Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học ngữ văn 8 ở trường THCS hồi xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.9 MB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG QUÁ TRÌNH
DẠY HỌC NGỮ VĂN 8 Ở TRƯỜNG THCS HỒI XUÂN

Người thực hiện: Nguyễn Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Hồi Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC
Mục

Nội dung
1 Mở đầu

Trang
1

1.1 Lí do chọn đề tài

1

1.2 Mục đích nghiên cứu

1



1.3 Đối tượng nghiên cứu

1

1.4 Phương pháp nghiên cứu

1

1.5 Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm năm 2019

2

2 Nội dung

2

2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2 Thực trạng của vấn đề

4

2.2.1 Tình hình địa phương

4

2.2.2 Thực trạng của việc học Ngữ văn hiên nay ở Trường THCS

Hồi Xuân

4

2.2.3 Thực trạng sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Văn

4

2.2.4 Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm môn Ngữ văn 8

5

2.3 Giải pháp đã sử dụng để giái quyết vấn đề
2.2..1 Thiết kế bản đồ tư duy

5
5

a Quy trình thiết kế Bản đồ tư duy

5

b Các bước thực hiện

5

2.2.2 Sử dụng bản đồ tư duy hỗ trợ quá trình dạy – học

6


a

Sử dụng bản đồ tư duy để kiểm tra bài cũ

6

b

Sử dụng bản đồ tư duy để dạy bài mới

6

c

Sử dụng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học
và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần…

8

d

Sử dụng Bản đồ tư duy để ôn tập

9

e

Học sinh học tập độc lập, sử dụng Bản đồ tư duy để hỗ trợ
học tập, phát triển tư duy lôgic


12

2.4 Kết quả đạt được
3 Kết luận, kiến nghị

17
17



1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Luật Giáo dục, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng
lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên" [1].
Năm học 2018 – 2019, việc đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng
dạy và học Ngữ văn trong nhà trường là việc làm hết sức quan trọng nhằm thực
hiện chủ đề: “Tiếp tục đổi mới quản lí nâng cao chất lượng giáo dục” .
Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có
vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư
tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công
cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong
các nhà trường phổ thông. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học
khác và ngược lại. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí
thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh
động của cuộc sống.
Sơ đồ tư duy hạy còn gọi là lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy là phương pháp
dạy học chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi,
đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một kiến thức …

bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ
viết với sự tư duy tích cực.
1.2. Mục đích của đề tài
Bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường THCS là một trong những bộ môn có
số tiết dạy nhiều, dung lượng kiến thức dài và có độ khái quát rất lớn. Chính vì
vậy, việc dạy Văn cũng gặp nhiều khó khăn. Vấn đề đổi mới dạy học môn Ngữ
Văn cũng luôn được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Nhiều phương
pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất
khẳng định vai trò của người học là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá
trình học tập. Như vậy, dạy văn là dạy cách tư duy, dạy cách đi tìm và tự chiếm
lĩnh lấy kiến thức. Để giờ dạy có hiệu quả thì cả người dạy và người học đều
phải tập trung cao độ, chuẩn bị kĩ lưỡng trước khi bắt đầu tiết học.
Thực tế cho thấy, một bộ phận học sinh không thích hoặc ngại học môn
Ngữ văn do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, kiến thức lại khó và
rộng. Một số em học tập chăm chỉ nhưng kết quả chưa cao. Các em chưa biết
tích hợp kiến thức, đặc biệt là kiến tích hợp kiến thức liên môn. Đa số các em
thường học bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước,
không biết liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học
trước vào bài học sau...
1.3. Đối tượng
Học sinh lớp 8A- 8B Trường THCS Hồi Xuân - năm học 2017- 2018 và
năm học 2018 - 2019
1


1.4 . Phương pháp nghiên cứu
Việc áp dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy (BĐTD) kết hợp
với các phương pháp học nhóm, ứng dụng công nghệ thông tin,… trong giảng
dạy hiện đang là phương pháp phù hợp và đạt hiệu quả trong việc nâng cao chất
lượng dạy và học trong nhà trường.

Thực tế việc dạy học bằng bản đồ tư duy trước đây đã được nhiều giáo viên
áp dụng như vẽ sơ đồ hay biểu bảng nhưng ở mức độ đơn giản và giáo viên áp
dụng không thường xuyên. Còn đối với phương pháp dạy học bằng bản đồ tư
duy hiện nay là một phương pháp được thực hiện với mức độ cao và ưu điểm
vượt trội nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo trong việc tìm tòi, đào sâu, mở
rộng một ý tưởng của học sinh, bằng việc sử dụng linh hoạt hình ảnh, đường nét
và chữ viết với sự tư duy tích cực của học sinh, nhờ vậy giúp cho học sinh thuộc
bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và chính xác nội dung bài học của mình.
Học sinh luôn sôi nổi và hào hứng trong tiết học, từ đó tạo được điều kiện cho
các em tập trung thảo luận và cùng tìm ra vấn đề cốt lõi trong nội dung của bài
học, ghi nhớ sâu sắc kiến thức, tránh được kiểu học vẹt, học thuộc lòng một cách
máy móc, mà chủ động trong việc học của mình, từ đó mà hiệu quả trong việc
học không ngừng được nâng cao.
Đối với đề tài sáng kiến này chúng tôi chỉ nghiên cứu và dừng lại ở 3 vấn
đề: Giới thiệu cho học sinh biết về sơ đồ tư duy; Cách vẽ một sơ đồ tư duy; Làm
thế nào để sử dụng sơ đồ tư duy hiệu quả trong học tập.
Từ đó, cung cấp cho học sinh những giải pháp thiết thực. giúp các em đạt
hiệu quả cao trong học tập.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm năm 2019
Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã bổ sung phần bảng khảo sát chất
lượng đầu năm học và khảo sát cuối năm học 2017- 2018 và năm học 2018 - 2019
Tôi đã bổ sung và hướng dẫn học sinh cách vẽ và cách khai thác triệt để tác
dụng của bản đồ tư duy trong một bài học cụ thể (Tiết 77 Bài “Quê Hương” của
Tế Hanh) để giáo viên và học sinh dễ vận dung trong dạy học hơn.
Trong sáng kiến kinh nghiêm này tôi cũng đã bổ sung mới một số bản đồ tư
duy do học sinh tự vẽ ở các bài, hoăc một đơn vị kiến thức của một bài trong
năm học 2017-2018
Tôi cũng sưu tầm thêm một số bản đồ tư duy mới mà mình đã áp dụng dạy
học thành công trong năm học 2017-2018.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình
thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ
đề hay một mạch kiến thức,…bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình
ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ
đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắt khe như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm
hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh,
2


các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể
hiện” nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát huy
được tối đa năng lực sáng tạo của mỗi người.
BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ
thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp
với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm
năng vô tận của bộ não. Nó được coi là sự lựa chọn cho toàn bộ trí óc hướng tới
lối suy nghĩ mạch lạc. Tony Buzan là người đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu tìm
ra hoạt động của bộ não. Theo Tony Buzan “một hình ảnh có giá trị hơn cả ngàn
từ…” và “màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. Màu sắc mang
đến cho BĐTD những rung động cộng hưởng, mang lại sức sống và năng lượng
vô tận cho tư duy sáng tạo”.
Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các
mạng lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có
liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức
mới, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức,... và lập kế hoạch công tác.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ
lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của
mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc lập BĐTD còn giúp cho mỗi người phát triển khả năng thẩm mỹ, do việc

thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường nét, các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp
các ý tưởng một cách khoa học súc tích, hợp lý, trực quan, dễ hiểu, dễ “đọc”, dễ
tiếp thu.
Việc lập BĐTD có thể do từng cá nhân hoặc một nhóm, BĐTD vừa mang
đậm dấu ấn cá nhân vừa thể hiện được ý tưởng sáng tạo của cả tập thể do đó vận
dụng BĐTD vào dạy học phát huy được tính tích cực, sáng tạo của HS là một
trong những cách làm tốt nhất góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
BĐTD có thể vẽ trên giấy, bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì
màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế trên powerpoint hoặc phần mềm bản
đồ tư duy Mindmap; ưu điểm giúp người lập BĐTD dễ dàng phát triển ý tưởng
và bổ sung ý tưởng qua đó phát huy tối đa tính sáng tạo của mỗi người, phát
triển năng khiếu hội họa, sở thích của mỗi người, được tự do chọn màu sắc
(xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), … nên mỗi
BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng cá nhân và cũng
do tự làm nên càng yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. Với vật liệu dễ
kiếm, rất kinh tế cách làm đơn giản BĐTD có thể vận dụng được với bất kì điều
kiện nào của các nhà trường hiện nay.
Sử dụng thành thạo và hiệu quả BĐTD trong dạy học sẽ mang lại kết quả
tốt trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của GV.
Học sinh sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và
phát triển tư duy logic. GV sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong
bài giảng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiêm
3


1.2.1. Tình hình địa phương
Địa phương xã Hồi Xuân thuộc vùng 135 là xã nghèo của huyện Quan Hóa,
kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Đa đa số phụ huynh hiểu biết còn hạn chế, lại đi
làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản thân các em còn

phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.
Do sự phát triển của Thông tin - Văn hóa - Khoa học kĩ thuật… nhu cầu
giải trí như xem ti vi, chơi game... ngày càng nhiều làm cho một số em bị lôi
cuốn, sao nhãng việc học tập.
1.2.2. Thực trạng của việc học Ngữ văn hiên nay ở Trường THCS Hồi Xuân
Trong quá trình trực tiếp dạy và chấm bài làm Ngữ văn của học sinh tôi thấy:
Học sinh rất yếu về khả năng trình bày mắc những lỗi sai cơ bản như: dùng
từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, diễn đạt
ngô nghê, thiếu logic, tối nghĩa...;
Học sinh yếu trong việc vận dụng kiến thức đã học ở lớp trước, phần trước
hoặc những vấn đề liên quan ở những bộ môn khác do thiếu năng lực khái quát,
tổng hợp;
Kỹ năng lập dàn bài (Tìm ý, sắp xếp ý) cho một bài viết, một nội dung cần
trình bày…chưa đạt hiệu quả cao.
1.2.3. Thực trạng sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Văn
Một trong những kỹ thuật dạy học mới được đưa vào là sử dụng bản đồ tư
duy (BĐTD). Phương pháp này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học
tập của học sinh vì:
Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi trong học sinh
tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy
mới về học Ngữ văn. Nếu hình thành thói quen vẽ BĐTD ở từng bài học sẽ giúp
cho HS hứng thú, sáng tạo, nhớ lâu, vận dụng tốt kiến thức đã học...
Giúp học sinh có phương pháp tự học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện phương
pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ
nhưng vẫn không giỏi, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã
quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận
dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh khi
đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin,
lưu kiến thức trọng tâm. Giáo viên - Học sinh sử dụng thành thạo BĐTD trong

dạy - học sẽ giúp các em có được phương pháp học tốt, tăng tính độc lập, chủ
động, sáng tạo và phát triển tư duy;
Phương tiện để thiết kế BĐTD khá đơn giản:
- Vẽ bằng tay: chỉ cần giấy, bìa cứng, bảng phụ, phấn màu, bút chì màu,…
- Vẽ bằng máy tính: dùng phần mềm Mindmap…
Vì vậy, mọi học sinh đều có thể vận dụng. Điều quan trọng là giáo viên
hướng cho học sinh có thói quen lập BĐTD trước hoặc sau khi học một bài hay
4


một chủ đề, một chương, để giúp các em có cách sắp xếp kiến thức một cách
khoa học, lôgic.
1.2.4. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm môn Ngữ văn 8
Lớp
8AB
8AB
8AB
8AB

Loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Tổng

Năm học 2017 - 2018
Số lượng
%
6

8.6
20
28.5
40
57,1
4
5.8
70
100

Năm học 2018 - 2019
Số lượng
%
10
14
38
55,2
20
28
2
2,8
70
100

2.3. Giải pháp đã sử dụng để giái quyết vấn đề
2.3.1. Thiết kế bản đồ tư duy
a. Quy trình thiết kế Bản đồ tư duy
Để các tiết dạy Văn có sử dụng BĐTD đạt hiệu quả. Trước tiên, tôi giới
thiệu cho học sinh làm quen với BĐTD mà tôi đã vẽ trên máy hoặc trên giấy (vẽ
sẵn ở nhà) hoặc trên bảng (vẽ trực tiếp trên lớp).

Tập “đọc hiểu” BĐTD, sao cho chỉ cần nhìn vào một BĐTD bất kỳ học
sinh nào cũng có thể thuyết trình được nội dung một bài học hay một chủ đề,
một chương theo mạch lôgic của kiến thức.
Hướng cho học sinh có thói quen tư duy lôgic theo hình thức sơ đồ hoá .
Cho học sinh thực hành vẽ bản đồ trên giấy, bìa cứng hoặc bảng phụ.
b. Các bước thực hiện
Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy. Người vẽ sẽ bắt đầu từ
trung tâm với hình ảnh của chủ đề
Chú ý: Nên sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như
hình ảnh; Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn
tượng sâu sắc về chủ đề.
Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm.
Chú ý: Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để
làm nổi bật; Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm; Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo
góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ dàng.
Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ:
Chú ý: Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ chỉ nên tận dụng các từ
khóa và hình ảnh; Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không
gian vẽ và thời gian; Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc
riêng trên nhánh. Trên mỗi khúc nên chỉ có tối đa một từ khóa; Sau đó nối các
nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các nhánh
cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng đường kẻ. Các đường kẻ
càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn; Nên dùng các đường kẻ cong
thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút
được sự chú ý của mắt nhiều hơn; Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có
5


cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ
thể hơn.

Bước 4: Người vẽ có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng
thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn.
2.2.2. Sử dụng bản đồ tư duy hỗ trợ quá trình dạy - học
a. Sử dụng bản đồ tư duy để kiểm tra bài cũ
Giáo viên đưa ra một từ khoá nêu lên nội dung kiến thức của bài cũ, hoặc
một BĐTD có các nhánh mang nội dung rồi yêu cầu học sinh điền tiếp các nội
dung theo từng cấp độ, bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em tìm ra các nội
dung liên quan đến từ khóa, nhánh đó để các em có thể vẽ hoàn thiện BĐTD.
Qua đó, học sinh sẽ nhớ lại các nội dung đã học và từ đó khắc sâu kiến thức.
Ví dụ: Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du

Giá trị nội dung và nghệ
thuật Truyện Kiều

b. Sử dụng bản đồ tư duy để dạy bài mới
Sử dụng bản đồ tư duy như là một đồ dùng trực quan phục vụ cho việc
giảng bài mới. Đặc biệt khi dạy bằng giáo án điện tử. Đối với việc dạy bài mới,
để sử dụng bản đồ tư duy có hiệu quả, phải chuẩn bị kĩ bài ở nhà. Từ nội dung
bài học, đúc kết thành một bản đồ tư duy rồi vẽ trên máy (nếu dạy bằng giáo án
điện tử) hoặc trên giấy roki (nếu dạy giáo án thường). Khi lên lớp sử dụng bản
đồ tư duy đó để hướng dẫn học sinh khai thác từng nội dung của bài học. Mỗi
nội dung ứng với một nhánh con của bản đồ.
Với việc sử dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước giáo viên sẽ
giúp học sinh tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng
những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học - trung tâm bản đồ. Giáo
viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học,
những ý nhỏ trong từng ý lớn cứ như vậy đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc
kiến thức tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động trên
bản đồ. Không những cung cấp cho học sinh kiến thức tổng thể, bản đồ tư duy
còn giúp cho học sinh nhìn nhận đa chiều mọi mặt của vấn đề, từ đó đưa ra các ý

tưởng mới, phát hiện mới, tìm ra sự liên kết, ràng buộc các ý tưởng trong bài tức
tìm ra mạch lôgic của bài học. Sau khi hoàn thiện, học sinh nhìn vào bản đồ là
có thể tái hiện, thuyết trình lại được toàn bộ nội dung kiến thức bài học. Đồng
6


thời học sinh cũng có thể khẳng định được toàn bộ dung lượng kiến thức của
bài, xác định ý chính, ý phụ và lên kế hoạch học tập hiệu quả.
Ví dụ: Ngữ văn Tiết 77 – Văn bản: Quê hương của Tế Hanh
Sau khi ổn định lớp, kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của HS, tôi viết từ khóa:
"Quê hương" vào chính giữa bảng và vẽ 4 nhánh cấp 1 rồi hướng dẫn HS điền
các cụm từ vào từng nhánh: tác giả, tác phẩm, nội dung, nghệ thuật.
Phần I.Tìm hiểu chung
GV cho HS thảo luận, điền các nhánh cấp 2 về tác giả, tác phẩm (Yêu cầu
HS về nhà bổ sung thêm những điều các em tìm hiểu thêm ngoài văn bản về tác
giả, tác phẩm vào các nhánh cấp 3…)
Phần II. Phân tích
Giáo viên lần lượt cho học sinh tìm hiểu từng mục của nội dung văn bản
1. Giới thiệu chung về quê hương của tác giả.
2. Cảnh dân chài bơi thuyền đi đánh cá.
3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về bến.
4. Nỗi nhớ của tác giả khi xa quê.
Giáo viên lần lượt cho học sinh tìm nét đặc sắc nghệ thuật của văn bản
GV chia lớp thành 4 nhóm yêu cầu HS hoàn thiện BĐTD ở 2 nhánh còn lại.
(HS có thể lập BĐTD mới hoặc lấy BĐTD đã chuẩn bị ở nhà ra cùng thảo luận,
hoàn chỉnh). Sau đó chọn nhóm lên báo cáo kết quả bằng cách cử đại diện nhóm
lên vẽ , các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
Nhóm 1: Trình bày phần nghệ thuật: bằng cách cử đại diện lên bảng vẽ.
Nhóm 2: Trình bày nội dung: bằng cách cử đại diện nhóm lên bảng vẽ.
Nhóm 3: Nhận xét bổ sung cho nhóm 1.

Nhóm 4: Nhận xét bổ sung cho nhóm 2.
GV kết luận, đánh giá, biểu dương và lưu ý HS các lỗi thường mắc trong
khi vẽ.
Để HS có cái nhìn tổng thể, GV cho HS quan sát BĐTD mà GV đã vẽ.

7


Bản đồ tư duy “Văn bản - Quê hương” [2]
Trong quá trình dạy bài mới, tùy theo tiết dạy và thời gian, có thể cho học
sinh mỗi nhóm vẽ bản đồ tư duy phần nội dung nào đó của bài học, đại diện của
các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập.
Cả lớp thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện bản đồ tư duy về kiến
thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh
hoàn chỉnh bản đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
GV cùng cả lớp đánh giá kết quả, khen thưởng động viên những nhóm có
nhiều cố gắng. GV nên có biện pháp khuyến khích những em có sự sáng tạo
trong quá trình vẽ BDTD
Phần thời gian còn lại của tiết GV cho các em phát triển kĩ năng nói bằng
cách dựa vào BĐTD đã lập, trình bày thành bài thuyết trình những hiểu biết của
em về văn bản hoặc nội dung đã tìm hiểu.
GV Nên hướng dẫn cho học sinh cách thuyết trình sao cho rõ ràng, dễ hiểu
có tính liên kết cao trong bài nói.
c. Sử dụng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ
thống kiến thức sau mỗi chương, phần…
8


Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến
thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ bản đồ tư duy. Mỗi

bài học được vẽ bản đồ tư duy trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc
làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh
chóng, dễ dàng. Và đây là một trong những bản đồ tư duy mà học sinh tự vẽ sau
khi học xong bài học: "Dấu ngoặc kép"

Tiết 53: Dấu ngoặc kép [3]
d. Sử dụng Bản đồ tư duy để ôn tập

9


Khi dạy phần ôn luyện thêm cho học sinh về từ vựng Tiếng Việt, tôi đã
hướng dẫn học sinh vẽ bản đồ tư duy để khái quát lại những kiến thức đã học
trong chương trình học kì I về Từ vựng và về câu phân loại theo mục đích nói:

Bản đồ tư duy từ vựng Tiếng Việt. [2]

10


Bản đồ tư duy "Từ vựng Tiếng Việt” [4]

11


Bản đồ tư duy về “Câu xét theo mục đích nói” [2].

e. Học sinh học tập độc lập, sử dụng Bản đồ tư duy để hỗ trợ học tập,
phát triển tư duy lôgic
Sau mỗi bài học ở lớp, tôi thường yêu cầu học sinh sử dụng bản đồ tư duy

để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức
bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa… Qua đó củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng
ghi chép.
Nếu gia đình học sinh nào có máy tính thì các em có thể sử dụng phần mềm
Mindmap nhằm phát triển khả năng ứng dụng Công nghệ thông tin, sử dụng
máy tính trong học tập.

12


Bản đồ tư duy Văn bản: Nước Đại Việt ta học sinh tự vẽ

13


Bản đồ tư duy “Nước Đại Việt ta” [5].

14


Bản đồ tư duy Văn bản: Bàn luận về phép học [6]
15


Bản đồ tư duy văn bản “Thuế máu” [7]
16


Bản đồ tư duy “Từ tượng thanh, tượng hình” [8]


17


2.4. Kết quả đạt được
Sau một thời gian sử dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ văn, tôi thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Học sinh hiểu bài
nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng
BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình
đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn
Ngữ văn, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài
nhanh, hiệu quả, đặc biệt là trong học tiếng Việt.
Thực tế kết quả KSCL học kỳ I năm học 2017 - 2018 cho thấy môn Ngữ
văn khối 8 nói riêng và chất lượng môn văn của nhà trường nói chung đã có
nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm môn Ngữ văn 8

Lớp
8AB
8AB
8AB
8AB

Loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Tổng

Năm học

2016 - 2017
Số lượng
%
10
14
38
55
22
31
0
0
70
100

Năm học
2017- 2018
Số lượng
%
15
21,4
35
50
20
28,6
0
0
70
100

3. Kết luận, kiến nghị

Trong cách học truyền thống, học sinh ghi chép và thực hiện kiến thức theo
trật tự tuyến tính nên khả năng nhớ kiến thức thường ít hơn 50% dung lượng
bài. Sử dụng bản đồ tư duy giúp các em khắc phục được hạn chế đó. Sau mỗi
giờ học, khi cần củng cố kiến thức học sinh chỉ cần nhìn vào bản đồ tư duy có
thể tái hiện được 80% - 90% kiến thức bài học. Đến khi ôn thi học sinh không
phải mất một lượng lớn thời gian để đọc lại kiến thức như cách học truyền thống
mà chỉ cần quan sát lại sơ đồ tổng thể vẫn có thể tái hiện nội dung bài học một
cách cụ thể, chi tiết. Như thế học sinh vừa nâng cao được kết quả học tập vừa
tiết kiệm được thời gian
Với những ưu điểm của mình, bản đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở,
kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Bước quan trọng nhất là giáo
viên giúp học sinh phát hiện, tìm kiếm được trung tâm bản đồ - trọng tâm bài
học. Sau đó theo nguyên lí bản đồ tư duy là ý nọ gợi ý kia dần dần giúp học sinh
khám phá kiến thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng sự tập hợp kiến thức từ
các nguồn, học sinh phải biết cách phân tích tìm ra những từ khóa, hình ảnh
chính xác nhất. Khi các nhánh lớn được xây dựng giáo viên cũng nên hướng dẫn
học sinh sắp xếp theo thứ tự quan trọng bằng cách đánh số ở đầu mỗi nhánh.
Điều đó giúp học sinh dễ dàng ôn tập sau này. Cứ làm việc theo cách đó học
sinh sẽ biết cách tự mình vận động, tìm tòi khám phá, lĩnh hội tri thức một cách
có hiệu quả.
BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học
chuyển tải thông tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ
18


dàng, đồng thời là phương tiện ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu
và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng. Dạy
học bằng Bản đồ tư duy - một giải pháp góp phần đổi mới cơ bản giáo dục.
Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học giúp học sinh học tập một cách chủ
động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách

hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh
không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên Bản đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy
động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa
(hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức
được học qua sách vở vào cuộc sống.
XÁC NHẬN CỦA
Quan Hoá, ngày 5 tháng 3 năm 2019
HIỆU TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Thị Nga

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Luật giáo dục
[2] Trần Đình Châu, Thiết kế, sử dụng Bản đồ tư duy trong đổi mới phương
pháp dạy học và hỗ trợ công tác quản lí nhà trường, Tài liệu tập huấn, Nghệ An
Tháng 01/2011
[3] Bản đồ tư duy “Dấu ngoặc kép” của học sinh Lương Thị Huyền - Lớp
8A Trường THCS Hồi Xuân
[4] Bản đồ tư duy “Từ vựng Tiếng Việt” của học sinh Lê Bảo Hoài An Lớp 8A Trường THCS Hồi Xuân
[5] Bản đồ tư duy “Nước Đại Việt ta” của học sinh Hà Công Minh - Lớp
8A Trường THCS Hồi Xuân
[6] Bản đồ tư duy “Bàn luận về phép học” của học sinh Phạm Thị Huyền Lớp 8A Trường THCS Hồi Xuân
[7] Bản đồ tư duy “Thuế máu” của học sinh Phạm Thị Hoài - Lớp 8B
Trường THCS Hồi Xuân

[8] Bản đồ tư duy bài “Từ tượng thanh, tượng hình” của học sinh Hà Thị
Mơ - lớp 8B, Trường THCS Hồi Xuân

20



×