Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu tả ở trường tiểu học xuân lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 22 trang )

1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn vấn đề nghiên cứu.
Tiếng Việt được coi là môn học trung tâm ở trường Tiểu học. Đó là môn
học bắt buộc suốt cấp Tiểu học và chiếm vị trí quan trọng cả về dung lượng và
thời gian. Thông qua môn học bồi dưỡng cho các em năng lực tư duy, tưởng
tượng, cảm xúc thẩm mĩ, lòng yêu quý và gìn giữ sự trong sáng của Tiếng Việt.
Phân môn Tập làm văn mang tính tổng hợp cao của các kiến thức ngôn ngữ
và kĩ năng ngôn ngữ. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc trau dồi và rèn
luyện ngôn ngữ cho học sinh, giúp các em cảm thụ được văn bản (thơ, văn…).
Khi học, các em được rèn kĩ năng viết văn miêu tả gắn với quá trình tạo lập văn
bản như tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, diễn đạt thành đoạn văn, bài văn hoàn
chỉnh. Trong đó kĩ năng viết đoạn văn là quan trọng nhất. Bên cạnh đó môn Tập
làm văn còn làm nảy sinh năng lực mới của các em: Năng lực sáng tạo văn bản
nói, viết để làm công cụ tư duy, giao tiếp, học tập… góp phần phong phú thêm
kiến thức và tiếng mẹ đẻ.
Tuy vậy, thực tế việc dạy và học viết văn miêu tả còn nhiều hạn chế, học
sinh làm bài chất lượng chưa cao. Nhiều em chưa nắm được kiểu bài miêu tả,
chưa có kĩ năng xây dựng bố cục, chọn ý, xếp ý…. Bài văn của các em còn mắc
khá nhiều lỗi cả về nội dung và hình thức. Thực tế dạy học như vậy không đáp
ứng được nhu cầu giao tiếp.
Ngoài ra bài văn miêu tả của học sinh còn nặng về kể lể, liệt kê các sự vật,
sự việc, lời văn lủng củng thiếu ý hoặc sắp xếp ý một cách lộn xộn, chưa có sự
liên kết giữa các ý và câu…nên khi đọc lên ta thấy tẻ nhạt và nhàm chán.
Trăn trở những vấn đề nêu trên, tôi mạnh dạn áp dụng nghiên cứu và đưa
ra: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu tả ở
Trường Tiểu học Xuân Lâm.” Với mong muốn giúp các em viết được bài văn
hay, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở đó
giúp các em rèn kĩ năng sản sinh văn bản, tạo điều kiện để các em tự tìm tòi và
tự thể hiện những ý kiến, suy nghĩ của mình một cách độc lập, chủ động, không
máy móc, rập khuôn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.


Tìm hiểu thực trạng và đưa ra biện pháp rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn
miêu tả cho học sinh lớp 5, Trường Tiểu học Xuân Lâm.
- Quan sát, tìm ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, diễn đạt.
- Xây dựng quy trình để hoàn thiện cách viết đoạn văn miêu tả ở lớp 5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Thể loại văn miêu tả lớp 5.
- Học sinh lớp 5B Trường Tiểu học Xuân Lâm.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các tài liệu, sách có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
1


- Phương pháp trao đổi, tọa đàm với đồng nghiệp.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê.
2. Nội dung.
2.1. Cơ sở lí luận.
Theo Đào Duy Anh trong Hán Việt từ điển thì miêu tả là: “Lấy nét vẽ
hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật” .
Còn theo nhà văn Tô Hoài trong cuốn sách Một số kinh nghiệm viết văn
của tôi thì nhấn mạnh: “Nói miêu tả, dễ tưởng miêu tả chỉ là vẽ phong cảnh trời
nắng, trời mưa, chớp bể mưa nguồn và thiên nhiên: cây vườn, bãi cỏ, con
sông… Không, hàng đầu miêu tả là chú trọng sự việc, con người.”
Miêu tả là hòn đá thử vàng đối với các tài năng văn học, tạo nên sức hấp
dẫn của tác phẩm văn học. Có những tác giả đã tốn công vô ích ghi chép rồi đưa
vào tác phẩm của mình vô vàn chi tiết khi miêu tả, nhưng người đọc vẫn chẳng
nhìn thấy gì hết ngoài các dòng chữ tẻ nhạt. ngược lại, chỉ vài nét thôi các tài năng
đích thực đã tạo nên bức tranh phong cảnh, những bức chân dung…tuyệt diệu.

Văn miêu tả là một bức tranh vẽ các sự vật, hiện tượng, con người bằng
ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Nhưng văn miêu tả không phải là sự sao
chép thực tế khách quan mà đó là sự kết tinh của các nhận xét tinh tế, của trí
tưởng tượng phong phú và những rung động sâu sắc mà người viết thu lượm
được khi quan sát cuộc sống. Trước hết ta tìm hiểu Thế nào là đoạn văn?
* Khái niệm đoạn văn:
Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 định nghĩa đoạn văn như sau: “Mỗi
đoạn văn miêu tả một nội dung nhất định. Khi viết, hết mỗi đoạn văn cần xuống
dòng”. Việc định nghĩa như trên chủ yếu giúp học sinh nhận ra dấu hiệu để
nhận biết đoạn văn còn chức năng của đoạn văn trong văn bản thì không được
nhắc đến.
Theo quan điểm của tác giả Lê Phương Nga trong Phương pháp dạy học
Tiếng Việt ở Tiểu học: “Đoạn văn là một bộ phận của văn bản bao gồm một số
câu liên kết với nhau chặt chẽ, thể hiện một cách tương đối trọn vẹn về một tiểu
chủ đề. Nó có một cấu trúc nhất định và được tách ra khỏi đoạn văn khác bằng
dấu hiệu chấm xuống dòng và bắt đầu bằng chữ cái viết hoa thụt đầu dòng”.
Đoạn văn miêu tả hoàn chỉnh được cấu thành bởi ba loại đoạn văn xét theo
chức năng là đoạn mở (phần mở bài), đoạn phát triển (phần thân bài) và đoạn
kết bài (phần kết bài). Phần mở bài và kết bài thường chỉ là một đoạn, còn phần
thân bài thường gồm nhiều đoạn liên kết với nhau, mỗi đoạn sẽ làm sáng tỏ một
khía cạnh, một đặc điểm của đối tượng miêu tả.
2.2. Thực trạng.
2.2.1 Thực trạng chương trình, nội dung văn miêu tả và sách hướng dẫn
học Tiếng việt 5 chương trình VNEN:
Trong chương trình VNEN Tập làm văn lớp 5 học sinh được trang bị kiến
2


thức cần thiết về văn miêu tả, về kĩ năng viết đoạn văn, bài văn miêu tả. Các
kiến thức này được cung cấp qua các nội dung: Cấu tạo bài văn miêu tả, Luyện

tập quan sát, Luyện tập lập dàn dàn ý, Luyện tập xây dựng đoạn văn, Bài viết và
trả bài viết. Các nội dung này là một khuôn mẫu, được lặp lại ở các kiểu bài văn
miêu tả. Ngoài ra, còn có thêm cả những kiến thức lí thuyết sơ giản giúp học
sinh nắm chắc về đặc điểm, kết cấu và phương pháp làm bài của từng kiểu văn
miêu tả. Chương trình nhấn mạnh yếu tố thực hành, coi trọng việc rèn luyện kĩ
năng, đặc biệt là kĩ năng xây dựng đoạn văn. Học sinh học cách viết đoạn văn
với nhiều nội dung và nhiều kiểu khác nhau ở một số dạng bài văn miêu tả các
đối tượng quen thuộc, gần gũi với các em.
Với sách hướng dẫn học của chương trình VNEN thì Tập làm văn thường ở
nội dung học bài C với các tổ hợp bài tập liên tiếp từ 1 đến 3 tiết học. Đầu bài
không thể hiện rõ tên phân môn.
2.2.2. Thực trạng học văn miêu tả của lớp 5 trường Tiểu học Xuân Lâm,
năm học 2016-2017.
Học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Xuân Lâm điều kiện còn nghèo, chủ yếu
là con em nông nghiệp hoặc là công nhân nhà máy giày ARONA, phần lớn, các
em chưa thực sự chủ động trong lĩnh hội kiến thức trong quá trình học tập nói
chung, trong bài văn cũng ít có sáng tạo. Nhiều khi chưa nắm vững được các kỹ
năng cơ bản để làm bài (tìm hiểu đề, quan sát-tìm ý, lập dàn ý, triển khai ý, liên
kết ý, liên kết đoạn…) dẫn đến nhiều em khi làm bài còn bị lạc đề, các ý trong
bài văn miêu tả sắp xếp lộn xộn, không chân thực dẫn đến việc viết những câu
văn sáo rỗng, cảm xúc mơ hồ không trung thực.
Chẳng hạn với đề bài: Em hãy viết một đoạn tả cảnh sum họp của gia đình
em vào buổi tối. Có học sinh của lớp viết như sau:“Ánh đèn của chiếc đèn tuýp
chiếu sáng cho cả gian nhà. Em rửa bát xong thì em vào bật vô tuyến. Hôm nay
có một bộ phim hoạt hình em rất thích. Trên chiếc ti vi là lọ hoa chị em vừa cắm
lúc chiều. Những bông hoa đó đua nhau tỏa hương, thơm nức cả gian phòng.
Mấy cái rèm cửa bị gió thổi bay lên. Buối tối, đứng ở bên ngoài trông ngôi nhà
thật là đẹp, lại còn có cả những tiếng gió thổi vi vu làm em cảm thấy dễ chịu hẳn”.
- Khi miêu tả học sinh không biết chọn lọc những nét tiêu biểu để tả, để kể
nên bài văn miêu tả trở thành một bài văn kể lể, liệt kê lan man.

Chẳng hạn với đề bài: Trong các buổi lao động tập thể do trường, lớp (hoặc
khu phố, thôn xóm) tổ chức, em thấy buổi nào gây cho em nhiều hứng thú nhất. Em
hãy viết một đoạn tả lại cảnh tượng mọi người đang lao động trong buổi đó. Thì
các em: Lê Thế Anh, Hoàng Đình Dũng, Đặng Duy Hiếu, Trần Tiến Mạnh lại sa
vào việc liệt kê các công việc. Chẳng hạn, em Mạnh viết:“…Tổ một, hai đi quét
dọn vệ sinh sân trường, chăm sóc cây. Tổ ba, bốn trực nhật lớp. Tổ ba, bốn
chúng em giặt giẻ lau, kê bàn ghế, quét lớp từng nhát một và lau bảng thật sạch sẽ”.
- Đối với loại lỗi viết câu lặp từ, lặp ý học sinh cũng mắc rất nhiều. Đây là
loại lỗi phổ biến nhất, hầu như có trong bất kỳ một bài văn miêu tả nào của học
sinh lớp. Chẳng hạn:
3


“Năm nay Hà vừa tròn mười tuổi, Hà dong dỏng cao. Da Hà trắng và rất
mịn. Mái tóc Hà dài, đen nhánh. Khuôn mặt Hà có hình trái xoan.”
“Nhìn từ xa cây to và cao, cây đứng cao và to”.v.v...
- Ngoài ra học sinh làm bài văn không biết cách tách đoạn. Các em quan
niệm phần mở bài, thân bài, kết bài là ba đoạn. còn phần thân bài dù có bao nhiêu
ý thì cũng chỉ được các em viết thành một đoạn văn. Do đó trường hợp dung
lượng đoạn quá khổ (lỗi về hình thức) là lỗi phổ biến trong bài văn của học sinh
của lớp.
Sau đây là kết quả khảo sát kĩ năng viết đoạn văn phần thân bài: Viết một
đoạn văn tả buổi sáng trên cánh đồng làng quê em - Bài tập 2, Bài 1C- sách
HDH Tiếng Việt 5, tập 1A (trang 19).
Số
HS
25

Viết đoạn văn
hay

SL
%
3
12

Viết đúng đoạn Viết đoạn văn
văn
lủng củng
SL
%
SL
%
9
36
8
32

Viết chưa HT
đoạn văn
SL
%
5
20

Như vậy: Tỉ lệ học sinh viết được đoạn văn đang ở mức độ thấp. Sau 2
năm nghiên cứu, trải nghiệm, năm học 2015 – 2016 và 2016 – 2017, tôi mạnh
dạn đề xuất với nhà trường cho áp dụng đối với học sinh lớp 5, nhằm giúp các
em viết tốt đoạn văn miêu tả theo biện pháp mô hình trường học mới và bước
đầu có kết quả khá khả quan.
2.3. Các giải pháp thực hiện.

2.3.1. Phân loại đối tượng học sinh phù hợp, chú ý nhiều đến đối
tượng học sinh chưa hoàn thành về viết đoạn văn.
Ngay từ đầu năm học tôi chia các đối tượng học sinh theo nhóm học tập. Ở
mô hình trường học mới VNEN đang thực nghiệm thì điều này rất thuận lợi bởi
các em luôn được học tập theo nhóm qua 10 bước học tập. Tuy nhiên, nếu không
thay đổi linh hoạt vai trò của từng thành viên trong nhóm sẽ dẫn đến việc chỉ có
nhóm trưởng điều hành và hỗ trợ những bạn năng lực còn hạn chế. Bạn ít nói sẽ
luôn ỷ lại và không độc lập tư duy, tự ra quyết định cho chính mình.
Ý thức được điều đó nên tôi đã chủ động đổi vai trò của các em trong nhóm
hàng tuần. Chú ý quan tâm đặc biệt đến đối tượng học sinh chưa viết được đoạn
văn, nên phân tích cặn kẽ từng yêu cầu đề, chỉ cần các em viết được đoạn văn
đơn giản rồi dần dần nâng cao và phải cổ vũ động viên học sinh kịp thời.
Ví dụ: Với đề bài: Em hãy viết đoạn mở bài tả lại người thân yêu nhất của em.
Yêu cầu học sinh chưa hoàn thành chỉ cần viết được đoạn mở bài trực tiếp. Với
đối tượng học sinh còn lại thì tùy mức độ mà yêu cầu các em viết đoạn mở bài gián
tiếp.
Nhóm 1: Tôi cho em Phạm Tiến Dũng ngồi cùng nhóm với em Lê Thế Đại là
những học sinh rụt rè, thiếu tự tin. Sau 1 tuần các em phải học tập nhóm trưởng để
tuần sau sẽ thay các bạn đó điều hành nhóm mình trong một số hoạt động học.
Nhóm 2: Các em Lê Chí Kiên, Nguyễn Ngọc Ánh, Trần Thị Minh, Phạm Văn
4


Long biết cách dùng từ nhưng không biết sử dụng các biện pháp tu từ để làm cho câu
văn hay hơn. Tôi chia vào nhóm đó bạn Nguyễn Tuấn Dũng viết văn tốt để giúp đỡ các
bạn.
Cứ như vậy, hết một tuần tôi cho các em đổi vai trò của nhau, mỗi nhóm học đều có tất cả
các đối tượng để giúp nhau cùng tiến bộ trong việc viết đoạn văn.
2.3.2 Hướng dẫn học sinh biết cách nắm yêu cầu đề bài và quan sát,
tìm ý.

Thể loại văn miêu tả có vị trí rất quan trọng trong phân môn Tập làm văn ở
Tiểu học. Cần phải cung cấp hệ thống lí thuyết về các thể loại cũng như các
kiểu bài cùng với những yêu cầu trong việc hình thành các kỹ năng, để từ đó
hướng dẫn học sinh từng bước nắm vững kiến thức và thành thạo các phương
pháp xây dựng bài văn theo thể loại, yêu cầu.
Mỗi đề bài văn tả cảnh đều có yêu cầu khác nhau, quan sát, tìm ý là một
hoạt động không thể thiếu trong việc dạy- học văn miêu tả nên trong quá trình
dạy các tiết quan sát-tìm ý, giáo viên cần tổ chức cho học sinh được trực tiếp
quan sát sự vật, sự việc…để các em có điều kiện quan sát trực tiếp đối tượng
miêu tả, tránh để tình trạng các em ngồi tưởng tượng để viết bài. Khi viết đoạn
văn miêu tả thì học sinh phải có yếu tố tưởng tượng nhưng phải bắt nguồn từ
thực tế nên hình ảnh được miêu tả phải có tính chân thực, bắt đầu bằng sự quan
sát, không tô hồng, bóp méo hoặc hư cấu quá. Giáo viên cần giúp học sinh quan
sát với những hình ảnh khác nhau. Góc nhìn của trẻ thơ khác với người lớn, của
nông thôn khác với thành thị. Học sinh quan sát kết hợp bằng nhiều giác quan.
Ví dụ: Hướng dẫn các em quan sát, viết đoạn văn: “Tả cảnh một buổi sáng
trên cánh đồng quê em”, Giáo viên giúp các em quan sát:
- Quan sát bằng thị giác: Ánh nắng ban mai, bầu trời, cây cối xung quanh…
- Bằng thính giác: Tiếng giói thổi, chim hót, tiếng người….
- Bằng khứu giác: Mùi của hương lúa, hoa, cỏ dại….
- Quan sát từ những hình ảnh quen thuộc, quan sát cả bên ngoài lẫn bên trong
để đoạn văn miêu tả sinh động, cuốn hút người nghe. Quan trọng hơn sau khi quan
sát các em phải biết lựa chọn không viết lan man, khô khan và sáo rỗng.

5


Học sinh đang quan sát cánh đồng lúa quê em.

Học sinh quan sát quang cảnh trường em.

Bên cạnh việc quan sát, cần dạy cho học sinh các thao tác liên hoàn khi làm
một đoạn văn: Đọc kĩ đề - gạch chân các từ quan trọng - tìm ý - lập dàn ý - dựa
trên dàn ý viết thành đoạn văn và cuối cùng là đọc lại, tự kiểm tra.
Dạy học trên lớp học sinh chỉ được quan sát với giác quan chủ yếu là thị
giác vì vậy học sinh thường không thể hiện được đầy đủ đặc điểm của đối tượng
cần tả… Đôi khi giáo viên còn lúng túng khi hướng dẫn quan sát như thế nào cho tốt.
Để khắc phục điều này, tôi luôn giúp học sinh có thể quan sát, tìm ý, nói đoạn
văn bằng các tiết học ngoài trời, thực tế. Sau khi áp dụng đã đem lại sự sôi nổi,
hào hứng và kết quả rõ rệt.
2.3.3. Xây dựng quy trình rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn miêu tả.
6


Để viết một đoạn văn miêu tả hoàn chỉnh, học sinh phải trải qua quá trình
luyện tập về khả năng quan sát, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, chọn và sử dụng
các phương tiện lên kết câu. Nếu một trong những kĩ năng bị khiếm khuyết sẽ
dẫn đến việc viết đoạn văn miêu tả không tốt và ảnh hưởng nhiều đến khả năng
hình thành ngôn ngữ cho học sinh sau này. Vì vậy, việc giáo viên phải dạy đúng
quy trình viết đoạn văn ở mỗi kiểu bài thật cần thiết vì nó vừa giúp học sinh viết
tốt đoạn văn, vừa giúp học sinh rèn các kĩ năng bộ phận trong quá trình sản sinh
văn bản. Quy trình viết đoạn văn miêu tả được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu yêu cầu của đề bài
Bước 2: Hướng dẫn học sinh thực hiện yêu cầu đề bài.
Bước 3: Học sinh thực hành kĩ năng
Khi thực hành kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tuân
theo 3 thao tác sau: viết nháp; đọc, hội ý, sửa chữa văn bản nháp; trình bày bài viết.
Bước 4: Đánh giá, nhận xét kết quả thực hành
Các bước của quy trình được tôi minh họa cụ thể qua ví dụ sau:
Đề bài: Dựa theo dàn ý đã lập ở bài 13B, phần Hoạt động thực hành 4, để
viết đoạn văn tả ngoại hình của một người mà em thường gặp. (Bài 13C-tiết 2,

trang 57, tập 1B Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5)
Bước 1: Tìm hiểu yêu cầu của đề bài
- Đọc to yêu cầu đề bài.
- Xác định yêu cầu đề bài: Đoạn văn này viết cho ai đọc? Đề bài thuộc thể
loại nào? Đối tượng miêu tả của đoạn văn cần viết là gì? Đoạn văn sẽ tập trung
miêu tả những đặc điểm chủ yếu nào của đối tượng? Đoạn văn được viết thuộc
phần nào của bài văn miêu tả?
- Gạch chân dưới những từ ngữ quan trọng của yêu cầu đề bài: Em hãy viết
đoạn văn tả ngoại hình của một người mà em thường gặp.
Bước 2: Thực hiện yêu cầu của đề bài
* Quan sát, tìm ý (Dựa theo dàn ý mà em đã lập trong bài trước)
- Cần lựa chọn những đặc điểm ngoại hình tiêu biểu nào? (mái tóc, đôi mắt,..)
- Nên lựa chọn các chi tiết thế nào để tả đúng những đặc điểm ấy?
- Yêu cầu học sinh xem lại dàn ý đã chuẩn bị hoặc đổi kết quả dàn ý với bạn.
* Hướng dẫn học sinh xác định mô hình đoạn văn cho phù hợp.
- Giáo viên giới thiệu mô hình cấu trúc câu chủ đề của đoạn văn qua việc
phân tích một số ví dụ tả người.
- Yêu cầu học sinh lựa chọn một mô hình viết đoạn văn tương ứng cho
đoạn thân bài tả hình dáng của người.
Bước 3: Học sinh thực hành kĩ năng
- Học sinh sắp xếp ý, sử dụng các biện pháp nghệ thuật, lựa chọn hình ảnh
phù hợp, các phép liên kết câu để viết đoạn văn theo mô hình đã lựa chọn.

7


- Học sinh đọc lại bài và trao đổi với bạn kế bên, góp ý để sửa đoạn văn về
nội dung, chính tả, từ ngữ liên kết câu, ý trong đoạn.
- Học sinh viết lại đoạn văn vào vở hoặc giấy.
Bước 4: Đánh giá, nhận xét kết quả thực hành

- Giáo viên chấm một số bài, góp ý cách viết đoạn, dùng từ, liên kết câu.
- Giáo viên nhắc lại tiêu chuẩn đánh giá, nhận xét về hình thức và nội dung.
- Học sinh thảo luận theo nhóm trình bày đoạn văn trong nhóm.
- Nhóm nhận xét, sửa chữa, lựa chọn đoạn văn hay để trình bày trước lớp.
- Đại diện nhóm trình bày đoạn văn trước lớp. Học sinh nhận xét đoạn văn
của bạn theo các tiêu chí đã được đưa ra.
- Giáo viên chốt các ý nhận xét, giúp học sinh sửa chữa những thiếu sót, lỗi
sai hoặc lưu ý các em cách sửa chữa những lỗi thường gặp trong quá trình viết
đoạn văn. Sau đó giáo viên cần giúp các em thâu tóm được kiến thức và biết tác
dụng của bài tập này là gì. Dưới đây là một đoạn văn của học sinh lớp tôi khi
thực hiện đề bài trên:

2.3.4. Giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ và các biện pháp tu từ:
2.3.4.1. Giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ thích hợp trong câu
văn.
Từ thực tế là vốn từ ngữ của các em quá nghèo nàn nên việc giúp các em
có vốn và biết sử dụng từ ngữ để miêu tả là yếu tố rất quan trọng. Học sinh phải
biết làm giàu vốn từ và biết vận dụng vào viết đoạn văn như:
- Sử dụng các lớp từ: Tính từ, từ tượng thanh, tượng hình, từ láy…từ các từ
chỉ màu sắc: xanh, đỏ, tím…có thể thể hiện bằng các gam màu khác nhau, cung
bậc khác nhau giúp hình ảnh miêu tả thêm phong phú, giàu chất văn:
Ví dụ: Từ ‘Thơm” có thể diễn tả mùi thơm khi miêu tả các loài hoa.
- Thơm lừng: Mùi thơm tỏa ra mạnh mẽ và rộng.
8


- Thơm ngát: Mùi thơm dễ chịu, lan tỏa ra xa.
- Thơm nức: Thơm rực lên, tỏa hương nồng khắp nơi.
- Thơm thoang thoảng: Thoảng nhẹ qua, chỉ đủ cảm nhận.
2.3.4.2. Bài tập rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu trong đoạn văn.

Ở loại bài tập này, tôi chia thành các dạng bài tập đi từ mức độ thấp đến cao.
a. Bài tập yêu cầu nhận diện từ ngữ miêu tả.
Mục đích của dạng bài tập này là cung cấp, mở rộng thêm một số vốn từ
miêu tả cho học sinh. Dữ kiện của bài tập là các đoạn văn miêu tả các sự vật gần
gũi với cuộc sống của các em cũng như phù hợp với chương trình văn miêu tả.
lệnh của bài tập yêu cầu của học sinh tìm và gạch dưới các từ ngữ miêu tả quan
trọng, nổi bật hoặc nêu được những tác dụng của chúng trong đoạn.
Ví dụ: Đọc đoạn văn sau và thực hiện yêu cầu bên dưới.
Chú bé vùng biển
Thằng Thắng, con cá vược của thôn Bần và là địch thủ bơi lội đáng gờm
nhất của bọn trẻ, lúc này đang ngồi trên chiếc thuyền đậu ở ngoài cùng. Nó trạc
tuổi thằng Chân “phệ” nhưng cao hơn hẳn cái đầu. Nó cởi trần, phơi nước da
rám đỏ khỏe mạnh của những đứa trẻ lớn lên với nắng, gió mặn và nước biển.
Thân hình nó rắn chắc, nở nang: cổ mập, vai rộng, ngực nở căng, bụng thon
hằn rõ những múi, hai cánh tay gân guốc như hai cái bơi chèo, cặp đùi dế to,
chắc nình nịch. Thắng có cặp mắt to và sáng. Miệng tươi, hay cười. Cái trán hơi
dô ra, trông có vẻ là một tay bướng bỉnh và gan dạ.
(Bài 13B-tiết2, trang 5, tập 1B sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5)
1. Ghi lại những từ ngữ tả ngoại hình của Thắng.
2. Cách sử dụng từ ngữ trong đoạn văn cho biết Thắng là cậu bé như thế nào?
b. Bài tập điền các từ ngữ miêu tả.
Mục đích của dạng bài tập này nhằm giúp học sinh dùng các từ ngữ miêu tả
chính xác, có hiệu quả dựa trên những hiểu biết về ngữ nghĩa, về cấu tạo cũng
như khả năng kết hợp của chúng trong câu. Dữ kiện là các đoạn văn đã được
lược bỏ các từ ngữ miêu tả hoặc đoạn văn gồm các câu văn miêu tả chưa hoàn
chỉnh. Lệnh của bài tập được nâng cao dần từ việc lựa chọn từ ngữ cho sẵn rồi
đến tự tìm từ ngữ hợp lí điền vào chỗ thích hợp.
Ví dụ: Hãy điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống trong đoạn văn sau:
Trước mặt chúng tôi là cánh đồng lúa chín… những bông lúa…đang chờ tay
người đến gặt, hạt lúa căng tròn béo múp…hứa hẹn một mùa…no ấm bội thu.

c. Bài tập yêu cầu học sinh dùng từ, đặt câu với các từ ngữ, hình ảnh miêu tả.
Những bài tập này có mục đích giúp học sinh vận dụng sự hiểu biết về ngữ
nghĩa, cấu tạo, khả năng kết hợp giữa các từ trong câu, để đặt câu phù hợp với
tình huống nói, viết. Câu văn học sinh viết ra phải đúng nghĩa, đúng ngữ pháp.
Dữ kiện của bài tập là các hình ảnh, từ ngữ, câu văn miêu tả đặc điểm, hoạt động
của đối tượng. Lệnh bài tập yêu cầu học sinh đặt câu hoặc viết lại thành câu văn
miêu tả từ những từ ngữ cho sẵn.
Ví dụ: Tìm những từ ngữ gợi tả các loại âm thanh trên sân trường. Hãy đặt
câu với các từ đó.
9


d. Bài tập luyện tập mở rộng câu.
Qua quá trình khảo sát các bài văn của học sinh lớp 5B, tôi nhận thấy các
em thường viết những câu “cụt”, nội dung nghèo nàn, nông cạn. Các em chưa
biết phát triển các câu hoặc có phát triển nhưng không đúng ý, không sát chủ
đề. Từ đó tôi thấy cần phải luyện cho học sinh viết những câu văn mở rộng
nhằm khắc phục hạn chế trên. Nhóm bài tập này được xây dựng thành hai loại
bài tập. Trong mỗi loại bài tập đó lại được chia thành các dạng bài tập nhỏ hơn
để luyện tập cho học sinh đi từ dễ đến khó.
- Loại bài tập luyện viết câu mở rộng.
Loại bài tập luyện viết câu mở rộng bằng cách thêm các thành phần phụ,
giúp học sinh viết những câu văn sinh động, gợi cảm từ các ý nòng cốt câu cho
trước, từ đó học sinh có ý thức viết câu văn ngày càng sinh động, gợi cảm.
Ví dụ: Từ những câu chỉ có thành phần nòng cốt dưới đây, em hãy mở
rộng câu bằng cách thêm các thành phần phụ.
+ Chim hót.
+ Gió thổi.
+ Cô giáo giảng bài.
Học sinh có thể viết: Trên cành cây, những chú chim ri đang hót líu lo như

vẫy chào chúng em.
- Loại bài tập luyện viết câu mở rộng bằng cách dùng biện pháp so
sánh, liên tưởng.
Ví dụ: Viết tiếp vào chỗ trống các dòng chưa rõ ý.
+ Trên cành cây, những chú chim sâu đang hót líu lo………….…………………….…
+ Nhìn từ xa, cánh đồng lúa xanh rờn……………………………………………………………………
+ Trên cột cờ, lá cờ đỏ thắm……………………………………………………………………………………..
2.3.4.3. Bài tập rèn kĩ năng sử dụng các biện pháp tu từ trong đoạn
văn.
Trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học, học sinh đã được làm quen với
biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh nhưng các bài tập rèn kĩ năng sử dụng biện
pháp tu từ khi viết văn chưa được đề cập nhiều trong sách giáo khoa lớp 5. Do
đó, khi viết đoạn văn miêu tả, học sinh thường chưa biết cách so sánh, nhân hóa
hiện tượng, sự vật để chọn lựa được những từ ngữ có hình ảnh gợi tả, gợi cảm,
làm cho câu văn thêm uyển chuyển, mềm mại.
a. Bài tập nhận diện các biện pháp tu từ trong đoạn văn.
Đây là dạng bài tập nhằm mục đích giúp học sinh nhận ra biện pháp tu từ
(so sánh, nhân hóa) trong đoạn văn. Dữ kiện là những đoạn văn miêu tả có sử
dụng các biện pháp tu từ. Lệnh của bài tập yêu cầu học sinh tìm ra những từ
ngữ, hình ảnh có sử dụng biện pháp tu từ và nêu tác dụng của chúng trong đoạn
văn đó.
Ví dụ: Gạch dưới các từ ngữ có sử dụng biện pháp nhân hóa và cho biết nó
có tác dụng gì trong đoạn văn sau:
Mắt, mỏ Chào Mào nhâng nháo, phởn phơ. Đứng đâu cũng nhún nhảy làm
điệu, đã thế đỉnh đầu lại chênh vênh đội lệch cái mũ nhung đen nháy.
10


(Theo Tô Hoài)


b. Bài tập rèn kĩ năng sử dụng các biện pháp tu từ.
Bài tập này có mục đích giúp học sinh vận dụng những kiến thức đã học về
biện pháp tu từ (nhân hóa, so sánh) để thêm bộ phận còn thiếu trong câu, đoạn
nhằm tạo ra những câu văn, đoạn văn gợi tả, gợi cảm. Bài tập được xây dựng
theo 2 mức độ: Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh so sánh hay nhân hóa vào chỗ thích
hợp và sử dụng các biện pháp tu từ để luyện viết câu văn có hình ảnh, cảm xúc.
Ví dụ: Điền các cụm từ ngữ cho trong ngoặc đơn vào chỗ trống trong đoạn
văn sau để có những hình ảnh so sánh đúng.
Chàng gà chọi
Đầu chàng to và hung dữ như………cái cổ bạnh và hai bắp đùi thì để lộ ra.
Da chàng đỏ gay, đỏ gắt, đỏ tía, đỏ bóng lên như……Mặt chàng lùi sùi những
mào, những tai, những mấy cái ria mép tím lịm như…….Một bên mắt thì lép mịt
mờ, còn một bên thì cứ chớp chớp nháy nháy như……….
(Theo Tô Hoài)

(có quét một lớp sơn thắm, mặt anh say rượu, cái vòng tròn vàng hoe, chiếc nắm đấm)
2.3.5. Giúp học sinh làm các dạng bài tập rèn kĩ năng sắp xếp, liên kết ý…
trong đoạn văn.
2.3.5.1. Dạng bài tập rèn kĩ năng sắp xếp ý.
Với bài tập rèn kĩ năng sắp xếp ý, học sinh sẽ ý thức rõ hơn về sự liên kết
này để viết ra để viết ra những đoạn văn miêu tả có các câu văn được sắp xếp
hợp lí, logic, thống nhất, mạch lạc về nội dung. Bài tập này yêu cầu học sinh dựa
vào ý để sắp xếp các câu trong đoạn văn thành một chuỗi các hành động, sự việc
liên tiếp nhau đề cập đến một đối tượng chung hoặc các đối tượng có mối quan
hệ mật thiết với nhau.
Dữ kiện là các câu văn miêu tả một bộ phận, một phần của đối tượng sắp
xếp lộn xộn, rời rạc. Lệnh của bài tập yêu cầu học sinh dựa vào sự liên kết ý của
cáccâu văn để sắp xếp lại trật tự của chúng thành một đoạn văn hoàn chỉnh.
Ví dụ: Hãy sắp xếp lại các câu sau trong đoạn văn sau sao cho hợp lí.
(1) Vườn nhà tôi khá rộng với đủ loại hoa quả, nhưng tôi thích nhất là góc

vườn phía đông trồng toàn cây ăn quả. (2) Nó được tôi rào lại như một khu
vườn riêng biệt. (3) Ngay sát chiếc cổng nhỏ, một bụi chuối đã trổ buồng.
(4)Cách đó không xa là cây dừa được trồng từ hồi ba tôi còn nhỏ xíu. (5) Những
trái chuối còn non lớn nhanh như thổi. (6) Mỗi lần nhìn mảnh vườn này, tôi lại
nhớ tới nội tôi, người đã dày công vun xới cho khu vườn thêm xanh tốt.
Khi thực hiện yêu cầu bài tập này, học sinh phải nắm được trình tự phát triển ý
của bài văn miêu tả cây cối, từ đó với có thể lựa chọn, sắp xếp một cách chính xác.
Đoạn văn đã được sắp xếp lại: (1), (2), (3), (5), (4), (6)
2.3.5.2. Dạng bài tập rèn kĩ năng xây dựng và liên kết đoạn văn.
Chương trình Tiếng Việt lớp 5 chỉ giới thiệu ba phép liên kết: phép lặp,
phép thế và phép nối với nội dung ngắn gọn, đơn giản và dễ hiểu. Hệ thống kĩ
năng liên kết câu chủ yếu được hình thành qua các bài tập thực hành. Tuy nhiên
kiến thức về các phép liên kết câu chưa được học sinh sử dụng vào việc viết văn,
nên đoạn văn của các em thường rời rạc. Do đó tôi thiết kế những bài tập rèn kĩ
11


năng sử dụng phương tiện liên kết trong đoạn văn và được chia thành ba nhóm
với mức độ đi từ thấp đến cao.
* Bài tập nhận diện phương tiện liên kết.
Mục đích của bài tập giúp học sinh phát hiện ra các phép liên kết dựa vào
các từ ngữ liên kết giữa các câu trong đoạn văn. Bên cạnh đó, sau khi phát hiện
được phép liên kết, các em thấy được công cụ của nó trong đoạn văn miêu tả.
Dữ kiện của bài tập yêu cầu học sinh phép hiện phép liên kết đã học trong
chương trình. Lệnh của bài tập yêu cầu học sinh phát hiện phép liên kết và nêu
được tác dụng của chúng trong đoạn văn.
Ví dụ: Từ ngữ nào được lặp lại trong đoạn văn? Việc lặp lại các từ ngữ
này có tác dụng gì?
Chấm có một thân thể nở nang rất cân đối. Hai cánh tay béo lẳn và chắc
nịch, hai vai tròn và cái cổ cao. Chấm ước ao có một mái tóc của Chấm từ thuở

bé cứ đỏ quạch và không sao dài được. Đôi lông mày của Chấm không tỉa bao
giờ, nó mọc lòa xòa tự nhiên, làm cho đôi mắt sắc sảo của Chấm dịu dàng đi…
(Chị Chấm, Đào Vũ)

* Bài tập vận dụng việc sử dụng các phép liên kết câu để hoàn chỉnh
đoạn văn miêu tả.
Dạy liên kết câu phải đi từ việc giúp học sinh nhận diện các hiện tượng liên
kết câu trên ngữ liệu sinh động, điển hình, từ đó rút ra những vấn đề mang tính
lý thuyết, khái quát để hướng các em vào quá trình giao tiếp cụ thể.
Bài tập có dữ kiện là đoạn văn đã bị lược bỏ các từ ngữ liên kết. Yêu cầu
học sinh lựa chọn trong số các từ ngữ đã cho hoặc phải tự tìm từ ngữ hợp lý nhất
điền vào chỗ trống để hoàn chỉnh đoạn văn.
Ví dụ: Tìm các từ ngữ thích hợp (trong ngoặc đơn, ở cuối bài) để điền vào
chỗ trống trong đoạn trích sau:
Sông Hương là một bức tranh phong cảnh khổ dài mà mỗi đoạn, mỗi khúc
đều có vẻ đẹp riêng của nó. Cứ mỗi mùa hè tới,……bỗng thay chiếc áo xanh
hằng ngày bằng thành dải lụa đào ửng hồng cả phố phường. Những đêm trăng
sáng….…là một đường trăng lung linh dát vàng……là một đặc ân của thiên
nhiên dành cho Huế.
(dòng sông, sông Hương, Hương Giang)
2.3.5.3. Dạng bài tập rèn kĩ năng phát hiện, sửa chữa lỗi và thực hành
viết đoạn văn.
Đoạn văn là yếu tố cấu thành văn bản, có chủ đề thống nhất, có kết cấu hoàn
chỉnh, được đánh dấu bằng việc viết thụt vào, kết thức bằng dấu ngắt xuống dòng.
Căn cứ vào đặc điểm của đoạn văn: “Đoạn văn mang những đặc điểm gần
giống như văn bản: hoàn chỉnh về nội dung và hình thức”. Đồng thời căn cứ vào
những loại lỗi học sinh mắc phải, tôi xây dựng thành hai bài tập lớn như sau:
a. Loại bài tập luyện phát hiện và sửa lỗi về nội dung.
- Dạng bài tập luyện phát hiện và sửa lỗi lạc chủ đề.


12


Giúp học sinh có kĩ năng nhận ra lỗi lạc chủ đề trong đoạn văn của mình
cũng như của người khác. Tức là học sinh có khả năng nhạy bén trong việc nhận
ra những câu phá vỡ tính liên kết chủ đề của đoạn văn.
Ví dụ: Đoạn văn dưới đây có bị mắc lỗi lạc chủ đề không? Nếu có, em
hãy sửa lại cho hợp lí.
“Chú mèo có bộ lông rất đẹp. Những đốm hai màu nâu, vàng nổi bật trên
màu trắng trông chú như một con báo gấm nhỏ. Mình chú to bằng quả mướp,
đầu như quả cam, đôi mắt xanh lè, bộ ria mép luôn luôn động đậy. Dáng đi của
chú uyển chuyển, nhịp nhàng. Phốc! Chú vọt ra chộp lấy con chuột. Khi nằm
ngủ hay sưởi nắng, cả thân hình chú cuộn tròn, cái đuôi giấu kín trong lòng”.
Trong bài tập này, học sinh sẽ phải tìm ra câu phá vỡ tính liên kết chủ đề
của đoạn văn. Chủ đề đang tả hình dáng lại có câu tả hoạt động “Phốc! Chú
vọt....”. Khi đã hiểu được sự bất hợp lí thì học sinh sẽ ghi nhớ và có cách sửa lại
hợp lí.
- Dạng bài tập luyện phát hiện và sửa lỗi câu mâu thuẫn nhau trong đoạn văn.
Dạng bài tập này giúp học sinh có kĩ năng nhận ra lỗi câu mâu thuẫn nhau
trong đoạn văn của mình cũng như của người khác.
Ví dụ: Không phải tất cả các đoạn văn dưới đây đều mắc lỗi logic (các
câu mâu thuẫn nhau). Em hãy phát hiện ra đoạn mắc lỗi và đánh dấu x vào
trước đoạn đó và sửa lại cho hợp lí.
“Trong nhà là ba gian phòng nhỏ. Một gian là buồng có kê hai cái giường
ngủ. Một gian tiếp khách và một gian dành cho em và chị Hương làm phòng học
tập. Tối tối, gia đình em thường ngồi quây quần bên ngọn đèn tỏa sáng ấm áp.
Êm đềm nhất là những buổi trời mưa, chúng em ngồi nghe bố kể chuyện kháng
chiến vô cùng thú vị”.
“Hôm nay em được mẹ đi thăm đồng. Cánh đồng trông đẹp như một tấm
thảm khổng lồ. Em nhìn thấy các cô, các bác nông dân đang say mê cấy lúa.

Những bông lúa chín vàng đang rung rinh như thầm cảm ơn các bác nông
dân”.
Như vậy, học sinh sẽ phải tìm ra câu văn trong đoạn văn tả cánh đồng. Câu
“Những bông lúa chín vàng….” không cùng chủ đề với nội dung đoạn văn tả
cánh đồng đang vào vụ cấy. Từ đó các em nắm được kiến thức và vận dụng sửa lại.
- Dạng bài tập phát hiện và sửa lỗi phần mở bài, kết bài không phù
hợp với nội dung bài viết.
Giúp học sinh phát hiện lỗi viết đoạn mở bài hoặc kết bài không phù hợp với
nội dung bài viết, các em sửa lỗi và từ đó tránh được việc mắc lỗi này trong bài
làm văn.
Ví dụ đề bài như sau: “Em hãy tả một cây đang ra hoa”.
Với đề bài này, một bạn đã viết phần mở bài, kết bài dưới đây. Em hãy xem
mở đề ấy xem có phù hợp với nội dung bài viết theo yêu cầu của đề bài không?
Nếu chưa thỏa đáng, em hãy sửa lại.
Mở bài: “Hôm nay là ngày chủ nhật, em được bố mẹ cho đi thăm công viên Bách Thảo”.
Kết bài:“Em rất thích được đi công viên như thế. Vì ở đây có nhiều trò chơi đa
dạng lí thú và bổ ích. Có lẽ vì thế mà mọi người hay đến đây để chơi”.
13


Học sinh sẽ nhận biết được sự bất hợp lí trong mở bài trên vì chưa ăn nhập
với đề bài hay chưa nêu được đối tượng sẽ tả theo yêu cầu của đề bài. Kết bài
cũng vậy, chưa sát với yêu cầu nội dung của đề.
Sau khi phát hiện và sửa sai trong mỗi bài tập là cơ hội để học sinh được
trải nghiệm, được thực hành, từ đó mà tích lũy được những kiến thức bổ ích để
áp dụng vào việc viết bài văn tả cảnh của mình.
- Dạng bài tập luyện phát hiện và sửa lỗi lặp chủ đề (lặp ý).
Học sinh có kĩ năng nhận diện được đoạn văn mắc lỗi lặp từ, lặp ý trong
bài văn của mình cũng như của người khác.
Ví dụ: Đoạn văn sau có bị mắc lỗi lặp từ, lặp ý không? Nếu có em hãy

chỉ ra những từ ngữ, ý bị lặp và sửa lại cho hợp lí.
“Bạn Tuấn năm nay vừa tròn mười tuổi. bạn có thân hình chắc khỏe. Bạn
có mái tóc cắt ngắn đen mượt. bạn có hàm răng trắng đều. Bạn có giọng nói
truyền cảm. Bạn có đôi mắt đen và to”.
Ở đây, học sinh sẽ phải tìm ra từ bị lặp là “bạn”. Khi đã hiểu được sự bất
hợp lí thì học sinh sẽ được ghi nhớ và thực hành sửa lại bằng cách thay thế bằng
các đại từ khác.
b. Loại bài tập phát hiện và sửa lỗi hình thức.
Trong các đoạn văn của các em học sinh lớp 5 chúng tôi nhận thấy học sinh
thường sử dụng sai phương tiện liên kết: đại từ, phép nối, cặp từ chỉ quan hệ…
Từ đó, tôi xây dựng bài tập giúp các em sửa lỗi này trong khi viết văn.
- Dạng bài tập nhận diện lỗi về phương tiện liên kết trong đoạn văn.
Giúp học sinh phát hiện được lỗi dùng sai phương tiện liên kết trong đoạn
văn. Các em hiểu được việc dùng sai này sẽ khiến cho nội dung đoạn văn có thể
bị hiểu sai lạc hoặc mâu thuẫn,…
Ví dụ: Các đoạn văn dưới đây có bị mắc lỗi về sử dụng phương tiện liên
kết không? Nếu có em hãy sửa lại cho phù hợp với nội dung đoạn văn.
+ Con đường bây giờ phẳng phiu thẳng tắp, hai bên có hàng phi lao thẳng
tắp. Và mặt đườngcòn đầy những ổ gà, sống trâu…, bạch đàn khi ấy mới trồng
bên đường, cây còn thấp, lá lơ thơ…
+ Nhà em có nuôi một con gà mái hoa mơ. Chú gà đã được khoảng một
kilôgam rồi. Mình chú tròn và to giống như cái ấm tích. Chú có bộ lông vàng
rất đẹp. Những cái cổ cao và dài luôn nghiêng ngóng để tìm thức ăn.
Trong bài tập này, học sinh sẽ tìm được trong đoạn thứ 2: Tả một con gà
mái những từ liên kết không phù hợp là: “Chú” (để gọi gà trống); “Những” để
chỉ nhiều con gà. Từ đó các em sẽ tìm được các từ thay thế hợp lí.
c. Dạng bài tập luyện cho học sinh tự tách đoạn văn trong bài văn.
Thực tế cho thấy, rất nhiều học sinh viết bài văn chưa biết tách đoạn ở đâu
cho đúng dẫn đến tình trạng “râu ông nọ cắm cằm bà kia” câu mang nội dung
của đoạn này lại bị tách sang đoạn kia, dẫn đến sai chủ đề. Bài tập dạng này giúp

14


cho học sinh có kĩ năng viết văn bản trong đó biết cách tách đoạn theo sự thay
đổi của nội dung.
Ví dụ đề bài: “Em hãy tả lại cô giáo của em”.
Yêu cầu: Trong bài văn của mình các phần tả hình dáng, tính tình, công
việc… nếu viết tách thành từng đoạn mang ý rõ ràng (cách này học sinh dễ viết
hơn) thì cần trình bày thành các đoạn mang đúng nội dung của đoạn và đúng
hình thức đoạn văn.
2.3.6 Bồi dưỡng vốn sống, tình yêu văn học cho học sinh thông qua các
hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ Tiếng Việt:
Để làm được điều này tôi đã tổ chức những buổi học ngoài lớp. Công khai
kế hoạch học ngoại khóa như: Giới thiệu cảnh đẹp quê em: Cảnh đẹp cánh đồng
lúa vàng thơm, Nhà máy giày da ANORA, Cảnh đẹp sông nước, Đài tưởng niệm
lịch sử, Đền Khánh Trạch, Chùa Thiên Vương, Khu nhà ở của chuyên gia Lọc
hóa dầu,... (thăm cảnh biển, cánh đồng lúa, quang cảnh trong sân trường…) cho
học sinh với những định hướng cụ thể.
Ngoài ra tôi cũng phối hợp với Tổng phụ trách Đội tổ chức giờ hoạt động
tập thể với các hình thức trò chơi dân gian, thi rung chuông vàng, đuổi hình bắt
chữ... để tất cả các em được tham gia, được giao lưu nhằm phát triển ngôn ngữ,
kĩ năng giao tiếp. Cùng học sinh tham gia vào các buổi sinh hoạt câu lạc bộ
Tiếng Việt nhằm giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú, định hướng nội dung
viết đoạn văn tốt hơn.

15


Một buổi sinh hoạt ngoại khóa của lớp
Luôn quan tâm, nhắc nhở các em tham gia tích cực giờ đọc sách tại thư

viện nhà trường, bên cạnh đó tôi còn xây dựng “Góc thư viện”, “Tủ sách, truyện
đọc” của lớp để các em có điều kiện đọc và học hỏi thường xuyên hơn. Hướng
các em tới những tác phẩm văn học gần gũi với cuộc sống của trẻ thơ như Dế
Mèn phiêu lưu kí (Tô Hoài), Góc sân và khoảng trời (Trần Đăng Khoa),…
Khuyến khích các em xem và tự học, tự đọc, tự tìm hiểu văn miêu tả trên sách
báo, trên kênh giáo dục và phương tiện truyền thanh, truyền hình, Internet. Hàng
tuần tôi thường tổ chức cho các em cuộc thi tập viết, tập nhìn nhận, tập quan sát
về các đối tượng miêu tả. Ngoài ra, trong 10 phút sinh hoạt đầu giờ tôi còn tổ
chức cho học sinh nghe những đoạn, bài văn hay. Các em còn được đọc nhiều
sách, truyện hay, bổ ích, ý nghĩa do Tủ Sách Lam Sơn mến tặng, sau mỗi câu
truyện, mỗi cuốn sách các em biết viết cảm nhận vào sổ tay của mình để rèn
luyện thêm kĩ năng viết đoạn văn.

16


Học sinh đọc sách, truyện ngoài giờ
2.4. Hiệu quả.
Qua thời gian áp dụng các biện pháp nhằm giúp học sinh trong lớp viết tốt
hơn đoạn văn trong bài văn miêu tả, Kết quả thu được khá khả quan.
- Tất cả học sinh của lớp đều đã nhận thức, nắm vững được tầm quan trọng
của việc viết các đoạn văn miêu tả. Kĩ năng viết đoạn văn của các em được nâng
lên rõ rệt. Có nhiều bài viết hay đã áp dụng được các biện pháp nghệ thuật văn học.
- Từng bước đưa chất lượng giảng dạy của mình đạt hiệu quả, vốn từ ngữ của
học sinh phong phú hơn. Học sinh biết liên kết đoạn văn ở bài Tập làm văn của mình.
Dưới đây là kết quả đánh giá kĩ năng viết đoạn văn giữa kì II của lớp.
Đề bài: Em hãy tả lại cánh đồng lúa chín vào một buổi sáng.
Kết quả bài thi của học sinh như sau:

Số

HS
25

Viết đoạn văn
hay

Viết đúng đoạn
văn

Viết đoạn văn
lủng củng

Chưa viết được
đoạn văn

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


7

28

17

68

1

4

0

0

Nhìn vào bảng thống kê ta thấy: Tỷ lệ học sinh biết vận dụng kĩ năng viết
đoạn văn đạt hiệu quả khá cao. Dưới đây là một đoạn văn trong bài kiểm tra của
em Nguyễn Như Bảo.

17


Nhiều học sinh đã có sự tiến bộ đáng kể. Trước đây, các em Nguyễn Ngọc
Ánh, Trần Thị Minh mắc khá nhiều lỗi. Dùng từ, đặt câu còn sai nhiều; dùng
nhầm lẫn các dấu câu; kĩ năng viết đoạn văn rất hạn chế. Nay các em đã biết
dùng từ khá hợp lí trong các tình huống cụ thể, và quan trọng là kĩ năng viết
đoạn văn được nâng lên rõ rệt.
Đây là một đoạn văn khi học bài 7C – Cảnh sông nước, của học sinh

Nguyễn Tuấn Dũng được tôi lưu lại.

18


Hoặc dưới đây là một đoạn trong bài: “Tả một đồ vật hoặc món quà ý
nghĩa sâu sắc đối với em” của học sinh Đỗ Thị Trang Nhung.

Còn đây là đoạn văn Tả cảnh buổi sáng trên cánh đồng lúa, của học sinh
Nguyễn Văn Chung.

3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Ở các giờ Tập làm văn nói chung và văn miêu tả nói riêng của học sinh lớp
5, việc rèn cho học sinh viết những đoạn văn không bị mắc lỗi về nội dung và
19


hình thức; viết những câu văn, đoạn văn sinh động, gợi cảm là hết sức cần thiết
và quan trọng. Bởi vì sau khi hoàn thành chương trình tiểu học, học sinh phải có
kĩ năng nghe, nói, đọc, viết các văn bản thông dụng.
Để thành công trong việc xây dựng hệ thống bài tập luyện tập chữa lỗi viết
văn miêu tả cho học sinh lớp 5 dựa trên cơ sở lí thuyết, cơ sở thực tiễn…phù
hợp với trình độ và tư duy của học sinh thì hệ thống bài tập này được đưa ra từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp và diễn ra theo trình tự sau:
- Trước tiên luyện cho học sinh biết phát hiện và sửa lỗi trong bài văn của
mình sao cho hợp lí.
- Cuối cùng là luyện cho học sinh viết những câu văn, đoạn văn sinh động, gợi
cảm. Như vậy trình tự luyện tập được diễn ra từng bước theo hướng phát triển,
trước tiên là yêu cầu viết đúng, sau đó mới yêu cầu viết hay.

3.2. Kiến nghị.
Về phía ngành Giáo dục đã tổ chức nhiều hội thảo, chuyên đề để giáo viên
nắm bắt, tiếp cận những vấn đề mới trong dạy học. Nhà trường đã quan tâm, tạo
điều kiện cho giáo viên tham quan thực tế, tổ chức dự giờ thăm lớp thường
xuyên; phát động phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm.v.v... để giáo viên được
học hỏi đồng nghiệp, đúc rút kinh nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ nhằm đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
Song đề đạt được những kết quả cao trong việc giáo dục học sinh nói chung
và trong việc dạy – học nói riêng, theo tôi, mỗi người giáo viên cần:
- Tích cực học hỏi đề nâng cao trình độ, tay nghề.
- Quan tâm sưu tầm tài liệu, nghiên cứu để tìm ra biện pháp hay, phù hợp
với từng tiết dạy.
- Quan tâm, gần gũi, động viên khuyến khích học sinh, giúp các em tự tin
để phấn đấu trong học tập.
- Đối với phân môn Tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả, giáo viên cần tổ
chức nhiều hoạt động ngoại khóa, cho học sinh đực thâm nhập thực tế cuộc
sống, giúp các em có thêm hứng thú học tập và bồi bổ kiến thức, khả năng cảm
thụ cái hay, cái đẹp để góp phần rèn kĩ năng làm văn miêu tả hay hơn.
Với “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 viết tốt đoạn văn miêu tả ở
Trường Tiểu học Xuân Lâm”, tôi hi vọng sẽ giúp cho học sinh có thể viết được
những câu, đoạn, bài văn đúng, hay hơn, đồng thời qua đó góp một phần nhỏ bé
giúp bản thân cũng như đồng nghiệp của mình sau này có một cách nhìn nhận
sâu sắc hơn để dạy học sinh viết tốt đoạn văn trong bài văn miêu tả.

20


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày16 tháng 4 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết:
Phạm Thị Thương

MỤC LỤC
TT

1

NỘI DUNG

TRANG

MỞ ĐẦU

1

1.1.
1.2
1.3
1.4
2

Lí do chọn vấn đề nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu


2.1
2.2
2.3
2.3.1

Cơ sở lí luận
Thực trạng
Các giải pháp thực hiện
Phân loại đối tượng học sinh phù hợp, chú ý nhiều đến đối
tượng học sinh chưa hoàn thành về viết đoạn văn.

2
2
4
4

2.3.2

Hướng dẫn học sinh biết cách nắm yêu cầu đề bài và quan
sát, tìm ý.

5

2.3.3 Xây dựng quy trình rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn miêu
tả.

6

2.3.4


Giúp học sinh biết cách sử dụng từ ngữ và các biện pháp
tu từ:

8

2.3.5 Giúp học sinh làm các dạng bài tập rèn kĩ năng sắp xếp,
liên kết ý… trong đoạn văn.
2.3.6 Bồi dưỡng vốn sống, tình yêu văn học cho học sinh thông
qua các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ Tiếng
Việt:

11

NỘI DUNG

1
1
1
1
2

14

21


2.4
3
3.1
3.2


Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận
Kiến nghị

16
18
18
19

Tài liệu tham khảo

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách hướng dẫn học Tiếng Việt 5 (tập 1A, tập 1B, tập 2A, tập 2B) – Nhà xuất
bản giáo dục Việt Nam.
2. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 (tập 1, tập 2) – Nhà xuất bản giáo dục.
3. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5 – Nhà xuất bản giáo dục.
4. Phương pháp dạy học Tiếng Việt của các tác giả PGS-Tiến sĩ Lê Phương Nga
- Nguyễn Trí.
5. Chuyên đề Bồi dưỡng Văn- Tiếng Việt lớp 5 của tác giả Nguyễn Thị Kim
Dung- TP Hồ Chí Minh
6. Văn miêu tả và Phương pháp dạy học văn miêu tả của tác giả Nguyễn Trí.
7. Những bài văn chọn lọc lớp 5 – Nhà xuất bản giáo dục.

22




×