Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Những bài tập bổ trợ và phương pháp rèn luyện phát triển sức mạnh trong nhảy cao hảy cao thông qua một số bài tập bổ trợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.56 KB, 23 trang )

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Đề tài: “Những bài tập bổ trợ và phương pháp rèn luyện phát triển
sức mạnh trong nhảy cao”.
1. Mở Đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Giáo dục thể chất là một trong những hệ thống giáo dục con người phát
triển toàn diện, đặc biệt là lứa tuổi trung học cơ sở. Đây là giai đoạn tiền đề cho
việc củng cố sức khoẻ cũng như tinh thần để học sinh chuẩn bị tốt cho tương lai
của mình.
Cùng với tiến trình phát triển và đổi mới không ngừng của xã hội, việc
giảng dạy trong nhà trường nói chung và giảng dạy môn thể dục nói riêng đã có
sự đổi mới đáng kể cho phù hợp với trình độ phát triển ngày càng cao của học
sinh, giáo viên trước khi lên lớp phải nghiên cứu tìm ra phương pháp hợp lý để
truyền đạt cho học sinh tiếp thu tốt kiến thức giờ học. Từ đó học sinh sẽ học tập
một cách hăng say tích cựu , mang lại hiệu quả cao hơn. Vậy thì phương pháp
lên lớp đó như thế nào ? mà môn thể dục chủ yếu là học về năng khiếu, hoạt
động chân tay nhiều đặc biệt các em được học ngoài không gian rộng , đòi hỏi
giáo viên ngoài phương pháp lên lớp còn phải bao quát được toàn bộ sân tập,
tránh để các em hoạt động quá khích dẫn đến những chấn thương ngoài ý muốn.
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, dù là hình thái chính trị
nào thì vẫn đặc biệt coi trọng công tác giáo dục thể chất trong các nhà trường. Ở
Việt Nam kể từ ngày hòa bình lập lại đến nay. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm
chăm lo cho công tác giáo dục. Việc đào tạo thế hệ trẻ thành một lớp người phát
triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, có sức khỏe để học có đủ năng lực và ý
chí thực hiện nhiệm vụ xây dựng nước nhà theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trong thế kỷ XXI đặc biệt có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Bác Hồ đã khẳng định mục đích của rèn luyện sức khoẻ dưới chế độ mới,
để xây dựng một xã hội văn minh. Mục đích của GDTC phát triển toàn diện thế
hệ trẻ Việt Nam, thế hệ trẻ đó phải được phát triển thể chất có chủ định để thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước.
Ngày 27/03/1946 Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: “Giữ gìn


dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ
mới thành công. Một người dân yếu ớt tức làm cho cả nước yếu ớt, một người
dân mạnh khoẻ tức làm cho cả nước khoẻ mạnh …” và vì thế: “Luyện tập thể
dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của người dân yêu nước”.
Giáo dục thể chất là một mặt của giáo dục toàn diện, đồng thời là một bộ
phận không thể tách rời của sự nghiệp giáo dục của Đảng và nhà nước ta.
Sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục thể chất nói riêng đã góp phần
hết sức quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, hoàn thiện
1


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
về nhân cách, trí tuệ và thể chất để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước, giữ vững và tăng cường an ninh quốc phòng.
Tầm quan trọng của TDTT thể hiện rõ trong tư tưởng và việc làm của Chủ
Tịch Hồ Chí Minh - Người dạy: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời
sống mới, việc gì cũng cần đến sức khỏe mới thành công”.
Chỉ thị số 36 - CT/TW ngày 24 tháng 03 năm 1994 của BCH TW Đảng
Cộng Sản Việt Nam về công tác TDTT trong giai đoạn mới đã khẳng định
phương hướng “Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát
triển kinh tế - Xã hội của Đảng và nhà nước, nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân
tố con người, công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, giáo
dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa,
tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động của xã hội và năng lực
chiến đấu của lực lượng vũ trang”.
Trong giáo dục thể chất, Điền kinh là nội dung cơ bản, là nền tảng để phát
triển các tố chất thể lực cơ sở cho các môn thể thao khác. Trong đó nhảy cao là
một nội dung cơ bản để phát triển các tố chất thể lực. Nhìn chung thành tích
nhảy cao của học sinh hiện nay là còn thấp so với thể chất của học sinh và yêu
cầu của giáo dục thể chất. Trước yêu cầu này đòi hỏi giáo viên lên lớp phải có

những phương pháp giảng dạy, những bài tập hợp lí phù hợp với lứa tuổi, giới
tính và trình độ của học sinh để phát triển thành tích môn nhảy cao.
Nhận thức được thực trạng trên, mặc dù là một giáo viên còn trẻ về tuổi
đời, trẻ về tuổi nghề nhưng đã được giảng dạy và tham gia tập luyện cho đội
tuyển đi thi đấu, kết hợp với những kinh nghiệm, kiến thức học hỏi từ đồng
nghiệp tôi quyết định chọn đề tài Xuất phát từ những lí do trên bản thân tôi tự
hỏi làm thế nào để nâng cao được thành tích nhảy cao cho học sinh? Vì vậy tôi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Những bài tập bổ trợ và phương pháp rèn luyện
phát triển sức mạnh trong nhảy cao cho học sinh THCS”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
a. Đối với giáo viên.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, phục vụ cho quá trình giảng dạy.
- Làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nâng cao kiến thức.
b. Đối với học sinh.
- Giúp học sinh học tập nhảy cao nói chung và việc tập luyện các môn
điền kinh nói riêng. Trang bị cho học sinh một số kiến thức mới nhằm nâng cao
năng lực học môn nhảy cao giúp các em tiếp thu luyện tập một cách chủ động,
sáng tạo.
- Gây được hứng thú cho học sinh khi luyện tập các bài tập trong
chương trình.
- Thông qua việc chơi trò chơi vận động giúp học sinh thấy rõ mục đích
của việc học và tập luyện môn nhảy cao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
2


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Đề tài áp dụng đối với học sinh khối lớp 9 Trường THCS.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong cuộc sống hiện nay, vị trí công tác TDTT trong nhà trường càng được

xác định theo đúng tầm quan trọng của nó. Thông qua giáo dục trong bộ môn thể
dục, bồi dưỡng cho học sinh những đức tính dũng cảm, giúp học sinh biết được kĩ
năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực, góp phần rèn luyện nếp
sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỉ luật, thói quen tự giác tập luyện thể dục
thể thao, giữ gìn vệ sinh. Có sự tăng tiến về thể lực, thi đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân
thể và thể hiện khả năng của bản thân về thể dục thể thao, biết vận dụng những điều
đã học vào nếp sinh hoạt ở trong và ngoài nhà trường, góp phần chuẩn bị cho thế hệ
trẻ có nếp sống, tác phong công nghiệp.
Trong giáo dục thể chất, điền kinh là nội dung cơ bản, là nền tảng để phát
triển các tố chất thể lực cơ sở cho các môn thể thao khác. Trong đó nhảy cao là
một nội dung cơ bản để phát triển các tố chất thể lực. Trước yêu cầu này đòi hỏi
giáo viên lên lớp phải có những phương pháp giảng dạy, những bài tập hợp lí
phù hợp với sách giáo khoa, phù hợp với lứa tuổi và đặc biệt là phát triển thành
tích môn nhảy cao.
Trường THCS mà tôi công tác, nền tảng thể lực của học sinh vẫn còn hạn
chế. Đặc biệt thành tích môn nhảy cao của học sinh còn thấp so với thành tích
môn nhảy cao của các trường trong huyện và của tỉnh Thanh Hoá.
2. Nội dung sáng kiến kinh ngiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Sáng kiến kinh nghiệm “Những bài tập bổ trợ và phương pháp rèn
luyện phát triển sức mạnh trong nhảy cao cho học sinh THCS”. mang ý nghĩa
và tác dụng nhiều mặt đó là: Tìm ra một số bài tập bổ trợ hiệu quả để nâng cao
thành tích nhảy cao. Giúp học sinh hứng thú hơn với môn học nhảy cao nói
riêng và môn thể dục nói chung, từ đó giúp học sinh nâng cao thể lực, tạo điều
kiện tốt cho việc phát triển các tố chất thể lực, học tập và lao động tốt hơn. Đồng
thời làm cho giờ học thêm sinh động nâng cao hiệu quả giờ học, đáp ứng nhu
cầu của công tác huấn luyện phục vụ thi đấu và phục vụ cho phong trào giáo dục
thể chất ở các nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi quá độ và là giai đoạn rất nhạy cảm,
có sự phát triển đặc biệt mạnh mẽ, linh hoạt của các đặc tính nhân cách. Các em

luôn mong muốn thử sức mình theo các phương hướng khác nhau, nên hành vi
của các em phức tạp và mâu thuẫn. Vì vậy cần phải thường xuyên giám sát và
giáo dục cho phù hợp trên cơ sở phát huy tính tích cực, sáng tạo, biết điều chỉnh
và tổ chức hoạt động, tạo điều kiện phát triển tốt các khả năng cho các em.
Nhảy cao là môn thể thao không đòi hỏi nhiều về trang thiết bị, kĩ thuật
tương đối đơn giản, dễ phổ cập, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, do đó nhảy
cao là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể chất.
Trong các kì Hội Khỏe Phù Đổng từ cấp trường, cấp huyện đến cấp quốc
gia đều có thi đấu nhảy cao, các học sinh nói chung và các vận động viên nói
riêng đã lập được những thành tích đáng khen ngợi. Tuy nhiên thành tích nhảy
3


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
cao của học sinh nước ta so với thành tích của học sinh các nước trên thế giới
còn ở mức chênh lệch quá lớn.
Ở cấp Trung học cơ sở các em được làm quen và tập luyện với kĩ thuật nhảy
cao ở mức độ đơn giản. Việc giảng dạy môn nhảy cao trong nhiều năm qua đã
được chú trọng và đạt kết quả nhất định, song vẫn còn phải phấn đấu nhiều hơn
nữa mới đáp ứng được phong trào ngày càng mạnh mẽ. Để giảng dạy tốt hơn nữa
môn nhảy cao cho học sinh, cần phải nắm chắc được đối tượng và không ngừng
chọn lựa cải tiến, các biện pháp, nội dung giảng dạy cho phù hợp, gây ảnh hưởng
tốt đến sự phát triển toàn diện các bộ phận cơ thể học sinh.
Môn nhảy cao muốn có được thành tích tốt ngoài kĩ thuật còn phải tập
luyện thường xuyên , liên tục và có các bài tập nâng cao. Nhìn lại ở trường
THCS tôi công tác trong những năm qua , do chương trình của Bộ Giáo dục quy
định các kĩ thuật trong môn điền kinh nói chung và môn nhảy cao nói riêng là
phần dạy học bắt buộc trong công tác giáo dục thể chất của nhà trường. Nhìn
chung học sinh đã được học nhưng chưa liên tục và hoàn chỉnh, do đó kết quả
đạt được chưa cao. Nguyên nhân chính là do chưa có điều kiện tập luện thường

xuyên và phương pháp luyện tập không khoa học, đây cũng chính là lí do để đưa
các em vào công việc nghiên cứu.
* Đặc điểm sinh lí lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
+ Hệ thần kinh:
Não bộ đang thời kì hoàn chỉnh, hoạt động của thần kinh chưa ổn định,
hưng phấn chiếm ưu thế. Do đó khi học tập các em dễ tập trung tư tưởng, nhưng
nếu thời gian kéo dài, nội dung nghèo nàn, hình thức hoạt động đơn điệu, thì
thần kinh sẽ chóng mệt mỏi và dễ phân tán sức chú ý. Vì vậy nội dung tập luyện
phải phong phú, phương pháp dạy học, tổ chức giờ học phải linh hoạt, giảng giải
và làm mẫu có trọng tâm, chính xác. Ngoài ra cần tăng cường tập luyện thể dục
thể thao ngoài giờ và các hình thức vui chơi khác để làm phong phú khả năng
hoạt động và phát triển các tố chất thể lực một cách toàn diện.
+ Hệ vận động:
- Đối với hệ xương: Hệ xương đang trong giai đoạn phát triển mạnh về
chiều dài. Hệ xương sụn tại các khớp đang đòi hỏi điều kiện tốt để phát triển và
hoàn thiện.
Giáo dục thể chất có tác dụng tốt đến sự phát triển của hệ xương nhưng
phải chú ý đến tư thế, đến sự cân đối trong hoạt động để tránh phát triển sai lệch
của hệ xương và kìm hãm sự phát triển về chiều dài.
- Đối với hệ cơ: Hệ cơ của các em phát triển chậm hơn sự phát triển của
hệ xương, chủ yếu là phát triển về chiều dài, thiết diện cơ chậm phát triển. Do sự
phát triển không đồng bộ, thiếu cân đối nên các em không phát huy được sức
mạnh và chóng mệt mỏi.
Vì vậy cần chú ý tăng cường phát triển cơ bắp và phát triển toàn diện.
4


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
+ Hệ tuần hoàn:
Tim phát triển chậm hơn so với sự phát triển mạch máu, sức co bóp yếu,

khả năng điều hòa hoạt động của tim chưa ổn định nên khi hoạt động quá căng
thẳng sẽ chóng mệt mỏi.
Vì vậy tập luyện thể dục thể thao thường xuyên sẽ ảnh hưởng tốt đến hoạt
động của hệ tuần hoàn, hoạt động của tim dần dần được thích ứng. Nhưng trong
quá trình tập luyện cần phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức và nguyên tắc tăng tiến
trong giáo dục thể chất, tránh hoạt động quá sức và đột ngột.
+ Hệ hô hấp:
Phổi của các em phát triển chưa hoàn thiện, phế nang còn nhỏ, các cơ hô
hấp chưa phát triển, dung lượng phổi còn bé.
Vì vậy khi hoạt động các em phải thở nhiều, thở nhanh nên chóng mệt mỏi.
Rèn luyện thể chất cho các em phải toàn diện, phải chú ý phát triển đến các cơ hô
hấp, hướng dẫn các em phải biết cách thở sâu, thở đúng và biết cách thở trong hoạt
động. Như vậy mới có thể làm việc, hoạt động được lâu và có hiệu quả.
Hệ quả của giáo dục thể chất gắn liền với đặc điểm giải phẫu sinh lí, tâm lí
học và đặc điểm phát triển tố chất thể lực ở mỗi lứa tuổi con người. Tác dụng
của giáo dục thể chất là rất lớn, nó không ngừng đem lại sức khỏe cho học sinh
mà còn góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện.
Tố chất thể lực là sự biểu hiện tổng hợp của hệ thống chức năng các cơ
quan cơ thể, tố chất thể lực tăng trưởng theo sự tăng trưởng của lứa tuổi. Sự tăng
trưởng này có tốc độ nhanh, biên độ lớn trong thời kì dậy thì. Giai đoạn lứa tuổi
khác thì tố chất thể lực phát triển khác, tức là trong cùng một lứa tuổi tố chất thể
lực khác phát triển thay đổi cũng không giống nhau.
Tố chất thể lực từ giai đoạn tăng trưởng chuyển qua giai đoạn ổn định
theo thứ tự phát triển sau: Tố chất nhanh phát triển đầu tiên, sau đó là tố chất
bền và tố chất mạnh.
+ Tố chất nhanh: Tố chất nhanh phát triển sớm hơn sự phát triển tố chất
mạnh, thời kì phát triển tố chất nhanh quan trọng nhất ở tuổi học sinh Tiểu học
và Trung học cơ sở.
+ Tố chất mạnh: Khái niệm về sức mạnh cho đến nay vẫn còn có những cách hiểu
khác nhau. Nhưng theo Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn :“Tố chất sức mạnh có

thể phân thành sức mạnh tuyệt đối, sức mạnh tương đối, sức mạnh tốc độ, sức mạnh
bền”, trong đó:
- Sức mạnh tuyệt đối là năng lực khắc phục lực cản lớn nhất.
- Sức mạnh tương đối là sức mạnh tuyệt đối của vận động viên trên 1 kg
thể trọng của họ.
- Sức mạnh tốc độ là khả năng sinh lực trong các động tác nhanh.
- Sức mạnh bền là năng lực khắc phục lực cản nhỏ trong thời gian dài.
5


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Bên cạnh đó, ở nhiều trường hợp còn gặp một dạng sức mạnh rất quan trọng
được gọi là “sức mạnh bột phát”: Dạng sức mạnh này xuất hiện và giữ vai trò quan
trọng trong các môn có hoạt động bật nhảy, được tính theo công thức:

F
I = max
Tmax
Trong đó I là chỉ số đánh giá sức mạnh, tốc độ hay sức mạnh bột phát, F max
là lúc sức mạnh tối đa, Tmax là thời gian để đạt sức mạnh tối đa.
Nhảy cao là nội dung nằm trong hệ thống các môn không có chu kỳ, gồm
nhiều động tác liên kết lại với nhau, thành một kỹ thuật hoàn chỉnh, người ta
chia thành 4 giai đoạn: chạy đà, giậm nhảy, tư thế bay trên không và tiếp đất.
Trong bốn yếu tố đó, yếu tố giậm nhảy có ảnh hưởng nhiều nhất tới việc hình
thành kỹ thuật động tác và quyết định thành tích ở môn này. Nhưng khâu giậm
nhảy lại có quan hệ rất lớn với tốc độ chạy đà, thời gian chống đỡ khi giậm
nhảy, góc độ giậm nhảy… Như vậy, có thể thấy sức mạnh trong nhảy cao là
dạng sức mạnh hỗn hợp, mà ta có thể phân ra một cách tương đối, gắn liền với
quá trình thực hiện kỹ thuật bao gồm:
- Sức mạnh tốc độ: Dạng sức mạnh này thể hiện trong động tác chạy đà.

- Sức mạnh bột phát: Dạng sức mạnh thể hiện trong động tác giậm nhảy
(sức bật).
Theo “Tính chu kỳ trong huấn luyện thể thao” hầu hết các môn thể thao
đều cần sức
mạnh, những tố chất sức mạnh cần thiết cho từng môn thể thao khác nhau gọi là
sức mạnh đặc thù của môn nào đó. Sức mạnh tối đa đóng vai trò quan trọng nếu
không nói là quyết định trong việc tạo ra sức mạnh đặc thù của môn thể thao.
Đối với môn nhảy cao chúng ta cần quan tâm đến sự phát triển sức mạnh tốc
độ của người tập. Để phát triển sức mạnh tốc độ cần xen kẽ tập luyện đúng mức
với phương pháp dùng sức lớn nhất. Như vậy, trong quá trình cho học sinh tập
luyện môn nhảy cao chúng ta cần đưa vào các bài tập phát triển sức mạnh bột phát
của các nhóm chi dưới, giúp cho việc thực hiện động tác giậm nhảy trong nhảy cao
thật nhanh, mạnh, để đưa cơ thể bay lên cao hơn.
+ Tố chất khéo léo: Khéo léo là năng lực tiếp thu nhanh các động tác ứng phó
kịp thời với những thay đổi bất ngờ. Xác định và đánh giá tố chất khéo léo là việc
khó. Có thể tính bằng khoảng thời gian tiếp thu động tác. Để rèn luyện khéo léo
cần phải tập nhiều các loại hình động tác, nhờ quá trình tập để tiếp thu các động
tác đó các tố chất khác cũng phát triển theo.
Tóm lại, trong quá trình giảng dạy và huấn luyện Điền kinh nói chung và
nhảy cao nói riêng, chúng ta cần căn cứ vào đặc điểm phát triển tố chất, đồng thời
6


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
dùng các phương pháp huấn luyện khoa học, xúc tiến cho việc phát triển tố chất
thể lực của người tập nói chung và học sinh nói riêng.
Ở Việt Nam Điền kinh được quan tâm, trong trường Trung học cơ sở Điền kinh
là một nội dung học chính thức trong chương trình Giáo dục thể chất, trong đó Nhảy
cao là môn được đưa vào giảng dạy chủ yếu ở lớp 8 và lớp 9. Việc luyện tập và thi
đấu Nhảy cao là việc làm thường xuyên và cần thiết có tác dụng phát triển thể lực

một cách toàn diện, đồng thời tạo điều kiện nâng cao thành tích các môn thể thao
khác.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường THCS nơi tôi công tác là một trường nằm cuối huyện, đa số học
sinh đều là con nhà nông hoặc gia đình làm nghề thủ công. Vì thế các em đều
thiếu thốn về sân bãi, dụng cụ, phương tiện tập luyện và ngay cả chế độ ăn uống,
thời gian nghỉ ngơi cũng không được đảm bảo cho tập luyện nên sự tập luyện
của các em chủ yếu là ở trường với thời gian quá ngắn ngủi cho một tiết học với
số lượng học sinh trong một lớp tương đối đông. Trong điều kiện như vậy nên
các em còn chưa hứng thú với việc tập luyện. Trường chưa có sân tập thể dục
riêng đang còn học ở sân trường lát gạch, nơi học nhảy cao lại cũng không được
đảm bảo nên việc học tập còn nhiều hạn chế. Dụng cụ học tập tuy có nhưng
chưa đầy đủ và chưa đảm bảo, hệ thống tranh ảnh phục vụ cho việc học tập đã
cũ và thiếu nhiều nên đôi khi giáo viên muốn cho học sinh thị phạm bằng tranh
ảnh nhưng không có gây ảnh hưởng đến chất lượng học tập.
Mặc dù đã có sự đổi mới về phương pháp, chương trình và sách giáo khoa
nhưng do cơ sở vật chất còn thiếu thốn, sân tập không đủ tiêu chuẩn dẫn đến
tình trạng học tập của học sinh còn nhàm chán, uể oải và sự quan tâm của cấp
trên chưa nhiều đối với môn đặc thù nên giờ dạy vẫn chưa đạt hiệu quả tốt nhất.
Những năm vừa qua tôi được phân công giảng dạy môn Thể dục tại trường
THCS. Qua thực tế công tác tôi nhân thấy rằng thực trạng học sinh học môn Thể
dục nói chung và môn nhảy cao nói riêng đa phần các em học sinh chưa tích cực
tập luyện, chưa xem tập luyện thể dục thể thao là cách tốt nhất để rèn luyện sức
khoẻ phát triển thể lực. Ở độ tuổi này các em đang trong quá trình phát triển tâm
sinh lí, vì thế các em hay e thẹn, rụt rè khi tập luyện. Một mặt học sinh luôn
quan niệm Thể dục là một môn phụ nên không quan tâm muốn học sao cũng
được, điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của học sinh. Mặt khác đôi khi giáo viên
còn cứng nhắc trong giờ học đối với học sinh nên kết quả học tập môn thể dục
nói chung và môn nhảy cao nói riêng chưa cao.
Bản thân tôi có năng lực và lòng nhiệt tình đối với công tác giáo dục thể

chất ở nhà trường. Luôn tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để phục vụ tốt
công tác giảng dạy của mình. Trong việc giáo dục thể chất trong trường học. Các
phân môn như Đội hình đội ngũ, Bài thể dục phát triển chung, Bài tập rèn luyện
tư thế và kĩ năng vận động cơ bản, trò chơi vận động và môn tự chọn, đều rất
quan trọng, đó là sự liên kết logic trong giáo dục thể chất cho học sinh. Nhưng
đôi khi giáo viên chưa thực sự coi trọng phần trò chơi vận động, coi đó là phần
7


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
mềm mà trong một tiết học có thể thay đổi được bằng một trò chơi khác hay một
phân môn học khác. Chính vì thế trong khi lên kế hoạch bài dạy hay khi giảng
dạy, giáo viên chưa đưa ra được một phương pháp dạy phù hợp cho từng trò
chơi. Dẫn đến khi học sinh học, chơi trò chơi vận động chưa được hào hứng
hoặc chưa hứng thú chơi trò chơi trong chương trình. Tôi đã đi dự giờ Thể dục
có nội dung trò chơi vận động của đồng nghiệp. Tôi nhận thấy rằng, giáo viên
khi giảng dạy phần trò chơi vận động, phần đa học sinh không hiểu được cách
chơi, chưa thực sự hào hứng chơi.
Đối với lứa tuổi các em được tiếp cận với nhiều môn thể thao là điều rất
tốt vì lứa tuổi này đang ở độ tuổi phát triển rất nhanh về hình thể và tâm sinh lý
nên được tập luyện thường xuyên sẽ có tác dụng rất tốt đến cơ thể và giúp con
người phát triển toàn diện. Nhưng trong thực tế có những em chưa quan tâm
đến TDTT, coi môn thể dục là môn phụ, coi TDTT là khó không đủ tự tin và
kiên trì để vượt qua, có những học sinh lấy kết quả TDTT để làm động cơ ganh
đua thiếu văn hoá, chính vì điều đó mà việc dạy TDTT ở trường còn gặp nhiều
khó khăn.
Trong năm học 2016 - 2017 vừa qua, kết quả kiểm tra đánh giá quá trình
tập luyện nội dung nhảy cao kiểu bước qua đối với học sinh khối lớp 9 còn thấp,
số học sinh đạt mức điểm giỏi chỉ có 15%.
Ngoài việc học ở trường các em còn phải phụ giúp với gia đình trong

công việc nhà, muốn vậy các em phải có một sức khoẻ thật tốt, một thể lực
cường tráng.
Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục thể chất, là một giáo viên
giảng dạy trực tiếp, hướng dẫn các em rèn luyện thể chất, qua thực tế công tác
tại trường THCS tôi luôn trăn trở làm thế nào để các em chủ động tích cực tập
luyện nâng cao sức khoẻ, là những con người có tri thức, có đạo đức và có ích
cho xã hội. Trong môn thể dục nói chung và nhảy cao nói riêng bản thân tôi
cũng luôn tìm tòi và học hỏi kinh nghiệm làm thế nào để các em nâng cao được
thành tích.
Thông qua kết quả nghiên cứu lựa chọn được một số bài tập phát triển sức
mạnh trong môn nhảy cao phù hợp với học sinh. Từ đó nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục ở nhà trường phổ thông.
Để giải quyết mục đích nghiên cứu trên tôi thực hiện hai nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
* Nhiệm vụ 1: Xác định và lựa chọn một số bài tập triển sức mạnh nhằm
nâng cao thành tích trong môn nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh lớp 9
trường THCS nơi tôi công tác.
* Nhiệm vụ 2: Đánh giá hiệu quả các bài tập phát triển sức mạnh nhằm
nâng cao thành tích trong môn nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh khối lớp 9
trường THCS nơi tôi công tác.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
8


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
2.3.1. Giải pháp.
* Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm
trung tâm.
* Đưa ra được các bài tập nhằm giải quyết được vấn đề nghiên cứu.Triển
khai từ đơn giản đến phức tạp.

* Chuẩn bị đầy đủ các kiến thức về nhảy cao, các bài tập bổ trợ phát triển
sức mạnh.
2.3.2. Biện pháp thực hiện.
a) Chuẩn bị : Tham khảo các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
b) Chuẩn bị các phiếu điều tra:
c) Chuẩn bị các bài tập:
Phương pháp này nhằm mục đích đưa các bài tập mới vào thực tiễn, qua
thực nghiệm góp phần làm sáng tỏ những yếu tố tác động trực tiếp (yếu tố thực
nghiệm) tới kết quả tập luyện của đối tượng nghiên cứu.
d) Chuẩn bị nội dung kiểm tra:
* Tổ chức thực hiện:
+ Phân nhóm học sinh
Sau khi xác định được nhiệm vụ nghiên cứu, căn cứ vào thời gian và
chương trình học tập của Trường THCS tôi chọn đối tượng là 32 em học sinh lớp
9a và 32 em học sinh lớp 9b chia làm hai nhóm.
Nhóm 1: Nhóm thực nghiệm: Gồm 32 em học sinh lớp 9A thời gian tập
luyện mỗi tuần 1 buổi, mỗi buổi 1 tiết nội dung tập luyện do chúng tôi đưa ra
theo các bài tập đã xác định.
Nhóm 2: Nhóm đối chứng: Tôi đã chọn ngẫu nhiên 32 em học sinh lớp 9B
thời gian tập luyện giống như nhóm thực nghiệm mỗi tuần 1 buổi, mỗi buổi 1
tiết nội dung tập luyện theo phân phối chương trình hiện hành.
- Thời gian tổ chức thực hiện từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018.
+ Chuẩn bị về cơ sở vật chất
Dụng cụ phục vụ cho việc kiểm tra lấy số liệu như:
1. Thước dây.
2. Đồng hồ bấm giờ.
3. Cọc.
4. Xà.
5. Nệm.
6. Hố cát.

9


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
7. Ván phát lệnh
8. Còi.
2.3.3. Thời gian thực hiện.
- Thời gian tổ chức thực hiện từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018.
2.3.4. Cơ sở thực tiễn
a. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn luôn
tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo
dục học sinh.
- Công đoàn nhà trường luôn tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên yên tâm
công tác.
- BGH nhà trường đã tham mưu với địa phương xây dựng cơ sở vật chất
ngày càng khang trang tạo điều kiện thuận lợi cho các em học tốt môn thể dục.
- Bản thân an tâm công tác, có tinh thần trách nhiệm cao trong mọi nhiệm
vụ được giao.
- Nhiệt tình, trách nhiệm trong công việc, được BGH quan tâm về mọi mặt
- Đa số học sinh ham học hỏi, chịu khó .
b. Khó khăn.
- Do ý thức chủ quan của một số bộ phận học sinh thường lơ là trong việc
tập luyện TDTT, chưa hiểu hết được tầm quan trọng trong việc rèn luyện thể lực
để nâng cao sức khỏe cho bản.
- Các nhà khoa học đã chứng minh rằng việc tập luyện TDTT thường
xuyên và liên tục ít nhất 3 – 4 buổi / tuần, mỗi buổi từ 30 - 40 phút trở lên, tập
các bài tập có cường độ trung bình trở lên thì mới nâng cao được thể lực và tăng
cường sức khỏe. Nếu nghỉ tập luyện quá dài sẽ làm giảm sút và mất đi những
hiệu quả tập luyện.

- Hiện nay các em học sinh khối lớp 9 ở trường THCS việc thực hiện
tập luyện TDTT đều đặn và khoa học còn rất khiêm tốn. Ngoài 2 tiết TD
trong một tuần học chương trình chính khóa thì rất ít em có ý thức rèn luyện
thêm ngoài giờ, cụ thể như vào các buổi chiều sau khi học xong hoặc buổi
sáng sớm thức dậy.
c. Nguyên nhân khó khăn:
- Do các em chưa ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc tập luyện
TDTT để nâng cao sức khỏe cho bản thân,
- Do các em chưa có hứng thú trong tập luyện, khi thích thì tập, không
thích thì thôi. Không duy trì tập luyện thường xuyên, tính tự giác tích cực trong
tập luyện chưa cao.
10


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
- Một số học sinh biểu hiện rất thích thú và bị lôi cuốn vào các trò chơi
điện tử, chát trên mạng, nên ít thời gian dành cho hoạt động TDTT và lao động
chân, tay.
2.3.5. Tổ chức thực hiện tập luyện
Bài tập 1: Bật nhảy bằng hai chân với tay vào vật trên cao
Chuẩn bị: Đứng hai chân cách nhau một khoảng nhỏ hơn vai, mũi hai bàn
chân hơi xoay vào trong, thân người thẳng hai tay buông tự nhiên. Điểm rọi của
vật trên cao chiếu thẳng xuống mặt đất cách nửa bàn chân trên (hoặc mũi bàn
chân) 0,2 - 0,3 m.
Động tác: Co hai chân lấy đà, đồng thời mắt nhìn theo vật treo ở trên cao
phối hợp với hai tay đưa ra sau. Giậm nhảy bằng hai chân bật người hơi chếch
trước, hướng lên cao, hai tay hoặc một tay với vào vật. Cũng có thể treo vật ở
trên cao để nhảy lên đánh đầu chạm vật. Khi rơi xuống chạm đất cần co hai chân
để giảm chấn động, sau đó đứng lên đi về trước để cho người khác vào nhảy
hoặc tiếp tục lấy đà để bật nhảy liên tục trong một số lần.


Hình 1: Bật nhảy bằng hai chân với vật ở trên cao.
11


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Bài tập 2: Nhảy bước bộ trên không
Chuẩn bị: Đứng hai chân chạm đất bằng cả bàn chân sát vạch xuất phát
(cách ván giậm nhảy 3 - 5 bước đà) chân giậm nhảy ở phía sau, hơi co chạm đất
bằng mũi bàn chân, thân người thẳng, hai tay buông tự nhiên, dồn trọng tâm vào
chân trước.
Động tác: Chạy 3 hoặc 5 bước đà, đặt bàn chân giậm nhảy vào ván
giậm nhảy sau đó dùng sức của chân đạp mạnh xuống đất đến mức tối đa để
bật người lên cao ra trước. Tiếp theo chân giậm nhảy duỗi thẳng ở phía sau,
chân lăng nâng đùi lên cao, cẳng chân thả lỏng, hai tay đánh phối hợp (cánh
tay ngang vai) để giữ thăng bằng, giữ nguyên tư thế như vậy ở trên không
trong một khoảng thời gian nhất định. Sau đó chân lăng chủ động tiếp đất
chùng gối để giảm chấn động.

Hình 2 :Nhảy bước bộ trên không
12


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Bài tập 3: Bài tập với dụng cụ, đeo tạ 0,5 kg vào 2 chân
bật nhảy lên bục.

Chuẩn bị: Tạ chân có khối lượng 0,5 kg. Đứng 2 chân chạm đất bằng cả
bàn chân vào mép vạch giậm nhảy, hai bàn chân song song hoặc cách nhau 5 10 cm, đầu hai bàn chân sát mép vạch giậm nhảy, hai tay thả lỏng tự nhiên.
Động tác: (Tương tự kĩ thuật của bật xa).

+ Hai tay đưa ra trước lên cao đồng thời dướn thân người, hai bàn chân
kiễng.
+ Đưa hai tay từ trên cao xuống thấp, ra sau. Hai chân khuỵu gối, hạ thấp
trọng tâm. Chân chạm đất bằng cả bàn chân, thân trên ngả về trước.
+ Dùng sức mạnh của đùi, sức bật của hai bàn chân đạp mạnh xuống đất để
bật người rời khỏi điểm giậm nhảy lên cao ra trước. Hai bàn tay đánh ra trước
lên cao, tiếp mặt bục bằng cả hai chân, khuỵu gối để giảm chấn động.
Quãng nghỉ: Đối với bài tập này ta cho học sinh thực hiện khoảng 3 tổ tập
luyện. Mỗi tổ làm 20 lần / tổ, sau mỗi tổ tập luyện nghỉ từ 3 - 5 phút rồi tiếp tục
thực hiện.
Bài tập 4: Bài tập với dụng cụ, đeo bao cát 0,5 kg vào 2 chân
bật nhảy qua xà ở mức xà quy định
Chuẩn bị: Bao cát có khối lượng 0,5 kg. Đứng vuông góc với xà cách
điểm giậm nhảy khoảng 5 - 7 bước (điểm giậm nhảy cách xà khoảng một
cánh tay).
Động tác: Chạy đà tự nhiên khoảng 5 - 7 bước đà, đặt một chân vào điểm
giậm nhảy rồi giậm nhảy thật mạnh phối hợp với chân kia đá lăng lên cao về
trước, hai tay đánh nâng người lên. Tiếp theo co chân giậm nhảy và hơi ngả thân
13


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
trên về trước để bay qua xà. Sau đó đưa chân giậm nhảy về với chân lăng và cả
hai chân cùng rơi xuống chạm đất, khi chạm đất co hai chân để giảm chấn động
và vươn hai tay để giữ thăng bằng.
Vì hai chân đeo bao cát nên sức các em bỏ ra cũng phải nhiều hơn và bật
cũng phải mạnh hơn để đáp ứng yêu cầu ở mỗi mức xà.
Quãng nghỉ: Đối với bài tập này thì quãng nghỉ là 30 giây/1 lần.
Bài tập 5: Đeo tạ tập 0,5 kg vào 2 chân ke bụng trên
thang gióng hoặc trên ghế


Hình 3 :Đeo tạ chân kê bụng trên ghế
Chuẩn bị: Treo người trên thang gióng (nếu có dụng cụ) hoặc ngồi trên
ghế lưng và chân vuông góc.
Động tác: Đối với điều kiện nhà trường chưa có dụng cụ thang gióng ta
tập ngồi trên ghế. Nâng chân vuông góc với người sau đó trở về tư thế ban đầu,
hai tay buông sát hai bên hông nắm hờ vào cạnh ghế tạo điểm tựa. Tương tự cứ
thực hiện như vậy.
Quãng nghỉ: Thực hiện 3 tổ tập luyện mỗi tổ tăng dần số lượng (ví dụ tổ
1 tập ke 20, tổ 2 tập ke 25, tổ 3 tập ke 30 lần). Sau mỗi tổ tập luyện nghỉ 3 - 5
phút.
14


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Bài tập 6: Bài tập với dụng cụ bằng dây cao su

Hình 4: tập với dụng cụ bằng dây cao su
Chuẩn bị: Dây cao su buộc vào một điểm cố định.
Động tác: Luồn 1 chân vào dây cao su làm căng và kéo căng về trước
mỗi chân làm 10 lần sau đó đổi chân kia.
Bài tập 7: Đà một - ba bước giậm nhảy qua xà
Chuẩn bị: Đứng theo hướng chạy đà và cách xà khoảng 0,8 - 1 m, chân
lăng phía trước chạm đất bằng cả bàn chân. Chân giậm nhảy co gối phía sau,
mũi chân chạm đất, hai tay buông tự nhiên.
Động tác: Chạy đà khoảng 3-7 bước đà, đạt chân giậm vào điểm giậm
nhảy rồi giậm nhảy thật mạnh, phối hợp với chân kia đá lăng lên cao về trước,
hai tay đánh nâng người lên (cánh tay cao bằng vai, khuỷu tay hơi khuỳnh ra)
sau đó co chân giậm nhảy và hơi ngã thân trên về trước để bay qua xà (xà cao
50cm) trông như đang ngồi xổm, rồi đưa tiếp chân giậm nhảy thu về sát chân

lăng rồi cả hai chân cùng rơi xuống chạm cát, gối khuỵu để giảm chấn động và
vươn hai tay ra trước giữ thăng bằng.
15


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Hình 2: Đà một - ba bước giậm

Hình 3: Đà một - ba bước giậm

nhảy bước qua xà
nhảy chân lăng qua xà
*. Kiểm nghiệm.
- Trước khi tiến hành thực nghiệm tôi tiến hành kiểm tra kết quả lần 1 ở
cả hai nhóm thực nghiệm và đối chứng.
Kết quả như sau:
Nhóm
Nhóm đối chứng lớp 9b
Nhóm thực nghiệm lớp 9a
SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ

5


15,6%

5

15,6%

9

28,1%

10

31,3%

TB

13

40,6%

13

40,6%

Yếu

4

12,5%


4

12,5%

Kém

2

3,2%

0

0%

Loại
Giỏi

Khá

16


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Kết quả được minh hoạ trên biểu đồ như sau :
ĐC
TN

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Trong quá trình tôi dùng phương pháp nói trên lồng ghép vào bài học,

thấy rằng: Thể lực học sinh được nâng lên một cách rõ rệt, các em học tập hăng
say hơn, tinh thần học tập của các em cũng được nâng cao, các em yêu thích
môn học, chất lượng giờ học đạt kết quả tốt, các em nhanh chóng nắm bắt nội
dung bài học. Kết quả học tập được nâng cao dần sau mỗi lần kiểm tra, chính
điều này tạo hưng phấn cho các em học tập.
Thấy được tác dụng của trò chơi vận động cho nên tôi đã mạnh dạn áp
dụng vào giờ học một cách hợp lý và thấy rằng chất lượng học tập của các em
đạt hiệu quả.
Thực tế tôi đã theo dõi kết quả đó đối với nhóm học sinh lớp 9 ở trường
THCS đầu năm học thi kết quả chưa cao (như nêu ở phần II. Mội dung sáng
kiến kinh ngiệm). Nhưng khi áp dụng “Trò chơi vận động” vào giảng dạy trong
một thời gian vào cuối tháng 3 năm 2018 tôi thu được kết quả của học sinh đạt
được sau một năm áp dụng.
Sau 17 tuần thực nghiệm tôi kiểm tra lần 2 để so sánh đánh giá thành tích
giữa hai nhóm nhằm đánh giá hiệu quả của các bài tập đã đưa vào thực nghiệm.
Sau khi tiến hành kết quả thu được như sau:
Kết quả như sau:
17


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Nhóm
Nhóm đối chứng lớp 9b

Nhóm thực nghiệm lớp 9a

SL

Tỉ lệ


SL

Tỉ lệ

6

18,8%

8

25%

13

40,6%

16

50%

TB

11

34,4%

8

25%


Yếu

2

6,2%

0

0%

Kém

0

0%

0

Loại
Giỏi

Khá

0%

Kết quả được minh hoạ thông qua biểu đồ sau:
ĐC
TN


18


S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
Diễn biến nhịp độ tăng trưởng của hai nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng đều tăng sau 24 tuần tập luyện. Kết quả kiểm tra của nhóm thực nghiệm có
sự tăng trưởng cao, đồng đều và ổn định hơn so với nhóm đối chứng.
Tóm lại: Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy qua 2 nội dung kiểm tra,
nhóm thực nghiệm đều phát triển hơn nhóm đối chứng. Hệ thống bài tập phát
triển sức mạnh đã thể hiện tính hiệu quả đến việc huấn luyện nâng cao thành tích
nhảy cao cho học sinh trường THCS nơi tôi công tác.
Từ kết quả nghiên cứu cho phép nhận xét:
- Qua nghiên cứu đã chọn được 7 bài tập phát triển sức mạnh cho học sinh
lớp Trường THCS nơi tôi công tác.
- Qua kiểm tra diễn biến nhịp tăng trưởng thành tích của học sinh ở 2 lớp
thực nghiệm và đối chứng đều tăng, nhưng nhóm thực nghiệm có sự tăng trưởng
cao, đồng đều và ổn định hơn nhóm đối chứng.
- Sau 24 tuần thực nghiệm sư phạm ở học sinh trường THCS nơi tôi công
công tác các bài tập huấn luyện phát triển sức mạnh có hiệu quả rất tốt đối với
việc nâng cao thành tích trong môn nhảy cao.
3. KẾT LUẬN.
3.1. Kết luận:
Từ những kết quả nghiên cứu trên cho phép rút ra những kết luận như sau:
+ Qua các bước nghiên cứu đề tài đã xác định được 7 bài tập phát triển sức
mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao cho học sinh trường THCS nơi tôi
công tác. Đảm bảo có giá trị thông báo và đủ độ tin cậy.
+ Sau 24 tuần tập luyện thành tích của cả 2 lớp đều tăng, tuy nhiên nhóm
thực nghiệm tăng cao và đồng đều hơn nhóm đối chứng.
+ Muốn đạt được kết quả cao trong giảng dạy cũng như trong thi đấu nhảy
cao thì ngoài việc thực hiện và vận dụng tốt các phương pháp đòi hỏi giáo viên

cần lựa chọn bài tập sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Ngoài ra giáo viên
cần thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn, sửa chữa động tác kỹ thuật sai của học
sinh trong quá trình tập luyện; động viên, khuyến khích và kiểm tra đánh giá kết
quả của học sinh thường xuyên.
+ Điều này chứng tỏ phương pháp cải tiến tôi đưa ra hoàn toàn phù hợp với
học sinh trường THCS nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy.
+ Để giảng dạy hiệu quả và nâng cao thành tích của bộ môn thể dục nói
chung và môn nhảy cao nói riêng, nhà trường, ngành giáo dục và các cấp chính
quyền cần tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị, kinh
phí.
+ Có thể sử dụng hệ thống các bài tập trên để đưa vào quá trình giảng dạy
và huấn luyện nội dung nhảy cao cho các trường THCS trên địa bàn huyện Thọ
Xuân nói riêng và các trường THCS nói chung.
19




×