Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Kinh nghiệm soạn câu hỏi đọc hiểu, kiểm tra đánh giá ngữ văn THCS theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554 KB, 25 trang )

Phần 1: Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài:
a. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục hiện nay:
Mục tiêu của môn Ngữ văn hiện nay ở trường phổ thông là hình thành và
phát triển bồi dưỡng cho học sinh năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe,
đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kĩ năng nói và viết, kĩ năng cảm nhận và sáng
tác). Để đánh giá được các năng lực Ngữ văn của học sinh, cần có những kỹ thuật
dạy học phù hợp với mục đích và tính chất của từng bài học, bài kiểm tra, kì thi...
Một giải pháp để phát hiện, phát triển năng lực Ngữ Văn cụ thể từng học sinh đó
chính là nghệ thuật soạn câu hỏi trong đọc hiểu, kiểm tra và đánh giá.
Uyliam Bato Dít – Nhà giáo dục học lừng danh thế giới từng nói :“Nhà giáo
không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn
lửa tâm hồn” hay phát ngôn nổi tiếng của Ho recemar: “Một ông thầy mà không dạy
cho học trò việc ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi”. Để
khơi dậy được tâm hồn người học, khám phá và phát triển năng lực học sinh, hướng
các em đến với những giá trị Chân - Thiện - Mĩ - Những tình cảm cao đẹp của cuộc
sống. Tôi tin chắc: môn Ngữ Văn trong nhà trường làm được điều đó và người thầy
là sứ giả đảm nhiệm sứ mệnh cao cả nối kết người học với tác phẩm và người nghệ
sỹ.
Những câu hỏi đặt ra: làm thế nào để học sinh hứng thú với môn văn? Làm
thế nào để phát huy hiệu quả các phương pháp dạy học tích cực? Đặc biệt là làm thế
nào để phát hiện, bồi dưỡng năng lực học sinh? Câu hỏi đặc biệt trên đã trăn trở bao
thế hệ giáo viên Văn càng trở nên thường trực hơn khi thời đại 4.0 – Thời đại Công
nghệ và Ngoại ngữ thì chữ nghĩa Văn chương sẽ đi về đâu? Khi học sinh, phụ huynh
ngày càng thơ ơ với Văn học!
Cũng bởi 1 phần phương pháp dạy đã cũ của 1 bộ phận giáo viên chưa nắm
bắt kịp các phương pháp dạy học tích cực, học sinh tiếp thu thụ động từ việc đọc
1


chép nên nhiều giờ văn nghèo nàn, nhàm chán, không gây hứng thú, nặng kiến


thức hàn lâm dẫn đến tình trạng lơ đãng, đối phó tâm lí ngại học, ngại viết ....
Nhiệm vụ của người giáo viên Văn là giúp học sinh khám phá, cảm thụ,
thưởng thức cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương từ đó phát triển tâm hồn, trí
tuệ người học. Để tạo hứng thú cũng như kích thích sự say mê tìm hiểu văn chương,
người giáo viên phải có những kĩ thuật dạy đặc thù và hiệu quả, tạo không khí mới lạ
qua đó phát triển các năng lực nhận thức, sáng tạo độc đáo của cả người dạy, người
học.
Đúng là:
“ Người Thầy trung bình chỉ biết nói
Người Thầy giỏi biết giải thích
Người Thầy xuất chúng biết minh họa.
Người Thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng.”
(William A. Ward)
Từ những lí do trên, qua thực tiễn giảng dạy, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài
nghiên cứu: Kinh nghiệm soạn câu hỏi đọc hiểu, kiểm tra đánh giá Ngữ Văn THCS
theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Từ khảo sát thực trạng, tôi đưa ra hệ thống các giải pháp soạn câu hỏi có tính
liên hoàn và cách thức tổ chức nhằm phát hiện bồi dưỡng, Phát triển năng lực cho
ngưòi học trong đặc thù của môn văn bao gồm: Năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác,
năng lực giao tiếp, năng lực cảm thụ, năng lực thẫm mĩ …góp phần vào việc đổi mới
phương pháp dạy học. Đề tài này, tôi hi vọng sẽ mang đến một tài liệu tham khảo
cho GV Ngữ văn THCS trong qua trình giảng dạy.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp : Soạn câu hỏi đọc hiẻu, kiểm tra, đnáh giá
Ngữ văn THCS theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
- Áp dụng cho học sinh trường THCS Yên tâm –Yên Định –Thanh Hóa.
2



1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu vấn đề đặt ra, trong qua trình thực hiện, tôi đã kết hợp vận
dụng linh hoạt các phương pháp lí thuyết và thực hành, cụ thể là:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Tìm đọc các tài liệu liên
quan trên mạng Internets và sách báo, tiến hành tổng hợp ý kiến chung nhất để trình
bày.
- Phương pháp phân tích, cụ thể các giải pháp có minh họa chứng minh.
- Điều tra khảo sát nắm bắt tình hình thực tế, thu thập thông tin, dùng phiếu ,
phỏng vấn trực tiếp hứng thú hiệu quả với môn học, bài học trước và sau khi tổ chức
tiết học theo cách thức đề ra.
- Tiến hành dạy học thực nghiệm tại các lớp trực tiếp dạy.
.

3


Phần 2: Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của Sáng kiến kinh nghiệm
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực: Năng lực ngôn ngữ và
năng lực thẫm mỹ… Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập
đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện tốt
mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần
có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng
phát triển năng lực người học và một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học

theo hướng này…
Từ cơ sở trên, ta thấy phát triển năng lực cho ngưòi học trong đặc thù của môn
văn bao gồm: Năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực giao tiếp, năng lực cảm
thụ, năng lực thẫm mĩ …
Xưa đến nay, câu hỏi trong dạy học luôn được xem là một trong những cách
thức tích cực hóa vai trò của người học. Đây là cách đề Giáo viên đo lường khả năng
tiếp thu kiến thức, hình thành kỹ năng năng lực và tiến bộ của học sinh cũng là kênh
thông tin để giáo viên xem xét lại phương pháp học tập của mình. Việc đặt câu hỏi
đối với học sinh trong quá trình tiếp nhận văn học có ý nghĩa làm thay đổi tình thái
của giờ học, xác định tâm thế thực tại và đặt học sinh vào các yêu cầu của việc nhận
thức.
Chương trình Ngữ văn sau năm 2015 được xây dựng theo hướng tiếp cận năng
lực, hệ thống câu hỏi trong giờ Đọc hiểu văn bản và trong kiểm tra đánh giá không
đơn giản chỉ là hướng dẫn học sinh thu nhận kiến thức về nội dung của văn bản mà
4


còn phải hướng đến việc hình thành và rèn luyện năng lực đọc hiểu, vận dụng cho
người học. Nhưng để người học có thể phát huy tối đa vai trò của mình thì các nhà
giáo dục phải xây dựng được một môi trường giáo dục giúp học sinh có thể sử dụng
năng lực tư duy ở mức tối đa. Môi trường ấy sẽ được xây dựng bằng các hoạt động
tương tác giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với nhau mà hệ thống câu hỏi
là công cụ quan trọng để “kích hoạt” và dẫn dắt những hoạt động tương tác đó. Việc
sử dụng câu hỏi trong những tình huống dạy học nhất định sẽ đòi hỏi học sinh phải
vận dụng các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, phán đoán, suy luận, đánh giá
và giải quyết vấn đề. Qua quá trình giải quyết vấn đề, học sinh vừa lĩnh hội kiến
thức, hình thành kỹ năng vừa rèn luyện tư duy.Vì câu hỏi có một vai trò quan trọng
như thế nên có thể nói chất lượng cũng như khả năng thành công của một bài học và
một giờ dạy sẽ được quyết định chủ yếu qua hệ thống câu hỏi. Bài học ấy, giờ học ấy
đã thật sự phát huy được tính tích cực của người học hay chưa; mục đích của bài học

ấy, giờ học ấy có hướng đến phát triển năng lực hay không, về căn bản là do hệ
thống câu hỏi quyết định. Do đó, năng lực thiết kế những câu hỏi này của giáo viên
đứng lớp là rất cần thiết và quan trọng.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Đổi mới kiểm tra đánh giá học sinh môn Ngữ văn từ lâu đã trở thành vấn đề
quan tâm hàng đầu của dạy văn, học văn. Đây chính là một trong những khâu then
chốt, công cụ quan trọng, chủ yếu để xác định năng lực nhận thức người học, điều
chỉnh quá trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần
cải thiện, nâng cao chất lượng. Thực tế cho thấy, những năm gần đây, các đề kiểm
tra, đề thi tốt nghiệp THCS&PT, thi đại học, thi tuyển sinh... theo hướng đổi mới, có
tính ứng dụng cao vào thực tiễn cuộc sống, tôn trọng chính kiến của học sinh, tạo đất
cho các em bộc lộ năng khiếu, quan điểm, cách nhìn nhận của mình về thế giới xung
quanh, tránh việc sao chép tài liệu, đọc vẹt một cách máy móc đã từng bước tạo sự
chuyển biến trong dạy văn, học văn... Cách đổi mới kiểm tra đánh giá như vậy được
dư luận đồng tình cao, đón nhận nồng nhiệt.
5


. Tuy nhiên, nhiều giáo viên, giờ giảng văn, đề kiểm tra, đánh giá môn ngữ
văn vẫn chưa thoát khỏi lối mòn, áp đặt, cứng nhắc máy móc, đóng kín, tạo cơ hội
cho kiểu học thụ động "đọc chép"; nặng tính hàn lâm. Hoặc có đề “mở” nhưng gây
ra sự phản cảm, đi ngược lại các chuẩn mực giá trị đạo đức truyền thống. Môn Văn
trong nhà trường hiện nay còn nhiều bất cập: chương trình nặng nề, xu hướng học
các môn khoa học tự nhiên để phù hợp với khả năng lập nghiệp của học sinh khiến ý
thức người học và phụ huynh thờ ơ với môn Văn.
Bởi vậy cần phải tiếp tục đổi mới, Chúng ta đã tiếp cận đổi mới kiểm tra đánh giá
theo chuẩn kiến thức kỹ năng và đổi mới cách soạn đặt câu hỏi theo định hướng
phát triển năng lực học sinh là cần thiết.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
Trong năm qua, với những trăn trở, tìm tòi, học hỏi, tôi đã không ngừng cố

gắng đưa chất lượng đại trà đi lên. Đồng thời bằng nhiệt huyết của tuổi trẻ tôi luôn
phấn đấu để học sinh của mình đạt giải trong kì thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp
Tỉnh. Chính vì thế tôi đã áp dụng những kinh nghiệm của mình tích luỹ được vào
các giờ dạy chính khoá trên lớp những buổi dạy bồi dưỡng cho đội tuyển học sinh
giỏi, khi ra đề kiểm tra.
2..3.1 Những yêu cầu với câu hỏi phát triển năng lực học sinh.

Giáo viên lưu ý những điều không nên làm khi đặt câu hỏi là: Không đặt
những câu hỏi mập mờ, khó xác định nội dung; không nên đặt câu hỏi kép hoặc câu
hỏi đa diện; không gọi tên người học trước khi đặt câu hỏi; không “bóc lột” những
học sinh giỏi, cụ thể là phải hỏi và tạo cơ hội cho tất cả học sinh được hỏi và trả lời.
Để giờ giảng hiệu quả, giáo viên nên đặt câu hỏi rõ ràng và khuyến khích tư duy,
đồng thời đa dạng hóa câu hỏi, sắp xếp một cách logic và tăng dần độ khó của các
câu. Khi hỏi, giáo viên nên quan sát học sinh và giải thích câu hỏi để mọi học sinh
đều tham gia vào cuộc thảo luận, khuyến khích học sinh đặt câu hỏi cho nhau và cho
nhận xét. Khi học sinh trả lời sai, giáo viên đừng vội phủ nhận mà nên gợi ý bằng
câu hỏi khác để các em hướng sang lối tư duy khác. Giáo viên không nên hỏi học
6


sinh những câu hỏi “có không”, và hạn chế những câu hỏi “cái gì?” vì những nội
dung đó có sẵn trong sách và học sinh khi hoạt động nhóm chỉ cần nhìn vào sách,
nhặt kiến thức, chép vào phiếu chung. Các thầy cô nên hỏi những câu đòi hỏi học
sinh tìm hiểu “tại sao”. Để đặt được câu hỏi đúng, chuẩn trong bài giảng, giáo viên
cần biết rằng mỗi loại hoạt động sẽ có loại câu hỏi khác nhau, ví dụ câu hỏi mở đầu
tình huống học tập, không nên quá khó khiến học sinh nản, không muốn học.
Cụ thể cách thưc thực hiện:
- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học, ngắn gọn, rõ
ràng, dễ hiểu, đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với trình độ học sinh; Kích thích suy
nghĩ của học sinh; phù hợp với thời gian thực tế. Chất lượng câu hỏi phát huy các

cấp độ tư duy (nhận biết, thông hiểu, vận dụng để phân loại được học sinh).
Ví dụ:
Truyện ngắn: “Lão Hạc” của Nam Cao, Ngữ Văn 8 được kể theo ngôi thứ
mấy? Ngôi kể này mang lại tác dụng gì cho câu chuyện? ( Câu hỏi nhận biết và
thông hiểu, dành cho học sinh Trung bình).
+ Qua truyện ngắn : Lão Hạc ( Nam Cao) và trích đoạn “Tức nước vỡ bò”(Ngô
Tất Tố (Ngữ Văn 8), em có thêm hiểu biết gì về cuộc sống và phẩm chất của người
nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám. (Câu hỏi thông hiểu – HS Trung
bình – khá).
+ Viết đoạn văn ngắn trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn người
phụ nữ nông dân trước cách mạng thông qua hình tượng nhân vật chị Dậu (Trích
đoạn: Tức nước vỡ bờ -Tắt Đèn, Nam Cao) ( Câu hỏi vận dụng)
- Giáo viên nên đưa ra hệ thống các câu hỏi sắp xếp theo trình tự từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp; không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc
xích, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
Ví dụ:
“Bài ca Côn Sơn” ( Nguyễn Trãi), phân tích phần 1: Thiên Nhiên Côn Sơn.
GV? Bức tranh thiên nhiên Côn Sơn được tác giả miêu tả qua những hình ảnh nào?
7


( Tiếng suối rì rầm, đá rêu phơi, rừng thông, rừng trúc mọc như nêm, ngút ngàn một
màu xanh vô tận như chiếc ô tỏa bóng râm che mát. )
? Tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả thiên nhiên Côn
Sơn? (Biện pháp so sánh, liệt kê)
? Từ những hình ảnh trên em có cảm nhận chung gì về thiên nhiên Côn Sơn?
( Thanh bình, thơ mộng, hoang sơ, hùng vỹ, giàu có…)
GV: Đưa hình ảnh về thiên nhiên Côn Sơn lên màn chiếu.
- GV bình tích hợp: 600 năm Trải qua, Côn Sơn vẫn được tôn tạo gìn giữ. Thiên
nhiên Côn Sơn vẫn thơ mộng, vẫn đẹp như thủa nào. Về với Côn Sơn hôm nay,

không chỉ đắm mình trong vẻ đẹp ấy, mà ta còn về với những di tích lịch sử văn hóa
nguồn cội - nơi cả dân tộc ta thể hiện sự ngưỡng mộ, tri ân biết ơn vị anh hùng dân
tộc. Hãy Thắp cho nhà thơ một nén tâm hương tưởng nhớ vị anh hùng khai quốc
công.
? Giữa thiên nhiên thơ mộng ấy, hình ảnh nhân vật “ta” được hiện lên như thế nào?
? Đại từ “ta” được điệp lại nhiều lần có ý nghĩa gì? (nhận biết - thông hiểu)
? Tìm các động từ chỉ hành động của con người trong các lời thơ đó?
? Những động từ: “ nghe, lên, ngồi, nằm, ngâm”..được sử dụng liên tiếp nói lên tâm
thế gì của tác giả? ( Chủ động, giao hòa với thiên nhiên).
? Trình bày (vào phiếu học tập hoặc lên bảng) sơ đồ tư duy theo cách hiểu của em về
nội dung, nghệ thuật văn bản. ( Thông hiểu)
- Nội dung câu hỏi ngoài đảm bảo kiến thức chuẩn theo đặc trưng bộ môn cần được
mở rộng tích hợp kiến thức các môn học, đề cập tới các vấn đề khoa học khác, gắn
với tình huống thực tiễn. Số lượng câu hỏi có thể không hạn định nếu học sinh tiếp
tục trả lời được yêu cầu của giáo viên. Đặt câu hỏi theo hướng liên môn, tích hợp.
Ví dụ : Khi giảng dạy Văn bản: “ Qua Đèo Ngang” (Huyện Thanh Quan) GV ra câu
hỏi tích hợp môn địa lí :
? Dựa vào kiến thức địa lí, trình bày những hiểu biết của em về vị trí Đèo Ngang ?
(Đàng Trong - Đàng ngoài danh giới hai Tỉnh:Quảng Bình và Thừa Thiên Huế )
8


Giảng dạy văn bản: Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, GV tích hợp với môn lịch sử
? Trình bày hiểu biết của em về đặc điểm không khí lịch sử những năm 1958-1960
của nước ta ( tức thời điểm ra đời bài thơ)?
(1954 chiến dịch ĐBP vừa kết thúc, đất nước bị chia làm 2 miền. Miền Nam tiếp tục
chống đế quốc Mĩ. Miền Bắc được giải phóng tiến lên xây dựng CNXH. Miền bắc là
hậu phương lớn của Miền Nam, phong trào lao động, sản xuất tập thể sôi sục từ
miền xuôi đến miền biển với khí thế tất cả vì miền Nam thân yêu vì thắng lợi công
cuộc xây dựng CNXH, của người làm chủ biển trời sau 80 năm đô hộ của Pháp. GV

nhấn mạnh chủ trương của Đảng đưa các nhà văn đi thâm nhập thực tế… không khí
XDCNXH ở miền Bắc).
- Câu hỏi phải kích thích được học sinh suy nghĩ tìm tòi, mở rộng, liên hệ.
Ví dụ:
Dạy xong văn bản: Cảnh ngày xuân - Truyện Kiều của Nguyễn Du, GV đặt
câu hỏi kiểm tra:
? Phân tích, so sánh cảnh mùa xuân trong câu thơ cổ Trung Quốc: “ Phương
thảo liên thiên bích, Lê chi sổ điểm hoa (Cỏ thơm liền với trời xanh, Trên cành lê có
mấy bông hoa) với cảnh mùa xuân trong câu thơ : Cỏ non xanh tận chân trời, Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa (Truyện Kiều) để thấy được sự tiếp thu và sáng tạo
của Nguyễn Du?
Ví dụ: Dạy Văn bản: “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải, GV ra câu hỏi.
? Những ước nguyện của nhà thơ cho em cảm nhận gì về tâm hồn thi sỹ?
Mở rộng- liên hệ:
? Những ước nguyện ấy có phần giống với một tác phẩm nào mà em đã được
học trong chương trình NV9? So sánh ? (Viếng lăng Bác –Viễn Phương).
? Em đã được học tác phẩm nào ngợi ca sự cống hiến lặng lẽ, âm thầm làm
việc, hi sinh quyền lợi riêng vì đất nước ( Lặng lẽ Sa Pa-Nguyễn Thành Long).
? Em có biết câu thơ, câu nói nào về lẽ sống cống hiến của con người ?
“ Nếu là con chim chiếc lá
9


Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình
(Một khúc ca Xuân –Tố Hữu)
+“Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần.
Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí,
cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có

thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất
trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người.N.OSTROVSKI
+ Bạn hãy sống để đến khi bạn đi vào cõi vĩnh hằng bạn sẽ mỉm cười còn mọi
người sẽ khóc.....
? Bài thơ gợi cho em suy nghĩ gì về cách sống của mỗi người ? Em học tập
được gì về lẽ sống của tác giả?
- Câu hỏi phải kích thích sự tưởng tượng của học sinh. Quá trình liên tưởng,
tưởng tượng xuyên thấm trong tất cả các hình thức và yêu cầu hỏi bằng nhiều cách:
Liên tưởng hoàn cảnh ra đời của tác phẩm với hoàn cảnh xã hội; liên tưởng mối
quan hệ giữa nhân vật với hoàn cảnh, giữa nhân vật với nhau; liên tưởng mối quan
hệ giữa các chi tiết nghệ thuật; liên tưởng các hình ảnh, hình tượng, biểu tượng của
tác phẩm này với tác phẩm khác; tưởng tượng tâm trạng của tác giả, nhân vật…
Ví dụ:
?Từ bài thơ” Lượm” em hãy miêu tả chân dung bé Lượm theo trí tưởng tượng.
? Kể tiếp đoạn kết cho câu chuyện: Bức tranh em gái tôi (Tạ Duy Anh –Ngữ
Văn 6)
Trong mơ, em đến thăm phòng trưng bày các tác phẩm đoạt giải của” trại vẽ
quốc tế”. Em dừng lại rất lâu trước bức tranh”anh trai tôi” của Kiều Phương vẽ và
nghe được câu chuyện của bức tranh này với bức tranh bên cạnh. Em hãy kể lại câu
chuyện đó.
10


? Từ bài thơ” Lượm”, em hãy miêu tả chân dung bé Lượm theo trí tưởng
tượng .
- Câu hỏi trong giờ văn phải được xây dựng thành một hệ thống có tính toán.
Cần có sự cân đối giữa loại câu hỏi cụ thể và câu hỏi tổng hợp gợi vấn đề. Phạm vi
câu hỏi có khi rất hẹp thuộc một từ một câu, một hình ảnh, một biện pháp nghệ thuật
nhưng có khi lại là những câu hỏi yêu cầu học sinh phải biết huy động những kiến
thức ngoài tác phẩm.

Ví dụ:
Nêu ý nghĩa của chi tiết cái bóng trong truyện ngắn: “Chuyện người con gái
Nam Xương”.
VD: Khi dạy văn bản: Viếng lăng bác, GV hướng dẫn HS khai thác bài thơ
theo từng khổ. GV hỏi: ? Giải thích nhan đề bài thơ
? Tại sao ở nhan đề tác giả dùng từ “ Viếng” mà trong bài thơ tác gải dùng từ
“thăm”?
? Nhận xét cách xưng hô của tác giả?
- Các câu hỏi kiểm tra cần chú trọng phát huy tối đa tính tự giác, tích cực, chủ
động của học sinh khi làm bài (hạn chế sử dụng những văn bản, tình huống quá quen
thuộc với học sinh, nếu sử dụng những văn bản này, cần tìm tòi đổi mới câu hỏi).
Giáo viên cần tìm hiểu nghiên cứu để xây dựng những tình huống giả định sát thực
tiễn, lựa chọn những tình huống tạo được tính hấp dẫn, lôi cuốn với học sinh.
Ví dụ :
? Truyền thuyết "Con rồng cháu tiên", em hãy giải thích ý nghĩa của từ "đồng
bào" mà chúng ta thường dùng.
? Được chứng kiến tâm trạng đau đớn của anh em Thành và Thủy trong truyện
ngắn: "Cuộc chia tay của những con búp bê" (Khánh Hoài), em có lời nhắn gửi gì
qua bức thư em viết gửi cho những ông bố, bà mẹ đang đứng bên bờ vực của sự chia
ly?
11


- Hướng tới những Văn bản ngoài SGK để đánh giá chính xác năng lực đọc
hiểu hoặc tạo lập văn bản
VD: khi dạy chủ đề Tập làm văn lớp 9 Nghị luận có thể ra đề như sau:
Đại văn hào Mác xim goorki đã từng thốt lên tâm đắc: "Nơi lạnh nhất của thế giới
không phải là bắc cực mà là nơi thiếu tình thương." Viết bài văn ngắn từ trình bày
Suy nghĩ của em về câu danh ngôn
Ví dụ:


BÀN TAY CÔ GIÁO

Trong ngày Lễ Tạ Ơn, một cô giáo dạy lớp một nọ đã bảo những học sinh của
mình vẽ một bức tranh về điều gì đó mà các em biết ơn. Cô muốn biết xem những
đứa trẻ từ các vùng phụ cận nghèo nàn này thật sự mang ơn ra sao.Tuy nhiên cô nghĩ
rằng hầu hết các học sinh của mình sẽ vẽ những bức tranh về gà tây hay những chiếc
bàn đầy thức ăn. Nhưng cô đã sửng sốt với bức tranh của bé Douglas, bức tranh một
bàn tay được vẽ bằng nét trẻ thơ rất đơn giản.
Nhưng bàn tay đó là của ai? Cả lớp đều bị cuốn hút với hình ảnh trừu tượng
đó. - Em nghĩ đó chắc là bàn tay của Chúa mang thức ăn đến cho chúng ta - một em
nói.
- Của một người nông dân- một em khác lên tiếng- bởi vì ông ta nuôi gà tây.
Cuối cùng khi những em khác đang làm bài, cô giáo đến bên bàn Douglas và hỏi:
- Đó là bàn tay cô! Thưa cô! Em thầm thì.
Cô nhớ lại rằng vào giờ giải lao cô thường hay dắt tay Douglas, một đứa bé
khuyết tật, gia cảnh nghèo khó, khuôn mặt không được xinh xắn. Cô cũng thường
làm thế với những bạn khác nhưng với Douglas điều đó có ý nghĩa rất lớn. Có lẽ đây
là Lễ Tạ Ơn dành cho mọi người, không phải cho những vật chất mà chúng ta nhận
được mà là cho những điều, dù rất nhỏ nhoi khi ta trao tặng cho người khác.
(Theo Hạt giống tâm hồn 1)
Câu 1 : Trong câu chuyện trên, cô giáo yêu cầu vẽ điều gì ?
Câu 2 : Tại sao cô giáo lại sửng sốt khi Douglas vẽ một bàn tay ?
Câu 3 : Douglas vẽ bàn tay của ai ? Điều đó có ý nghĩa gì ?
12


Câu 4 : Viết đoạn văn ngắn nêu bài học em rút ra từ câu chuyện trên ? Tìm 2
câu tục ngữ, ca dao liên quan đến ý nghĩa nội dung câu chuyện.
VD: Tiếng vọng nơi rừng sâu

Có một cậu bé ngỗ nghịch thường bị mẹ khiển trách. Ngày nọ giận mẹ, cậu chạy đến
một thung lũng cạnh khu rừng rậm và hét lớn: "Tôi ghét người". Đột nhiên từ khu
rừng có tiếng vọng lại: "Tôi ghét người". Cậu hoảng hốt quay về sà vào lòng mẹ
khóc nức nở. Cậu bé không sao hiểu được tại sao từ trong rừng lại có người ghét
cậu.
Người mẹ nắm tay con, đưa cậu trở lại khu rừng. Bà nói: "Giờ thì con hãy hét
thật to: "Tôi yêu người". Lạ lùng thay, có tiếng vọng lại: "Tôi yêu người". Lúc đó
người mẹ mới giải thích cho con hiểu: "Con ơi, đó là định luật trong cuộc sống của
chúng ta. Con cho điều gì, con sẽ nhận điều đó. Ai gieo gió thì gặt bão. Nếu con thù
ghét người thì người cũng thù ghét con. Nếu con yêu thương người thì người cũng
yêu thương con.
(Phỏng theo Những hạt giống tâm hồn)
1- Câu chuyện trên được kể theo ngôi thứ mấy ,
2 - Vì sao em biết câu chuyện được kể theo trình tự đó? và kể theo thứ tự nào
3 . Rút ra bài học từ câu chuyện trên.
- Thiết kế những câu hỏi, bài tập chú trọng phát huy tính tích cực, sáng tạo của
HS, giúp HS bộc lộ được những quan điểm cá nhân nhằm phát triển tư duy độc lập.
VD1: Chủ đề: Thơ Đường ( lớp 7), Với câu thơ: "Hương âm vô cải mấn mao
tồi" trong "Hồi hương ngẫu thư", có ý kiến cho rằng giọng quê chính là giọng của
những người ở quê không thay đổi. Thế nhưng có ý kiến phản bác lại đây là giọng
của người con xa quê. Theo em, ý kiến nào có sức thuyết phục? Tại sao?
VD2 chủ đề: Thơ Việt Nam 1900 - 1945 ( Lớp 8), Tại sao trong bài thơ "Quê
hương", tác giả lại viết: "Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe" đặt trong dấu ngoặc kép?
Có ý kiến cho rằng câu thơ này thể hiện sự mê tín của người dân làng chài em có
đồng ý không?...
13


2.3.2: Các loại câu hỏi câu hỏi phát triển năng lực học sinh.
Từ kinh nghiệm và đúc rút 13 năm đứng lớp, tôi rút ra 4 loại câu hỏi có thể

phát tiển năng lực học sinh đó là; : Hút - Dẫn - Chốt –Mở. Các nhóm câu hỏi này đã
giúp cho giờ dạy học văn luôn căng tràn sinh khí. Câu hỏi “Hút” luôn thu hút người
học coi đây là câu hỏi dẫn, mở lối để người đọc đến với nội dung bài học.
- Câu hỏi “dẫn” có sự định hướng, dự báo cho chỉ dẫn cách làm cho học sinh.
(Phát triển năng lực sáng tạo. Năng lực cảm thụ thẫm mỹ ....)
VD: Dạy văn bản” Đoàn thuyền đánh cá”
? Biển cho ta cá tôm, nuôi lớn ta thể xác, bồi đắp tâm hồn ta để rồi ai đi xa cũng nhớ
nhiều. Ai ở xa cũng mong 1lần về với biển. Thế nhưng, hiện nay môi trường biển
của chúng ta có biểu hiện bị ô nhiễm không? Theo em, chúng ta cần làm gì để bảo
vệ sự giàu đẹp của biển?
Vd: Khi dạy văn bản: “ Cô bé bán diêm”, GV nêu câu hỏi: Nêu hoàn cảnh của cô bé
bán diêm? Có thể học sinh không trả lời nga được, Gv dùng câu hỏi phát hiện, dẫn
dắt: Em sống với ai? Người bố đối xử với em như thế nào? Em làm công việc mỗi
ngày? .. Từ đó HS rút ra được kết luận về hoàn cảnh của em bé .
Ví dụ: Trong bài “Cảnh ngày xuân” trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
có câu hỏi: Phân tích so sánh cảnh mùa xuân trong câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương
thảo liên thiên bích. Lê chi sổ điểm hoa” (Cỏ thơm liền với trời xanh. Trên cành có
mấy bông hoa lê) với cảnh mùa xuân trong câu thơ : “Cỏ non xanh tận chân trời.
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” để thấy được sự tiếp thu và sáng tạo của
Nguyễn Du.
Tôi sẽ hỏi học sinh bằng những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt:
- Hai câu thơ của Nguyễn Du có gì giống với hai câu thơ cổ Trung Quốc?
- Câu thơ “Phương thảo liên thiên bích” với câu “cỏ non xanh tận chân
trời”theo em câu thơ nào giàu hình ảnh và sức sống hơn ?
- Cũng là nói sự xuất hiện của hoa lê, sự sáng tạo của Nguyễn Du được thể
hiện ở chỗ nào ?
14


Từ đó em có nhận xét gì về bức tranh cảnh mùa xuân trong thơ của Nguyễn

Du và tài năng của ông ?
Từ những câu hỏi gợi mở này học sinh sẽ thấy được: Hai câu thơ tả cảnh mùa
xuân của Nguyễn Du tuy không phải là hoàn toàn sáng tạo của ông song ông đã có
sự tiếp thu và đổi mới từ hai câu thơ cổ Trung Quốc. So với hai câu thơ xưa rõ ràng
hai câu thơ của Nguyễn Du đã trở thành một bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân. Nền
của bức tranh là mầu xanh non bát ngát đến tận chân trời của đồng cỏ. Trên cái nền
xanh dịu mát ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc có sự hài hoà đến
tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân - một vẻ đẹp quyến rũ: vừa
mới mẻ tinh khôi,giàu sức sống lại khoáng đạt trong trẻo lại vừa nhẹ nhàng, thanh
khiết. Bức tranh mùa xuân mà Nguyễn Du vẽ nên ta thấy cảnh vật như đang cựa
mình lớn lên như đang mang hơi thở và sức sống tràn trề của mùa xuân
- Câu hỏi “chốt” là loại câu hỏi để học sinh trình bày quan điểm về bài học
giúp các em tổng hợp kiến thức, kinh nghiệm bản lĩnh và khả năng thuyết phục. Sau
khi học xong các văn bản, GV đặt câu hỏi tổng kết bài học. (Phát triển năng lực giao
tiếp. Năng lực cảm thụ thẫm mỹ )
VD: ? Cảm nhận chung của em về nội dung nghệ thuật văn bản “ Sang Thu”
của Hữu Thỉnh.
? Cha nói với con những điều gì qua bài thơ “ Nói với con” của Y Phương?
- Câu hỏi “Mở”là câu không có đáp án, lời giải cố định nhường quyền cho

người trả lời tự định hướng, tự sáng tạo rồi tùy lý giải sao cho hợp lí. Câu hỏi “Mở”
thể hiện sự khám phá, cá tính và vận dụng của học sinh. Tính độc lập và sáng tạo
của học sinh được chú trọng trong dạng câu hỏi này. (Phát triển năng lực sáng tạo.
Năng lực cảm thụ thẫm mỹ )

4 loại câu hỏi này có thể minh chứng qua các ví dụ sau đây:
VD: Chúng ta đều biết thói quen xấu dễ lây lan như một căn bệnh truyền nhiễm và
chúng ta dễ bị lây nhiễm những hành vi tiêu cực từ những người xung quanh. Người
có bản lĩnh sẽ tránh đuợc ảnh hưởng của những thói xấu ấy, đồng thời cảm hoá để
15



những người xung quanh tốt hơn. Tự tin, bản lĩnh là những yếu tố quan trọng để bạn
luôn là chính mình chứ không phải là bản sao cá tính của người khác.
(Trích bạn không phải là cái bóng của người khác NXB Văn hoá thông tin)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên? (0.5đ)
Câu 2: Xác định, chỉ ra tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu
văn:

Chúng ta đều biết thói quen xấu dễ lây lan như một căn bệnh truyền

nhiễm và chúng ta dễ bị lây nhiễm những hành vi tiêu cực từ những người xung
quanh. (0.5đ)
Câu 3: Bài học em rút ra từ câu chuyện trên là gì? (1,0 đ)
Câu 4: Theo em để có đuợc sự tự tin, bản lĩnh chúng ta cần làm gì? (1.0 đ)
Trong định hướng soạn đặt câu hỏi Ngữ văn phát triển năng lực học sinh, cá
nhân tôi chú trọng đến các câu hỏi mở có thể đưa ra một bức tranh để kiểm tra đánh
giá sự cảm nhận của học sinh một cách ra đề mới mẻ phù hợp với cuộc sống hiện
đại, cập nhật được tính cấp thiết thời sự .
VD: Khi dạy bài “Bàn về đọc sách” ”(Văn 9), GV có thể yêu cầu các em nói
về việc đọc sách ngày nay có cần thiết không khi các phương tiện nghe nhìn và đa
phương tiện trở nên phổ biến và vô cùng hấp dẫn..
VD: Viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về bức tranh:

16


(Thói vô cảm trong xã hội ngày càng đáng sợ. Thay vì đưa tay ra cứu giúp đồng loại,
nhiều người lạnh lùng đứng ngoài hoặc thản nhiên với những "thành quả" họ kiếm
được.)


Trái Đất đang bị ô nhiễm nặng nề là điều không thể phủ nhận, dù con người có tìm
mọi cách để tô vẽ hay che giấu sự thật đó.
17


(Hàng tỷ người trên thế giới nhìn cuộc đời qua lăng kính Facebook.)
- Câu hỏi phát hiện thông tin : (Phát triển năng lực giao tiếp)
Ví dụ: Bài “Chị em Thúy Kiều”
Sau khi giới thiệu khái quát vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du
đã đi vào giới thiệu vẻ đẹp riêng của hai chị em như thế nào?
- Câu hỏi tái hiện, liên tưởng tưởng tượng (Phát triển năng lực sáng tạo)
Ví dụ: Bài “Những ngôi sao xa xôi”
Qua lời kể của nhân vật Phương Định, đã giúp em hình dung gì về cuộc sống,
chiến đấu của ba nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa?
- Câu hỏi hướng dẫn học sinh thảo luận, phân tích. (Phát triển năng lực
hợp tác)
Ví dụ : Bài”Những ngôi sao xa xôi” học sinh thảo luận câu hỏi:

18


Vì sao tác giả không đặt nhan đề cho tác phẩm là “Tổ trinh sát mặt đường”,
”Chuyện về ba nữ thanh niên xung phong” mà lại đặt là “Những ngôi sao xa xôi”?
- Câu hỏi so sánh. (Phát triển năng lực cảm thụ)
Ví dụ : Cùng viết về cảnh hoàng hôn song hoàng hôn trong thơ Huy Cận ở bài
“Đoàn thuyền đánh cá” có gì khác với hoàng hôn nơi Đèo Ngang trong thơ Bà
Huyện Thanh Quan ?
- Câu hỏi nâng lên nhận xét khái quát, đánh giá. (Phát triển năng lực thẫm
mĩ)

Ví dụ: Qua đoạn trích “Những ngôi sao xa xôi” đã giúp em hiểu gì về phẩm
chất của các nữ thanh niên xung phong nói riêng và tuổi trẻ Việt Nam nói chung
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước ?
- Câu hỏi vận dụng kiến thức.
Ví dụ : Từ việc tìm hiểu tác phẩm “Lặng Lẽ Sa Pa” thế hệ trẻ các em có suy
nghĩ gì về trách nhiệm của mình trong việc xây dựng đất nước ?
Để giờ văn thành giờ đàm thoại, trò chuyện bằng văn chương giữa thầy và
trò, câu hỏi trong giờ văn không nên chỉ là những phát hiện giản đơn hay nhắc lại
một vài yếu tố vụn vặt của tác phẩm. Kinh nghiệm của tôi là không nên đặt câu hỏi
một cách vụn vặt như: em cho biết câu thơ sử dụng nghệ thuật gì? (hình ảnh, từ, chi
tiết) hay như thế nào? Người giáo viên luôn phải xem đặt câu hỏi là một nghệ thuật.
Câu hỏi cần có sự kết hợp giữa những lời đề dẫn, gợi mở, khi là tình huống hấp dẫn
bất ngờ kích thích sự suy nghĩ tưởng tượng đối với ngôn ngữ văn chương, sự rung
cảm của chính bản thân người thầy qua ngữ điệu phù hợp.
gợi mở:
3 Kết luận
- Hiệu quả xã hội của sáng kiến kinh nghiệm:
* Đối với học sinh:
- Được phát triển nhiều năng lực.
19


- Được bồi dưỡng kiến thức sâu rộng về mọi lĩnh vực xã hội nhất là kiến thức
văn học, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng kiến thức để phát triển tâm hồn, nhân cách,
trí tuệ.
- Được rèn luyện kĩ năng sống từ những bài học thiết thực trong các văn bản:
ước nguyện cống hiến, tình yêu quê hương đất nước. HS nhớ kiến thức dễ dàng hơn,
có hứng thú nhiều hơn với môn Ngữ văn; Các em tự khám phá và thể hiện được
năng lực của mình đối với các tác phẩm văn chương; khi viết bài cũng sẽ phong
phú hơn, cá tính sáng tạo, sự tự tin cũng như kĩ năng giải quyết vấn đề và nuôi

dưỡng tâm hồn lành mạnh, khỏe khoắn.
*Đối với bản thân giáo viên và đồng nghiệp trong trường:
Tích cực, thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Ngày càng có thêm nhiều giáo viên giỏi, nhiệt tình, đủ khả năng đáp ứng
yêu cầu của nền giáo dục hiện đại, tiên tiến.
GV Hiểu rõ hơn học sinh của mình, phát hiện được khả năng của các em, từ đó điều
chỉnh phương pháp dạy trên lớp cho phù hợp, khơi dậy, bồi dưỡng những tiềm năng
văn học. Mặt khác, GV cũng có cơ hội bồi dưỡng thêm vốn sống, vốn hiểu biết từ
thực tế để giờ dạy không còn nghèo nàn, thiếu cơ sở thực tiễn.
Kết quả khảo sát học kì 2 năm học 2016-2017, 2017-2018 coi thi chấm chéo
tính làm tròn số 4.75đ lên 5đ, học sinh khèi líp 9 của tôi đã đạt 65- 71.4% từ TB trở
lên.
Kết quả thi học sinh giỏi cấp cụm , huyện, Tỉnh :
Từ 2015-2016, 2016-2017, 2017-2018, năm nào tôi cũng có 2 em tham gia thi
huyện môn Văn 9, cả hai em đều đạt giải với số điểm Trung bình là 12,5đ. Thi cụm
có 4 học sinh đạt giải từ : Nhất –Nhì- Ba –Tư. Năm 2018-2019, tôi có 1 Học sinh
tham gia đồng đội thi Tỉnh đạt giải Nhì . Đây là kết quả không cao nhưng so với các
trường lân cận và toàn huyện nói chung thì cũng là kết quả đáng ghi nhận.

20


Kết quả thi vào lớp 10- PTTH các năm học (2015-2016, 2016-2017, 2017-2018, )
đạt 95 %, trong đó điểm thi môn Ngữ văn của Trường THCS Trường chúng tôi xếp
thứ nhất khu vực với số điểm trung bình đạt 6.3.
Như vậy, tôi thấy rằng bước đầu các kinh nghiệm, kĩ thuật của tôi áp dụng đó
có hiệu quả cho nên tôi cũng muốn chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp, những người
đang ngày đêm trăn trở với sự nghiệp của mình.
2. Kết luận và đề xuất
Dạy văn, học văn nói riêng, dạy và học nói chung luôn là một nghệ thuật,

trong nghệ thuật không có một phương pháp nào là tối ưu. Mọi giải pháp đưa ra chỉ
là cơ sở khoa học và mang quan điểm cá nhân. Để vận dụng thành công còn phụ
thuộc rất nhiều vào người dạy và người học. HS của chúng ta đang có xu hướng ngại
học văn , không coi trọng môn văn.Vậy, GV dạy văn hãy đốt lên tình yêu văn
chương cho HS để các em không còn tư tưởng ngại làm văn, viết văn. Nghĩa là, GV
phải tạo ra những tiết học văn thực sự hào hứng để thu hút các em vào hoạt động,
ngay cả trong những tiết Tập làm văn tưởng như khô khan, nhàm chán. Muốn vậy,
GV dạy văn phải trau dồi rất nhiều không chỉ về tri thức mà cả tâm hồn và vốn sống
và phải dạy văn bằng tất cả “ phương tiện” đó để có những giờ học hiệu quả.
Bên cạnh đó, SGK và chương trình cần tăng thêm các tiết thực hành rèn
luyện kỹ năng nói, viết, hoạt động ngoại khoá . Các tiết luyện tập hiện có chỉ đủ cho
HS “ trải qua” phần thực hành chứ thực sự chưa đủ để rèn luyện kĩ năng. Ngoài ra,
để tránh lối làm văn “ ăn may” hay quay cóp . Để rèn luyện tư duy logic, sự sáng tạo
độc lập cho HS, phát triển năng lực toàn diện cho HS thì khi dạy đọc hiểu, đề kiểm
tra, đề thi cần tăng cường những bài văn câu hỏi mở .
Cuối cùng, theo ý kiến của cá nhân tôi: Cần mở những lớp tập huấn, trao đổi
kinh nghiệm về sáng kiến dạy và học văn hiệu quả của các GV toàn huyện để học
hỏi. Tổ chức thực hành mẫu cho GV dạy Ngữ văn. Bởi vì, không phải GV nào cũng
có kĩ năng tổ chức thực hiện tốt trong các giờ thực hành cho đạt hiệu quả, có nhiều
GV vẫn chịu ảnh hưởng lớn của phương pháp cũ trong giờ thực hành( chưa nói đến
21


các giờ dạy lí thuyết) đọc- chép nên GV vẫn làm việc quá nhiều và không phát huy
được tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
Dạy học các tác phẩm văn học trong chương trình THCS theo định hướng
phát triển năng lực của người học cần tập trung vào những nội dung: dạy đọc – hiểu;
dạy học tích hợp và áp dụng các phương pháp dạy học tích cực khác như: thảo luận
nhóm, đóng vai, ra câu hỏi theo định hưowngs phát triển năng lực… Qua đó có thể
giúp học sinh phát triển những năng lực cần thiết mà môn học hướng tới, vừa đáp

ứng được những yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học vừa đảm bảo tính đặc thù
của bộ môn.
Trên đây là kết quả nghiên cứu đề tài cùng với một số kiến nghị đề xuất chủ
quan của tôi xuất phát từ thực tế nghiên cứu đề tài cũng như thực tiễn dạy và học
Ngữ văn hiện nay ở địa phương tôi. Rất mong nhận được ý kiến phản hồi từ phía
người đọc để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và có giá trị thực tiễn .
III. Cam đoan
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này hoản toàn là nghiên cứu của tôi. Nếu
sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Yên Tâm, ngày 14 tháng 3 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Thị Thúy

22


D.TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dự thảo Chương trình tổng thể ngày 14/3/2017- Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Phạm Minh Hạc (2010), Một số vấn đề giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI, NXB
Giáo dục.
3. Bùi Mạnh Hùng (2015), Phác thảo chương trình Ngữ văn theo định hướng phát
triển năng lực, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM.
4. Phạm Văn Khanh (2015), Dạy học phát triển phẩm chất năng lực người học trong
mối quan hệ với phát triển nhân cách, NXB Đại học Sư phạm. Hà Nội.
5. Internets.
E. DANH MỤC VIẾT TẮT

- HS: học sinh
- GV: Giáo viên.
-SGK: Sách giao khoa
- CNXH- Chủ nghĩa xã hội
- VB: Văn bản
- PTTH: Phổ thông trung học

23


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thúy
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Ngữ Văn
Trường THCS Yên Tâm.
Cấp đánh
Kết quả
giá xếp
đánh giá
TT
Tên đề tài SKKN
loại
xếp loại (A,
(Phòng,
B, hoặc C)
Sở, Tỉnh...)
1 Ứng dụng Kĩ thuật dạy học Phòng GD C
tích cực trong môn ngữ Văn Yên Định.

T.H.C.S.

1.

2.

Rèn
2 luyện trong sáng ngôn ngữ
Tiếng Việt

3.

4

5.

6.

Năm học
đánh giá xếp
loại
2011-2012

Phòng GD
Yên Định.

B

2013-2014


3 Khắc sâu kĩ năng viết tốt Phòng GD
bài nghị luận về đoạn thơ Yên Định
,bài thơ cho học sinh lớp 9

B

2014-2015

Sở GD
Thanh Hóa

C

2015 -2016

Phòng GD
Yên Định

B

2017-2018

Phòng GD
Yên Định

A

Kinh nghiệm hướng dẫn
làm tốt bài nghị luận về
đoạn thơ ,bài thơ cho học

sinh lớp
Bản sắc vùng cao qua văn
bản: Nói với con của Y
Phương
Kinh nghiệm soạn câu hỏi
đọc hiểu, kiểm tra đánh giá
ngữ văn THCS theo định
hướng phát triển năng lực
học sinh.

2018-2019

24


25


×