Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số kỹ năng khai thác kênh hình trong dạy học lịch sử 9 trường THCS quảng văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.92 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT QUẢNG XƯƠNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ KĨ NĂNG KHAI THÁC KÊNH HÌNH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 9 TRƯỜNG THCS QUẢNG VĂN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Phượng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Quảng Văn
SKKN thuộc lĩnh vực: Lịch sử

THANH HÓA NĂM 2018
1


MỤC LỤC
1.MỞ ĐẦU
...........................................................................................................1
1.1.Lí do chọn đề tài…………………………………………………………......1
1.2.Mục đích nghiên cứu………………………………………………………...2
1.3.Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………......2
1.4.Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….....2
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM………………………………...2
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm………………………………….....2
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…………….....3
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề………………………...........4
2.3.1.Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh………………………………....4


2.3.2.Xác định đặc điểm kênh hình sách giáo khoa Lịch sử 9…………………..5
2.3.3.Một số kĩ năng khai thác kênh hình trong quá trình dạy học……………...6
2.3.3.1.Kĩ năng khai thác kênh hình trong dạy học bài mới……………………..6
2.3.3.2.Kĩ năng khai thác kênh hình trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập…10
2.3.3.3.Kĩ năng khai thác kênh hình để rèn luyện năng lực thực hành cho học
sinh…. ………………………………………………………………………...11
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường…………………………………………..…..12
3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………………………………………………….14
3.1.Kết luận…………………………………………………………………….14
3.2.Kiến nghị…………………………………………………………………...15

2


1.MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ như hiện nay đòi hỏi
phải có một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo và tự chủ. Với mục tiêu đào tạo “con
người mới” trong thời kì hội nhập quốc tế đòi hỏi ngành giáo dục phải không
ngừng đổi mới về nội dung chương trình, phương pháp và cải tiến phương tiện
dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Trong điều kiện phát triển
của các phương tiện truyền thông, trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu,
học sinh được tiếp cận nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú từ nhiều mặt
của cuộc sống, có hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực tế hơn. Trong học tập,
học sinh không thoả mãn với vai trò của người tiếp thu thụ động, không chỉ chấp
nhận các giải pháp đã có sẵn được đưa ra mà còn tự học, tự tìm hiểu khám phá
những nguồn tri thức mới. Với vai trò là người tổ chức các hoạt động học tập,
người giáo viên phải không ngừng nỗ lực về mọi mặt, bên cạnh học tập nâng cao
trình độ chuyên môn còn phải nghiên cứu, tìm tòi và ứng dụng các phương pháp

tích cực vào quá trình giảng dạy nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp
các em tiếp thu kiến thức nhanh hơn, dễ hiểu, nhớ lâu và ứng dụng giải quyết
những tình huống cụ thể trong cuộc sống, từ đó góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện.
Đối với Lịch sử, một bộ môn khoa học được xếp vào ngành khoa học xã
hội thì việc ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực, sử dụng các thiết bị và
phương tiện dạy học có vai trò và ý nghĩa rất lớn. Lịch sử là một khoa học có
những đặc trưng riêng, khác với các ngành khoa học khác. Lịch sử là những gì
đã diễn ra trong quá khứ, chúng ta không thể tái hiện lại lịch sử trong phòng thí
nghiệm [1] hay “trực quan sinh động” trên thực tế. Chính vì thế đòi hỏi giáo
viên khi giảng dạy phải có những phương pháp và phương tiện phù hợp nhằm
nâng cao những hiểu biết của học sinh về lịch sử, tránh hiện tượng các em nắm
kiến thức mơ hồ làm sai lệch hay “hiện đại hóa” lịch sử. Một trong những
phương pháp dạy học tích cực là sử dụng đồ dùng trực quan, trong đó khai thác
và vận dụng có hiệu quả hệ thống kênh hình sách giáo khoa vào quá trình giảng
dạy là yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả bài học.
Tuy nhiên, làm thế nào để khai thác tốt, nhằm phát huy đúng vị trí, vai trò
của kênh hình trong quá trình giảng dạy lại là một vấn đề mà trên thực tế không
phải bất kì giáo viên nào cũng làm tốt được. Chính vì vậy, việc nắm vững những
kĩ năng cơ bản trong khai thác kênh hình thực sự là vấn đề cần thiết về chuyên
môn của giáo viên nói chung và giáo viên Lịch sử nói riêng.
Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Một số kĩ năng khai thác kênh
hình trong dạy học Lịch sử 9 ở Trường THCS Quảng Văn” làm đề tài nghiên
cứu, với mong muốn đóng góp một số gợi ý với đồng nghiệp về phương pháp sử
3


dụng kênh hình trong sách giáo khoa, góp phần vào việc đổi mới phương pháp
dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng.
1.2.Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu một số kĩ năng sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
học lịch sử lớp 9 nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giáo viên
và học sinh trong quá trình học tập, nhất là trong việc khai thác và sử dụng có
hiệu quả hệ thống kênh hình Sách giáo khoa nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
Đồng thời góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học, giáo dục ý thức học
tập tự giác và rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh.
1.3.Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số kĩ năng khai thác và sử dụng kênh hình trong
dạy học Lịch sử đối với học sinh khối lớp 9-Trường THCS Quảng Văn.
1.4.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp như: phương pháp khảo sát thực tế,
thu thập thông tin; phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết; phương
pháp thống kê.
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Lịch sử là một khoa học có những đặc điểm riêng biệt. Lịch sử là những
gì đã diễn ra trong quá khứ, không trực tiếp quan sát sự kiện, cũng không thể mô
phỏng lại trong phòng thí nghiệm. Vì vậy, phương pháp trực quan trong dạy học
lịch sử có vai trò rất lớn đối với quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh và hình
thành các kĩ năng học tập bộ môn của các em.
Trong dạy học Lịch sử, khai thác và sử dụng hệ thống đồ dùng trực quan
theo từng nội dung bài học là yêu cầu không thể thiếu. Để đáp ứng với yêu cầu
đổi mới phương pháp dạy học, bên cạnh “kênh chữ” hệ thống sách giáo khoa
hiện nay biên soạn tương đối nhiều “kênh hình” với mục tiêu bổ trợ kiến thức,
giảm tải và tăng tính hấp dẫn của bộ môn.
Hệ thống kênh hình góp phần quan trọng trong quá trình tạo biểu tượng
lịch sử cho học sinh, trên cơ sở ấy hình thành khái niệm, nêu qui luật, rút ra bài
học kinh nghiệm lịch sử, vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống [2]. Khai
thác và sử dụng tốt kênh hình trong dạy học còn có vai trò rất lớn trong việc
giúp học sinh hiểu sâu sắc bản chất sự kiện, nhớ lâu, hiểu sâu những hình ảnh,

những kiến thức lịch sử. Mặt khác, sử dụng tốt kênh hình trong dạy học còn giúp
học sinh phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ [3].
Trong học tập, khi quan sát bất kì một đồ dùng trực quan nói chung hay một
kênh hình nói riêng nào, học sinh cũng có khả năng nhận xét, hình dung, phán
đoán quá khứ lịch sử được phản ánh, các em suy nghĩ và diễn đạt bằng lời nói
chính xác, cụ thể về những sự kiện lịch sử đã qua.
Như vậy, hệ thống kênh hình sách giáo khoa đóng vai trò quan trọng trong
quá trình giảng dạy của giáo viên và trong quá trình tiếp thu kiến thức của học
sinh. Kênh hình như cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa học sinh với những
sự kiện lịch sử đã qua.
4


Tuy nhiên trong quá trình dạy học, hiệu quả bài học không chỉ là phần
kiến thức cơ bản học sinh cần phải nắm vững qua hệ thống “kênh chữ” mà còn
là kĩ năng khai thác, sử dụng “kênh hình” phục vụ yêu cầu bài học. Việc khai
thác và sử dụng kênh hình trong dạy học chỉ thực sự có hiệu quả khi giáo viên
nắm vững phương pháp sử dụng để hướng dẫn học sinh khai thác nội dung kiến
thức được phản ánh. Vì vậy nắm vững kĩ năng khai thác và sử dụng kênh hình
trong quá trình dạy học trở thành một vấn đề bức thiết.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 9, tôi nhận thấy rằng
trong chương trình học tập Lịch sử, các em phải tiếp thu một khối lượng kiến
thức khá lớn và tương đối phức tạp về lịch sử thế giới hiện đại (giai đoạn từ năm
1945 đến nay) và lịch sử dân tộc (giai đoạn từ năm 1919 đến nay). Để phù hợp
với đặc trưng bộ môn và đổi mới phương pháp trong dạy học, sách giáo khoa
lịch sử 9 đã biên soạn hệ thống kênh hình tương đối phong phú, hầu như tất cả
các bài học đều có tranh ảnh hoặc lược đồ. Đặc biệt, trong phần: Lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến nay, học sinh phải tiếp xúc và làm việc với rất nhiều kênh
hình có nội dung phản ánh khác nhau như tranh ảnh lịch sử, bản đồ, lược đồ các

chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Các kênh hình vừa là
nguồn cung cấp kiến thức, vừa là phương tiện để khai thác kiến thức. Việc sử
dụng kênh hình trong quá trình giảng dạy có ý nghĩa vô cùng to lớn, sẽ tạo nên
một không gian sinh động trong giờ học, giúp học sinh chủ động tiếp thu kiến
thức, nhớ kĩ, hiểu sâu những kiến thức đã học và góp phần phát triển kĩ năng
quan sát, khả năng phân tích, nhận xét, đánh giá và tư duy ngôn ngữ, thẩm mĩ
cho học sinh.
Thực tế cho thấy, nhiều giáo viên đã cố gắng đầu tư thời gian và công sức
để tìm hiểu và khai thác hệ thống tranh ảnh, lược đồ sao cho có hiệu quả cao
nhất trong giảng dạy. Giáo viên hướng dẫn học sinh học tập tích cực thông qua
các hoạt động làm việc với bản đồ, phân tích nội dung tranh ảnh, hoặc yêu cầu
các em sưu tầm các hình ảnh có liên quan đến nội dung bài học. Nhiều giáo viên
đã khai thác một cách triệt để và hài hòa hệ thống kênh hình trong giờ học, giúp
học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, tạo hứng thú trong giờ học và hiểu sâu hơn
về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử đang được tìm hiểu.
Tuy nhiên trên thực tế vẫn còn không ít giáo viên lúng túng khi khai thác
hệ thống kênh hình, vẫn còn quan niệm kênh hình chỉ là hình ảnh minh họa đơn
thuần, bình thường nên chưa có phương pháp khai thác và sử dụng hiệu quả, có
trường hợp chỉ giới thiệu kênh hình một cách chiếu lệ mà không khai thác để bổ
sung kiến thức, không tạo được hứng thú và tình huống để học sinh trả lời,
không cho học sinh đối chiếu so sánh, nhận xét hay thực hành. Vì vậy giáo viên
biến bài học thành công việc hỏi đáp kiến thức ở phần kênh chữ, bài học trở nên
khô cứng, thiếu sinh động, thiếu tính cụ thể, học sinh ít được làm việc với các
nguồn sử liệu, ít được bộc lộ suy nghĩ, các kĩ năng trong học tập nhất là kĩ năng
làm việc độc lập với đồ dùng trực quan chưa cao.

5


Mặt khác, khai thác kênh hình trong bài học không đạt kết quả sẽ không

tạo ra được sự rung động, cảm xúc của học sinh trước những sự kiện lịch sử, gây
ra sự nhàm chán không thích học lịch sử, dẫn đến tác dụng giáo dục tư tưởng
tình cảm của bộ môn sẽ bị hạn chế. Trên thực tế vấn đề khai thác và sử dụng
kênh hình trong giảng dạy của giáo viên có thể phân thành các trường hợp sau:
- Một bộ phận giáo viên nhận thấy vai trò, ý nghĩa của kênh hình và đã
khai thác, sử dụng vào bài giảng đạt hiệu quả, nâng cao chất lượng giáo dục.
- Một bộ phận giáo viên hiểu chưa hết vị trí, ý nghĩa của các kênh hình,
nên chưa khai thác vận dụng đúng đắn vào trong bài giảng, vì vậy hiệu quả bài
giảng chưa cao.
- Nhiều giáo viên nhận thức đầy đủ vị trí, ý nghĩa của kênh hình nhưng lại
ngại sử dụng, sợ mất thời gian hoặc sử dụng mang tính chất hình thức, minh họa
cho bài giảng.
- Có giáo viên lại sưu tầm nhiều hình ảnh sinh động, nhưng chỉ mang tính
giới thiệu, chứ chưa mang tính chất khai thác để nâng cao hiệu quả bài học.
Sở dĩ có hiện trạng như trên, phần lớn là do sự hạn chế của giáo viên
trong nhận thức về vị trí, ý nghĩa của kênh hình và nhất là hạn chế về kĩ năng
khai thác kênh hình. Việc khai thác kênh hình không hiệu quả sẽ dẫn đến mục
tiêu của bài học không cao, cụ thể:
Về kiến thức: học sinh nắm kiến thức không vững, không sâu, nhanh
quên và dễ “hiện đại hóa” lịch sử.
Về kĩ năng: học sinh ít được rèn luyện kĩ năng tư duy độc lập, khả năng
quan sát, phân tích, đánh giá và kĩ năng thực hành bộ môn. Đặc biệt về kĩ năng
khai thác tranh ảnh hay bản đồ của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Đa số các em
chưa có kĩ năng sử dụng và khai thác tốt hệ thống kênh hình. Cụ thể theo số liệu
điều tra như sau:
Số HS
86

Kĩ năng sử dụng kênh hình
Chưa đạt

Trung bình
SL
%
SL
%
35
40.7
36
41.9

Tốt
SL
15

%
17.4

Về thái độ: hạn chế việc giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh, bài học
chưa sinh động nên nhiều học sinh chưa yêu thích môn học, thờ ơ với quá khứ
và không thấy được những giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc của cha ông.
Với hiện trạng trên chắc chắn việc nâng cao chất lượng dạy học bộ môn
sẽ gặp nhiều khó khăn. Qua thực tế công tác giảng dạy, tôi đã đúc kết được một
số kinh nghiệm về kĩ năng khai thác kênh hình sao cho đạt hiệu quả cao trong
quá trình dạy học, với mong muốn đóng góp một chút kinh nghiệm nhỏ bé của
mình vào công tác đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
6



2.3.1. Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh.
Qua thực tế giảng dạy lớp 9 ở Trường THCS Quảng Văn, tôi nhận thấy
rằng các em học sinh đều rất hứng thú với việc tìm hiểu, khám khá kiến thức
lịch sử. Tuy nhiên do nhiều yếu tố tác động, các em không có nhiều điều kiện để
tiếp xúc với các nguồn tư liệu lịch sử, nên đứng trước những vấn đề mới các em
còn rất bỡ ngỡ và lúng túng.
Với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, trong những năm qua, bộ môn
Lịch sử đã được trang bị những đồ dùng trực quan cơ bản, cần thiết phục vụ cho
nội dung chương trình học tập. Mặt khác sách giáo khoa lịch sử hiện nay được
biên soạn hệ thống kênh hình tương đối đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản
đối với giáo viên và học sinh trong giảng dạy và học tập. Trên thực tế, khi giáo
viên sử dụng lược đồ hay tranh ảnh trong mỗi giờ học đều thu hút được sự tập
trung của học sinh, các em chú ý quan sát và lắng nghe.
Tuy nhiên một khó khăn lại nảy sinh là một bộ phận không nhỏ học sinh
chưa biết sử dụng và khai thác kiến thức từ kênh hình, chưa thấy được mối liên
hệ giữa các yếu tố được phản ánh trên tranh ảnh hay lược đồ với nội dung bài
học. Mặt khác, nhiều học sinh còn có tâm lý e ngại, chưa mạnh dạn tham gia xây
dựng bài và thực hành các hoạt động học tập trên lớp.
Vì vậy để sử dụng kênh hình trong giảng dạy đạt hiệu quả, giáo viên cần
khéo léo dẫn dắt học sinh khai thác kiến thức thông qua hệ thống câu hỏi phù
hợp với từng đối tượng học sinh, đồng thời biết động viên kịp thời để khích lệ
tinh thần tự giác, chủ động học tập của các em.
2.3.2. Xác định đặc điểm hệ thống kênh hình sách giáo khoa lịch sử 9.
Hệ thống kênh hình được đưa vào sách giáo khoa lịch sử 9 tương đối
phong phú, đa dạng, tổng số 92 kênh hình, bao gồm lược đồ và tranh ảnh lịch
sử. Cụ thể có 27 lược đồ, 6 tranh chân dung lãnh tụ, số còn lại là tranh ảnh lịch
sử.
Trong quá trình dạy học lịch sử, để phù hợp với đặc trưng bộ môn và đảm
bảo yêu cầu về mục tiêu đổi mới phương pháp, giáo viên cần xác định cụ thể

từng nhóm kênh hình để có phương pháp khai thác phù hợp, đồng thời xây dựng
kế hoạch sử dụng khoa học cho cả chương trình và cho từng bài cụ thể để khai
thác và sử dụng một cách thuận lợi, có hiệu quả và tránh được sự thiếu sót.
Để khai thác kênh hình trong sách giáo khoa có hiệu quả, giáo viên cần
lưu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Nắm được phương pháp cơ bản khi sử dụng các loại kênh hình:
Hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa lớp 9 về cơ bản có thể phân làm hai
nhóm chính sau:
Nhóm 1: Bản đồ, Lược đồ.
Nhóm 2: Tranh, ảnh lịch sử: bao gồm: Tranh ảnh phản ánh sự kiện lịch sử
và tranh ảnh về nhân vật lịch sử.
Do mỗi nhóm kênh hình có đặc điểm riêng và thể hiện nội dung khác
nhau, nên phương pháp khai thác cũng khác nhau và phải phù hợp, cụ thể là:

7


+ Đối với Bản đồ, lược đồ: Phương pháp chung là khai thác từng nội dung
vấn đề lịch sử đặt ra để đi đến hoàn thiện.
+ Đối với tranh ảnh lịch sử: Phương pháp chung là khai thác những chi
tiết của hình ảnh để đi đến đến hoàn thiện.
Thứ hai: Phải nắm được kiến thức cơ bản của kênh hình: Mỗi kênh hình
đều phản ánh một vấn đề liên quan đến nội dung bài học, vậy nên giáo viên phải
nắm rõ nội dung kênh hình phản ánh để chủ động, linh hoạt trong cách sử dụng,
tránh cách nói chung chung, không cụ thể hoặc thiếu chính xác. Để làm được
điều này, giáo viên cần phải tham khảo các nguồn tư liệu lịch sử như các loại
sách tham khảo, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách chuẩn kiến thức kỹ năng...
Thứ ba: Xác định mục đích cần hướng đến khi khai thác kênh hình. Khi
sử dụng kênh hình, giáo viên phải xác định cụ thể: về phần kiến thức cần hướng
dẫn học sinh khai thác vấn đề gì, và thông qua kênh hình cần rèn luyện kĩ năng

nào cho học sinh.
Thứ tư: Thiết kế câu hỏi hợp lý, trọng tâm. Hệ thống câu hỏi hợp lý, trọng
tâm có ý nghĩa rất quan trọng, không những phát huy được tính tích cực chủ
động, khả năng tư duy, ngôn ngữ của học sinh mà còn giúp học sinh hiểu sâu,
nhớ kĩ những kiến thức được tìm hiểu. Mặt khác hệ thống câu hỏi phải hướng
tới những đối tượng học sinh khác nhau, có nghĩa là câu hỏi phân loại dễ, khó
khác nhau để không những học sinh khá giỏi trả lời mà còn nhằm khuyến khích
những học sinh yếu có thể tích cực trả lời.
Thứ năm: Xác định thời điểm sử dụng kênh hình một cách hợp lí, phù hợp
với nội dung và tiến trình bài học. Không nên sử dụng quá nhiều kênh hình
trong một giờ học vì dễ làm học sinh phân tán, mất tập trung. Đồng thời khi sử
dụng kênh hình, giáo viên cần chú trọng hướng tới rèn luyện kĩ năng thực hành
cho học sinh ( Ví dụ : tường thuật diễn biến trên bản đồ, xác định vị trí các quốc
gia, nhận xét về nhân vật, đánh giá sự kiện…)
Thứ sáu: Khi sử dụng kênh hình, giáo viên phải luôn luôn theo dõi, kiểm
tra sự thu nhận của học sinh, giúp học sinh phân tích đánh giá, nêu kết luận hay
khái quát về nội dung được phản ánh qua kênh hình.
2.3.3.Một số kĩ năng khai thác kênh hình trong quá trình dạy học.
Sử dụng kênh hình trong dạy học là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi giáo
viên. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng không phải bất kì giáo viên nào cũng
thực hiện linh hoạt và khai thác có hiệu quả. Dạy học là một quá trình, trong quá
trình đó giáo viên không chỉ hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức mới mà còn
đánh giá kết quả học tập của học sinh. Qua mỗi bài học, học sinh không phải chỉ
nắm được kiến thức cơ bản mà các em còn phải được rèn luyện kĩ năng học tập
bộ môn, từ đó hướng tới rèn luyện kĩ năng sống cho các em. Vì vậy khi khai
thác kênh hình trong giảng dạy, giáo viên cần lưu ý nên sử dụng ở tất cả các
khâu của quá trình dạy học, ngoài sử dụng trong dạy học bài mới còn sử dụng
kênh hình trong luyện tập củng cố, trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập và
trong rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh. Với kinh nghiệm của bản thân,
xin nêu một số kĩ năng khai thác kênh hình như sau:

8


2.3.3.1.Kĩ năng khai thác kênh hình trong dạy học bài mới
*Kĩ năng khai thác bản đồ, lược đồ:
Sử dụng lược đồ là một yêu cầu cấp thiết trong dạy học lịch sử nhằm phát
triển tư duy cho học sinh. Trên lược đồ lịch sử, các sự kiện được thể hiện trong
một không gian, thời gian nhất định. Tuy nhiên, các sự kiện phản ánh trên lược
đồ không được trình bày rõ ràng, mạch lạc như kênh chữ mà được mã hóa bằng
các kí hiệu cụ thể với màu sắc và hình dạng khác nhau. Vì vậy, khi tổ chức dạy
học có sử dụng lược đồ, giáo viên cần phải nắm vững mối liên hệ giữa kênh chữ
với nội dung phản ánh của lược đồ, để từ đó xác định thời điểm sử dụng một
cách hợp lí, sau đó tiến hành khai thác theo các bước sau:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên lược đồ, nội dung lược đồ phản ánh, thời gian,
không gian, các kí hiệu của lược đồ ở phần chú giải.
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh khai thác kiến thức qua lược đồ.
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu
Bước 4: GV nhận xét, bổ sung, mở rộng và hoàn thiện kiến thức
Ví dụ : Khi dạy bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp xâm lược (tiết 2), giáo viên sử dụng kênh hình 45: Lược đồ chiến
dịch Việt Bắc thu - đông 1947, để khai thác kiến thức mục 1‘‘Thực dân Pháp
tiến công căn cứ địa Việt Bắc’’.
Giáo viên tiến hành các bước như sau:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu : đây là lược đồ Chiến dịch Việt Bắc thu đông
năm 1947, phản ánh kế hoạch tiến công của thực dân Pháp lên Việt Bắc và cuộc
kháng chiến của nhân dân ta bảo vệ Việt Bắc, thời gian vào mùa thu- đông năm
1947, tại căn cứ Việt Bắc. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và giới
thiệu các kí hiệu phần chú giải: Kí hiệu nơi quân Pháp nhảy dù có hình ảnh
chiếc dù, mũi tên màu đen là đường tiến công của địch, mũi tên màu đen đứt
khoảng là đường rút lui của địch, mũi tên màu xanh là đường tiến công và chặn

đánh của quân ta.
Bước 2: GV khai thác lược đồ thông qua hệ thống câu hỏi:
Câu 1: Dựa vào lược đồ, em hãy trình kế koạch tiến công lên Việt Bắc của
thực dân Pháp?
Câu 2: Em có nhận xét gì về kế hoạch tiến công của thực dân Pháp?
Bước 3: HS trả lời câu hỏi dựa trên lược đồ:
Đối với câu hỏi 1: Học sinh dựa vào bảng chú giải và trình bày: Thực dân
Pháp tiến công lên Việt Bắc theo ba cánh quân: binh đoàn dù đổ bộ xuống chiếm
chợ Mới, chợ Đồn, Bắc Cạn; một binh đoàn bộ theo đường số 4 từ Lạng Sơn
tiến lên Cao Bằng, sau đó một cánh quân sẽ vòng xuống Bắc Cạn; một binh
đoàn lính bộ và thủy ngược sông Hồng, sông Lô, sông Gâm lên Tuyên Quang,
Chiêm Hóa.
Đối với câu hỏi 2: học sinh quan sát tổng thể các hướng tiến quân của Pháp
trên lược đồ và đưa ra nhận xét: Pháp thực hiện chiến thuật “gọng kìm” nhằm
bao vây, cô lập căn cứ Việt Bắc, với mục tiêu phá tan cơ quan đầu não kháng
9


chiến và tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, khóa chặt biên giới Việt-Trung, ngăn
chặn liên lạc giữa ta với quốc tế...
Bước 4: GV bổ sung và hoàn thiện kiến thức bằng cách nhấn mạnh những điểm
trọng tâm trong kế hoạch tấn công lên Việt Bắc của thực dân Pháp.
Với cách sử dụng như vậy, giáo viên đã khắc phục được những nhược
điểm của cách dạy cũ như : thầy giảng, trò nghe; thầy đọc, trò ghi. Bây giờ, học
sinh được làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chủ động quan sát lược đồ,
đọc kí hiệu và phát hiện nội dung kiến thức. Từ vị trí giáo viên là người chủ
động, trò thụ động trong giờ học đã chuyển sang giáo viên là người tổ chức
hướng dẫn các hoạt động học tập, còn trò là người chủ động tự mình tìm kiếm,
khai thác kiến thức và trình bày trước tập thể lớp. Như vậy việc khai thác và sử
dụng lược đồ đã góp phần phát triển kĩ năng quan sát, tư duy, ngôn ngữ, trí

tưởng tượng cho học sinh, khắc phục tính thụ động, e ngại trong học tập.
*Kĩ năng khai thác tranh ảnh lịch sử:
Do hiện thực lịch sử là hiện thực của quá khứ nên học sinh không được
tiếp xúc với các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Mặt khác, do lịch sử là quá khứ, gần
hoặc xa, thậm chí là rất xa so với ngày nay nên con người không dễ gì hình dung
về quá khứ. Vì vậy tranh ảnh lịch sử luôn luôn được xem là những tư liệu quý.
Khai thác tranh ảnh lịch sử là một trong những cách tiếp cận lịch sử tốt nhất, có
khả năng đưa lại hiệu quả giáo dục cao nhưng không phải là công việc đơn giản,
dễ thực hiện. Ở đây ngoài vấn đề nhận thức lịch sử qua tranh ảnh còn có vấn đề
rèn luyện óc quan sát, kĩ năng mô tả cho học sinh. Vì vậy giáo viên phải có kĩ
năng hướng dẫn học sinh tiếp cận tranh ảnh lịch sử phù hợp. Nhìn chung khi tiến
hành khai thác tranh ảnh cần phải đi theo các bước sau:
Bước 1: Giáo viên cho học sinh quan sát tranh ảnh, giới thiệu khái quát nội
dung tranh ảnh cần khai thác.
Bước 2: Giáo viên đặt vấn đề cho học sinh tìm hiểu thông qua hệ thống câu hỏi
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu (có sự nhận xét bổ sung của học
sinh khác)
Bước 4: Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn thiện kiến thức
Tranh ảnh lịch sử bao gồm tranh về nhân vật lịch sử và tranh phản ánh sự
kiện lịch sử. Vì vậy ngoài việc tuân thủ những bước khai thác cơ bản như đã nói
ở trên, ở mỗi loại hình khác nhau, giáo viên nên có kỹ năng định hướng khai
thác khác nhau.
+Đối với tranh nhân vật lịch sử: giáo viên căn cứ vào yêu cầu kiến thức cơ bản
của bài học, có thể định hướng cho học sinh khai thác tranh theo 2 mức độ sau:
- Mức độ 1: Quan sát tranh và trình bày những nét cơ bản về tiểu sử của nhân
vật (ngày tháng năm sinh, quê quán, đặc điểm riêng...)
- Mức độ 2: Quan sát tranh và tìm hiểu lập trường quan điểm chính trị, những
đóng góp, cống hiến của nhân vật, quá trình hoạt động của nhân vật...

10



Trong chương trình lịch sử nói chung và lịch sử 9 nói riêng, có nhiều
tranh nhân vật lịch sử được đưa vào chương trình giảng dạy, nên trong quá trình
nghiên cứu bài lên lớp, giáo viên phải căn cứ vào mục tiêu bài học để xác định
mức độ khai thác kênh hình cho phù hợp, tránh trường hợp khai khác kênh hình
quá rộng, lan man, không làm nổi bật được kiến thức cơ bản.
Ví dụ: Khi dạy bài 6: Các nước Mĩ la tinh, giáo viên sử dụng kênh hình
15: tranh nhân vật Phi – đen Ca-xtơ-rô trong dạy phần kiến thức ở mục II: Cu Ba
– hoàn đảo anh hùng.
Ngay sau khi học sinh nắm được sự kiện: ngày 26/7/1953, 135 thanh niên
yêu nước Cu Ba dưới sự chỉ huy của Phi-đen Ca-xtơ-rô tấn công pháo đài Mônca-đa, giáo viên sẽ cho học sinh quan sát tranh và tiến hành khai thác theo các
bước sau:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu tranh
Bước 2: Giáo viên yêu cầu học sinh khai thác tranh qua 2 câu hỏi:
Câu hỏi 1: Em hãy cho biết những nét cơ bản về tiểu sử của Phi-đen Ca-xtơrô?
Câu hỏi 2: Trình bày những hiểu biết của em về quá trình hoạt động cách
mạng của Phi-đen Ca-xtơ-rô từ năm 1953-1959?
Bước 3: Học sinh trình bày kết quả tìm hiểu
Với câu 1: Giáo viên chỉ yêu cầu học sinh trình bày được những nét cơ bản sau:
Phi-đen Ca-xtơ-rô sinh ngày 13/8/1927, trong một gia đình chủ đồn điền ở tỉnh
Ô-ri-en-tê, ông tốt nghiệp Đại học Luật ở La-ha-ba-na.
Với câu hỏi 2: Đây là câu hỏi trọng tâm khi khai thác kênh hình này để làm nổi
bật vai trò của nhân vật đối với cách mạng Cu Ba, vì vậy học sinh cần làm nổi
bật quá trình hoạt động cách mạng của Phi-đen Ca-xtơ-rô qua các sự kiện sau:
Sau gần 2 năm bị giam cầm, năm 1955, Phi-đen Ca-xtơ-rô sang Mê-hi-cô tiếp
tục đấu tranh, tại đây ông đã thành lập tổ chức cách mạng lấy tên là “phong trào
26/7”, tập hợp các chiến sĩ yêu nước, luyện tập quân sự và chuẩn bị cho cuộc
chiến đấu mới. Tháng 11/1956, Phi – đen cùng 81 chiến sĩ yêu nước trở về trên
con tàu Gran-ma. Cuộc đổ bộ lên tỉnh Ô-ri-en-tê bị chặn đánh dữ dội, phần lớn

các chiến sĩ đã hi sinh, chỉ còn 12 người nhưng Phi - đen và các đồng chí của
mình đã kiên cường tiếp tục cuộc chiến đấu [4]. Được sự giúp đỡ của nhân dân,
từ cuối năm 1958, các binh đoàn cách mạng do Phi – đen làm Tổng chỉ huy liên
tiếp mở các đợt tiến công. Ngày 1/1/1959, chế độ độc tài bị lật đổ, cách mạng
Cu Ba giành thắng lợi.
Bước 4: Giáo viên kết luận, nhấn mạnh quá trình hoạt động cách mạng đầy
gian khó của Phi – đen và các đồng chí của ông trong những ngày đầu đấu tranh,
để từ đó học sinh thấy được vai trò lãnh đạo kiệt xuất của Phi – đen đối với cách
mạng Cu Ba.
+Đối với tranh phản ánh sự kiện lịch sử.
Khi sử dụng tranh lịch sử, giáo viên cần lưu ý khai thác các chi tiết trong
tranh để hoàn thiện thông tin lịch sử được phản ánh, sau đó tiến hành khai thác
theo các bước như trên.
11


Ví dụ: Khi dạy bài 6: Cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng 8
năm 1945, giáo viên sử dụng kênh hình 37: Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân.
- Bước 1: Giáo viên giới thiệu đây là bức tranh về hình ảnh Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, được thành lập ngày 22/12/1944.
- Bước 2: Giáo viên đặt vấn đề thông qua câu hỏi: Em có nhận xét gì về Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào thời kỳ đầu mới thành lập?
Để học sinh trả lời được câu hỏi trên, giáo viên phải dựa vào các chi tiết
trong tranh để gợi mở bằng các câu hỏi nhỏ: Ai là người chỉ huy Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân? Đội gồm bao nhiêu người? Trang phục, vũ khí
của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân như thế nào?
- Bước 3: Học sinh căn cứ vào câu hỏi gợi mở để trả lời vấn đề đặt ra
- Bước 4: giáo viên nhận xét và hoàn thiện kiến thức: ngày 22/12/1944, đồng
chí Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm

34 đồng chí, trong một khu rừng giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa
Thám (thuộc châu Nguyên Bình – Cao Bằng) [5]. Đội có nhiệm vụ vũ trang
tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự
cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau này, ngày 22/12 hằng năm
được lấy làm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam.
Với cách khai thác như vậy sẽ giúp học sinh hiểu về lực lượng vũ trang
đầu tiên của nước ta không phải được trang bị hiện đại như ngày nay, cũng
không phải là đông đảo về số lượng, từ đó tránh hiện tượng hiện đại hóa lịch sử.
Đồng thời cũng qua sự gợi mở của giáo viên, học sinh thấy được những cống
hiến to lớn của quân đội trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, từ đó
khơi dậy cho học sinh lòng khâm phục, tự hào về quân đội Việt Nam anh hùng,
lòng kính yêu đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh và niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng.
2.3.3.2. Kĩ năng khai thác kênh hình trong kiểm tra đánh giá kết quả học
tập.
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học nhằm
nắm bắt quá trình tiếp thu kiến thức và các kĩ năng học tập của học sinh. Đồng
thời, kiểm tra đánh giá còn có ý nghĩa to lớn về các mặt nhận thức, giáo dục và
phát triển, giúp giáo viên đánh giá được công tác giảng dạy của mình, thấy được
những thành công và những điều cần rút kinh nghiệm, để từ đó có những biện
pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy học [6]. Kiểm tra đánh giá không
chỉ là công việc của giáo viên mà của cả học sinh. Giáo viên kiểm tra đánh giá
kết quả học tập của học sinh. Học sinh tự kiểm tra và đánh giá lẫn nhau. Song
công việc này không nên tiến hành một cách tẻ nhạt, công thức như một số cách
làm truyền thống của giáo viên: yêu cầu học sinh học thuộc, lặp lại kiến thức ở
sách giáo khoa, sau đó trả bài cho mình. Kiểm tra đánh giá không thể chỉ dừng
lại ở việc xem học sinh có học thuộc hay không mà cần xem các em hiểu và vận

12



dụng kiến thức đã học như thế nào. Việc sử dụng kênh hình là một trong những
biện pháp tốt nhất để đánh giá kết quả học tập của các em.
Để sử dụng tốt kênh hình trong kiểm tra đánh giá, giáo viên nên khai thác
theo hai mức độ sau:
Mức độ 1: Yêu cầu học sinh nêu những hiểu biết hoặc mô tả, trình bày nội
dung phản ánh trên kênh hình.
Mức độ 2: Từ kênh hình, học sinh rút ra những nhận xét, kết luận, hay đánh
giá.
Ví dụ: Giáo viên sử dụng lược đồ: Chiến dịch Điện Biên Phủ để kiểm tra
bài cũ:
Ở mức độ 1: Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào lược đồ trả lời 2 câu hỏi:
Câu 1: Dựa vào lược đồ cho biết tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được xây
dựng như thế nào?
Câu 2: Dựa vào lược đồ, nêu diễn biến chiến chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ?
Với câu hỏi 1: Học sinh sẽ trả lời ngay được những nét cơ bản: tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ bao gồm 49 cứ điểm và chia thành 3 phân khu: Phân khu
trung tâm có sở chỉ huy và sân bay Mường Thanh, Phân khu Bắc và Phân khu
Nam [7].
Với câu hỏi 2: Học sinh dựa vào bảng chú giải nêu được những nét cơ bản
về diễn biến chiến dịch qua 3 đợt tiến công: Đợt 1: Quân ta tiến công và tiêu diệt
căn cứ Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc. Đợt 2: Quân ta tiến công tiêu diệt các
căn cứ phía đông phân khu trung tâm. Đợt 3: Quân ta đồng loạt tiến công tiêu
diệt các căn cứ còn lại.
Ở mức độ 2: Giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: Em đánh giá như thế
nào về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ do Pháp-Mĩ xây dựng và chiến thắng
Điện Biên Phủ của dân tộc ta?
Với câu hỏi này yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức để trả lời, học sinh sẽ
dựa vào kiến thức đã học và kiến thức về địa lý để đưa ra nhận xét, đánh giá: Về

điểm mạnh: Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được xây dựng kiên cố, tập trung
lực lượng lớn của địch với các phương tiện chiến tranh hiện đại, là tập đoàn cứ
điểm mạnh nhất ở Đông Dương. Về điểm yếu: Điện Biên Phủ ở vùng rừng núi
dễ bị cô lập, xa hậu phương của địch, mọi tiếp tế vận chuyển chủ yếu dựa vào
đường hàng không [8]. Trên cơ sở phân tích như trên học sinh sẽ nhận thấy rằng
nhân dân ta phải đối mặt với một “pháo đài” được xem là bất khả xâm phạm của
Pháp - Mĩ, với một lực lượng quân sự lớn và trang bị hiện đại, để từ đó học sinh
có thể đánh giá về thắng lợi của dân tộc ta: dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung
ương Đảng, dân tộc ta đã làm nên một chiến thắng vẻ vang, vang dội năm châu,
chấn động địa cầu, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp.
Với cách khai thác kênh hình trong kiểm tra kết quả học tập của học
sinh như trên sẽ giúp học sinh không những biết lịch sử mà còn hiểu lịch sử,
khắc phục tình trạng học sinh trả bài bằng cách học thuộc một cách máy móc,
học vẹt, nhanh quên, chỉ biết sự kiện mà không phân tích đánh giá được sự kiện.
13


2.3.3.3.Kĩ năng sử dụng kênh hình để rèn luyện năng lực thực hành cho học
sinh.
Mục đích của khai thác và sử dụng kênh hình không chỉ dừng lại ở phần
tìm hiểu kiến thức mà còn rèn luyện kĩ năng thực hành bộ môn cho học sinh,
giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Công tác
rèn luyện kĩ năng thực hành trong dạy học lịch sử được thể hiện ở hai mặt quan
trọng sau:
Thứ nhất: Thực hành bộ môn: đọc, sử dụng, vẽ các loại đồ dùng trực
quan như bản đồ, sơ đồ, đồ thị, lập bảng niên biểu, nêu diễn biến....
Thứ hai: Sử dụng kiến thức lịch sử đã học áp dụng vào thực tiễn.
Để rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh, giáo viên có thể sử dụng
kênh hình trong quá trình dạy bài mới, kiểm tra bài cũ, trong các giờ làm bài tập
và khai thác theo các hướng sau:

Đối với bản đồ, lược đồ về diễn biến trận đánh hoặc các cuộc khởi nghĩa:
giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng trình bày biễn biến ngay trên lược đồ, hoặc
sử dụng lược đồ trống yêu cầu học sinh đính các kí hiệu để thể hiện lại những
nội dung cơ bản của sự kiện.
Ví dụ: Giáo viên sử dụng lược đồ trống về diễn biến của Cách mạng
tháng Tám năm 1945, yêu cầu học sinh đính một số kí hiệu lên lược đồ thể hiện
những địa phương tiêu biểu giành được chính quyền.
Đối với lược đồ các khu vực địa lý (Lược đồ Châu Phi, Đông Nam Á, Mĩ
la tinh, Nhật Bản, Các nước SNG...): giáo viên yêu cầu học sinh lên xác định địa
điểm các nước hoặc khu vực, lưu ý là chỉ theo đường ranh giới của các nước
hoặc khu vực, không phải là chỉ một điểm trên lược đồ.
Ví dụ: Khi dạy bài: Các nước Đông Nam Á, giáo viên yêu cầu học sinh
lên xác định vị trí địa lí khu vực khu vực Đông Nam Á, sau đó xác định vị trí
của 11 quốc gia trong khu vực.
Đối với lược đồ thể hiện phong trào khởi nghĩa: giáo viên yêu cầu học
sinh đính các kí hiệu lên lược đồ nơi diễn ra các cuộc khởi nghĩa hoặc dựa vào
lược đồ để lập bảng thống kê (ví dụ lập bảng thống kê các cuộc khởi nghĩa theo
mẫu: Thời gian, tên khởi nghĩa, địa bàn hoạt động...)
Đối với tranh ảnh lịch sử: Giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm về tranh
ảnh phản ánh một sự kiện hay một thời kỳ lịch sử, hoặc tranh chân dung nhân
vật... liên quan đến nội dung bài học, đồng thời phải nêu được hiểu biết của các
em về tranh ảnh đã sưu tầm được.
Ví dụ: Khi dạy phần diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ, giáo viên
yêu cầu học sinh sưu tầm tài liệu, tranh ảnh về công tác chuẩn bị cho chiến dịch,
hoặc những bài thơ, những đánh giá của các sử gia về chiến thắng Điện Biên
Phủ.
Như vậy với mỗi dạng kênh hình giáo viên nên định hướng cách khai
thác để rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh. Đây là công việc không chỉ
giúp học sinh nắm vững kiến thức mà còn tạo ra sự hứng thú trong giờ học cho
các em.

14


2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua kiểm nghiệm thực tế, áp dụng kĩ năng sử dụng và khai thác kênh
hình trong dạy học, tôi nhận thấy hiệu quả bài học rất khả quan, học sinh yêu
thích môn học hơn, tự giác trong các hoạt động học tập, nắm vững, nhớ lâu nội
dung kiến thức. Cụ thể như sau:
Đối với hoạt động giảng dạy và kết quả giáo dục: mục tiêu bài học đạt
cao hơn trên các mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ.
Về kiến thức:
- Chuyển tải đầy đủ nội dung kiến thức của bài học, học sinh nắm vững kiến
thức cơ bản, kiến thức bài học được khắc sâu, rõ trọng tâm.
- Đảm bảo cân đối kiến thức kênh chữ và kênh hình.
Về kĩ năng:
- Học sinh được rèn luyện các kĩ năng thực hành: sử dụng lược đồ, vẽ lược
đồ, sử dụng tranh ảnh và các đồ dùng trực quan khác.
- Học sinh được rèn luyện khả năng tư duy độc lập, khả năng quan sát và
đưa ra nhận xét, đánh giá.
- Kĩ năng khai thác kiến thức từ kênh hình của học sinh được nâng cao hơn rõ
rệt so với trước khi thực hiện đề tài. Cụ thể như sau:
Số HS
86

Kĩ năng sử dụng kênh hình
Chưa đạt
Trung bình
SL
%

SL
%
3
3.5
51
59.3

Tốt
SL
32

%
37.2

Về thái đô:
- Hiệu quả giáo dục tư tưởng của bộ môn cao hơn: học sinh tự hào về truyền
thống lịch sử của dân tộc với những chiến công vang dội trong chiến đấu bảo vệ
đất nước, biết ơn sự hi sinh cao cả của các anh hùng, tự hào với những thành tựu
trong xây dựng đất nước...từ đó nâng cao ý thức tự học, tự rèn luyện cho các em.
- Học sinh hoạt động tích cực chủ động xây dựng bài, giờ học trở nên lôi
cuốn, hấp dẫn, không còn sự khô cứng của những con số, những sự kiện.
So sánh với kết quả khi chưa thực hiện đề tài tôi nhận thấy: Nhìn chung
chất lượng giờ học được nâng cao, tỷ lệ học sinh biết sử dụng và khai thác kênh
hình trong học tập Lịch sử tăng lên rõ rệt, số học sinh chưa biết sử dụng còn lại
rất ít. Do đó, kết quả học tập của các em ở học kỳ II cũng cao hơn nhiều so với
học kỳ I.
Học kì

Số HS


Học kì I
Học kì II

86
86

Giỏi
SL
4
6

Khá
%
4.7
7

SL
29
34

%
33.7
39.5

Trung bình
SL
%
43
50
44

51.2

Yếu
SL
%
10
11.6
2
2.3
15


Đối với bản thân giáo viên: Sau mỗi giờ học, tôi đã truyền đạt và khắc sâu
kiến thức cho học sinh. Bài học trở nên nhẹ nhàng, lôi cuốn, thu hút các em,
tránh được sự khô khan, nhàm chán, không khí của một tiết học trở nên sinh
động, hấp dẫn. Cũng qua việc sử dụng kênh hình, tôi đã dần khắc phục được
tính e ngại, không mạnh dạn xây dựng bài và nâng cao được các kĩ năng học tập
bộ môn cho học sinh, tạo nên được sự thân thiện, gần gũi, giúp các em tự tin hơn
trong học tập.
3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Dạy học nói chung, dạy học lịch sử ở trường phổ thông nói riêng là một
quá trình nhận thức đặc thù, trong đó giáo viên tổ chức, dẫn dắt học sinh một
cách có mục đích, có kế hoạch để học sinh nắm vững những tri thức cơ bản,
những kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực nhận thức, bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức và hình thành nhân cách cho các em. Trong quá trình học tập lịch sử, học
sinh không chỉ dừng lại ở việc ghi nhớ các sự kiện, điều quan trọng là phải hiểu
bản chất sự kiện, quá trình lịch sử, rút ra qui luật, tìm kiếm bài học từ quá khứ
để phục vụ cho hiện tại. Lịch sử là môn học cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ bản, cần thiết về những hoạt động của con người từ khi xuất hiện trên

trái đất đến nay trên bình diện quốc gia và quốc tế, với tất cả các lĩnh vực từ
kinh tế, chính trị đến văn hóa, quân sự, giáo dục, nghệ thuật… từ đó làm cơ sở
cho việc hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục tư tưởng tình cảm đúng
đắn cho học sinh. Đồng thời rèn luyện cho học sinh các kĩ năng hành động, ứng
xử phù hợp với môi trường tự nhiên, xã hội, phù hợp với yêu cầu phát triển của
đất nước và xu thế của thời đại.
Với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay nhằm đào tạo thế hệ trẻ năng
động, sáng tạo, phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi
hỏi người thầy không những có đạo đức trong sáng, tâm huyết với nghề nghiệp,
mà còn phải có một trình độ chuyên môn vững vàng. Để đáp ứng được yêu cầu
trên, người thầy phải không ngừng tự học, tự rèn luyện để nâng cao tay nghề,
đồng thời phải luôn tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng những phương pháp dạy học
tích cực vào quá trình giảng dạy.
Đối với giáo viên Lịch sử, sử dụng và khai thác kênh hình sách giáo khoa
trong dạy học sẽ góp phần tích cực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục nói chung
và phương pháp dạy học nói riêng. Hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa lịch
sử nói chung rất đa dạng và phong phú, bao gồm tranh ảnh về di tích lịch sử, di
vật khảo cổ, tranh chân dung nhân vật, bản đồ, sơ đồ, niên biểu... Đây là những
phương tiện trực quan cần thiết, không thể thiếu trong dạy học bộ môn này. Lịch
sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ, những nội dung lịch sử học sinh được
tìm hiểu các em không thể quan sát trực tiếp ngoài thực tế, do vậy việc tái hiện
lại lịch sử thông qua sử dụng kênh hình có một tác dụng rất lớn trong giáo dục

16


tư tưởng tình cảm, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và đáp ứng với
yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Thực hiện tốt khai thác kênh hình không những hoàn thiện những kĩ năng
sư phạm, nâng cao được trình độ chuyên môn của người thầy mà còn phát huy

tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập bộ môn. Khi giáo viên sử dụng
kênh hình đúng cách, đúng lúc sẽ kích thích tới các giác quan của học sinh, giúp
các em lưu trữ và xử lí thông tin, tăng sự chú ý quan sát và hứng thú học tập.
Thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng học sinh rất thích những tiết học có sử
dụng kênh hình vì các em như được tận mắt nhìn thấy được các sự kiện lịch sử
đã diễn ra, thấy được những hình ảnh của quá khứ, các em tập trung quan sát,
lắng nghe và nêu lên những suy nghĩ, những nhận định của mình về vấn đề được
đặt ra. Sau những giờ học như vậy, phần đông học sinh nắm vững và nhớ lâu
kiến thức, giờ học trở nên sôi nổi, học sinh học tập tích cực, hiệu quả bài học
cao. Chính vì vậy, việc sử dụng kênh hình sách giáo khoa trong quá trình dạy
học nhất thiết phải được giáo viên thực hiện sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Đồng
thời, trong khi sử dụng kênh hình để cung cấp kiến thức, giáo viên cần phải chú
ý hướng tới rèn luyện các kĩ năng sử dụng và khai thác kênh hình cho học sinh,
giúp các em phát triển một cách toàn diện hơn, đáp ứng được những yêu cầu cơ
bản của con người mới trong thời kì hội nhập quốc tế.
3.2.Kiến nghị
Các cấp quản lí giáo dục và nhà trường nên có sự đầu tư thích đáng cho
việc mua sắm các loại đồ dùng dạy học chất lượng cao.
Nhân viên thư viện, thiết bị nhà trường phải có trình độ chuyên môn vững
vàng để giúp đỡ giáo viên trong việc chuẩn bị đồ dùng dạy học.
Nhà trường nên đầu tư về cơ sở vật chất để học sinh có được những tiết
thực địa, tham quan, ngoại khoá, giúp các em có những hiểu biết sâu và rộng
hơn, từ đó thêm yêu thích môn học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 23 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người thực hiện


Nguyễn Thị Phượng

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1],[3]. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị: Phương pháp dạy học lịch sử. Nhà xuất
bản Giáo dục.
[2] Bộ giáo dục và đào tạo: Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS
môn lịch sử. Nhà xuất bản Giáo dục.
[4] ,[7]Phan Ngọc Liên- Đinh Xuân Lâm. Sách giáo khoa lịch sử 9. Nhà xuất
bản giáo dục Việt Nam.
[5],[8] Trần Bá Đệ: Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay. Nhà xuất bản đại học
Quốc Gia Hà Nội.
[6] Trường đại học sư phạm Hà Nội: Một số vấn đề về lịch sử. Nhà xuất bản đại
học Quốc Gia Hà Nội

18


DANH MỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO
DỤC HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN ĐÁNH GIÁ
ĐẠT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
Họ và tên: Nguyễn Thị Phượng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Quảng Văn
STT


Tên đề tài SKKN

1

Một số kinh nghiệm sử
dụng bản đồ trong dạy học
Lịch sử 7

Cấp đánh
giá, xếp loại

Kết quả đánh
giá xếp loại

Năm học đánh
giá, xếp loại

Phòng
GD&ĐT

C

2014-2015

19



×