, yêu cầu của bài, tôi đã giúp các em
hoàn thành bằng cách chuẩn bị sẵn bảng phụ ghi bài tập đọc.
Đọc mẫu: Giáo viên đọc phải có kỹ năng “ đọc” thành thục.

Đọc tên bài- số thứ tự - tác giả- tác phẩm - trang. Yêu cầu học sinh chỉ tay
Theo khi giáo viên đọc mẫu. Và dưới đây là hình ảnh học sinh đang theo dõi
theo giáo viên đọc.

HS tích cực theo dõi giáo viên đọc trong giờ tập đọc
Như ta đã biết chất lượng đọc của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố
trong đó vai trò hướng dẫn của giáo viên rất quan trọng. Kỹ năng đọc là mục
đích cuối cùng chúng ta muốn có ở học sinh sau mỗi giờ học. Giáo viên phải tạo
được cho mình kỹ năng đọc thành thục. Giáo viên phải biết cách xác định từ,
câu quan trọng đến việc hiểu được nghĩa, ý, tình của văn bản. Giáo viên không
thể hình thành ở học sinh kỹ năng gì mà bản thân mình không có, không thể gặt
hái được những gì mà ta không có khả năng gieo trồng. Vì vậy, trong dạy học
chúng ta không có quyền đòi hỏi học sinh làm những gì mà bản thân mình chưa
làm được. Giáo viên không thể luyện cho học sinh đọc hay đọc diễn cảm mà bản
thân mình chưa xác định được bài văn cần đọc với giọng điệu như thế nào. Khi
dạy học không có hiệu quả, nhiều giáo viên đổ lỗi cho phương pháp mà không
biết rằng “Phương pháp chỉ là hình thức của sự tự vận động bên trong của chính
nội dung”. Một trong các phương pháp dạy học quan trọng nhất ở Tiểu học là
phương pháp luyện theo mẫu. Vì vậy, không biết làm mẫu thì không thể tiến
12


hành giờ dạy. Do đó, khi soạn bài, giáo viên phải xác định được những kỹ năng
đọc cần có và luyện tập cho mình thành thục những kỹ năng này. Khi soạn bài,
giáo viên phải tự làm trước những gì mà học sinh phải làm trên lớp: Đọc thành
tiếng, giải nghĩa từ, trả lời những câu hỏi về nội dung bài.
- Giáo viên có sự hiểu biết về chương trình SGK và các tài liệu dạy học.
- Giáo viên phải tìm hiểu vốn “đọc” của học sinh, đặc điểm, trình độ của
học sinh. Việc tìm hiểu học sinh là một quá trình lâu dài đã được tiến hành trước
đó. Để tiến hành dạy học tập đọc, chúng ta phải hiểu rõ học sinh của mình, đặc

điểm, trình độ của học sinh, các em đã có những kiến thức kỹ năng đọc gì, cụ
thể chúng ta phải biết rõ học sinh của mình có hứng thú với những bài tập đọc
nào, phát âm có gì sai chuẩn, khó phát âm, những từ ngữ nào, câu nào trong bài
khó đọc đúng, đọc hay. Để luyện đọc hiểu, chúng ta cần nắm được học sinh của
mình chưa hiểu, khó hiểu những từ ngữ nào, nội dung nào trong bài… Sự hiểu
biết này sẽ giúp chúng ta xác định tính vừa sức, tính mức độ của nội dung và kỹ
năng dạy đọc. Chẳng hạn, những lỗi phát âm lệch chuẩn của học sinh giúp giáo
viên xác định được những từ ngữ trong bài cần luyện đọc đúng chính âm.
Đọc thành tiếng: Giáo viên hướng dẫn học sinh khi đọc: cần ngồi ngay
ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 25-30cm, cổ và đầu
thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp khi được cô giáo gọi đọc,
học sinh phải bình tĩnh, tự tin không hấp tấp đọc ngay. Trước khi nói về việc rèn
đọc đúng cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc, tức là rèn đọc to. Trong
hoạt động giao tiếp, khi đọc thành tiếng người đọc một lúc đóng hai vai: Vì vậy
khi đọc thành tiếng người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc
cho cả hai. Đọc cùng với phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám
đông đầu tiên của trẻ em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo
sự thành công, tạo cho các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng các em
phải tính đến người nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc không
phải chỉ để cho mình cô giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ
lớn cho tất cả những người này nghe rõ. Nhưng như thế hoàn toàn không có
nghĩa là đọc quá to hoặc gào lên. Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ “lý nhí”
giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe
thấy mới thôi. Giáo viên nên cho học sinh đứng lên bảng để đối diện với những
người nghe tư thế đứng đọc phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái, 2 vai phải được
mở rộng và cân bằng hai tay.
Luyện đọc đúng: Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần,
tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng
chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch
chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm thanh, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.

- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị
Tiếng Việt. + Đọc đúng các phụ âm đầu s/x, tr/ch

13


+ Đọc đúng các chính âm: Có ý thức phân biệt để không đọc “quả cọ”
thành “quả quạ” “ trò” thành “chò”.
+ Đọc đúng các âm cuối + Đọc đúng các thanh có các lỗi phát âm địa
phương như lẫn thanh (~) và thanh hỏi (?) VD: Không đọc Quang Dũng thành
Quang Dủng.
+ Đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt hơi, ngữ điệu câu, cần phải
dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng.
Khi đọc không được tách một từ làm hai. VD: Không đọc: như con cò, vàng
trong cổ tích. Mà phải đọc hết câu: như con cò vàng trong cổ tích.
+ Không tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm: Ví dụ không đọc:
- “Quyển/ sách gồm nhiều bài hoặc truyện, thơ…”
+ Không tách quan hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
- Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: Ngắt hơi khi gặp dấu phẩy,
nghỉ hơi khi gặp dấu chấm (với dấu chấm nghỉ hơi 1 quãng bằng khoảng thời
gian đọc 1 chữ, ngắt hơi ở dấu phẩy bằng nửa quãng nghỉ hơi sau dấu chấm).
Đọc đúng các ngữ điệu câu: Lên giọng ở cuối câu hỏi, xuống giọng ở cuối câu
kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm, với câu cầu
khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung cầu khiến khác nhau.
Ngoài ra còn phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu… Như vậy đọc
đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
- Trình tự luyện đọc đúng: Tuỳ đối tượng học sinh, giáo viên xác định
các lỗi phát âm mà học sinh địa phương dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ,
cụm từ, câu khó để luyện đọc trước. Chuẩn bị trước khi lên lớp.
- Khi muốn luyện đọc 1 từ nào đó, đầu tiên giáo viên đọc mẫu trước rồi

cho cả lớp đọc đồng thanh, cuối cùng cho các em đọc cá nhân các tiếng, từ khó
này. Với những câu mà giáo viên dự tính sẽ có nhiều em đọc sai phách câu, giáo
viên cũng tiến hành như vậy, cuối cùng mới luyện đọc hoàn chỉnh cả đoạn bài.
Luyện đọc nhanh: Đọc nhanh là việc đọc không ê, a ngắc ngứ, vấn đề
tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi
không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì
người đọc phải xác định tốc độ nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp thời. Vì
vậy đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc
nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói.
+ Biện pháp luyện đọc nhanh: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ
tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để
đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách
giữ nhịp đọc. Ngoài ra còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc thầm có sự
kiểm tra của giáo viên, của bạn. Cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chưa tốt:

14


HS kèm cặp lẫn nhau trong giờ tập đọc
Để điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có tiếng cho trước và dự
tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc độ đọc như thế nào còn phụ thuộc vào
độ khó của bài đọc.
Luyện cho học sinh làm chủ tia mắt khi đọc: Học sinh lớp 2 khi đọc có
em còn bỏ sót tiếng hoặc lạc giọng. Vì các em này chưa làm chủ được tia mắt.
Với những học sinh này giáo viên phải quay lại với việc sử dụng que trỏ hoặc
thước đặt dưới từng dòng kẻ để đọc.
Dạy cho học sinh đọc đúng ngữ điệu, ngắt giọng đúng: Vì các em
không hiểu đúng văn bản được đọc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết
làm chủ những yếu tố này. Khi đọc các bài văn xuôi chỗ ngắt giọng phải trùng
hợp với ranh giới ngữ đoạn. Khi đọc một bài thơ, chỗ ngắt nhịp phải tương ứng

với chỗ kết thúc một tiết đoạn. Vì vậy đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng
nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa là phương tiện giúp học
sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Mỗi bài đọc nhằm chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa, ngữ
pháp chỗ ngắt giọng dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai khi đọc,
cũng là xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài tập đọc cụ thể. Từ đó
dạy đọc đúng, hiểu đúng các bài tập đọc ở Tiểu học.
Rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh: Muốn học sinh có năng lực có kỹ
năng đọc hiểu tốt. Giáo viên phải có định hướng, có kế hoạch sắp xếp thời gian
tìm hiểu bài nhiều hơn, thời gian luyện đọc thành tiếng mà phải coi trọng chất
lượng đọc. - Mỗi giờ lên lớp giáo viên xác định nội dung đọc hiểu cho các em.
Tuỳ theo khả năng nhận thức của từng vùng để dẫn dắt câu hỏi cho học sinh hiểu
nghĩa của từ “ Từ khó” “Câu khó” trong bài, tóm tắt được nội dung của đoạn,
bài, phát hiện ra những yếu tố và giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung.
Có nhiều bài chỉ có thể dạy “đọc nhớ”, khó dạy đọc hiểu, nội dung bài rời rạc
không có chiều sâu, với những bài tập đọc hiện hành ở lớp 2 tôi tạm chia làm 2
nhóm mức độ tương ứng với 2 nhóm dạy đọc hiểu:
15


+ Tiếp nhận văn bản văn chương
+ Hiểu những yếu tố văn chương: Để HS hiểu được các yếu tố văn
chương cũng cần phải có cách lựa chọn phù hợp.
Đọc thầm: Cũng như khi ngồi đọc thành tiếng, tư thế ngồi đọc thầm phải
ngay ngắn khoảng cách giữa mắt và sách 25cm- 30cm.
Kỹ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong, từ đọc tođọc nhỏ - đọc mấp máy môi – đọc hoàn toàn bằng mắt, không mấp máy môi giai
đoạn cuối lại gồm 2 bước: Di chuyển mắt theo que trỏ hoặc ngón tay rồi đến chỉ
có mắt di chuyển. Giáo viên phải tổ chức quá trình chuyển từ ngoài vào trong
này. Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định thời
gian đọc thầm cho từng đoạn và cả bài.
- Hiệu quả của việc đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung

văn bản đọc. Do đó dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức đọc hiểu. Kết quả
của đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài. Tức
là toàn bộ những gì được đọc. Như tâm lí học đã chỉ ra để hiểu và nhớ những gì
được đọc người đọc không phải xem tất cả những chữ đều quan trọng như nhau
mà có thể và cần sàng lọc để giữ lại những từ “chìa khóa” những nhóm từ mang
ý nghĩa cơ bản. Đó là những từ giúp ta hiểu được nội dung của bài. Trong những
bài khoa văn chương đó là những từ dùng “đắt” tạo nên giá trị nghệ thuật của từ
có tín hiệu nghệ thuật. Đó là những từ giàu màu sắc biểu cảm như các từ láy,
những từ đa nghĩa, những từ mang nghĩa bóng có sự chuyển nghĩa văn chương.
Tiếp đó cần hướng dẫn học sinh đến việc phát hiện ra những câu quan trọng của
bài. Những câu nêu ý nghĩa chung của bài.
Thuộc lòng một số bài văn vần trong sách giáo khoa.
Yêu cầu của loại bài Tập đọc này là đọc biết ngắt nhịp rõ từng câu thơ,
hiểu được nội dung của bài, trả lời được các câu hỏi của bài học thuộc lòng. theo
những qui tắc nhất định. Giúp học sinh tích lũy được vốn hiểu biết văn học,
được huy động vào hoạt động giao tiếp và tư duy. Khi dạy dạng bài này đã giúp
học sinh nhận ra cách đọc phù hợp: đọc đúng - đọc nhanh- đọc hiểu- đọc diễn
cảm, nhanh thuộc loại bỏ những ngữ điệu không phù hợp và yêu cầu học sinh
giải thích vì sao có sự lựa chọn cách đọc như vậy.
2. Tăng cường sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực để nâng cao kỹ
năng đọc cho học sinh (Tài liệu phương pháp dạy học tích cực)
Kỹ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo
viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều
khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của
phương pháp dạy học. Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học
có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của học sinh vào
quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học
16



sinh. Trong dạy học nói chung và dạy tập đọc nói riêng việc vận dụng các kỹ
thuật dạy học tích cực là vô cùng quan trọng. Do đó tùy thuộc vào nội dung từng
bài học mà giáo viên lựa chọn các kỹ thuật dạy học sao cho phù hợp.
Để phát huy tối đa việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh, tôi đã dùng các kỹ
thuật dạy học tích cực sau:
2.1. Kỹ thuật Đọc tích cực
Kĩ thuật này nhằm giúp học sinh tăng cường khả năng tự học và giúp
Giáo viên tiết kiệm thời gian đối với những bài học / phần đọc có nhiều nội dung
nhưng không quá khó đối với học sinh. Kỹ thuật được áp dụng với những bài
học được trình bày thành bài đọc tương đối dài.
Cách tiến hành như sau:
- Giáo viên nêu câu hỏi/yêu cầu định hướng học sinh đọc bài/phần đọc.
- Học sinh làm việc cá nhân:
+ Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, học sinh cần đọc lướt qua bài
đọc/phần đọc để tìm ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề, từ/cụm từ quan trọng.
+ Đọc và đoán nội dung: Học sinh đọc bài/phần đọc và biết liên tưởng tới
những gì mình đã biết và đoán nội dung khi đọc những từ hay khái niệm mà các
em phải tìm ra.
+ Tìm ý chính: Học sinh tìm ra ý chính của bài/phần đọc qua việc tập
trung vào các ý quan trọng theo cách hiểu của mình.
+ Tóm tắt bài dựa trên ý chính, đề mục.
+ Học sinh chia sẻ kết quả đọc của mình theo nhóm 2, hoặc 4 và giải thích
cho nhau thắc mắc (nếu có), thống nhất với nhau ý chính của bài/phần đọc.
+ Học sinh nêu câu hỏi để Giáo viên giải đáp (nếu có).
Lưu ý: Một số câu hỏi Giáo viên thường dùng để giúp HS tóm tắt ý
chính:
Em có chú ý gì khi đọc nội dung A ?
Em nghĩ gì về đọc nội dung B ?
Em so sánh A và B như thế nào?
A và B giống và khác nhau như thế nào?

2.2. Kỹ thuật “Viết tích cực”
Kĩ thuật này có thể sử dụng sau tiết học để tóm tắt nội dung đã học,
để học sinh phản hồi cho giáo viên về việc nắm kiến thức của các em và những
chỗ các em còn hiểu sai.
Cách thực hiện:
17


- Giáo viên đặt câu hỏi và dành thời gian cho học sinh tự do viết câu trả
lời. Giáo viên cũng có thể yêu cầu học sinh liệt kê ngắn gọn những gì các em
biết về chủ đề đang học trong khoảng thời gian nhất định.
- Giáo viên yêu cầu một vài học sinh chia sẻ nội dung mà các em đã viết
trước lớp.
2.3.Kỹ thuật “Trình bày một phút
Kỹ thuật này dùng trong quá trình học sinh học bài trên lớp vào cuối mỗi
bài.
Cách thực hiện:
- Giáo viên đặt câu hỏi : Bài này các em đã học được cái gì mới? Có điều
quan trọng gì các em muốn giải đáp thêm?
- Học sinh suy nghĩ, viết ra giấy ý kiến của cá nhân
- Mỗi học sinh được trình bày ý kiến của mình trong 1 phút
* Lưu ý: Khuyến khích trình bày có phương tiện hỗ trợ: tranh ảnh Công
Nghệ Thông Tin.
2.4. Kỹ thuật KWL
K
(Những điều đã biết)

W

L


(Những điều muốn biết) (Những điều HS tự giải
đáp / trả lời )

-

-

-

-

-

-







KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức
dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những
gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K
của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các
em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào
cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả
lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L.
Ví dụ về hướng dẫn học sinh đọc bài chuyện bốn mùa (Tiếng Việt 2

-tập 2). Giáo viên dùng kĩ thuật này để giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị
bài trước khi học.

18


K

W

L

(Những điều đã (Những điều
biết)
muốn biết)

(Những điều HS tự giải đáp / trả lời )

Một năm có 4mùa: Mùa xuân,
mùa hạ, mùa thu,
mùa đông.

Lời của nàng Đông: Mùa xuân thời tiết
ấm áp, có mưa xuân, rất thuận lợi cho
cây cối đâm chồi, nảy lộc.

- Trẻ em đã biết
các mùa trong
năm. Mùa xuân
là mùa có ngày

tết đến… Mùa hè
là mùa các em
được nghỉ học…
Mùa thu tiết trời
mát mẻ…. Mùa
đông là mùa các
em phải mặc
nhiều quần áo
ấm…

Mùa xuân có gìhay? Mùa hạ,
mùa thu, mùa
đông có gì hay? -

Theo lời của bà Đất: Mùa xuân làm cho
cây lá tốt tươi.

- Mùa hạ theo lời của nàng Xuân: Có
nắng làm cho trái ngọt hương thơm, có
những ngày nghỉ hè của học trò.
- Mùa thu theo lời của nàng Hạ: Có vườn
bưởi chín vàng, đêm trăng rằm rước
đèn, phá cỗ. Có trời xanh cao, học sinh
nhớ ngày tựu trường.
- Mùa đông theo lời của nàng Thu: Có
bập bùng bếp lửa nhà sàn, có giấc ngủ
ấm trong trăn, ấp ủ mầm sống để xuân
về,…
-


- Bốn mùa xuân, hạ, thu đông mỗi mùa
đều có vẻ đẹp riêng đều có ích cho
cuộc sống.

Em thích nhất- Nhưng em thích nhất là mùa xuân. Vì
mùa nào? vì sao? mùa xuân ấm áp, có mưa xuân, rất
thuận lợi cho cây cối đâm chồi nảy lộc.
Hoa nở đầy đường làng nơi quê em.
Em được đi chơi xuân ngắm những
bông hoa tuyệt đẹp,…
- Em nghĩ mình- - Biết được cả bốn mùa đều có vẻ đẹp
sẽ biết thêm được riêng, mùa nào cũng có ích cho cuộc
điều gì sau khi em sống,..
đọc bài này?
- - Biết yêu quý cả 4 mùa trong năm,…
Mục đích sử dụng biểu đồ KWL
Biểu đồ KWL phục vụ cho các mục đích sau:
- Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài đọc
- Đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc.
19


- Giúp học sinh tự giám sát quá trình đọc hiểu của các em.
- Cho phép học sinh đánh giá quá trình đọc hiểu của các em.
- Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của các em vượt ra ngoài khuôn
khổ bài đọc.
Sử dụng biểu đồ KWL như thế nào:
1. Chọn bài đọc. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài đọc
mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích.
2. Tạo bảng KWL. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi học

sinh cũng có một mẫu bảng của các em.
3. Đề nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan
đến chủ đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K.
Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho
học sinh thảo luận về những gì các em đã ghi nhận.
Một số lưu ý tại cột K
Chuẩn bị những câu hỏi để giúp học sinh động não. Đôi khi để khởi động,
học sinh cần nhiều hơn là chỉ đơn giản nói với các em: "Hãy nói những gì các
em đã biết về......"
Khuyến khích học sinh giải thích. Điều này rất quan trọng vì đôi khi
những điều các em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường.
4. Hỏi học sinh xem các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Cả giáo
viên và học sinh ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết thúc khi học
sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát biểu
bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W.
Một số lưu ý tại cột W
Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em: "Các em muốn
biết thêm điều gì về chủ đề này?" Đôi khi học sinh trả lời đơn giản "không biết",
vì các em chưa có ý tưởng. Hãy thử sử dụng một số câu hỏi sau:
"Em nghĩ mình sẽ biết thêm được điều gì sau khi em đọc chủ đề này?"
Chọn một ý tưởng từ cột K và hỏi, "Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì có
liên quan đến ý tưởng này không?"
Chuẩn bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể
bạn mong muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi các câu
hỏi của học sinh lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài đọc. Chú
ý là không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W
vẫn là những câu hỏi của học sinh.
5. Yêu cầu học sinh đọc và tự điền câu trả lời mà các em tìm được vào cột

20



L. Trong quá trình đọc, học sinh cũng đồng thời tìm ra câu trả lời của các em và
ghi nhận vào cột W.
Học sinh có thể điền vào cột L trong khi đọc hoặc sau khi đã đọc xong.
Một số lưu ý tại cột L
Ngoài việc bổ sung câu trả lời, khuyến khích học sinh ghi vào cột L những
điều các em cảm thấy thích. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những
ý tưởng của các em. Ví dụ các em có thể đánh dấu tích vào những ý tưởng trả lời
cho câu hỏi ở cột W, với các ý tưởng các em thích, có thể đánh dấu sao(*).
Đề nghị học sinh tìm kiếm từ các tài liệu khác để trả lời cho những câu hỏi
ở cột W mà bài đọc không cung cấp câu trả lời. (Không phải tất cả các câu hỏi ở
cột W đều được bài đọc trả lời hoàn chỉnh)
6. Thảo luận những thông tin được học sinh ghi nhận ở cột L
7. Khuyến khích học sinh nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em
đã nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài đọc.
3. Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động đọc tại thư viện.

Trong tiết đọc thư viện, ngoài hoạt động đọc, các em học sinh còn được tham
gia các trò chơi; viết hoặc vẽ những gì các em thích liên quan đến câu chuyện;
được nói lên những suy nghĩ, cảm nhận về nhân vật trong câu chuyện mà các
em được nghe. Sự thân thiện, thoải mái về không gian của thư viện cũng làm
cho các em hào hứng với việc đọc sách; tạo cho các em thói quen đọc sách, qua
đó học được nhiều điều bổ ích từ sách.
IV. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Từ các giải pháp trên với từng loại bài tôi nhận thấy học sinh dần được củng
cố, mở rộng. Đồng thời kỹ năng đọc cũng được nâng lên. Các em biết đọc đúng,
đọc nhanh, đọc hiểu và bước đầu đọc diễn cảm. Biết đọc phân vai các mẫu
chuyện. Mặt khác trong các giờ mà tôi tổ chức hình thức dạy học trên tôi thấy
học sinh học tập hứng thú hơn, tiếp thu bài dễ dàng, giờ học sôi nổi hơn. Sau khi

áp dụng những biện pháp trên vào dạy tập đọc lớp 2D tôi đã kiểm nghiệm lại
21


bằng một bài đọc. Kết quả đa số các em đã hiểu và hoàn thành bài đọc, nhiều em
còn hoàn thành đọc rất tốt. Và có thể nói đây là thành công của tôi trong quá
trình dạy học. Dưới đây là kết quả của học sinh mà mà tôi đã nghiên cứu.

22


Kết quả :
Số HS
Lớp
lớp
2D

24

HTT

HT

CHT

SL

TL%

SL


TL%

SL

TL%

6

25

19

75

0

0

Kết quả cho thấy học sinh có ý thức yêu thích bộ môn, khả năng đọc của
học sinh có nhiều tiến bộ hơn, đủ vững vàng để tiếp tục học lớp 3.
Với cách dạy này tôi đã chia sẻ cùng đồng nghiệp trong trường qua các
buổi sinh hoạt chuyên môn, kết quả các đồng chí trong tổ, khối, Ban giám hiệu
nhà trường đánh giá cao. Nhiều đồng chí đã tham gia dự giờ để vận dụng dạy
học cho lớp mình và cũng đã thành công.
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận:
Qua phần trình bày ở trên ta thấy việc cung cấp sự hiểu biết và làm phong
phú kĩ năng đọc cho học sinh nằm rải rác ở một số môn: Tập đọc - Kể chuyện,
Tập viết, Chính tả. Song phân môn Tập đọc chứa nhiều nhất lượng kĩ năng cần

truyền đạt đến học sinh. Nhiệm vụ chính của phân môn Tập đọc giúp học sinh
nắm được cách đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Biết vận dụng
nó, sử dụng nó một cách có hiệu quả trong cuộc sống hàng ngày. Đồng thời tạo
cơ sở vững chắc cho việc phát triển kỹ năng đọc cho học sinh, làm giàu và góp
phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Cụ thể giúp học sinh phát triển kỹ
năng đọc hiểu, kỹ năng cảm thụ văn học, cảm thụ vẻ đẹp của văn chương và làm
tốt các bài tập của các môn học thông qua việc đọc để hiểu đề ở các lớp trên.
Vậy để đạt được kết quả cao trong khi dạy, học sinh nắm được kĩ năng
đọc một cách chính xác và sử dụng nó một cách phù hợp, thì mỗi giáo viên cần
phải biết lựa chọn phương pháp, hình thức dạy sao cho phù hợp với lứa tuổi,
trình độ của học sinh. Đồng thời người giáo viên cần phải kiên trì, bền bỉ, tránh
nôn nóng khi chưa thấy kết quả. Tìm cách khắc phục những điểm yếu, những
điểm chưa phù hợp để lựa chọn được phương pháp dạy đạt kết quả. Mỗi hình
thức, mỗi phương pháp dạy khi đưa ra cần đạt được những tiêu chí sau:
* Đối với học sinh
- Học sinh học tập sôi nổi, nhiều học sinh được tham gia, đặc biệt là đối
với các em còn rụt rè, nhút nhát, những hình thức phương pháp đó phải làm cho
học sinh mạnh dạn hơn, tự tin hơn, độc lập suy nghĩ.
- Học sinh được tự củng cố vốn kiến thức của mình thông qua đọc nhiều
sách báo phù hợp với lứa tuổi, truyện tranh...

23


- Cho học sinh giao lưu với các bạn trong: lớp, trường sau mỗi bài đọc để
học sinh khắc sâu kiến thức. Như kể cho bạn, người thân nghe,.. bài đọc đã học.
* Còn đối với giáo viên:
- Sau mỗi bài đọc, giáo viên phải dành thời gian cho phần dặn dò bài sau
thật cụ thể. Có như vậy học sinh mới chuẩn bị tốt bài mới .
- Luôn có sự kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh. Nhận xét cụ thể.

- Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy. Định hướng cụ thể phương pháp và hình
thức tổ chức cho từng hoạt động. Phân bố thời gian hợp lí cho từng hoạt động.
- Luôn gắn lí thuyết với thực hành.
- Phải trực quan, không thể thiếu đồ dùng dạy học (Mô hình, kí hiệu...)
- Hệ thống ngôn ngữ phải trong sáng, gần gũi, dễ hiểu.
- Nếu dự định tổ chức trò chơi học tập thì phải chuẩn bị kĩ lưỡng trước các
tình huống sư phạm có thể xảy ra. (Học sinh có thể dùng từ thiếu tính sư
phạm...) không chơi ngẫu hứng, tuỳ tiện. Muốn vậy, người giáo viên có thể sử
dụng một số hình thức như: trò chơi, tranh ảnh, vật thật….
Trên đây là một số biện pháp dạy học môn tập đọc cho học sinh lớp 2D
mà tôi đã vận dụng vào bài giảng của mình một cách có hiệu quả. Đặc biệt là 6
em học sinh tôi thực nghiệm. Do thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi
những hạn chế. Vậy mong các bạn đồng nghiệp và Hội đồng khoa học các cấp
góp ý cho sáng kiến của tôi thêm hoàn thiện góp phần nâng cao chất lượng, kĩ
năng đọc trong môn tập đọc .
2. Kiến nghị:
- Là một giáo viên đứng lớp, trực tiếp giảng dạy lớp 2, thực tế cho thấy để
có những tiết học hay, sinh động và đạt hiệu quả cao tôi có một số đề xuất sau:
+ Cung cấp thêm một số tư liệu về hình thức tổ chức và trò chơi trong
phân môn Tiếng Việt.
+ Cung cấp thêm đồ dùng cho phân môn Tiếng Việt (Tranh, ảnh...)
Trên đây chỉ là một số biện pháp cơ bản được rút ra từ thực tiễn quá
trình giảng dạy của cá nhân tôi ở Trường Tiểu học Cẩm Phú, chắc chắn rằng sẽ
chưa đảm bảo được sự toàn diện và không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân
tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và bổ sung thêm của các đồng
nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Cẩm Phú, ngày 21 tháng 5 năm 2019


................................................................ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
.
mình viết, không sao chép nội dung
24


............................................................

của người khác.

...........................................................
............................................................

Vũ Thị Hồng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 2 – NXB Giáo dục
[2]. Sách giáo viên– Tiếng việt lớp 2 – NXB Giáo dục
[3]. Chuẩn kiến thức - KN các môn học ở tiểu học lớp 2- NXB Giáo Dục.
[4]. Phương pháp dạy học các môn học ở tiểu học- NXB Giáo Dục.
[5].Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 2- Tập 1
[6].Trường học kết nối, Tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, giáo
viên tiểu học về phương pháp dạy học tích cực.
[7]. Một số tài tiệu khác.

25



×