Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Rèn kĩ năng đọc hiểu cho HS lớp 4 thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.24 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:
RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
THÔNG QUA HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM

Người thực hiện: Lê Văn Tú
Chức vụ: Phó hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Giang -Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2018

0


MỤC LỤC
1. Mở đầu:...............................................................................................................2
1.1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................2
1.2.

Mục đích nghiên cứu:...............................................................................2

1.3.

§èi tîng nghiên cứu:..............................................................................2

1.4.



Ph¬ng ph¸p nghiªn cøu:..............................................................2

1.5.

Nh÷ng ®iÓm míi cña s¸ng kiÕn kinh nghiÖm:..............2

2. Néi dung s¸ng kiÕn kinh nghiÖm:......................................3
2. 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:.................................................3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:..............4
2.3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề:....................................5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:.......17
3. Kết luận, kiến nghị..........................................................................................18
3.1. Kết luận......................................................................................................18
3.2. Kiến nghị: ................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................20

1


1. Mở đầu:
1.1. Lí do chọn đề tài.
Tiếng Việt là một bộ môn quan trọng chiếm ưu thế trong chương trình Tiểu
học. Nó không đứng độc lập mà được coi trọng, là cơ sở nền tảng vững chắc để
giúp học sinh lĩnh hội các kiến thức khoa học khác. Môn Tiếng Việt lớp 4 có
nhiệm vụ hoàn thành mục tiêu đặt ra của chương trình lớp học.
Đối với học sinh lớp 4 trong toàn trường Tiểu học Xuân Giang nói chung
đều thuộc địa bàn xã Xuân Giang, có đặc điểm nhận thức và hoàn cảnh gia đình
rất khác nhau. Đa số học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đọc, đặc biệt
là kĩ năng đọc hiểu các văn bản nghệ thuật còn chưa tốt. Vậy làm thế nào để các

em khắc phục được tình trạng này, giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp
trong nội dung từng văn bản, giúp các em giữ gìn sự trong trong sáng của Tiếng
Việt. Đó là điều mà tôi luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, thúc đẩy tôi tìm ra những giải
pháp tối ưu nhất để giúp học sinh rèn kĩ năng đọc - hiểu văn bản nghệ thuật được
tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trong quá trình dạy học tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng,
đội ngũ các giáo viên Tiểu học đã có nhiều cố gắng vận dụng các phương pháp
dạy học để nâng cao hiệu quả giờ dạy. Đặc biệt là các giáo viên giỏi đã thường
xuyên vận dụng linh hoạt các phương pháp, trau dồi kiến thức bản thân để góp
phần phát triển năng lực học tập của học sinh. Tuy nhiên do nhiều khó khăn khách
quan và chủ quan ( Trình độ chuyên môn còn hạn chế, đời sống khó khăn, cở sở
vật chất phục vụ cho giảmg dạy còn nghèo nàn. thiếu thốn, thiếu sự cập nhật
thông tin thường xuyên...) nên việc giảng dạy chưa đạt kết quả cao. Giáo viên
thường chỉ truyền đạt kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa tới học sinh một cách
áp đặt. Học sinh thụ động tiếp thu những gì do giáo viên truyền thụ, thường không
vận dụng được vốn kinh nghiệm sống của bản thân, không mở rộng được hiểu
biết, sự tiếp thu không gắn liền với thực tế.
Đa số việc đọc văn bản của học sinh lớp 4 mới chỉ dừng ở đọc hiểu mức độ
thấp, chất lượng chưa cao. Tôi muốn nêu ra một số quan điểm trong dạy học nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy tập đọc nói chung và kiến thức, kỹ năng đọc hiểu
thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm cho học sinh nói riêng.
1.3.

Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Xuân Giang huyện Thọ Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp là cách thức, là con đường giúp ta đạt tới mục đích sáng tạo.
Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của vấn đề cần nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu của tài liệu: Đọc tài liệu, sách giáo khoa, sách

tham khảo.
- Thực nghiệm quan sát: Dự giờ
- Phương pháp thể nghiệm dạy học: Soạn giáo án, tổ chức dạy học
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:

2


Trong nội dung môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và lớp 4 nói riêng,
Tập đọc là một trong 5 phân môn có vai trò quan trọng nhất, xuyên suốt chương
trình. Phân môn Tập đọc lớp 4 tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn, đặc
biệt chú ý đến kĩ năng đọc đúng ngữ điệu của văn bản nghệ thuật – văn bản phi
nghệ thuật và đọc đúng ngữ điệu của câu và các câu hỏi tìm hiểu bài cũng chú
trọng khai thác các chi tiết có giá trị nghệ thuật nhiều hơn. Giúp học sinh rèn kĩ
năng đọc - hiểu văn bản nghệ thuật là một yêu cầu cơ bản của dạy học Tập đọc nói
riêng và dạy học Tiếng Việt nói chung, góp phần đảm bảo những yêu cầu đổi mới
về môn Tiếng Việt trong mục tiêu giáo dục hiện nay. Song việc vận dụng các
phương pháp đổi mới trong dạy phải phù hợp với đặc điểm đối tượng học sinh ở
mỗi địa phương, mỗi vùng trên đất nước. Để học sinh có kỹ năng đọc, đọc hiểu tốt
thì giáo viên là người phải tự rèn luyện mình (đó là tự học, tự tìm tòi, nghiên cứu
phối hợp và vận dụng đổi mới phương pháp dạy học). Còn bản thân người học
( học sinh ) luôn phải được chủ động, tích cực và tự giác trong học tập. Đặc biệt
càng cần được thực hành nhiều hơn.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2. 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Để tổ chức dạy học cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc,
nắm bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý, sinh lý của học sinh khi đọc hay
cơ chế đọc là cơ sở của việc dạy đọc.
Phương pháp dạy đọc phải dựa trên những cơ sở khoa học. Nó phải dựa vào
những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học,văn học, sư phạm học, tâm lý ngữ

học để xây dựng, xác lập nội dung và phương pháp dạy học.
Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt có quan hệ mật thiết với
nhau, là việc sử dụng một bộ mã gồm hai phương diện. Thứ nhất, đó là quá trình
vận động bằng mắt, sử dụng bộ mã chữ- âm để phát ra một cách trung thành
những dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này được gọi là quá trình
đọc thành tiếng. Thứ hai , đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm sử dụng bộ mã
chữ - nghĩa là mối liên hệ giữa con người và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng
bên trong để nhớ và hiểu được nội dung những gì được đọc. Quá trình này gọi là
quá trình đọc hiểu.
Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác và ngày càng nhanh các
ký hiệu văn tự thành âm thanh. Vì vậy, chất lượng của đọc thành tiếng trước hết
được đo bằng hai phẩm chất: Đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy). Đó cũng
là hai kĩ năng đầu tiên của đọc. Khi đọc hiểu, mục đích của người đọc là làm rõ
nghĩa các kí tự, làm rõ nội dung và mục đích thông báo của văn bản. Lúc này quá
trình đọc không chỉ là sự vận động của cơ quan thị giác và cơ quan phát âm mà
còn là sự vận động của trí tuệ. Vì vậy, đọc có ý thức là một yêu cầu quan trọng của
đọc, trở thành một kỹ năng của đọc. ở đây ta gọi là kỹ năng của đọc hiểu.
Đọc hiểu là một hoạt động có tính quá trình rất rõ vì nó gồm nhiều hành
động được trải qua theo tuyến tính thời gian
Hành động đầu tiên của quá trình đọc hiểu là hành động nhận diện ngôn
ngữ của văn bản tức là nhận đủ tín hiệu ngôn ngữ mà người viết dùng để tạo ra
văn bản.
3


Hành động tiếp theo là hành động làm rõ nghĩa của các chuỗi tín hiệu ngôn
ngữ.
hành động cuối cùng là hành động hồi đáp lại ý kiến của người viết nêu
trong văn bản.
Quá trình hiểu văn bản bao gồm các bước sau:

+ Hiểu nghĩa các từ, các ngữ.
+ Hiểu các câu.
+ Hiểu các khối đoạn, tức là những tập hợp câu dùng để phát biểu một ý
trọn vẹn.
+ Hiểu được cả bài.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Thực tế những năm gần đây, cùng với các môn học khác, dạy học Tiếng
Việt trong trường Tiểu học đã có sự đổi mới về nội dung, phương pháp, hình thức
và vai trò sáng tạo của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng môn học. Trong xu thế
đó, việc dạy học đọc - hiểu cũng có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực
nhằm phát huy tính chủ động của người học.
Song khi dạy học đọc - hiểu cho học sinh lớp 4 còn nhiều hạn chế, tồn tại cả
ở nội dung chương trình và phương pháp dạy học của một số giáo viên, cụ thể như
sau:
- Hệ thống câu hỏi khai thác nội dung bài đọc mà SGK đưa ra về cơ bản là
phù hợp ( tuy có một số câu ý dài và khó đối với học sinh ). Song hình thức chưa
phong phú, vẫn chỉ ở dạng bài tự luận chứ chưa có dạng bài tập trắc nghiệm để hướng học sinh phân tích, khái quát hóa vấn đề lựa chọn.
- Trong khi đó, vài năm gần đây đề thi phân môn Tập đọc ( phần đọc hiểu ) và các môn học khác thì dạng bài tập trắc nghiệm là chủ yếu.
- Bản thân học sinh còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong việc tìm hiểu
từ ngữ; cảm nhận hình ảnh; khai thác hàm ý lời nói; nhận xét về nhân vật, chi tiết,
biện pháp nghệ thuật hay nhận biết tư tưởng, tình cảm của tác giả.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến rèn kĩ năng, khả năng tự
hiểu và tự cảm nhận cái hay của một văn bản nghệ thuật cho học sinh.
- Hầu hết bản thân giáo viên cũng chưa tự lồng ghép các câu hỏi trắc
nghiệm trong quá trình dạy đọc - hiểu các văn bản nghệ thuật trong chương trình
học cho học sinh. Chưa nói đến việc thường xuyên cho học sinh làm thêm các bài
tập đọc - hiểu dạng trắc nghiệm vào các buổi học tăng buổi để rèn kĩ năng và bồi
dưỡng tình yêu Tiếng Việt cho học sinh.
Kết quả thực trạng
Trong lần kiểm tra, khảo sát chất lượng đầu năm của nhà trường, kết quả

phần kiểm tra Đọc - hiểu trong môn Tiếng Việt của lớp 4 như sau:
Tổng số
HS
52

Điểm 1
SL
5

4
TL
9,6 %

4

Điểm 5
SL
47

10
TL
90,4%


Từ kết quả thực trạng trên cho thấy chất lượng của học sinh lớp 4 trường
Tiểu học Xuân Giang nói chung còn chưa tốt về kĩ năng đọc - hiểu. Chính vì vậy
mà tôi chọn đề tài nghiên cứu: “ Rèn kĩ năng đọc - hiểu cho học sinh lớp 4
thông qua hệ thống bài tập trắc nghiệm ”. Với mong muốn góp phần giúp cho
việc dạy Tập đọc nói riêng và dạy học môn Tiếng Việt nói chung của trường tôi
đạt kết quả cao hơn, đáp ứng được yêu cầu dạy học hiện nay.

2.3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề:
Có thể nói, dạy - học là hoạt động đặc trưng nhất, chủ yếu và quan trọng
nhất trong nhà trường. Quá trình dạy- học gồm hai hoạt động có quan hệ hữu cơ
với nhau: hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của HS.
Cả hai hoạt động này đều được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo
dục. Hoạt động học của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này chỉ
có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, sáng tạo với động
cơ nhận thức đúng đắn. Giáo viên chính là người điều khiển, tổ chức hoạt động
học của học sinh. Nhưng để đạt được hiệu quả giáo dục tốt nhất thì vai trò của người “cầm lái” lại vô cùng cần thiết và quan trọng. Người giáo viên phải là người
nắm rõ đặc điểm nhận thức, khả năng của đối tượng mình giáo dục. Vì mỗi học
sinh là mỗi một nhận thức, tư duy và tình cảm khác nhau. Vận dụng hệ thống bài
tập trắc nghiệm trong quá trình rèn kĩ năng đọc - hiểu văn bản nghệ thuật không
phải cứng nhắc, rập khuôn, mà phải phù hợp với từng thể loại văn bản nghệ thuật,
từng nội dung bài, từng đối tượng nhận thức, tình cảm của mỗi học sinh. Nhằm
mục đích giúp cho học sinh học tập tích cực, hứng thú và phát triển được cảm
nhận, tình yêu trước cái hay của mỗi một văn bản nghệ thuật.
Trên cơ sở đó, tôi đề ra năm giải pháp giúp HS rèn kĩ năng đọc - hiểu văn bản
nghệ thuật thông qua việc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm như sau:
1.Giúp học sinh tìm hiểu từ ngữ
Có thế nói việc tìm hiểu bài bắt đầu từ việc hiểu từ, nhưng như thế không có
nghĩa là để hiểu nghĩa văn bản. Chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách hiểu nghĩa
của từ được dùng trong một văn cảnh cụ thể của một bài văn, bài thơ. Song với
những câu hỏi khó ở dạng tự luận nên chuyển thành câu hỏi trắc nghiệm để bất kể
đối tượng học sinh nào cũng có thể hiểu và trả lời được.
Ví dụ 1: Bài văn “Một người chính trực” của Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng
( TV lớp 4 – T 1 – T 37) Câu hỏi 3 trong SGK là : Vì sao nhân dân ca ngợi những
người chính trực như ông Tô Hiến Thành?
Được chuyển thành câu hỏi dạng trắc nghiệm là.
Vì sao nhân dân ca ngợi những người chính trực như ông Tô Hiến Thành?
Chọn câu trả lời đúng.

a.Vì người chính trực bao giờ cũng thẳng thắn, tôn trọng sự thật, đặt lợi ích của
đất nước lên trên lợi ích riêng.
b.Vì người chính trực bao giờ cũng thẳng thắn, tôn trọng sự thật.
c.Vì người chính trực tài giỏi trong việc chỉ huy quân sĩ trên trận mạc.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh dựa vào những chi tiết, tình huống ứng
xử trong vở kịch để tìm câu trả lời đúng là A. Từ đó học sinh sẽ hiểu “Một người

5


chính trực” là một người như thế nào và hiểu được vì sao nhân dân ca ngợi
những người chính trực như ông Tô Hiến Thành?
Loại câu hỏi tìm hiểu nghĩa của từ cũng khá đa dạng. Có trường hợp nêu từ
ngữ để học sinh tìm hiểu ý nghĩa ( như đã nêu ở trên), có trường hợp lại yêu cầu
học sinh tìm từ ngữ biểu đạt ý nghĩa đó.
Ví dụ 2: Bài thơ “Con chim chiền chiện” của nhà thơ Huy Cận (TV4, tập 2, trang
148).
Câu hỏi 2 trong SGK là: Những từ ngữ và chi tiết nào vẽ lên hình ảnh con chim
chiền chiện tự do bay lượn giữa không gian cao rộng?
Được chuyển thành câu hỏi trắc nghiệm là: Những từ ngữ và chi tiết nào vẽ
lên hình ảnh con chim chiền chiện tự do bay lượn giữa không gian cao rộng? Chọn
câu trả lời đúng.
a. chim bay,chim sà/ bay vút/ bay cao/vút cao/cao vút/cao hoài/cao vợi/cánh
đập trời xanh/chim biến mất rồi/chỉ còn tiếng hót làm xanh da trời/ lòng chim vui
nhiều/hót không biết mỏi.
b. chim bay,chim sà/ bay vút/ bay cao/vút cao/cao vút/cao hoài/cao vợi/cánh
đập trời xanh/chim biến mất rồi.
c. chim bay,chim sà/ bay vút/ bay cao/vút cao/cao vút/cao hoài/cao vợi/cánh
đập trời xanh/chim biến mất rồi/đồng quê chan chứa/những lời chim ca.
Như vậy, rèn cho HS kĩ năng hiểu từ ngữ chính là đã giúp các em có khái

niệm ban đầu về đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật, biết lựa chọn cách hiểu đúng.
Trên cơ sở đó, học sinh sẽ biết chú ý tìm hiểu và thưởng thức vẻ đẹp của ngôn từ
trong tác phẩm văn học.
2.Giúp học sinh cảm nhận hình ảnh
Để hướng dẫn HS cảm nhận được hình ảnh gợi ra từ ngôn ngữ nghệ thuật,
SGK cũng đưa ra những câu hỏi khác nhau. Có câu hỏi yêu cầu học sinh chỉ ra
những hình ảnh các em cảm nhận được khi đọc đoạn văn, đoạn thơ. Lại có những
câu hỏi yêu cầu học tìm ra những chi tiết tạo nên hình ảnh. Hay yêu cầu học sinh
tái hiện hình ảnh, cảnh vật mà các em hình dung và cảm nhận được. Như vậy học
sinh đã trở thành người “đồng sáng tạo” với tác giả. Yêu cầu này khó đối với học
sinh đại trà, chỉ phù hợp với những HS khá, giỏi và có cảm nhận văn học tốt.
Ví dụ: Mỗi đoạn trong bài là một bức tranh đẹp về cảnh, về người. Hãy miêu tả
những điều em hình dung được về mỗi bức tranh? ( Bài “Đường đi Sa Pa” Tiếng
Việt 4 tập 2 – trang 102)
Hay( ở bài “Đoàn thuyền đánh cá”của nhà thơ Huy Cận, Tiếng Việt 4 tập2,
trang 59) Câu hỏi 3: Tìm những hình ảnh nói lên vẻ đẹp huy hoàng của biển?
Vì vậy nên gợi ý câu trả lời cho HS bằng câu hỏi dạng trắc nghiệm mà lại
không hạn chế được khả năng của học sinh khá, giỏi.
Ví dụ: Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật,
Tiếng Việt 4 – tập 2, trang 71)
Câu hỏi SGK là: Những hình ảnh nào trong bài thơ nói lên tinh thần dũng cảm và
lòng hăng hái của các chiến sĩ lái xe?
Được chuyển thành câu hỏi trắc nghiệm là:
Những hình ảnh nào trong bài thơ nói lên tinh thần dũng cảm và lòng hăng hái của
các chiến sĩ lái xe?
6


Chọn câu trả lời đúng
a. Bom giật, bom rung, kính vỡ mất rồi/ Ung dung buồng lái ta ngồi.

b. Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng/ Không có kính ừ thì ướt áo.
c. Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời/ Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
d. Tất cả những hình ảnh đã nêu trong câu trả lời a,b,c.
Với những câu hỏi này, học sinh không những được phát huy khả năng
khái quát hóa, tổng hợp mà còn được luyện tập cách cảm nhận những hình ảnh
mang tính nghệ thuật về cuộc sống. Qua đó khả năng cảm thụ hình tượng văn học
dần hình thành và phát triển.
3. Giúp học sinh khai thác hàm ý của lời nói
Các tác phẩm văn học vốn hàm súc và có nhiều tầng lớp ý nghĩa. Việc đọchiểu văn bản nghệ thuật thực chất là công việc khai thác hàm ý ẩn sâu trong câu
chữ, hình ảnh, hình tượng của tác phẩm. Đối với học sinh khá giỏi, yêu cầu này là
tương đối khó, còn đối với học sinh đại trà thì sao?
Như vậy một yêu cầu đặt ra đó chính là vai trò “cầm lái” của người giáo
viên. Tức là người dạy học phải biết biến những cái khó thành cái dễ, có tính gợi
mở cho HS.
Ví dụ 1: Bài “Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa” ( TV4, tập 2, trang 21)
Câu hỏi 1 trong SGK là: Em hiểu “nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc”
nghĩa là gì ?
Được đổi thành câu hỏi trắc nghiệm là: Em hiểu “nghe theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc” nghĩa là gì ? Chọn câu trả lời đúng.
a. Đất nước đang bị giặc xâm lăng, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc là phải chế tạo được những loại vũ khí có sức công phá lớn.
b. Đất nước đang bị giặc xâm lăng, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc là nghe theo tình cảm yêu nước, trở về xây dựng và bảo vệ đất nước.
c. Đất nước đang bị giặc xâm lăng, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ
quốc là phải xây dựng nề kinh tế nước nhà.
Ví dụ 2: Bài “Dòng sông mặc áo” ( Tiếng Việt 4, tập 2, trang 118 ) Câu hỏi 3
SGK là: Cách nói “dòng sông mặc áo” có gì hay?
Được đổi thành câu hỏi trắc nghiệm là: Cách nói “dòng sông mặc áo” có gì
hay? Chọn câu trả lời đúng.
a. Đây là hình ảnh nhân hóa sông mặc áo nhung tím gợi cảm giác lung linh,

huyền ảo.
b. Đây là hình ảnh nhân hóa sông mặc áo lụa đào gợi cảm giác mềm mại thướt
tha.
c. Đây là hình ảnh nhân hóa làm cho con sông trở nên gần gũi với con người và
làm thay đổi màu sắc của dòng sông theo thời gian, theo màu trời, màu nắng, màu
cỏ cây.
Việc hướng dẫn học sinh khai thác hàm ý của lời nói phải hợp lí, đảm bảo
tính vừa sức giúp học sinh tiểu học rèn kĩ năng đọc-hiểu, khám phá ý nghĩa sâu sa
của tác phẩm văn học.
4. Giúp học sinh biết nhận xét về nhân vật, chi tiết, biện pháp nghệ thuật.

7


Việc luyện cho học sinh biết nhận xét nhân vật, chi tiết, biện pháp nghệ thuật
trong bài văn, bài thơ, đoạn kịch,… là rất cần thiết bởi nó phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc đọc - hiểu.
Ví dụ 1: Bài “Khuất phục tên cướp biển” ( TV4, tập 2, trang 65)
Câu hỏi 2 trong SGK là: Lời nói và cử chỉ của bác sĩ Ly cho thấy ông là người thế
nào ?
Được đổi thành câu hỏi trắc nghiệm là: Lời nói và cử chỉ của bác sĩ Ly cho
thấy ông là người thế nào? Chọn câu trả lời đúng
a. Ông là người rất nhân hậu, điềm đạm nhưng cũng rất cứng rắn, dũng
cảm, dám đối đầu chống cái xấu, cái ác, bất chấp nguy hiểm.
b. Ông là người rất nhân hậu, điềm đạm.
c. Ông là người rất cứng rắn, dũng cảm, dám đối đầu chống cái xấu, cái ác,
bất chấp nguy hiểm.
Với các ý lựa chọn đưa ra, giáo viên giúp học tự căn cứ nào nội dung bài văn
mà lựa chọn đáp án đúng là a).
Ví dụ 2: Bài “Con chuồn chuồn nước ” (TV4 ,Tập 2, trang 127) câu hỏi 1 trong

SGK là: Chú chuồn chuồn nước được miêu tả bằng những hình ảnh so sánh nào?
Được đổi thành câu hỏi trắc nghiệm là: Chú chuồn chuồn nước được miêu tả bằng
những hình ảnh so sánh nào? Chọn câu trả lời đúng.
a. Bốn cánh mỏng như giấy bóng. Hai con mắt long lanh như thủy tinh.
b. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu.
c. Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân vân.
d. Tất cả các hình ảnh so sánh ở câu a,b,c
Với những yêu cầu trên, học sinh luôn được đặt trong tình huống có
vấn đề cần chọn lựa, khuyến khích các em bộc lộ cách hiểu, cách nghĩ, cách
đánh giá của mình về một vấn đề các em gặp.
5. Giúp học sinh nhận biết tư tưởng, tình cảm của tác giả.
Mỗi tác phẩm văn học là một thông điệp của nhà văn gửi tới người đọc.
Thông qua đó HS sẽ chia sẻ cảm xúc, tâm tình của mình với tác giả, có ý thức
muốn tìm hiểu, khám phá những điều tác giả đã kí thác trong tác phẩm văn học.
Ví dụ 1: Bài “Đường đi Sa Pa” ( TV4, Tập 2, trang 102 ) câu hỏi 4 trong SGK là:
Bài văn thể hiện tình cảm của tác giả đối với cảnh đẹp Sa Pa như thế nào ?
Được đổi thành câu hỏi trắc nghiệm là: Bài văn thể hiện tình cảm của tác giả đối
với cảnh đẹp Sa Pa như thế nào ? Chọn câu trả lời đúng:
a) Tác giả yêu tha thiết cảnh vật, con người ở Sa Pa.
b) Tác giả thích thú với sự đổi mùa trong một ngày ở Sa Pa.
c) Tác giả ngưỡng mộ, háo hức trước cảnh đẹp của Sa Pa, ca ngợi Sa Pa quả là
món quà diệu kì của thiên nhiên dành cho đất nước.
Với dạng câu hỏi này học sinh phải lựa chọn, khái quát hóa vấn đề để đưa
ra ý kiến đúng nhất là (c).
Như vậy, qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm tìm hiểu bài nêu trên, học sinh
được tập dượt, rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu văn bản nghệ thuật một cách bài bản,
đạt hiệu quả cao. Đồng thời giáo viên lại giám sát và kiểm tra được nhận thức của
từng học sinh, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Quan trọng hơn là mỗi học sinh
đều được học tập, làm việc chủ động, tích cực và đúng khả năng của mình. Từ đó
8



góp phần hình thành ở các em hứng thú khám phá vẻ đẹp muôn màu của thế giới
văn học.
* Các biện pháp tổ chức thực hiện.
Với năm giải pháp đưa ra nhằm rèn kĩ năng đọc - hiểu cho HS, tôi đã tiến
hành thực hiện trên ba nhóm biện pháp. Đó là:
1. Tổ chức dạy đọc - hiểu các bài tập đọc trong chương trình học
Để giúp HS học Tập đọc cũng như làm bài tập đọc - hiểu thông qua bài tập
trắc nghiệm đạt kết quả cao thì vai trò của người dẫn dắt là rất quan trọng . Giáo
viên phải nắm được nội dung, cấu trúc, mục tiêu, ý nghĩa và sơ sở xây dựng bài
tập trắc nghiệm của mỗi tác phẩm văn học. Điều quan trọng nữa là giáo viên cũng
cần nắm chắc khả năng nhận thức của từng đối tượng học sinh của mình để xây
dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm phát huy được vai trò triệt
để của mỗi người học.
Hiệu quả của một giờ tập đọc được đánh giá ở kết quả của sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa việc dạy đọc thành tiếng và dạy đọc - hiểu; khi hiểu nội
dung văn bản rồi, học sinh dễ dàng luyện tập đọc diễn cảm tốt. Như vậy, trước khi
hướng dẫn học sinh hiểu nội dung của một văn bản nghệ thuật thì giáo viên phải tổ
chức, hướng dẫn cho học sinh đọc thành tiếng tốt (đọc đúng, đọc lưu loát tác
phẩm). Sau đó mới tổ chức, hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi tìm hiểu bài.
* Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghệ thuật qua bài tập trắc nghiệm gồm 4
bước sau:
Bước 1: Giúp HS hiểu nghĩa của từng từ mới.
- Đối với những từ ngữ đã được giải thích trong SGK, giáo viên tổ chức cho
HS đọc thầm chú thích, có thể chọn một số từ khó để giải thích rõ hơn.
- Đối với những từ ngữ khác trong bài hay từ ngữ khó, giáo viên có thể
hướng dẫn HS giải thích bằng cách dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đặt câu…
Bước 2: Giúp HS nắm vững nội dung, yêu cầu câu hỏi và các gợi ý
trả lời.

Các biện pháp thực hiện :
- Cho HS đọc thầm hoặc đọc thành tiếng câu hỏi, gợi ý trả lời.
- Giáo viên nêu yêu cầu, gợi ý trả lời.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh trình bày câu trả lời.
Các biện pháp thực hiện:
- Tổ chức cho HS làm việc cá nhân, theo cặp, theo nhóm bàn.
- Tổ chức cho HS báo cáo kết quả bằng nhiều hình thức khác nhau.
- Trao đổi với HS, sửa lỗi cho HS hoặc tổ chức để học sinh giải đáp thắc
mắc cho nhau, góp ý cho nhau, tự đánh giá kết quả.
Bước 4: Kiểm tra, đánh giá kết quả.
Phân môn Tập đọc lớp 4 gồm 62 bài tập đọc : trong đó có 46 bài văn
xuôi, 16 bài thơ ( có 2 bài thơ của Bác Hồ được dạy trong cùng 1 tiết ).
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này, tôi đã xây dựng hệ thống bài tập trắc
nghiệm rèn kĩ năng đọc - hiểu cho HS lớp 4 thực hiện khi học các bài
tập đọc như sau:

9


Học kì 1: Các bài : Một người chính trực (tuần 4), Nỗi dằn vặt của An-đrâyca (tuần 6), Chị em tôi (tuần 6), Điều ước của vua Mi-đát (tuần 9), Văn hay chữ
tốt ( tuần 13), Cánh diều tuổi thơ(tuần 15), Kéo co ( tuần 16 ).
Học kì 2: Các bài : Anh hùng Lao động Trần Đai Nghĩa ( tuần 21 ), Đoàn
thuyền đánh cá ( tuần 24 ), Khuất phục tên cướp biển ( tuần 25 ), Bài thơ về tiểu
đội xe không kính ( tuần 25 ), Đường đi Sa Pa ( tuần 29 ), Dòng sông mặc áo
( tuần 30 ),Con chuồn chuồn nước ( tuần 31), Con chim chiền chiện(tuần 33)
Dưới đây là một số bài tập đọc - hiểu trong số những bài tập tôi đã xây
dựng và vận dụng trong quá trình dạy học để rèn kĩ năng đọc - hiểu văn bản nghệ
thuật cho HS lớp 4:
Ví dụ 1:
Chị em tôi

Em hãy khoanh tròn vào ý trả lời đúng với mỗi câu hỏi dưới đây:
1. Cô Chị xin phép ba đi đâu?
a. Đi xem phim.
b. Đi chơi cùng bạn.
c. Đi học nhóm.
2. Cô chị đã nói thật hay nói dối khi xin phép ba ?
a. Nói thật.
b. Nói dối.
3. Mỗi lần nói dối, cô chị có thấy ân hận không?
a. Có.
b. Không.
4. Câu chuyện cho chúng ta bài học gì?
a. Không thể nói dối mãi.
b. Nói dối sẽ làm mất lòng tin đối với người khác.
c.Cả hai ý a và b.
Ví dụ 2:
Đường đi Sa Pa
Em hãy khoanh tròn vào ý trả lời đúng với mỗi câu hỏi dưới đây:
1. Sa Pa là một huyện ở vùng nào của đất nước ta?
a. Vùng núi
b. Vùng đồng bằng
c. Vùng biển
2. Vì sao tác giả gọi Sa Pa là “món quà kì diệu của thiên nhiên”?
a. Vì phong cảnh của Sa Pa rất đẹp.
b. Vì sự đổi mùa trong một ngày ở Sa Pa rất lạ lùng, hiếm có.
c. Vì phong cảnh của Sa Pa rất đẹp và ở Sa Pa sự đổi mùa trong một ngày
rất lạ lùng, hiếm có
d. Vì phố huyện rực rỡ sắc màu.
3. Trong câu: “Chúng tôi đang đi bên những thác trắng xóa tựa mây trời,
những rừng cây âm âm, những bông hoa chuối rực lên như ngọn lửa.” tác giả

sử dụng nghệ thuật ( biện pháp) nào?
a. so sánh,
b. nhân hóa
c. so sánh và nhân hóa
4.Từ “áp phiên” trong bài có nghĩa là gì?
a. hôm trước phiên chợ
b. hôm sau phiên chợ
c. một ngày trong phiên chợ
5. Bài văn thể hiện tình cảm của tác giả đối với cảnh đẹp Sa Pa như thế nào?
a. Tác giả ngưỡng mộ, háo hức trước cảnh đẹp của Sa Pa.
10


b. Ca ngợi sa Pa là món quà kỳ diệu.
c. Ca ngợi vẻ đẹp độc đáp của Sa Pa.
d. Ca ngợi vẻ đẹp độc đáp của Sa Pa, thể hiện tình cảm yêu mến, tha thiết
của tác giả đối với cảnh đẹp của đất nước.
Với việc áp dụng việc dạy đọc - hiểu qua bài tập trắc nghiệm, tôi thấy học
sinh rất hứng thú, chủ động, tự giác trong học phân môn Tập đọc và hiệu quả dạy
học cao hơn so với việc hướng dẫn HS đọc - hiểu qua các câu hỏi SGK. Điều đó
được kiểm chứng bằng các bài kiểm tra trong các tiết học. Ví dụ khi học bài “Kéo
co” (tuần 16), tôi đã tiến hành cho HS thi làm bài kiểm tra đọc - hiểu và thấy kết
quả thật khả quan, cụ thể:
Tổng số
HS
52

Điểm 1
SL
2


4
TL
3,8 %

Điểm 5
SL
50

10
TL
96,2 %

2. Tổ chức rèn kĩ năng đọc - hiểu các văn bản ngoài chương trình cho học
sinh ở các buổi học tăng buổi.
Để rèn kĩ năng đọc - hiểu cho HS, tôi còn giúp các em làm quen, rèn kĩ năng
với việc đọc - hiểu các văn bản ngoài chương trình học qua dạng bài tập trắc
nghiệm. Cụ thể cứ hai tuần HS được học một tiết luyện kĩ năng đọc - hiểu. Với
mục đích giúp HS có tâm thế tự tin khi làm bài thi, mở rộng vốn
hiểu biết và trau dồi tình yêu Tiếng Việt.
Dưới đây là một số bài tập đọc - hiểu HS đã được rèn luyện:
Ví dụ 1: Đọc bài văn sau và trả lời các câu hỏi dưới đây:
Đua thúng
Đua thúng thường diễn ra trong các dịp lễ hội của cư dân vùng sông nước.
Để tổ chức một cuộc đua thúng, trước hết người tham gia phải có thúng chai.
Thúng chai có dạng khối hình tròn, đan bằng tre. Về thể lệ và quy định thi đua
thúng có thể một người một thúng hoặc hai người một thúng. Có khi dùng chèo và
cũng có khi không dùng chèo (không dùng chèo gọi là lắc thúng). Trước giờ xuất
phát, các vận động viên đều sẵn sàng trên dãy thúng xếp hàng ngang ở vạch xuất
phát (vạch xuất phát được đánh dấu bằng sợi dây thừng bắt ngang qua). Khi có

hiệu lệnh, tất cả xuất phát, ai đến tiêu (đích) trước và không phạm quy là người đó
chiến thắng. Rất vui là môn thể thao này được tổ chức dưới nước nên khi va chạm
để vượt lên nhau các thúng có thể bị lật chìm, và như thế là bỏ cuộc. Nhiều vận
động viên phải lóp ngóp dưới nước khi thúng bị lật…
Giải thưởng có khi chỉ là một chai rượu hoặc một lời khen cổ vũ của ngư dân
nhưng ai thắng cuộc đều rất hãnh diện vì đã mang điềm may về một vụ mùa bội
thu cho làng nghê của mình.
Theo Luyện Tập làm văn 4, NXBĐHSP)
I. Phần Đọc - Hiểu: Khoanh vào chữ cái trước ý trả lời đúng nhất
11


Câu 1: Đua thúng thường được tổ chức vào dịp nào ? Ở đâu ?
a. Tổ chức vào các dịp lễ hội ở miền núi.
b. Tổ chức vào các dịp cuối năm ở vùng sông nước.
c. Tổ chức vào các dịp lễ hội ở vùng sông nước.
d. Tổ chức vào các dịp cuối năm ở vùng biển.
Câu 2: Thúng dùng trong các cuộc thi có đặc điểm như thế nào ?
a. Thúng tròn như chiếc thúng thường dùng để đựng thóc gạo.
b. Thúng chai có dạng khối hình tròn, đan bằng tre.
c. Thúng chai có dạng khối hình tròn, làm bằng gỗ.
d. Thúng chai có dạng khối hình vuông, đan bằng tre.
Câu 3: Vận động viên như thế nào sẽ được công nhận là người chiến thắng ?
a. Đưa thúng vượt lên, về đích trước và không phạm quy.
b. Lắc đưa thúng vượt lên về đích mà không bị chìm.
c. Lắc (hoặc dùng mái chèo) vượt lên, nếu bị chìm phải lội nước về đích.
d. Lội dưới nước và đẩy thúng về đích trước.
Câu 4: Vì sao người thắng cuộc lại rất hãnh diện ?
a. Vì người thắng cuộc là người giỏi nhất và khéo léo nhất.
b. Vì người thắng cuộc sẽ được thưởng bằng một chai rượu hoặc lời khen.

c. Vì người thắng cuộc đã mang điềm may về vụ mùa bội thu cho làng
mình.
d. Vì người thắng cuộc có một chiếc thúng chai.
Câu 5: Câu “Có khi, giải thưởng chỉ là một lời khen cổ vũ của ngư dân.”
thuộc kiểu câu gì ?
a. Câu kể Ai làm gì ?
b. Câu kể Ai thế nào ?
c. Câu kể Ai là gì ?
d. Câu khiến
II. Phần luyện từ và câu.
Câu 1: Các dấu phẩy dùng trong câu “Thúng chai có dạng khối hình tròn,
đan bằng tre.” có tác dụng gì ? (0,5đ)
a. Ngăn cách các bộ phận cùng làm trạng ngữ.
b. Ngăn cách các bộ phận cùng làm vị ngữ.
c. Ngăn cách các bộ phận cùng làm chủ ngữ.
d. Ngăn cách trạng ngữ với chủ ngữ và vị ngữ.
Câu 2: Xác định chủ ngữ và vị ngữ, trạng ngữ trong câu sau :
“Để tổ chức một cuộc đua thúng, người tham gia phải có thúng chai.”
- Trạng ngữ: ……… …………………………………………………….
- Chủ ngữ : ……… ……………………………..……………………..
- Vị ngữ : ……… ………………………………..…………………….
Câu 3: Chuyển câu kể sau thành câu khiến: (1đ)
Các vận động viên vào vạch xuất phát.
………………………………………………………………………………..
Ví dụ 2 : Đọc bài văn sau và trả lời các câu hỏi dưới đây:
Ba anh đầy tớ
12


Một phú ông có ba anh đầy tớ, mỗi anh một tính: một anh rất cẩn thận, một anh

rất lo xa, còn một anh rất lễ phép. Phú ông đắc ý lắm.
Một hôm, cậu con cả của phú ông ngã xuống ao. Anh “cẩn thận” trông thấy
liền chạy vội về nhà xin phép cho vớt cậu lên nhưng vớt được lên thì cậu đã chết
rồi. Phú ông vác gậy đuổi đánh thì anh “cẩn thận” chạy mất.
Phú ông sai anh “lo xa” đi mua áo quan. Đi được một lúc anh mang về hai cái.
Thấy vậy phú ông quát :
- Ai bảo mày mua hai cái ?
- Dạ, con mua sẵn để cậu hai chết đuối thì có cái dùng ngay.
Phú ông vác gậy đuổi đánh, anh “lo xa”cũng chạy mất.
Chỉ còn anh “lễ phép” vẫn được lòng ông chủ. Một hôm, anh “lễ phép” và một
người nữa cáng phú ông đi chơi. Đi đến chỗ lội, anh vẫn vui vẻ, không một lời
phàn nàn. Phú ông khen :
- Anh khá lắm ! Cố lên ! Đến Tết, ta sẽ may cho một bộ quần áo mới.
- Anh “lễ phép” nghe nói, vội đặt cáng xuống vũng bùn, vòng tay, lễ phép nói :
- Con xin cảm ơn ông ạ !
TIẾNG CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM
I. Phần Đọc – Hiểu: Khoanh vào chữ cái trước ý trả lời đúng nhất
Câu 1: Phú ông đắc ý vì điều gì ?
a. Vì giàu, nuôi được ba đầy tớ.
b. Vì mỗi anh đầy tớ có một đức tính.
c. Vì có ba anh đầy tớ khoẻ mạnh.
d. Vì ba anh đầy tớ giỏi giang, thông minh .
Câu 2: Anh “cẩn thận” làm gì khi thấy cậu cả ngã xuống ao ?
a. Chạy về xin phép chủ cho vớt cậu.
b. Đợi cậu kêu cứu mới nhảy xuống.
c. Đợi cậu chết mới xuống vớt.
d. Nhảy xuống vớt cậu chủ lên ngay .
Câu 3 : Vì sao anh “lo xa” bị đuổi đánh ?
a. Vì anh lãng phí tiền mua hai áo quan.
b. Vì trong nhà không có chỗ chứa chiếc áo quan thứ hai.

c. Vì anh nói như rủa cho cậu hai chết.
d. Vì anh không làm theo lời dặn của ông chủ.
Câu 4: Truyện cho em thấy cái dở trong tính cách của ba anh đầy tớ là gì ?
a. Quá thật thà, ngây thơ.
b. Ngu ngốc, dốt nát, không biết tính toán .
c. Quá hiền lành, tốt bụng .
d. Cẩn thận, lo xa, lễ phép quá mức nên làm hỏng việc.
II. Phần luyện từ và câu.
Câu 1: Trong truyện trên có những loại câu nào ?
a. Câu kể, câu hỏi.
b. Câu kể, câu khiến.
c. Câu kể, câu cảm.
d. Câu cảm, câu kể, câu khiến, câu hỏi ?

13


Câu 2: Xác định chủ ngữ và vị ngữ trạng ngữ trong câu sau : “Đến Tết, ta sẽ
may cho anh một bộ quần áo mới.”
- Trạng ngữ : …………………………………………………………….
- Chủ ngữ : ……………………………………………………………..
- Vị ngữ : ……………………………………………………………….
Câu 3: Điền chủ ngữ, vị ngữ hoặc trạng ngữ vào chỗ trống thích hợp cho
hoàn chỉnh các câu sau:
a. Ở lớp, ……………………………………………………………….
b. ……………………………, chim hót líu lo.
Với việc được rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu các văn bản nghệ thuật ngoài
chương trình, bản thân tôi thấy kĩ năng của HS tiến bộ rõ rệt và học sinh luôn cảm
thấy tự tin khi gặp một bài đọc - hiểu không có trong chương trình học. Nó được
chứng minh qua lần kiểm tra học kì 1, kết quả phần đọc hiểu như sau:

Tổng số
Điểm 1
4
Điểm 5
10
HS
SL
TL
SL
TL
52
2
3,8 %
50
96,2 %
3. Tổ chức kiểm tra, đánh giá mức độ đọc - hiểu của học sinh qua bài tự kiểm
tra.
Bên cạnh việc tổ chức dạy và rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu cho học sinh qua
những bài tập đọc trong chương trình vào các buổi học chính và những bài ngoài
chương trình trong các buổi học tăng, tôi còn tổ chức cho HS làm bài kiểm tra
Đọc - hiểu với đề bài do tôi tự ra.
Dưới đây là ví dụ một số đề kiểm tra mà tôi đã tổ chức cho HS kiểm tra:
Ví dụ 1: ( Bài kiểm tra cuối kì 1 )
PHÁO ĐỀN
Không phải là pháo đùng, pháo tép, pháo hoa, pháo cao xạ,…Nó chỉ là pháo
bằng đất, đất sét thôi .
Nhà ai vượt ao làm nền, nhà ai đào giếng… và chỗ nào mà chẳng có đất. Lò
gạch đầu làng, đất sét có hàng đống. Nhiều tiết thủ công, học nặn quả chuối, quả
na, cái nồi,… nặn xong còn thừa vô khối là đất. Thế là có nó: chiếc pháo đền.
Đất sét có thứ vàng như pha nghệ, có thứ đen xám như màu chì. Chẳng sao.

Cứ nặn một nắm đất như cái ang cho lợn ăn, bé xíu, nhưng đáy phải mỏng, thật
mỏng, rồi giơ thẳng cánh, đập mạnh một cái xuống đất. Có một tiếng nổ to như
pháo đùng, đáy ang vỡ tung lên, từng mảnh đất sét còn nham nhở như bị xé . Một
cuộc thi. Pháo của ai nổ to, đáy vỡ rộng là người ấy được cuộc. Người thua phải
véo đất của mình hàn vào chỗ vỡ của người được. Đền đấy.
Anh nào đập không khéo, pháo xịt. Ai giỏi thì pháo nổ to, được đền nhiều.
Pháo xịt không được đền , mà còn xấu hổ nữa.
Tôi đã có lần phát khóc lên vì lúc bắt đầu chơi, hai nắm đất của hai người
bằng nhau, cuối cuộc chơi, nắm đất của tôi bằng bàn tay chỉ còn lại bằng hòn bi .
Còn nắm đất của bạn thì cứ lớn dần lên. Ức ghê. Chới gì bị thua mà chả ức!
Pháo đền là thứ trò chơi của con nhà nghèo. Không có đồ chơi sang trọng
đắt tiền thì kiếm tí đất mà chơi vậy. Không chơi thì chịu làm sao được.

14


Những trò chơi của tuổi thơ đã cho chúng tôi bao nhiêu phút sung sướng, có
khi còn quý hơn những món quà ăn được. Ai không được chơi hoặc không biết
chơi những trò chơi thơ bé quả là một thiệt thòi lớn, thiệt suốt đời…
Theo Băng Sơn
I. Phần Đọc – Hiểu: Khoanh vào chữ cái đặt trước câu trả lời đúng:
1. Pháo đền được làm bằng gì?
a. Đất sét.
b. Đất sét và thuốc pháo.
c. Giấy và thuốc pháo.
2. Cách làm pháo đền như thế nào?
a. Nặn một nắm đất thành hình quả pháo rồi châm lửa đốt.
b. Nặn một nắm đất tròn rồi nhồi thuốc pháo.
c. Nặn một nắm đất như cái ang cho lợn ăn, bé xíu, nhưng đáy phải mỏng,
thật mỏng.

3. Cách chơi pháo đền như thế nào?
a. Giơ thẳng cánh, đập vào quả pháo.
b. Giơ thẳng cánh, đập mạnh một cái xuống đất.
c. Giơ thẳng cánh, đập hai quả pháo vào nhau.
4. Luật chơi pháo đền như thế nào?
a. Pháo của ai to nhất, nổ to nhất là người thắng cuộc. Người thắng được
quyền lấy hết đất làm pháo của người kia.
b. Pháo của ai nổ to nhất là người thắng cuộc. Người thua phải cho người
thắng hết chỗ đất của mình.
c. Pháo của ai nổ to, đáy vỡ rộng là người ấy được cuộc. Người thua phải
véo đất của mình, hàn vào chỗ vỡ cho người thắng.
5. Cái tên “ pháo đền ” xuất phát từ đâu?
a. Từ người chơi đầu tiên.
b. Từ luật chơi.
c. Từ tên làng quê nghĩ ra trò chơi đó.
II. Phần Luyện từ và câu.
1. Trò chơi của các bạn gái trong đoạn văn sau tên là gì? Cách chơi như thế nào?
Em thử nêu ví dụ?
Pháo đền là thứ trò chơi của con nhà nghèo. Không có đồ chơi sang trọng
đắt tiền thì kiếm tí đất mà chơi vậy. Không chơi thì chịu làm sao được. Trong khi
bon con trai chúng tôi chơi pháo đền thì bọn con gái cũng có thể bẻ que rào, với
một quả cà pháo, chơi chắt chuyền miệng và nói những câu ca có vần có điệu rất
hay, vui tai ghê .
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………...
2. Em hãy kể tên các trò chơi có trong đoạn văn sau rồi nêu cách chơi mỗi trò đó?
Có bao nhiêu trò chơi tuổi bé. Cướp cờ, nhảy dây, chồng hoa chồng nụ, kéo
co, đánh trận giả, bán đồ hàng… Riêng pháo đền có cái thích riêng và hình như
chỉ có con trai thích nó.


15


Theo em, trong các trò chơi trên, trò nào các bạn trai thích chơi? Trò nào
các bạn gái thích chơi?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Ví dụ 2: ( Bài kiểm tra cuối học kì 2 )
Đọc thầm bài văn sau và khoanh tròn vào mỗi đáp án em cho là đúng.
ANH BÙ NHÌN
Một cái que cắm dọc, một thanh tre nhỏ buộc ngang, thành hình chữ thập.
Khoác lên đấy một cái áo tơi lá cũ, hoặc một mảnh bao tải rách, cũng có thể là
một manh chiếu rách cũng được. Trên đầu que dọc là một mê nón rách lơ xơ. Thế
là ruộng ngô, ruộng đỗ, ruộng vừng hoặc một ruộng mạ mới gieo…đã có một
người bảo vệ, một người lính gác : một anh bù nhìn. Để cho đủ lệ bộ, anh bù nhìn
cầm một cái vọt tre mềm như cần câu. Đầu cần buộc một túm nắm giấy, tốt hơn
thì dùng một túm lấ chuối khô tước nhỏ, giống như vẫn buộc ở đầu gậy của người
chăn vịt trên đồng.
Có nhiều loài chim bị mắc lừa, rất sợ anh bù nhìn, sợ cái cần câu ấy, vì chỉ
hơi thoàng gió thì từ tấm áo, cái nón, đến thanh roi ấy đều cử động, phe phẩy,
đung đưa …Bon trẻ chúng tôi đứng từ xa mà nhìn cũng thấy đúng là một người
đang ngồi, tay cầm que để đuổi chim…
Những anh bù nhìn thật hiền lành, dễ thương, chăm chỉ làm việc của mình,
chẳng đòi ăn uống gì và cũng chẳng bao giờ kể công . Các anh cũng không sợ
nắng gắt, gió lạnh, mưa bão. Anh có bị gió xô ngã thì rồi cũng có người đỡ anh
dậy, anh chẳng kêu khóc bao giờ.
Chỉ tiếc là cũng có những con chim ranh ma, một lần sà xuống biết đấy là
anh bù nhìn, không có gì nguy hiểm, không có gì đáng sợ thế là lần sau nó cứ

xuống và còn đi gọi cả đàn xuống, vừa tra ngô, tỉa đỗ,mà lại phải đi làm lại từ đầu,
vì chúng đã ăn hết cả hạt vừa gieo. Người ta vốn khôn ngoan hơn, lại phải thay lại
tấm áo, cái nón và cái cần câu mới, buộc thêm vào đấy nhiều mẩu giấy có các
màu, làm như đó là một người bảo vệ mới.
Bọn trẻ chúng tôi thích các anh bù nhìn ấy vì các anh không bao giờ dọa
chúng tôi, không bao giờ lên mặt hoặc cáu gắt, dù chúng tôi có ào xuống ruộng
bắt châu chấu, đuổi cào cào, giẫm cả lên cái mầm ngô, mầm đỗ mới nhú…
Quả là các anh bù nhìn hiền lành đáng yêu, đã giúp người nông dân, trong
đó có cha mẹ tôi, một cách khá tốt…
Băng Sơn
I.Phần Đọc - Hiểu: Khoanh vào chữ cái đặt trước câu trả lời đúng:
1. Anh bù nhìn được làm bằng gì?
a. Giấy và bao tải cũ.
b. Gỗ và áo tơi lá cũ.
c. Thanh tre, bao tải rách, áo tơi lá cũ.
2. Anh bù nhìn có “ nhiệm vụ ” gì?
a. Dọa trẻ con.
b. Dọa chim, bảo vệ ruộng mới gieo hạt.
16


c. Làm đồ chơi cho trẻ con.
3. Người nông dân làm gì khi lũ chim ăn hết hạt mới gieo ngoài đồng?
a. Gieo lại hạt và làm một anh bù nhìn mới.
b. Gieo lại hạt và làm bẫy chim.
c. Vừa làm bẫy chim vừa làm anh bù nhìn khác.
4. Các anh bù nhìn đáng yêu ở điểm nào?
a. Hiền lành, tốt bụng.
b. Vui tính, không cáu gắt.
c. Không dọa dẫm, cáu gắt, lên mặt với trẻ con, giúp người nông dân

bảo vệ ruộng mới gieo hạt.
II. Phần Luyện từ và câu:
1. Câu sau đây thuộc kiểu câu kể nào ?
Những anh bù nhìn thật hiền lành, dễ thương, chăm chỉ làm việc của mình,
chẳng đòi ăn uống gì và cũng chẳng bao giờ kể công .
a. Câu Ai làm gì?
b. Câu Ai là gì?
c. Câu Ai thế nào?
2. Chủ ngữ trong câu sau là gì?
Tay anh bù nhìn cầm một cái vọt tre mềm như cần câu.
a. Tay
b. Tay anh bù nhìn
c. Anh bù nhìn
3. Có thể thay từ ranh ma trong câu : Chỉ tiếc là cũng có những con chim ranh
ma, một lần sà xuống biết đấy là anh bù nhìn, không có gì nguy hiểm, không có gì
đáng sợ …bằng từ nào dưới đây :
a. Láu cá
b. Khôn ngoan
c. Thông minh.
4. Dấu hai chấm trong câu sau có tác dụng gì?
Thế là ruộng ngô, ruộng đỗ, ruộng vừng hoặc một ruộng mạ mới gieo…đã
có một người bảo vệ, một người lính gác : một anh bù nhìn.
a. Báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời giải thích cho bộ phận đứng
trước.
b. Báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là lời nói của nhân vật.
c. Báo hiệu bộ phận câu đứng sau nó là các ý liệt kê.
Với việc tổ chức cho HS được làm bài kiểm tra kĩ năng như đã làm, tôi
thấy chất lượng học môn Tập đọc của học sinh lớp 4 của nhà trường đã tốt hơn.
Nó được chứng minh ở kết quả học kì 2 vừa qua, điểm kiểm tra đọc - hiểu và kiểm
tra môn Tiếng Việt của học sinh đã có những chuyển biến rõ rệt so với chất lượng

đầu năm, cụ thể:
+ Điểm đọc - hiểu
Tổng số
Điểm 1
4
Điểm 5
10
HS
SL
TL
SL
TL
52
0
0%
52
100%
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:

17


Qua thời gian thực hiện dạy Tập đọc, đọc - hiểu với cách thức tổ chức như trên
thì học sinh lớp tôi đã rất chủ động, tích cực, hứng thú học tập và hiệu quả giờ tập
đọc đã cao hơn nhiều. Kết quả điểm đọc - hiểu và điểm môn Tiếng Việt qua lần thi
kiểm tra định kì cuối học kì 2 vừa qua, học sinh đã đạt kết quả cao hơn rõ rệt so
với các lần kiểm tra trước, cụ thể:
+ Điểm phần đọc - hiểu:
Tổng
Điểm 1

4
Điểm 5
10
Kì thi
số HS
SL
TL
SL
TL
52
KS đầu năm
5
9,6%
47
90,4%
52
Học kì 1
2
3,8%
50
96,2%
52
Học kì 2
0
0%
52
100%
+ Điểm thi môn Tiếng Việt:
Điểm 1
Tổng

Kì thi
số HS
SL
52
KS đầu năm
3
52
Học kì 1
2
52
Học kì 2
0

4
TL
5,8%
3,8%
0%

Điểm 5
SL
49
50
52

10
TL
94,2%
96,2%
100%


Với việc rèn kỹ năng đọc hiểu các văn bản nghệ thuật qua việc xây dựng bài
tập trắc nghiệm mà tôi thực hiện như đã nêu trên, tôi khẳng định rằng chất lượng
dạy học đọc - hiểu nói riêng và dạy môn Tiếng Việt nói chung sẽ được nâng cao
hơn.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Thông qua nghiên cứu và thực hiện sáng kiến này trong thực tế giảng dạy
đã giúp tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau:
- Với chương trình SGK mới giáo viên phải nghiên cứu kỹ SGK, các tài liệu
có liên quan đến môn học, nắm chắc mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp
giảng dạy, hình thức tổ chức dạy học phù hợp.
- Giáo viên phải năng động, sáng tạo khi lựa chọn những nội dung và
phương pháp nhằm khơi dạy tính tò mò, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của mỗi học sinh trong học tập.
- Việc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm phải phù hợp với nội dung bài
đọc, thống nhất với các kiến thức của các phân môn học khác; Khai thác được tối
đa vai trò chủ động, sáng tạo và phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Từ đó sẽ bồi
dưỡng cho trẻ tình yêu Tiếng Việt.
- Các câu hỏi và câu trả lời không quá nhiều ( Mỗi câu hỏi chỉ gồm
nhiều nhất 4 ý trả lời ). Tránh các câu hỏi phủ định của phủ định, không nên có
nhiều đáp án đúng hoặc đáp án của câu hỏi này có ở các câu hỏi khác.
Trên đây là một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 rèn kĩ năng Đọc - hiểu
thông qua việc xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm mà tôi đã đúc rút được.
Song trong quá trình nghiên cứu, tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy
18


tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ và ý kiến đóng góp của đồng nghiệp và các
đồng chí lãnh đạo để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn, góp phần nâng cao

chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh trường tôi nói riêng và học sinh lớp 4
nói chung.
3.2. Kiến nghị: Không.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG

Thọ Xuân, ngày 25 tháng 5 năm 2018

KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
Tôi xin cam đoan SKKN này do bản thân tự viết,
không sao chép người khác.
Người viết sáng kiến

Lê Văn Tú

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 - Tập 1, tập 2.
Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập 1, tập 2.
Sách thiết kế Tiếng Việt 4 - Tập 1, tập 2.
Dạy học Tập đọc ở Tiểu học - NXB giáo dục.
( PGS - TS Lê Phương Nga )
5. Phương pháp dạy học Tiếng Việt 4 - NXB giáo dục.

( PGS - TS Lê Phương Nga )

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP
LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI
TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Văn Tú
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Giang huyện Thọ Xuân

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại (Phòng,
Sở, Tỉnh...)

1.

Hình thành tính thật thà cho học sinh

PGD

Kết quả đánh
giá xếp loại
(A, B, hoặc
C)

C

2.
3.
4.

Tiểu học
Tiếng Việt
Tiếng Việt
Một số biện pháp nhằm nâng cao

PGD
PGD
PGD

C
C
C

2004
2009
2011

PGD

B

2014

Năm học

đánh giá xếp
loại
2001

chất lượng dạy phân môn Chính tả
5.

cho học sinh lớp 5
Bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho
đội ngũ giáo viên trường Tiểu học.

21



×