Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử ở trường PTDTBT TTHCS thanh xuân quan hóa thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.67 KB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học
công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực của
cuộc sống. Hơn bao giờ hết con người đang đứng trước những diễn biến to lớn,
phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn
của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành Giáo dục
và Đào tạo nói chung và người giáo viên chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay,
đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và
sự tiếp nhận của con người có giới hạn, bởi vì sự nhận thức của con người nói
chung là tuyệt đối và không có giới hạn song sự thu nhận, hiểu biết kiến thức
của mỗi con người đều hữu hạn và tương đối.
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng
kiến thức chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất
lượng giáo dục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích
cực của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo
dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải
được thực hiện thông qua hành động và hành động của bản thân (tư duy và thực
tiễn). Vì vậy, việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý chí, năng lực, bồi dưỡng, rèn
luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục.
Qua nhiều năm giảng dạy môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS đặc biệt là
việc giảng dạy môn lịch sử 9 ở trường PTDTBT TTHCS Thanh Xuân nói riêng
cũng như từ khi thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học
tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lí luận cũng như thực tiễn. Nó có ý
nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn bởi vì đối tượng là học
sing lớp 9 thì về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận thức, năng lực tư
duy…của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở khối dưới. Nếu được
khơi dậy đúng mức tính tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt
động khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt
nhất cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc THPT nơi mà các em sẽ phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn.


Từ trước tới nay đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tích
tính cực của học sinh trong học tập lịch sử từ bậc THCS đến đại học. Tuy nhiên,
những vấn đề mà các nhà nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể
mà ít đi sâu vào một khối lớp cụ thể vì vậy trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ
xin lưu ý đến một khía cạnh gắn liền với việc giảng dạy nhiều năm môn lịch sử,
đó là một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 với mục đích là
góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn lịch sử nói
chung và môn lịch sử lớp 9 nói riêng ở trường PTDTBT TTHCS Thanh Xuân
nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi, học tập kinh nghiệm của
1


các thầy giáo, các đồng nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như
phương pháp dạy học. Những vấn đề mà tôi nêu ra trên cơ sở được trang bị
những kiến thức cơ bản nhất, phương pháp dạy học lịch sử cũng như việc sử
dụng phương pháp quan sát, thực nghiệm sư phạm ở trường THCS.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của
việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Điều này có nghĩa rằng
người giáo viên không chỉ giới hạn công việc của mình ở việc đọc cho học sinh
ghi chép những kiến thức có sẵn, bắt các em học thuộc lòng rồi kiểm tra điều ghi
nhớ của các em thu nhận được ở bài giảng của giáo viên hay trong sách giáo
khoa. Điều quan trọng là giáo viên cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản
(bao gồm kiến thức khoa học, sự hiểu biết về các quy luật, nguyên lí và các
phương pháp nhận thức…) làm cơ sở định hướng cho việc tự khám phá các kiến
thức mới, vận dụng vào học tập và cuộc sống. Vì vậy, việc khơi dậy, phát triển
tri thức, ý chí, năng lực bồi dưỡng, rèn luyện về học tập là con đường phát triển
tối ưu của giáo dục - đó chính là con đường lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ
thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giáo dục tích cực có hiệu quả của giáo
viên. Điều này được thực hiện trên cơ sở hoạt động tích cực, tự giác của học
sinh. Đây là tính ưu việt của phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh

được gọi là phương pháp dạy học mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ
hay còn gọi là kiểu dạy học truyền thống. Chính vì những lí do nêu trên, tôi
quyết định chọn sáng kiến “Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học
sinh lớp 9 trong dạy - học lịch sử ở trường PTDTBT TTHCS Thanh Xuân Quan Hóa - Thanh Hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những lý luận dạy học, kinh nghiệm giảng dạy và thực tiễn
của địa phương tìm ra những biện pháp dạy học môn Lịch sử theo phương
pháp dạy học tích cực, áp dụng vào thực tế giảng dạy ở trường PTDTBT
TTHCS Thanh Xuân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 9 trường PTDT Bán trú THCS Thanh Xuân - Quan Hóa Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện sáng kiến này, tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận.
2. Phương pháp khảo sát thực tiễn.
3. Phương pháp phân tích.
4. Phương pháp tổng hợp.
5. Phương pháp khái quát hóa.
6. Phương pháp quan sát.
2


7. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
1.5. Những điểm mới
Nghiên cứu một số giải pháp về việc thực hiện dạy học môn Lịch sử theo
phương pháp dạy học tích cực trong dạy học lịch sử cho học sinh trường
PTDTBT TTHCS Thanh Xuân, huyện Quan Hóa, trong năm học 2018-2019.
Trên cơ sở hoạt động tích cực, tự giác của học sinh. Đây là tính ưu việt của
phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh được gọi là phương pháp dạy
học mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ hay còn gọi là kiểu dạy học

truyền thống.
Nhìn nhận lại thực trạng của công tác giảng dạy môn Lịch sử theo phương
pháp dạy học tích cực trong dạy học lịch sử cho học sinh của trường PTDTBT
TTHCS Thanh Xuân, huyện Quan Hóa, trong năm học 2018-2019.
Đưa ra một số giải pháp về việc thực hiện công tác giảng dạy môn Lịch sử
theo phương pháp dạy học tích cực trong dạy học lịch sử cho học sinh của
trường trong giai đoạn hiện nay.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Về lí luận và thực tiễn, việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9
trong học tập môn Lịch sử là điều cần thiết và quan trọng để nâng cao hiệu
quả giáo dục. Đó chính là lí do chủ yếu để nghiên cứu vấn đề này. Nội dung
gồm 3 phần:
- Phần thứ nhất: Cơ sở lí luận của việc phát huy tính tích cực của học sinh
lớp 9 trong học tập Lịch sử ở trường THCS.
- Phần thứ hai: Thực tiễn của việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp
9 trong học tập lịch sử ở trường THCS hiện nay.
- Phần thứ ba: Những biện pháp sư phạm để phát huy tính tích cực của
học sinh lớp 9 trong học tập môn lịch sử.
Hiện nay có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Việc
xây dựng cơ sở lí luận là điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ môn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh lớp 9 là lớp cuối bậc
THCS vì vậy mục tiêu giáo dục đặt ra ở đây là các em phải nắm được những
kiến thức cơ bản nhất lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới được xuyên
suốt từ lớp 6 đến lớp 9. Các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả
năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng như có những tìm tòi trong tư
duy, sáng tạo.
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản. Xin

trích dẫn một vài ví dụ của giáo sư Phan Ngọc Liên để thấy rõ sự khác biệt đó:
3


Kiểu dạy học truyền thống

Phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực của học sinh

1. Cung cấp nhiều sự kiện được 1. Cung cấp những kiến thức cơ bản, được
xem là tiêu chí cho chất lượng lựa chọn phù hợp với yêu cầu trình độ của
giáo dục, nhớ tốt, thuộc lòng.
học sinh, nhằm vào mục tiêu đào tạo.
2. Giáo viên là nguồn kiến thức
duy nhất. Phần lớn thời gian trên
lớp dùng cho giáo viên giảng học
sinh chỉ chăm chú nghe và ghi
lại lời giáo viên.

2. Ngoài lời giảng của giáo viên trên lớp,
học sinh được tiếp xúc với những nguồn
kiến thức khác: Vốn kiến thức đã học, kiến
thức của bạn bè, trong sách giáo khoa, tài
liệu tham khảo, đồ dùng trực quan, thực tế
cuộc sống. Học sinh chăm chú nghe giảng
nhận thức và ghi những điều mình tiếp
nhận (kiến thức mới, vấn đề được đặt ra,
phương pháp).

3. Học sinh chỉ làm việc một 3. Học sinh ngoài việc tự làm việc, còn trao

mình Trên lớp, ở nhà hoặc với đổi, thảo luận với các bạn trong tổ, trên
lớp, ngoài giờ học hoặc đề xuất ý kiến,
giáo viên khi kiểm tra
thắc mắc, trao đổi với giáo viên.
4. Các vấn đề thu nhận ngoài ghi chép còn
4. Việc ghi chép được đơn giản
được thể hiện ở các bảng biểu, mô hình,
hóa, làm sao cho dễ nhớ.
các phương tiện trực quan, quy ước, giúp
cho học sinh trên cơ sở nhớ, biết để hiểu
sâu sắc và do đó nhớ kĩ, hiểu sâu, nắm
chắc các vấn đề.
5. Các môn học chỉ dừng lại ở
câu hỏi, bài tập,thực hành một
cách thụ động. Việc đánh giá kết
quả học tập được đo bằng trí
nhớ.

5. Ngoài câu hỏi kiểm tra, bài tập thực
hành, học sinh được tự đặt vấn đề, câu hỏi
để trình bày, trao đổi, được nêu ý kiến của
riêng của mình. Sự đánh giá kết quả học
tập căn cứ vào trình độ hiểu biết của học
sinh, đòi hỏi học sinh phải lập luận.

6. Việc dạy lí thuyết để nâng cao trình độ
6. Việc học lí thuyết không gắn nhận thức của học sinh, làm cơ sở để vận
với thực hành nhất là các môn dụng những kiến thức đã học vào thực
khoa học xã hội và nhân văn.
hành bộ môn và trong cuộc sống, qua đó

củng cố, làm phong phú kiến thức đã học.
7. Nguồn kiến thức thu nhận của
học sinh rất hạn hẹp, thường giới
hạn ở bài giảng của giáo viên,
sách giáo khoa, phòng thí
nghiệm, tài liệu tham khảo.

7. Nguồn kiến thức của học sinh rất phong
phú, đa dạng. Lời nói, tài liệu viết, đồ dùng
trực quan thực tế cuộc sống, các nguồn kiến
thức được sử dụng phù hợp với mục đích,
yêu cầu, trình độ học tập của học sinh.

Như vậy, qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát
4


huy tính tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, nó đòi
hỏi giáo viên và học sinh phải được “tích cực hoá” trong quá trình dạy - học,
phải chủ động sáng tạo. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc
của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách
mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như:
Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng
ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra.
Từ căn cứ đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp phát huy
tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy - học lịch sử ở trường PTDTBT
TTHCS Thanh Xuân - Quan Hóa - Thanh Hóa”.
2.2. Thực trạng vấn đề
Trong vài năm gần đây, bộ môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử lớp 9
nói riêng trong trường THCS đã được chú trọng hơn trước. Điều đó được thể

hiện ở chỗ môn Lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như Vật lí, Hoá
học… được tổ chức thi tuyển học sinh giỏi các cấp được cung cấp thêm các
trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy và học.
Tuy nhiên, qua 17 năm giảng dạy bộ môn này ở trường THCS tôi thấy
rằng việc dạy học môn Lịch sử hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn, trở
ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh tuy đã được phổ biến, học
tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả đạt được không đáng là
bao. Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn đối với học sinh lớp 9 khi ra trường
là không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra.
Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản
sau đây:
- Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Lịch sử
cũng như Địa lí, Kĩ thuật, Thể dục, GDCD … đều là những môn phụ. Điều này
được thể hiện việc quan tâm đến chất lượng bộ môn từ cấp lãnh đạo chưa đúng
mức. Theo tìm hiểu của cá nhân tôi nhiều trường không có giáo viên chuyên
Lịch sử mà giáo viên dạy Ngữ văn, Địa lí … có thể dạy Lịch sử do đó không đáp
ứng yêu cầu của bộ môn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
- Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được
đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay. Tình trạng dạy
chay vẫn còn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9
cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện tham quan một di tích Lịch sử vì không
có kinh phí. Điều đó làm cho vốn kiến thức kiến thức của các em chỉ bó gọn
trong sách vở và bài giảng.
- Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh
lớp 9 trong học tập bộ môn Lịch sử còn nhiều hạn chế một phần là do chính
những cơ chế, những quy định từ cấp trên. Trong những năm trở lại đây môn
lịch sử được quan tâm nhiều hơn, đồ dùng, tài liệu học tập được cung cấp đầy đủ
hơn nhưng do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học môn Lịch sử.
5



- Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế, đó là
chỉ chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ bài tập thực hành, không chú
ý đến việc phát triển năng lực sáng tạo.
- Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên. Sự
nguy hại của việc “thi gì học nấy” làm cho học vấn của học sinh bị què quặt,
thiếu toàn diện. Tình trạng mù Lịch sử hiện nay ở không ít học sinh là hậu quả
tất yếu của việc học lệch, không toàn diện. Đó là chưa kể đến việc coi thi, chấm
thi chưa nghiêm túc, đúng mực nhằm đảm bảo thành tích của nhà trường, của cá
nhân… làm cho kết quả học tập cua học sinh không đúng thực chất.
Phương pháp dạy học là một khoa học đồng thời cũng là một nghệ thuật.
Không có phương pháp nào là vạn năng có thể thay thế các phương pháp khác.
Vì vậy phải biết kết hợp đồng thời các phương pháp với nhau.
Bộ môn Lịch sử ở trường THCS được giảng dạy với tư cách là môn khoa
học mà đặc trưng cơ bản của nó là học sinh không trực tiếp quan sát. Sự kiện
lịch sử là cơ sở của nhận thức lịch sử. Muốn học sinh nắm được những kiến thức
phổ thông cơ bản của khoa học Lịch sử thì trước hết phải cung cấp cho các em
một hệ thống những sự kiện lịch sử cơ bản. Không khí lịch sử của giờ học phải
được tạo ra bởi chính sự sống động của các sự kiện lịch sử. Sự kiện đó phải
được học sinh thể hiện lại một cách sinh động, cụ thể, có hình ảnh. Chính vì vậy,
các biện pháp sư phạm được áp dụng trong giờ Lịch sử trước hết phải khôi phục
lại được bức tranh quá khứ, từ đó định hướng từng bước giúp các em từ sự kiện
lịch sử mà khám phá bản chất sự kiện, hiện tượng hay quá trình lịch sử. Trên cơ
sở đó hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, giáo dục tư
tưởng tình cảm, bồi dưỡng truyền thống dân tộc.
Cấu trúc của giờ học phải linh hoạt, mềm dẻo gây được hứng thú bất ngờ
và hấp dẫn cho học sinh. Không nhất thiết cứ phải tiến hành giờ học theo trình
tự các bước
Ví dụ: Không nhất thiết vào đầu giờ học là kiểm tra bài cũ, cuối giờ học là
củng cố kiến thức bài học mà có thể kiểm tra bài cũ của học sinh ngay khi cung

cấp kiến thức mới.
Nếu vận dụng tốt cấu trúc của giờ học sẽ tránh được sự nhàm chán, công
thức mà học sinh đã biết trước khi vào giờ học.
Phải xuất phát từ đối tượng cụ thể ở từng lớp học trong toàn khối lớp 9 để
xem xét khả năng tự nhận thức của học sinh mà tìm biện pháp phát triển ở các
em mặt nào đó của tư duy Lịch sử. Tư duy bao giờ cũng xuất phát từ cái cụ thể.
Tư duy Lịch sử bao giờ cũng nhiều nội dung, nhiều cấp độ từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Đó là tư duy tái tạo, trí tưởng tượng, khả năng phân tích,
so sánh, tư duy tổng hợp, tư duy lô gíc…
Chính vì vậy, ngoài việc sử dụng các biện pháp dạy học, người giáo viên
cần phải phân loại được các sự kiện, hiện tượng Lịch sử, xem kiến thức đó phát
triển tư duy nào cho học sinh.
6


Để thực hiện sáng kiến “Một số biện pháp phát huy tính tích cực của
học sinh lớp 9 trong dạy - học Lịch sử ở trường PTDTBT TTHCS Thanh
Xuân - Quan Hóa - Thanh Hóa”, tôi đã tiến hành khảo sát, thực nghiệm ở lớp
9 mà bản thân trực tiếp giảng dạy. Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành kiểm
tra khảo sát. Kết quả thu được như sau:
Lớp
9A

Sĩ số

Giỏi
SL

TL%


Khá
SL

TL%

TB
SL

Yếu
TL%

SL

TL%

40
0
0
8
20
27
67,5
5
12,5
2.3. Giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Sử dụng SGK nhằm phát triển tư duy cho học sinh
2.3.1.1 Sử dụng SGK để trình bày bài giảng
Sau khi soạn giáo án xong, cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong sách
giáo khoa, xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung tinh thần mà tác
giả mong muốn ở học sinh về từng mặt giáo dục, giáo dưỡng, phát triển…sau đó

đi sâu vào từng mục, tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan của kiến
thức đó với kiến thức cơ bản của toàn bài. Mỗi bài có từ 2 đến 3 mục nhưng
không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng
phần mà phải xác định phần nào lướt qua, phần nào là trọng tâm thì dành thời
gian nhiều hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
xâm lược kết thúc (1953-1954)”[1]. bài gồm có 4 mục thì mục II là mục quan
trọng nhất, do dó phải đầu tư thời gian nhiều nhất.
Trong bài dạy thường có các tranh ảnh, bản đồ … nếu không có bản đồ in
sẵn thì ta phải phóng to bản đồ trong SGK để phục vụ bài dạy.

Hình 53. Hình thái chiến trường trên các mặt trận Đông - Xuân 1953 - 1954[1]
7


Như vậy, SGK là điểm tựa để người giáo viên xác định kiến thức cơ bản,
xác định các khái niệm cần hình thành cho học sinh, là sự gợi ý để lựa chọn
phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng, vừa phát huy tính tích cực hoạt
động độc lập của học sinh.
2.3.1.2. Sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học trên lớp
Trong giờ học, học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi đối
chiếu, so sánh với SGK, thậm chí có những em không thích ghi theo bài giảng
của giáo viên mà lại chép trong SGK. Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên
lặp lại ngôn ngữ trong SGK mà nên diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946 - 1954)” [1] khi dạy phần IV chiến dịch Việt Bắc
thu - đông năm 1947 giáo viên có thể vừa chỉ bản đồ vừa phân tích:
- Sáng 7/10/1947 thực dân Pháp cho một cánh quân nhảy dù xuống Bắc
cạn, Chợ Mới, Chợ Đồn.
- Một cánh quân bộ từ Lạng Sơn lên Cao Bằng rồi từ Cao Bằng đánh

xuống Bắc Cạn tạo thành gọng kìm bao vây phía Đông và phía Bắc căn cứ địa
Việt Bắc.
8


- Ngày 9/10/1947 một binh đoàn hỗn hợp ngược sông Hồng, sông Lô,
sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hoá bao vây phía Tây căn cứ địa Việt
Bắc.

Trong SGK ở phần lớn các bài đều có các đoạn chữ in nhỏ, in nghiêng.
Kiến thức được thể hiện ở các đoạn này rất quan trọng - là nguồn tư liệu mới
làm nổi bật nội dung cơ bản của bài. Chính vì vậy, giáo viên phải sử dụng triệt
để. Nếu nó đề cập những vấn đề khó, phức tạp thì giáo viên miêu tả hoặc kể
chuyện, nếu dễ có thể cho học sinh cùng đọc hoặc một em đọc to cho cả lớp
nghe để các em cảm thụ về những sự kiện, hiện tượng lịch sử trong đoạn đó.
2.3.1.3 Hướng dẫn học sinh sử dụng SGK để học ở nhà
Đối với học sinh lớp 9 thì khả năng tự học ở nhà một cách độc lập đã khá
cao, giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức với các em. Nếu hoàn thành tốt
thì đó chính là điều kiện để tư duy của các em phát triển.
Ví dụ: Khi học bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra
đời’’[1] giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập để nêu rõ sự xuất hiện của 3 tổ
chức cách mạng ở Việt Nam (1925 - 1927) bằng cách lập bảng so sánh:
9


Tên của tổ chức Thành
cách mạng
phần
- Hội Việt Nam - Tiểu tư
cách

mạng sản
tri
Thanh niên.
thức yêu
Tháng
nước (lớp
6/1925
dưới).

Phương châm hoạt
động
- Đi sâu vào quần
chúng công - nông
để gây dựng cơ sở
cách mạng, tuyên
truyền vận động
quần chúng đấu
tranh.

Mục đích đấu
tranh
- Sau khi đánh
đổ ách thống trị
đế quốc phong
kiến và tư bản
sẽ đưa nước nhà
tiến lên chủ
nghĩa cộng sản.

- Tân Việt cách - Tiểu tư

mạng Đảng.
sản
tri
Từ tháng
thức (bậc
7/1925
trung) +
đến tháng
chính trị
7/1928
phạm

Trung kì.

- Đi sâu vào quần
chúng công - nông
để gây dựng cơ sở
cách mạng, tuyên
truyền vận động
quần chúng đấu
tranh.

- Sau khi làm
cách
mạng
thành công sẽ
đưa nước nhà
tiến lên chủ
nghĩa cộng sản.


- Bạo động, ám sát
cá nhân.
- Cơ sở chủ yếu là
binh lính, hầu như
không có cơ sở
công nhân.

- Sau khi làm
cách
mạng
thành công sẽ
đưa nước nhà
tiến lên chủ
nghĩa tư bản.

Thời gian

Ngày
25/12/1927

- Việt
Quốc
Đảng.

Nam - Tiểu tư
dân sản tri thức
(lớp trên),
tư sản, hào
phú, binh
lính.


2.3.2. Sử dụng hệ thống các câu hỏi trong dạy học lịch sử lớp 9 để
phát triển tư duy cho học sinh
Để sử dụng tốt hệ thống các câu hỏi trong quá trình dạy học chúng ta cần
lưu ý mấy điểm sau:
- Câu hỏi phải vừa sức, đúng đối tượng, không quá khó hoặc quá dễ.
- Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5 đến 7 câu hỏi. Sau mỗi chương có câu
hỏi bài tập.
- Triệt để khai thác các câu hỏi trong SGK kết hợp với câu hỏi sáng tạo.
2.3.2.1. Nêu câu hỏi đầu giờ học
Đầu giờ học giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm tra kiến thức bài
cũ. Nhưng trước khi cung cấp kiến thức của bài học cho học sinh, giáo viên cần
nêu ngay câu hỏi định hướng cho học sinh. Đây là loại câu hỏi có tính chất bài
tập, muốn trả lời phải huy động kiến thức của từng bài. Tuy nhiên, khi nêu câu
hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên cung cấp cho
các em đầy đủ sự kiện thì các em mới trả lời được.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp xâm lược”[1], thì đầu giờ học giáo viên có thể đặt
câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ: Tại sao lại khẳng định từ chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đến chiến thắng Biên giới thu - đông 1950 là một bước phát triển của
cuộc kháng chiến? Các em chú ý theo dõi bài giảng và SGK để trả lời.
10


Hình 46. Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp bàn mở chiến dịch Biên giới[1]
2.3.2.2. Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng
lịch sử trong bài học
Ví dụ: Trong bài “Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 và sự thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa’’[1] giáo viên đặt hai câu hỏi về điều kiện khách
quan và chủ quan (thời cơ) của cách mạng tháng Tám để làm nổi bật nguyên
nhân thắng lợi.

Những kiến thức này được sắp xếp viết vào bảng phụ và treo trên bảng để
học sinh quan sát tìm ra mối liên hệ giữa chúng.

Hình 40. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2 - 9 - 1945)[1]
11


Như vậy, so sánh những kiến thức ở bảng trên thì học sinh sẽ phân biệt
được đâu là điều kiện khách quan, đâu là điều kiện chủ quan. Điều đó giúp các
em không những nắm về kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục, rèn luyện kĩ
năng, kĩ xảo, phát triển tư duy.
2.3.2.3 Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp
Câu hỏi phải được giáo viên chuẩn bị từ khi soạn giáo án, phải dự kiến
nêu ra lúc nào? Học sinh sẽ trả lời ra sao? Đáp án trả lời thế nào? Cần tránh câu
hỏi mà các em chỉ cần trả lời một cách đơn giản là “Có” hay “Không’’, “Đúng’’
hay “Sai’’, hoặc câu hỏi quá dễ làm học sinh thoả mãn đi đến chủ quan về vốn
hiểu biết của mình.
Thông thường, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử
mà có thể nêu các loại câu hỏi sau:
- Câu hỏi về sự phát sinh của các sự kiện, hiện tượng lịch sử như nguyên
nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện
tượng đó.
- Câu hỏi về quá trình diễn biến, phát triển của sự kiện, hiện tượng lịch sử
như diễn biến các cuộc khởi nghĩa, các cuộc cách mạng hoặc các cuộc cách
mạng hoặc các cuộc chiến tranh.
- Câu hỏi nêu lên đặc trưng, bản chất của các hiện tượng lịch sử bao gồm
sự đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy.
Ví dụ: Em hãy đánh giá vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam.


Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Ảnh chụp lại tranh
của họa sĩ Phi Hoanh (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
12


- Câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân thắng lợi (thất bại) và ý nghĩa
lịch sử các sự kiện hiện tượng lịch sử.
- Câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử cùng loại
với nhau.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra
đời’’[1] có thể cho học sinh so sánh ba tổ chức cách mạng về tổ chức, hoạt
động …
Một điều cần lưu ý là phải động viên, khuyến khích học sinh tham gia trả
lời câu hỏi dưới nhiều hình thức như khen ngợi, đánh giá, cho điểm …
2.3.3. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sư
lớp 9 để phát huy tính tích cực của học sinh
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của
nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai
nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dẽ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực
chú ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên, nếu không sử dụng tốt, đúng
mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào
các dấu hiệu cơ bản chủ yếu.
Đồ dùng trực quan có nhiều loại. Mỗi loại lại có cách sử dụng riêng. Sau
đây là một số cách sử dụng cơ bản:
2.3.3.1. Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa
Hình vẽ tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phần đồ dùng trực quan
trong quá trình dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy
trừu tượng. Thông qua quan sát miêu tả, tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ
năng diễn đạt, lựa chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh
lịch sử, giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật

thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những nét
khái quát rút ra những kết luận lịch sử.

Hình 28. Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (12-1920)[1]
13


Ví dụ: Khi dạy bài “Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài (1919
- 1925)’’ [1] giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đang phát biểu ý kiến tại đại hội Tua (12/1920). Sau khi tường thuật giáo viên
cho học sinh cảm nhận được việc Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa
Mác - Lê nin để truyền bá vào Việt Nam từ đó có tình cảm tự hào về con người
Nguyễn Ái Quốc.
Như vậy, việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể
hiện trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy
cho học sinh, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho
các em.
2.3.3.2. Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa
Học sinh lớp 9 bậc THCS cũng như các lớp khác rất thích xem tranh ảnh,
chân dung các nhà cách mạng, các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ, các nhà phát
minh khoa học, các nhà hoạt động văn hoá nghệ thuật. Các em không chỉ chú ý
miêu tả bề ngoài mà còn chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi thể hiện ở
tranh ảnh.
Vì vậy, giáo viên phải làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho
học sinh, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó, làm cho các
em khâm phục, học tập được đạo đức, tài năng của họ.
Tuy nhiên, phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung của nhân vật
lịch sử ra. Khi sử dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học sinh, tự
mình đánh giá vai trò, tính cách của nhân vật.
Ví dụ: Khi dạy bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời’’[1] khi dạy đến mục

“Luận cương chính trị 10/1930’’ giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần
Phú. Sau đó cho học sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này,
giáo viên kể cho các em nghe về tiểu sử, quá trình hoạt động cách mạng và khí
tiết của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú - Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta.

Hình 31. Trần Phú (1930)[1]
14


2.3.3.3. Sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử
Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy
học lịch sử. Trên bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian,
thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định.
Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng
về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mĩ cho là “một
pháo đài bất khả xâm phạm’’, “một cối xay thịt Việt Minh’’[1]. Nếu giáo viên
biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến trường Đông Dương 1953 - 1954, bản đồ
chiến dịch Điện Biên Phủ và một số hình ảnh khác thì học sinh có thể hiểu được
khá rõ về vấn đề này: Điện Biên Phủ có núi cao bao bọc, hiểm trở, là vị trí chiến
lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc bộ.
Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, nội dung lịch sử được biểu diễn
trên bản đồ, việc sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan
sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố
thêm kiến thức về Địa lý.

Lược đồ Liên bang Đông Dương 1953-1954[7]
15


Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí

hiệu ghi trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu
nội dung lịch sử được thể hiện trên bản đồ.
2.3.3.4. Sử dụng máy chiếu trong dạy học lịch sử
Sử dụng máy chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử. Một
số tranh ảnh, phần bài học quan trọng giáo viên có thể pho to hoặc viết vào giấy
trong sau đó đưa lên máy chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi
được học trên máy chiếu.
Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy giáo viên còn chưa tích cực sử dụng
máy chiếu nhiều nên chưa thể áp dụng được phương pháp này trong quá trình
dạy học.
2.3.3.5. Sử dụng giáo án điện tử
Đây là một phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay, việc sử dụng các
thiết bị dạy học này cũng không phải là điều dễ dàng, bản thân tôi cũng chưa từng
dạy. Song tôi thiết nghĩ để dạy được một giờ sử dụng giáo án điện tử thì phải có
sự chuẩn bị rất công phu, phải biết sử dụng các phương tiện hiện đại. Nhưng do
bản thân cũng chưa thể sử dụng được các thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại
nên không thể áp dụng được phương pháp này trong quá trình dạy học.
2.4. Kết quả đạt được
Qua việc áp dụng những vấn đề nêu trên trong công tác giảng dạy môn
Lịch sử lớp 9. Qua thời gian giảng dạy tôi đã tiến hành khảo sát và đã thu được
kết quả như sau:
Lớp Sĩ số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
TL%
SL
TL%

SL
TL%
SL TL%
9A
40
3
7,5
14
35
22
55
1
2,5
16


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Như vậy, việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học
Lịch sử ở trường THCS là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cần
được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo
trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt
động ngoại khoá. Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ
mang tính cách mạng trong phương pháp dạy - học Lịch sử và phải có thời gian
kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên
sau khi vận dụng các phương pháp dạy học vào từng bài phải có sự nhận xét,
đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định
những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Cần trách
khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”.
3.2. Kiến nghị

Muốn thực hiện tốt điều này, đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái
tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng
người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu học sinh
hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy chúng ta
mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà:
có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh
sáng tạo … đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Do năng lực còn hạn chế và thời gian hoàn thành sáng kiến không nhiều
nên sáng kiến của tôi còn nhiều thiếu sót, là một giáo viên có kinh nghiệm giảng
dạy chưa nhiều, nên những vấn đề tôi đề xuất trong sáng kiến không thể tránh
khỏi những sai sót. Chính vì vậy, tôi rất mong có sự đóng góp ý kiến của các bạn
đồng nghiệp để sáng kiến của tôi hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Quan Hoá, ngày 25 tháng 04 năm 2019

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Vũ Minh Hải

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa Lịch sử 9 (Nhà xuất bản Giáo dục);
2. Sách giáo viên Lịch sử 9 (Nhà xuất bản Giáo dục);
3. Chuẩn kiến thức kĩ năng Lịch sử (Nhà xuất bản Giáo dục);
4. Luận cương Chính trị năm 1930 của Trần Phú;
5. Tài liệu liên quan đến cuộc đời hoạt động của Trần Phú;
6. Tài liệu liên quan đến cuộc đời hoạt động của Bác;
7. ;
8. Các tài liệu tham khảo khác…

18



×