Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh qua dạy học một số bài thực hành môn sinh học 8 ở trường THCS chu văn an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA
DẠY MỘT SỐ BÀI THỰC HÀNH MÔN SINH HỌC LỚP 8
Ở TRƯỜNG THCS CHU VĂN AN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Lan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Chu Văn An
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Sinh học

THANH HOÁ, NĂM 2019


MỤC LỤC:
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

Trang 1
Trang 1

1.2. Mục đích nghiên cứu.

Trang 1

1.3. Đối tượng nghiên cứu


Trang 2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trang 2

1.5. Những điểm mới của SKKN

Trang 2

2. NỘI DUNG

Trang 3

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệ

Trang 3

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến

Trang 4

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

Trang 5

2.4. Hiệu quả của sáng kiến
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Trang 14

Trang 16

3.1. Kết luận

Trang 16

3.2. Kiến nghị

Trang 16


1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài:
Sinh học là môn học có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
đào tạo ở bậc THCS. Chương trình Sinh học THCS có nhiệm vụ cung cấp cho
học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, phổ thông về thế giới sinh vật và thói quen
làm việc khoa học, yêu thiên nhiên và bảo vệ môi trường, góp phần hình thành ở
học sinh các năng lực nhận thức và các phẩm chất, nhân cách mà mục tiêu giáo
dục đã đề ra.
Nội dung môn Sinh học lớp 8 ở trường THCS cung cấp cho học sinh những
hiểu biết khoa học về đặc điểm cấu tạo và mọi hoạt động sống của con người.
Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện thân thể, bảo vệ, tăng
cường sức khỏe, nâng cao năng suất và hiệu quả trong học tập, góp phần thực
hiện mục tiêu đào tạo những con người lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo,
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, phát triển năng
lực sáng tạo và kỹ năng sống cho học sinh là điều hết sức cần thiết nhằm đáp
ứng với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Giáo dục kỹ năng sống là nội dung rất quan trọng trong phong trào xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, là yêu cầu, là xu hướng của xã hội
hiện đại trong thế giới đang toàn cầu hóa như hiện nay. Bên cạnh đó khả năng

đáp ứng của bộ môn Sinh học đặc biệt là môn Sinh học 8 đối với đề tài này là rất
lớn. Nhưng ở một số nhà trường còn nặng về dạy kiến thức chứ chưa chú trọng
đến việc dạy các em thái độ, kỹ năng ứng xử trong các mối quan hệ với con
người, với môi trường thiên nhiên… Hơn nữa, nhiều em chưa có những kĩ năng
tự chăm sóc sức khỏe, rèn luyện bản thân như: ngồi học không đúng tư thế, việc
luyện tập thể dục thể thao chưa đúng lúc... Trong thời gian qua, nhiệm vụ giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh chủ yếu được xem là của giáo viên chủ nhiệm và
tổ chức Đoàn – Đội. Trong khi đó giáo viên chủ nhiệm cả tuần còn phải thực
hiện chuyên môn của mình, thời gian dành cho lớp chủ nhiệm còn ít, chủ yếu chỉ
thông qua tiết sinh hoạt lớp nên việc nắm bắt tình hình của từng học sinh còn
hạn chế. Thực tế, việc giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó rèn kỹ năng
sống cho học sinh ở trường THCS Chu Văn An còn rất hạn chế. Chính vì vậy,
bản thân tôi có những trăn trở suy nghĩ và xây dựng nên đề tài: “Biện pháp rèn
kỹ năng sống cho học sinh qua dạy học một số bài thực hành môn Sinh học
lớp 8 ở trường THCS Chu Văn An”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Qua nghiên cứu các bài thực hành trong chương trình Sinh học 8 tôi thấy
các bài thực hành này rất thích hợp để rèn kĩ năng sống cho học sinh trong việc
giảng dạy kiến thức môn Sinh học, chú trọng đến việc hình thành kĩ năng cho
học sinh bằng các bài thực hành để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn
đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thực hành, quan sát, nghiên
cứu tài liệu. Vai trò của giáo viên rất quan trọng trong việc định hướng, gợi ý,
giúp đỡ các em tự khám phá, tự đặt ra các câu hỏi để các em hiểu rõ được câu
hỏi và vấn đề cần giải quyết của bài học, từ đó đề xuất các kĩ năng sống hợp lí.
Vì vậy mặc dù chỉ mới bước đầu áp dụng, tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài nghiên
1


cứu dạy một số tiết cụ thể để đồng nghiệp tham khảo, góp ý, để áp dụng phương
pháp này ở nhiều tiết sau, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học,

phát huy tính tích cực chủ động học tập của học sinh giúp các em yêu thích môn
học và học tập tiến bộ hơn, tạo cơ sở vững chắc cho các em có một số kĩ năng
tốt trong cuộc sống và tiếp tục học tốt hơn môn Sinh học ở các lớp trên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu về kĩ năng sống như: Kĩ năng thực hành, kỹ năng nói, kỹ
năng suy nghĩ tích cực, kỹ năng ra quyết định, ...
- Nghiên cứu các biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh qua bộ môn
Sinh học 8 ở trường THCS.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu nhập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
- Phần tổ chức cho học sinh thực hành kỹ năng sống vừa được học bổ sung
thêm VD 3: Rèn kỹ năng sống liên quan đến trí tuệ, thực hành.
- Giúp cho HS hiểu và ý thức được cần rèn luyện kĩ năng sống đây là vấn
đề mang tính chất toàn cầu và hiện nay được toàn thế giới quan tâm. Vấn đề đó
có liên quan trực tiếp tới quá trình học tập môn Sinh học nói chung và môn Sinh
học 8 nói riêng
- Làm rõ được vai trò của kĩ năng sống đối với mỗi học sinh nói riêng và
toàn xã hội nói chung.
- Nêu lên các giải pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh.
- Giáo dục các em thành các kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Mục tiêu của giáo dục: Là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,

có tri thức, có đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp. Hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực cho HS. Với bộ môn Sinh học là giáo
dục trí dục, kỹ năng và thái độ sống, trong đó kỹ năng và thái độ bao hàm giáo
dục kỹ năng sống. Qua giảng dạy bộ môn Sinh học 8, rèn cho các em có những
kĩ năng tự biết chăm sóc sức khỏe cho bản thân, kĩ năng liên quan đến trí tuệ, kĩ
năng ứng phó nhanh với những tình huống xảy ra trong cuộc sống,... Từ đó giáo
dục các em yêu thích bộ môn, có ý thức tự học và sáng tạo.
Để nắm được bản chất của vấn đề - lồng ghép rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh vào bộ môn, mỗi giáo viên cần hiểu rõ một số khái niệm liên quan: Kỹ
năng sống là cụm từ được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi lứa tuổi trong mọi
lĩnh vực hoạt động. Kỹ năng sống đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động từ học tập
để chuẩn bị vào nghề, cách học ngoại ngữ, kỹ năng tổ chức trại hè đến kỹ năng
làm cha mẹ…Tuy nhiên, một số tác giả phân biệt giữa những kỹ năng để sống
còn như học chữ, học nghề, làm toán đến bơi lội…với “Kỹ năng sống” theo
nghĩa mà tài liệu “Tập huấn giáo viên THCS, THPT” đề cập. Đó là năng lực tâm
lý xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống
hàng ngày, mà đặc biệt tuổi trẻ rất cần để vào đời. Có nhiều định nghĩa khác
nhau nhưng thống nhất trên nội dung cơ bản: Kỹ năng sống là khả năng thể hiện,
thực thi năng lực tâm lý xã hội này. Đó là năng lực tâm lý xã hội để đáp ứng và
đối phó với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày. Đó là, khả
năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc
như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì và làm như
thế nào).
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải đảm bảo các yếu tố sau: Giúp học
sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học sinh
hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi thói quen ứng xử
có văn hoá, hiểu biết và chấp hành pháp luật…Tuy nhiên, giáo dục kỹ năng sống
để đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không phải chỉ từ bài giảng.
Trong chương trình dạy kỹ năng sống, không có khái niệm “vâng lời”, chỉ có
khái niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng

sống là rèn luyện cách tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thông qua các
hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ không đặt mục đích “rèn nếp” hay “nghe
lời”. Công dân toàn cầu là người biết suy nghĩ bằng cái đầu của mình, biết phân
tích đúng sai, quyết định có làm điều này hay điều khác và chịu trách nhiệm về
điều đó, chứ không tạo ra lớp công dân chỉ biết “biết nghe lời”. Đây là sự khác
biệt cơ bản của việc giáo dục kỹ năng sống với các môn học.
Chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS được Bộ GD- ĐT
triển khai từ năm học 2010 – 2011, nhằm góp phần nâng cao năng lực giáo viên
nói chung và giáo viên môn Sinh học nói riêng về giáo dục giá trị sống và kỹ
năng sống cho học sinh, có thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con
người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh.
Giáo dục kỹ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ.
3


Giáo dục kỹ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông là xu thế chung
của nhiều nước trên thế giới.
Kỹ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm
cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kỹ năng sống
các em mới có những kỹ năng sống đầu tiên. Chính cuộc sống, những trải
nghiệm, va vấp, thành công và thất bại giúp các em có được những bài học quý
giá về kỹ năng sống. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, các em sẽ rút ngắn
thời gian học hỏi qua trải nghiệm và sẽ thành công hơn.
Môn Sinh học 8 không những trang bị cho học sinh những kiến thức về cấu
tạo cơ thể người phù hợp với lứa tuổi mà còn hình thành và phát triển ở các em
những thói quen tập quán tốt trong nếp sống sinh hoạt, trong giữ gìn vệ sinh bảo
vệ môi trường chống bị ô nhiễm; giúp cho học sinh có sự thống nhất cao giữa ý
thức và hành vi.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

2.2.1. Thực trạng.
Ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kỹ năng sống đã được
đề cập đến, tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù
hợp với tâm sinh lý của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao, hơn
nữa, nghành giáo dục vẫn chưa có một chương trình, quy định cụ thể về đưa kỹ
năng sống vào nhà trường.
Tại tỉnh Thanh Hóa nói chung và huyện Nga Sơn nói riêng, với xu thế xã hội
hiện đại cha mẹ bận lo kinh tế nên ít có thời gian quan tâm đến con cái, có phụ
huynh còn cho rằng: Việc giáo dục con em họ chủ yếu là do nhà trường, nhà
trường dạy như thế nào thì các em như thế đó, phụ huynh không nhất thiết phải
quan tâm nhiều.
Trong nhà trường, hiện tượng quá tải với các môn học cũng đang gây nhiều
áp lực đối với học sinh. Cùng với đó là những tác động nhiều chiều của các
nguồn thông tin khác nhau trong đời sống xã hội khiến cho giới trẻ đặc biệt là
học sinh đang đứng trước nhiều thách thức khi hoà nhập xã hội. Bên cạnh thực
tế đó, chúng ta cần nhìn nhận một thực tế ở chính các thầy cô giáo:
Thứ nhất, đội ngũ giáo viên THCS cũng chưa được đào tạo cơ bản để dạy về
kỹ năng sống lồng ghép trong từng môn học, từng bài giảng; và trong quá trình
soạn giáo án dạy bộ môn của các thầy cô giáo chưa thực sự rõ ràng ở phần lồng
ghép kỹ năng sống vào để rèn luyện cho học sinh. Hoặc chỉ là việc ghi cho đủ đề
mục trong giáo án.
Thứ hai là sự hướng dẫn của thầy cô giáo, nhà trường về việc rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh chưa cụ thể, chưa dễ hiểu, chưa sâu sắc. Khó khăn lớn
nhất khi giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh là phần lớn giáo viên đều chưa ý
thức cao về trách nhiệm lồng việc rèn luyện kỹ năng sống vào bài giảng. Nhiều
giáo viên còn hiểu nhầm “ Môn Giáo dục công dân mới là môn có trách nhiệm
giảng dạy kỹ năng sống”. Việc phối hợp với phụ huynh là cực kỳ quan trọng,
không nên phụ thuộc quá nhiều vào giáo viên vì giáo dục kỹ năng sống không
phải chỉ trong ngày một ngày hai mà là cả quá trình lâu dài, liên tục.
4



Về phía học sinh: Có nhiều em học sinh cho rằng môn Sinh học là môn phụ
nên không chú trọng việc học để hiểu và để áp dụng trong cuộc sống mà các em
học theo kiểu đối phó. Có em còn cho rằng các kỹ năng cơ bản mình đã biết nên
thấy việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống là bình thường. Song thực
tế, có nhiều kỹ năng cần thiết được hình thành từ môn học các em vận dụng
chưa thành thạo và chưa theo một quy trình nhất định để có thể tự tin ứng phó
vào mọi tình huống xảy ra.
Về việc phối hợp giữa nhà trường và các tổ chức đoàn thể ở địa phương vẫn
còn chưa chặt chẽ và chưa đồng đều, nên nhà trường còn gặp nhiều khó khăn
trong việc rèn luyện kỹ năng sống cho các em.
2.2.2. Kết quả của thực trạng.
Chương trình học hiện nay, có thể nói quá nặng về kiến thức hàn lâm trong
khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu vắng. Hơn nữa,
người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến các em không còn nhiều thời
gian cho các hoạt động ngoại khoá, hoạt động xã hội. Qua thực tế giảng dạy
môn Sinh học lớp 8 ở trường THCS, tôi thấy các em mới chỉ thuộc lý thuyết còn
kỹ năng thực hành, kỹ năng sống của các em chưa cao. Chỉ một số bộ phận học
sinh có ý thức rèn luyện và tạo thói quen tốt, thường trực trong mọi mối quan hệ
xã hội khác nhau như có thái độ và cách ứng xử, xưng hô chuẩn mực, các kỹ
năng phòng chống các tai nạn thương tích, sơ cứu ban đầu,...
Từ tình hình đó, cùng với việc khảo sát chất lượng đầu năm học 2018-2019
và học kì I năm học 2018-2019, trước khi tôi áp dụng lồng ghép rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh vào bộ môn Sinh học của học sinh khối 8 trường THCS
Chu Văn An qua bài khảo sát với chủ đề: “Kỹ năng của em” kết quả như sau:
Sĩ số
Giỏi

Lớp

8A
8B
8C
8D
Tổng

Kiến thức
Khá
TB

33
33
35
31
132

SL

%

SL

%

SL

%

5
2

8
14
29

15.2
6.1
22.9
45.2
22

20
15
22
13
70

60.6
45.5
62.9
41.9
53

8
12
5
4
29

24.2
48.4

14.2
12.9
22

Yếu

Tốt

SL % SL
0
4
0
0
4

0
0
0
0
3

8
6
9
9
32

Kỹ năng
Đạt


Chưa đạt

% SL %

SL

%

24.2 8 24.2
18.2 7 21.2
25.7 9 25.7
29 9 29
24.2 33 25

17
20
17
13
67

51.6
60.6
48.6
42
50.8

Kết quả khảo sát trên cho thấy, học sinh cần phải vận dụng nhiều hơn nữa
các kỹ năng như: Trình bày suy nghĩ, tư duy sáng tạo, giải quyết tình huống, giải
quyết vấn đề, và ra quyết định phù hợp...để các em thực sự tự tin giải quyết các
tình huống xảy ra trong cuộc sống hằng ngày.

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Cách tiếp cận trong giáo dục kỹ năng sống.
Thứ nhất, các hoạt động tập trung vào kỹ năng sống cốt lõi như kỹ năng tự
nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thương lượng...Theo cách này, bằng hoạt
động với chủ đề kỹ năng cụ thể, người học sẽ hiểu kỹ năng sống đó là gì, cách
hình thành kỹ năng sống đó và vận dụng để giải quyết các tình huống giả định.
Thứ hai, Mỗi kỹ năng gắn với một vấn đề hay nảy sinh trong cuộc sống ở lứa
tuổi này và để giải quyết nó thì cần phải vận dụng kỹ năng sống khác nhau. Qua
5


đó, hình thành và rèn luyện những kỹ năng sống ấy. Trong trường hợp này các
kỹ năng sống được gắn liền với các vấn đề cụ thể.
2.3.2. Một số phương pháp dạy học.
Có rất nhiều phương pháp dạy học. Song, tôi cảm thấy những phương pháp
dạy học có nhiều ưu thế trong việc phát huy tính tích cực của học sinh trong quá
trình dạy học môn Sinh học đó là:
Phương pháp kích thích tư duy.
Phương pháp thảo luận nhóm.
Phương pháp đóng vai.
Phương pháp nghiên cứu tình huống.
Phương pháp trò chơi.
Phương pháp dự án.
2.3.3. Phân loại kỹ năng sống.
Chia làm 3 nhóm:
- Nhóm 1: Kỹ năng sống liên quan đến thể chất, sức khỏe.
- Nhóm 2: Kỹ năng sống liên quan đến trí tuệ, thực hành.
- Nhóm 3: Kỹ năng sống liên quan đến tình cảm, tinh thần.
2.3.4. Các biện pháp để tổ chức thực hiện.
Để giúp học sinh có hứng thú học tập, phát hiện ra kỹ năng cần có tôi đưa ra

một số biện pháp sau đây:
a. Người giáo viên phải xác định rõ nhiệm vụ của môn học và nhiệm vụ giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh trong môn học.
Môn Sinh học là rèn cho học sinh kỹ năng thực hành, kĩ năng quan sát, đặt thí
nghiệm, kĩ năng vận dụng tri thức vào đời sống; biết lựa chọn và thực hiện cách
ứng xử phù hợp với các tình huống xảy ra trong thực tế. Biết tổ chức việc học
tập và rèn luyện của bản thân theo yêu cầu của các chuẩn mực đã học. Qua đó,
giúp các em mạnh mẽ, vững vàng, có khả năng ứng xử linh hoạt, tự tin trong
cuộc sống.
b. Nội dung giáo dục kỹ năng sống trong một số bài thực hành chương trình
môn Sinh học lớp 8 - THCS. Giáo viên cần phải xác định rõ các kỹ năng sống cụ
thể trong từng bài thực hành để lồng ghép vào các tiết dạy sao cho hiệu quả.
TT
Tên bài dạy
Kỹ năng sống cần đạt
- Kỹ năng nói.
- Làm việc theo nhóm, đội.
Thực hành:
Bài
- Kỹ năng suy nghĩ tích cực.
Quan sát tế bào
5
- Biết thể hiện các hành vi như: ý thức vệ sinh, ngăn
và mô
nắp trật tự nơi làm việc của mình, trật tự nơi công
cộng.
Bài Thực hành: Tập - Làm việc theo nhóm, đội.
12 sơ cứu và băng
- Kỹ năng suy nghĩ tích cực.
bó cho người bị - Kỹ năng ra quyết định.

gãy xương.
- Kỹ năng sơ cứu và băng bó cho người bị gãy
xương.
- Có khả năng làm chủ bản thân trong việc phòng
tránh tai nạn với ý thức đảm bảo an toàn giao thông
6


cho bản thân và cho mọi người.
- Kỹ năng ra quyết định.
- Kỹ năng nói.
- Kỹ năng băng bó hoặc làm garô và những quy định
Bài
Thực hành: Sơ
khi làm garô.
19
cứu cầm máu.
- Có khả năng làm chủ bản thân trong việc phòng
tránh tai nạn với ý thức đảm bảo an toàn giao thông
cho bản thân và cho mọi người.
- Kỹ năng suy nghĩ tích cực.
Bài
Thực hành: Hô - Giải quyết vấn đề.
23
hấp nhân tạo.
- Kỹ năng hô hấp nhân tạo với hai phương pháp hà
hơi thổi ngạt và phương pháp ấn lồng ngực
Tìm hiểu hoạt - Kỹ năng suy nghĩ tích cực.
Bài
động của enzim - Giải quyết vấn đề.

26
trong nước bọt - Kỹ năng làm thí nghiệm
- Kỹ năng suy nghĩ tích cực.
Thực hành: Phân
Bài
- Giải quyết vấn đề.
tích một khẩu
37
- Biết tự xây dựng một khẩu phần hợp lí cho bản
phần cho trước
thân.
- Kỹ năng suy nghĩ tích cực.
Thực hành: Tìm
- Tư duy sáng tạo.
hiểu về chức
Bài
- Kỹ năng ra quyết định.
năng (liên quan
44
- Có khả năng làm chủ bản thân trong việc phòng
đến cấu tạo) của
tránh tai nạn liên quan đến tủy sống và ý thức đảm
tủy sống
bảo an toàn giao thông cho bản thân, cho mọi người.
c. Những việc cần chuẩn bị.
Về phía giáo viên cần chuẩn bị: Phương tiện dạy học: Máy chiếu, tư liệu, đồ
dùng thực hành, sách tài liệu tham khảo…Chọn những kỹ năng cần thiết phù
hợp với địa phương. phù hợp, gần gũi với học sinh để các em có khả năng trực
tiếp thực hành kỹ năng sau khi tiếp cận.
VD: Thực hành kỹ năng: Hô hấp nhân tạo

+ Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh tự xác định các
kỹ năng sống cần đạt.
VD: Bài thực hành yêu cầu gì?
Theo em cần phải làm gì để đạt được điều đó?
Trọng tâm bài ở chỗ nào?
Em cần có kỹ năng gì để thực hiện các vấn đề đó?
Sau khi học xong bài này em rút ra điều gì?
Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hằng ngày khi gặp trường
hợp như trong bài?
Giáo viên cần chuẩn bị một giáo án lồng ghép cẩn thận (Có nêu ra cụ thể các
kỹ năng học sinh cần đạt sau khi học bài này; các kỹ thuật dạy học sử dụng
trong bài dạy; các phương tiện cần thiết phục vụ cho tiết dạy…).
Về phía học sinh: Học sinh phải chuẩn bị bài, xác định mục tiêu kiến thức bài
học, bước đầu hình thành kỹ năng cần thiết ở mỗi bài học; tích cực trong các
7


hoạt động giải quyết tình huống có vấn đề, trong các trò chơi sắm vai và vận
dụng linh hoạt các kỹ năng sống vào các tình huống…khi giáo viên tổ chức. Đây
là khâu chuẩn bị rất quan trọng đối với giáo viên và học sinh.
2.3.5. Tổ chức cho học sinh thực hành kỹ năng sống vừa được học.
Giáo viên tổ chức cho các em hoạt động thực hành ngay tại lớp với tình
huống tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó
học sinh tự nêu các kỹ năng mà em đã ứng dụng để giải quyết vấn đề đó. Sau
khi tổ chức thực hành thì giáo viên hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu các tình
huống tương tự đã gặp ở cuộc sống thường ngày, ghi chép lại và nêu cách giải
quyết của bản thân để tiết học sau trình bày trước lớp cho các bạn nghe và bổ
sung chọn cách giải quyết tốt nhất. Để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu, qua thực tế
giảng dạy tôi xin đưa ra một vài ví dụ về các bước để tổ chức thực hiện hoạt
động giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh lớp 8-THCS để các đồng

nghiệp tham khảo cụ thể như sau:
VD 1: Rèn luyện kỹ năng phòng ngừa tai nạn cho trẻ
Hoạt động 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận về chủ đề: Một số tai
nạn trong thực tế gây ngừng hô hấp đột ngột.
* Mục tiêu: Giúp các em tự phân tích và nhìn nhận thực tế về các khía cạnh khác
nhau để hình dung, nhận biết về các tai nạn xảy ra trong cuộc sống hàng ngày,
đồng thời rèn luyện kỹ năng lắng nghe, trình bày hiểu biết của mình.
* Cách tiến hành:
- Bước 1: Làm việc cá nhân: Giáo viên phát cho mỗi học sinh một tờ giấy và yêu
cầu chuẩn bị (trong 3 phút) về những nội dung sau:
+ Kể tên một số tai nạn mà em thấy trong thực tế gây ngừng hô hấp.
+ Kể tên một số tai nạn gây ngừng hô hấp hay xảy ra đối với lứa tuổi học sinh.
- Bước 2: Chia sẻ theo từng cặp.
+ Từng cặp chia sẻ những thông tin với nhau.
+ Một vài em chia sẻ những thông tin mà mình có được với cả lớp.
+ Em được giới thiệu có thể bổ sung, làm rõ hơn nếu thấy thông tin chưa đầy đủ
hoặc chưa chính xác.
* Kết luận: Những tai nạn trong thực tế gây ngừng hô hấp đột ngột, những tai
nạn gây ngừng hô hấp ở trẻ như: đuối nước, điện giật ... chính là kỹ năng tự
nhận thức thực tế của bản thân mình.
Hoạt động 2: Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận về con đường nâng cao
kỹ năng phòng ngừa tai nạn cho trẻ: Làm thế nào để có kỹ năng tự nhận thức
đúng khi gặp một số tai nạn gây ngừng hô hấp trong thực tế?
* Mục tiêu: Giúp học sinh nắm được ý nghĩa của kỹ năng tự nhận thức và biết
cách rèn luyện kỹ năng tự nhận thức.
* Cách tiến hành:
- Bước1: Tổ chức học sinh thảo luận nhóm (từ 5-7 em) theo các câu hỏi sau:
+ Khi gặp người bị đuối nước hay bị điện giật mỗi người cần phải làm gì?
- Bước 2: Đại diện các nhóm lên trình bày kết quả. Giáo viên bình luận, nhận
xét, tổng kết và chốt.

* Kết luận: Tự nhận thức là rất cần thiết, tuy nhiên không phải ai cũng biết tự
nhận thức để có kỹ năng chính xác khi gặp các tình huống cụ thể.
8


Hoạt động 3: Giáo viên tổ chức học sinh rèn luyện kỹ năng phòng ngừa tai nạn
cho trẻ.
* Mục tiêu: Giúp học sinh trải nghiệm những tình huống xảy ra trong thực tế và
có thái độ tích cực đối với những tình huống đó. Qua đó củng cố kỹ năng hô hấp
nhân tạo cho bản thân.
* Cách tiến hành:
Chia lớp thành các nhóm nhỏ:
- Nhóm 1: Chơi trò chơi: Hô hấp nhân tạo cho nạn nhân bằng phương pháp hà
hơi thổi ngạt và phương pháp ấn lồng ngực.
+ Mỗi học sinh chuẩn bị một tờ giấy, một cái bút để mỗi em tự ghi các bước tiến
hành của phương pháp hà hơi thổi ngạt vào tờ giấy của mình khi các em theo dõi
tình huống mà giáo viên chuẩn bị sẵn trên máy chiếu (chuẩn bị trong 2 phút).
+ Sau đó tất cả các em phát biểu ý kiến, suy nghĩ của mình về các bước tiến
hành của phương pháp hà hơi thổi ngạt.
+ Các em khác nhận xét, bổ sung.
+ Nếu có những nhận xét chưa chính xác về bài của bạn thì giáo viên gợi ý cho
học sinh để các em hoàn thiện bài của mình.
- Nhóm 2: Tiến hành tổ chức hô hấp nhân tạo cho nạn nhân theo 2 phương pháp
sau khi thu nhận thông tin các tình huống mà giáo viên đặt ra.
+ Các nhóm khác theo dõi, bình luận cách tiến hành của nhóm 2.
+ Giáo viên tổng hợp các ý kiến, bổ sung và chốt lại kết quả hoạt động của cả
hai nhóm.
* Kết luận: Khi nghe ý kiến của người khác nhận xét, đánh giá về mình, chúng
ta cần bình tĩnh, sáng suốt xem xét ý kiến nào là khách quan, chân thực thì sẽ
tiếp nhận, còn ý kiến nào là khen quá lời, hay định kiến, thiếu khách quan chỉ

nên để tham khảo.
Hoạt động 4: GV tổng kết bằng việc yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi:
+ Từ chủ đề này, em đã thu được gì cho bản thân mình về tự nhận thức khi gặp
những tình huống xấu nhất trong cuộc sống?
+ Những kỹ năng sống nào được sử dụng trong chủ đề này?
VD 2: Rèn luyện kỹ năng giải quyết các tình huống liên quan đến thể chất,
sức khỏe.
* Mục tiêu: Hình thành kỹ năng giải quyết các loại tình huống cho học sinh
thông qua những tình huống giả định và nắm được các bước giải quyết các tình
huống có hiệu quả.
* Cách tiến hành: - Giáo viên trình chiếu một số tình huống trên máy chiếu.
- Giáo viên cho mỗi nhóm một tình huống và yêu cầu các em trong từng nhóm
đưa ra cách xử lí các tình huống.
Tình huống 1: Trên đường đi học về em và một số bạn thấy một em nhỏ bị rơi
xuống nước mà không biết bơi. Vậy em sẽ ứng xử như thế nào?
Tình huống 2: Giờ ra chơi, bạn khác lớp đến trêu bạn hoặc quấy phá trò chơi
mà bạn đang tham gia. Sau đó, không may bạn ấy bị ngã chảy máu rất nhiều.
Em sẽ giải quyết như thế nào?
- Kết quả xử lý tình huống của các nhóm có thể trình bày dưới hai hình thức:
+ Viết ra giấy khổ lớn để trình bày.
9


+ Sắm vai thể hiện cách giải quyết.
- Giáo viên trưng cầu ý kiến nhận xét, bình luận về sự hợp lý, hợp tình của từng
cách xử lý; học sinh nêu câu hỏi về kết quả thảo luận của từng nhóm.
- Trên cơ sở những ý kiến của học sinh, giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi cho cả lớp:
Chúng ta cần phải trải qua các bước nào khi giải quyết các tình huống bất ngờ
trong cuộc sống?
* Kết luận: Giáo viên khẳng định: Khi rơi vào các tình huống trong quan hệ với

người khác, chúng ta nên vận dụng các bước giải quyết tình huống như sau:
+ Kiềm chế cảm xúc – hết sức giữ bình tĩnh trước các tình huống.
+ Xác định nguyên nhân dẫn đến các tình huống. Cần suy nghĩ tích cực, vì nó có
tác động mạnh đến cảm xúc và hành vi tích cực.
VD 3: Rèn kỹ năng sống liên quan đến trí tuệ, thực hành.
* Mục tiêu: Hình thành kỹ năng giải quyết các loại tình huống cho học sinh
thông qua những tình huống trong bài thực hành cụ thể và nắm được các bước
giải quyết các tình huống có hiệu quả trong thực tế
* Cách tiến hành: - Giáo viên trình chiếu một số tình huống xảy ra trong bài thực
hành trên máy chiếu.
- Giáo viên cho mỗi nhóm một tình huống cụ thể trong đời sống và yêu cầu các
em trong từng nhóm đưa ra cách xử lí các tình huống.
Tình huống 1: Trong một trận đá bóng, có một bạn bị gãy xương tay. Vậy em sẽ
ứng xử như thế nào?
Tình huống 2: Trên đường đi học về, ở quãng đường vắng em và các bạn thấy
một người bị tai nạn giao thông. Em sẽ giải quyết như thế nào?
- Kết quả xử lý tình huống của các nhóm có thể trình bày dưới hai hình thức:
+ Thảo luận nhóm: Viết ra giấy khổ lớn để trình bày.
+ Đóng vai thể hiện cách giải quyết.
- Giáo viên trưng cầu ý kiến nhận xét, bình luận về sự hợp lý, hợp tình của từng
cách xử lý; học sinh nêu câu hỏi về kết quả thảo luận của từng nhóm.
- Trên cơ sở những ý kiến của học sinh, giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi cho cả lớp:
Chúng ta cần phải trải qua các bước nào khi giải quyết các tình huống bất ngờ
trong cuộc sống?
* Kết luận: Giáo viên khẳng định:
- Tình huống 1: Các em cần áp dụng bài thực hành: Tập sơ cứu và băng bó cho
người bị gãy xương để sơ cứu cho bạn. Sau đó, đưa bạn đến bệnh viện.
- Tình huống 2: + Kiềm chế cảm xúc – hết sức giữ bình tĩnh trước tình huống.
+ Tai nạn giao thông dễ chấn thương tủy sống, não bộ nên phải để nạn nhân nằm
yên. Sau đó, gọi người lớn giúp đõ để đưa nạn nhân đến bệnh viện trong thời

gian sớm nhất. Qua các bước để tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục một số kỹ
năng sống cho học sinh như trên tôi đi vào trình bày cụ thể một giáo án thể
nghiệm sau:

Mô hình thiết kế thể nghiệm
Tiết 24. Bài 23. Thực hành: Hô hấp nhân tạo.
10


I. Mục tiêu bài giảng:
1. Kiến thức: - Hiểu rõ cơ sở khoa học của hô hấp nhân tạo.
- Nắm được trình tự các bước tiến hành hô hấp nhân tạo.
- Biết phương pháp hà hơi thổi ngạt và phương pháp ấn lồng ngực.
2. Kỹ năng: Biết cách hô hấp nhân tạo theo hai phương pháp: Hà hơi thổi ngạt
và phương pháp ấn lồng ngực.
- Các kĩ năng sống cơ bản: Kĩ năng thu thập và xử lý thông tin, Kỹ năng trình
bày suy nghĩ ý tưởng, Kỹ năng ra quyết định, Kỹ năng nói, Kỹ năng thực hành,
Làm việc theo nhóm, Giải quyết vấn đề.
3. Thái độ: Tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa hướng dẫn xử lí một số
tình huống như: Đuối nước, điện giật...ở lứa tuổi HS.
II. Phương tiện thực hiện:
- Thầy: + Sách giáo khoa, Sách giáo viên, giáo án, máy chiếu.
+ Chiếu cá nhân, gối cá nhân, gạc cứu thương hoặc vuông vải màu 40x40 cm
- Trò: học bài, chuẩn bị bài mới.
III. Phương pháp
- Thực hành, thảo luận, vấn đáp, thuyết trình, giải thích.
IV. Tiến trình bài giảng:
1. Kiểm tra bài cũ:
- Có em nào đã từng nhìn thấy nạn nhân bị ngừng hô hấp đột ngột chưa?
- Cơ thể ngừng hô hấp đột ngột có thể dẫn tới hậu quả tai hại như thế nào tới sức

khỏe và mạng sống?
2. Bài mới:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV-HS
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
- Cho học sinh quan sát một số hình ảnh về
tai nạn do đuối nước, do điện giật, do bị lâm
vào môi trường ô nhiễm và thảo luận theo
câu hỏi sau:
- Giống nhau: Cơ thể nạn nhân
So sánh 3 tình huống tai nạn nêu trên?
thiếu oxi, mặt tím tái.
- Khác nhau:
+ Chết đuối: Do phổi ngập nước
Thông qua thảo luận học sinh được rèn + Điện giật: Do cơ hô hấp và có
luyện kỹ năng: Làm việc theo nhóm, đội. thể cả cơ tim bị co cứng.
Giải quyết vấn đề và kỹ năng nói.
+ Bị lâm vào môi trường ô
Nêu suy nghĩ của em khi xem bức ảnh đó?
nhiễm: Ngất hay ngạt thở.
- Gv : giảng và chuyển ý.
- Những bức ảnh trên giúp em
Có thể cấp cứu nạn nhân ngừng hô hấp đột hiểu được tính chất nguy hiểm
ngột như thế nào?
của những tai nạn và trách nhiệm
- Gv : phân tích lại ba tình huống gián đoạn của mình khi gặp những tình
hô hấp trên máy chiếu.
huống như trên.
Cần loại bỏ nguyên nhân làm gián đoạn hô
hấp ở ba tình huống này như thế nào?
- Gv: Lần lượt cho hs quan sát các tình I. Trình tự các bước cấp cứu

huống nội dung liên quan đến nội dung bài khi gặp nạn nhân bị gián đoạn
thực hành.
hô hấp
11


- Hs: Quan sát làm việc theo nhóm.
+ Chết đuối:

+ Điện giật:

1. Bước 1. Cần loại bỏ nguyên
nhân làm gián đoạn hô hấp
+ Chết đuối: Loại bỏ nước khỏi
phổi bằng cách vừa cõng nạn
nhân( ở tư thế dốc ngược đầu)
vừa chạy.

+ Điện giật: Tìm vị trí cầu dao
hay công tắc điện để ngắt dòng
điện.

+ Bị lâm vào môi trường ô nhiễm thiếu khí + Bị lâm vào môi trường ô nhiễm
để thở hay môi trường có nhiều khí độc:
thiếu khí để thở hay môi trường
có nhiều khí độc: khiêng nạn
nhân ra khỏi khu vực đó.

Gv cho học sinh làm bài tập tình huống:
Cấp cứu nạn nhân bị gián đoạn hô hấp là

nghĩa vụ của ai:
a. Là nghĩa vụ của mọi công dân.
b. Là nghĩa vụ của riêng nghành y tế.
c. Là nghĩa vụ của những người từ 18 tuổi
trở lên.
d. Là nghĩa vụ của người có sức khỏe tốt.
Qua phần tìm hiểu trên em cho biết nghĩa
vụ của mình khi gặp người bị tai nạn ?
- Gv: Cho Hs quan sát hai phương pháp hô
hấp nhân tạo trên máy chiếu.
a. Phương pháp hà hơi thổi ngạt.

- Nghĩa vụ: Khi gặp người bị
gián đoạn hô hấp thì phải nhanh
chóng kịp thời giúp đỡ họ.
2. Bước 2: Tiến hành hô hấp
nhân tạo cho nạn nhân
a. Phương pháp hà hơi thổi ngạt.
12


( SGK)

b. Phương pháp ấn lồng ngực.

b. Phương pháp ấn lồng ngực
( SGK)

- Gv: Tổ chức trò chơi sắm vai:
(thời gian 10 phút)

Đội 1: Cấp cứu cho nạn nhân bị chết đuối
Đội 2: Cấp cứu cho nạn nhân bị điện giật.
Đội 3: Cấp cứu cho nạn nhân bị lâm vào
môi trường bị ô nhiễm thiếu khí để thở
hay môi trường có nhiều khí độc
Thông qua trò chơi rèn luyện cho học
sinh: Kỹ năng tư duy, Kỹ năng thực hành,
Kỹ năng làm việc theo nhóm
Giáo viên kết luận: Hô hấp nhân tạo là phương
pháp tối ưu nhất, kịp thời nhất để cấp cứu cho
nạn nhân khi bị gián đoạn hô hấp.
Thông qua 1 tình huống học sinh rèn
luyện được kỹ năng thu thập và xử lý
thông tin, kĩ năng thực hành.
- Yêu cầu học sinh đọc tài liệu tham khảo
(sách giáo khoa).
- Gv: yêu cầu Hs sắm vai: Chia lớp thành 2
đội và mỗi đội cử 1 em đóng vai là bác sĩ 1
số em đóng vai là bệnh nhân đến hỏi bác sĩ
những vấn đề liên quan đến bài học.
Thông qua trò chơi bác sĩ học sinh rèn
luyện được kỹ năng trình bày suy nghĩ ý
tưởng về những điều có liên quan đến
phòng ngừa một số tai nạn đối với trẻ.
- Hướng dẫn học sinh viết thu hoạch.
13


( Trả lời câu hỏi phần kiến thức và kĩ năng II. Viết thu hoạch
trang 77. SGK)

Thông qua bài thu hoạch rèn luyện cho
học sinh kỹ năng hô hấp nhân tạo, kỹ
năng ra quyết định phù hợp với các tình
huống tai nạn gián đoạn hô hấp cụ thể và
nghĩa vụ của bản thân khi gặp các tình
huống như trên.
3. Luyện tập và củng cố bài:
- Giáo viên hệ thống nội dung bài thực hành.
- Nhận xét giờ thực hành.
4. Kiểm tra đánh giá:
5. Dặn dò:
- Hoàn thành bài thu hoạch vào vở bài tập, đọc nội dung bài 24 và tìm hiểu về cơ
quan tiêu hóa ở người.
Kết quả đạt được từ tiết dạy thể nghiệm trên:
Trong quá trình giảng dạy tôi đã thực hiện dạy lồng ghép rèn luyện kỹ năng
sống trong tiết học theo mô hình trên ở lớp 8A còn ở lớp 8B tôi không sử dụng
lồng ghép rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Qua tiết học cho thấy tinh thần
học tập ở hai lớp hoàn toàn khác nhau thể hiện rõ qua kết quả qua bài khảo sát:
Lớp
Số HS
Tốt
Đạt
Chưa đạt
SL
%
SL
%
SL
%
8A

33
23
69.7
10
30.3
0
0
8B
33
10
30.3
10
30.3
13
39.4
Qua kết quả trên, ta thấy đã có sự thay đổi đáng kể về kết quả học sinh thực
hiện tốt kỹ năng ở hai lớp 8A và 8B. Cụ thể là số lượng học sinh 8A có kĩ năng
sống tốt cao hơn lớp 8B là 39.4%, và lớp 8A không còn số học sinh chưa đạt.
Đặc biệt học sinh lớp 8A đã thực hành rất tốt các kỹ năng như: Kỹ năng làm việc
theo nhóm, đội; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng tư duy, phê phán; kỹ năng
trình bày suy nghĩ ý tưởng, kỹ năng thực hành và kỹ năng ra quyết định phù
hợp... Điều đó chứng tỏ việc lồng ghép rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là
hết sức cần thiết.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục:
Với việc tiến hành soạn giảng, kết hợp với các biện pháp thực tế, kết quả
giảng dạy giáo dục rèn kỹ năng sống cho học sinh qua bộ môn Sinh học đã đạt
những hiệu quả đáng kể. Trong các tiết học nói chung và tiết học này nói riêng
học sinh thực sự hào hứng, tích cực hoạt động hơn. Như vậy, chứng tỏ các em

đã có sự nhìn nhận, ý thức được vai trò quan trọng của môn học. Học sinh biết
chăm chú lắng nghe, thực hành một cách tương đối chính xác, mạnh dạn, tự tin
trình bày sự hiểu biết của mình trước lớp dựa vào kiến thức vừa học. Đặc biệt
một số học sinh từ không dám nói trước tập thể, kĩ năng giải quyết vấn đề theo
thói quen đã bước đầu mạnh dạn, tự tin cố gắng vươn lên trong học tập. Thực tế
14


là có nhiều em học sinh tiến bộ rõ rệt, số học sinh khá, giỏi, số học sinh thực
hiện tốt các kĩ năng tăng lên đáng kể.
Kết quả chất lượng học tập môn Sinh học ở trường THCS Chu Văn An giữa
học kì II năm học 2017-2018 và kết quả qua bài khảo sát với chủ đề: “Kỹ năng
của em” như sau:
Kiến thức
Kỹ năng
Lớp Sĩ số Giỏi
Khá
TB
Yếu
Tốt
Đạt Chưa đạt
SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL %
33
6 18.2 22 66.7 5 15.1 0
0 12 36.4 12 36.4 9 27.2
8A
8B 33 3 9.1 16 48.5 11 33.3 3 9.1 10 30.3 11 33.3 12 36.4
8C 35 9 25.7 24 68.6 2 5.7 0 0 12 34.3 12 34.3 11 31.4
8D 31 15 48.4 13 41.9 3 9.7 0 0 13 41.9 14 45.2 4 12.9
Tổng 132 33 25 75 56.8 21 15.9 3 2.3 47 35.6 49 37.1 36 27.3

Từ bảng số liệu 1 với bảng số liệu 2 ta thấy: Học sinh học lực giỏi, khá tăng
từ 75% lên 81.8%; học sinh có kĩ năng tốt tăng từ 24.3% lên 35.6%.
Với kết quả như vậy, tôi nghĩ môn Sinh học cũng góp phần quan trọng trong
việc thúc đẩy chất lượng học tập của học sinh toàn trường. Đặc biệt, khi có tình
huống xảy ra, các em đã tự tin để xử lí một cách linh hoạt và hiệu quả bằng các
kĩ năng của mình đã được rèn luyện trong nhà trường.
2.4.2. Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
- Đối với bản thân : Trong quá trình nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm
bản thân tôi đã tự tìm tòi, nghiêm cứu học hỏi kiến thức có liên quan đến vấn đề
rèn kĩ năng sống, đặc biệt là kiến thức thực tế có liên quan đến kĩ năng sống ở
tại địa phương, trong nước và trên thế giới. Tôi luôn ý thức đựơc tầm quan trọng
của công tác giáo dục, rèn luyện kĩ năng sống cho HS, là một trong những biện
pháp hữu hiệu và có tính bền vững nhất trong các biện pháp để góp phần thực
hiện mục tiêu của giáo dục.
- Đối với các đồng nghiệp: Trong quá trình vận dụng sáng kiến kinh
nghiệm bản thân tôi đã giúp các giáo viên trong trường nói chung và giáo viên
trong tổ nói riêng hiểu được tầm quan trong của việc giáo dục, rèn luyện kĩ năng
sống cho học sinh. Từ đó, các đồng nghiệp cũng tích cực tích hợp các kiến thức
rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh trong một số giờ học , đặc biệt là ở một số
môn như : Công dân, Lịch sử, Địa lí,...
- Đối với nhà trường : Thông qua các tiết học có tích hợp kiến thức rèn
luyện kĩ năng sống nhiều học sinh đã có ý thức tự bảo vệ cơ thể và người xung
quanh rất tốt, không còn thờ ơ trước mọi sự việc diễn ra xung quanh mình. Hình
thành những thói quen và hành động cụ thể để bảo vệ bản thân và những người
xung quanh góp phần xây dựng trường THCS Chu Văn An là ngôi trường mà
học sinh học ở đây có kĩ năng sống tốt nhất trong cuộc sống để các em tự tin
bước vào tương lai.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua việc nghiên cứu đề tài, tôi thấy việc giáo dục và rèn kỹ năng sống cho

học sinh THCS là một việc làm rất khó. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 8 - Lứa
15


tuổi đang tập làm người lớn. Tuy vậy, tôi cũng tự rút ra cho mình bài học kinh
nghiệm vô cùng quý giá.
Giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng trong việc giáo dục và rèn
kỹ năng sống cho học sinh, biết lựa chọn phương pháp, kỹ thuật dạy học phù
hợp, kết hợp hình thức dạy học hợp lý nhằm phát huy tính chủ động của học
sinh sẽ giúp các em phát huy cao độ trí tụê, năng động, sáng tạo trong học tập và
giao tiếp.
Cuộc sống luôn luôn biến đổi, do vậy không thể có một giáo trình cứng nhắc
về kỹ năng sống. Giáo viên cần sáng tạo rất nhiều tình huống trong bài học để
học sinh qua đó tự hình thành các kỹ năng này. Giáo dục kỹ năng sống chỉ thật
sự có hiệu quả khi người thầy có tâm huyết, sự kiên nhẫn và nhất là phải có thời
gian, có phương pháp sinh động. Giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ là công
việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng để đào tạo được
những học sinh phát triển toàn diện.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải đảm bảo các yếu tố: Giúp học sinh
ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học sinh hiểu
biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có
văn hoá, hiểu biết và chấp hành pháp luật... Để dạy kỹ năng sống cho học sinh
đạt được hiệu quả cao, đòi hỏi người giáo viên phải có tâm, có phương pháp
sinh động, dạy vừa đủ, vừa thấm, không thừa không thiếu.
3.2. Kiến nghị:
Để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Tôi xin kiến nghị, đề xuất với
nhà trường, Phòng giáo dục tổ chức thêm những buổi hội thảo về tiết dạy lồng
ghép giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, để chúng tôi có điều kiện
giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các đồng chí, đồng nghiệp nhằm đem lại hiệu
quả cao hơn nữa trong hoạt động rèn luyện kỹ năng sống, tạo cho các em học

sinh có được hành trang tự tin bước vào tương lai. Góp phần vào sự nghiệp giáo
dục mầm xanh của đất nước.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 9 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người thực hiện:
Nguyễn Thị Lan

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-

Lí luận dạy học sinh học
Sách giáo khoa Sinh học 8.
Sách giáo viên Sinh học 8.
Sách chuẩn kiến thức và kĩ năng môn Sinh học.
Tài liệu “Tập huấn giáo viên THCS, THPT”.
Luật giáo dục.
Một số tài liệu về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Kèm theo một số hình ảnh và thông tin được sưu tầm trên mạng internet.

17


DANH MỤC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Chu Văn An.

TT

1.

2.

3.

4.

5.

Tên đề tài SKKN
Hướng dẫn học sinh giải bài
tập chương III. AND và genSinh học 9 ở trường THCS
Nga Thái.
Hướng dẫn học sinh giải bài
tập lai của Menđen.
Vận dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong giáo dục giới
tính- Chương XI- Sinh học
8(Trường THCS Nga Thái)
Hướng dẫn học sinh giỏi nhận
dạng và giải bài tập lai có tỷ lệ

phân li kiểu hình 1:1:1:1- Sinh
học 9, Trường THCS Nga
Thái.
Biện pháp rèn kĩ năng sống
cho học sinh qua dạy học một
số bài thực hành môn sinh học
8 ở trường THCS nga Thái.

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc
C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Cấp huyện

C

2007- 2008

Cấp huyện


C

2011- 2012

Cấp huyện

B

2012- 2013

Cấp huyện

B

2013- 2014

Cấp huyện

B

2015- 2016

18


19




×