Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đổi mới phương pháp dạy học môn lịch sử ở trường THPT như thanh theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 27 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NHƯ THANH

SÁNG KIẾM KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC MÔN LỊCH
SỬ Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

Người thực hiện: Nguyễn Xuân Tịnh
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
Đơn vị công tác: Trường THPT Như Thanh
SKKN thuộc môn: Lịch sử

Như Thanh, tháng 5 năm 2019
0


MỤC LỤC

1. MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM......................................................2
2.1. Cơ sở lí luận.....................................................................................................2
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu...................................................................3
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.................................................3
2.3.1. Phương pháp rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự học.....................................3
2.3.1.1. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng biết khai thác và sử dụng SGK.................3


2.3.1.2. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng thực hành trong giờ lịch sử.......................5
2.3.1.3. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng biết khai thác và sử dụng hiệu quả kênh
hình trong SGK.....................................................................................................7
2.3.1.4. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng biết khai thác và sử dụng tư liệu tham
khảo để phục vụ bài học.........................................................................................9
2.3.2. Phương pháp hình thành khái niệm cho học sinh trong dạy học lịch sử thông
qua bài tập nhận thức...........................................................................................11
2.3.3. Sử dụng phương pháp tổ chức dạy học nhóm để phát huy tính tích cực, rèn
luyện khả năng hợp tác trong học tập cho học sinh..............................................12
2.3.4. Sử dụng hiệu quả phương pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy học để tạo
tình huống có vấn đề cho học sinh........................................................................15
2.3.5. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử bằng phương pháp sử dụng sơ đồ tư
duy.......................................................................................................................17
2.3.5.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ..............................................17
2.3.5.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy bài ôn tập, tổng kết.................................18
2.3.5.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học.......................19
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.............................................................20
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ...............................................................................20
3.1. Kết luận.........................................................................................................20
3.2. Kiến nghị đề xuất...........................................................................................21
3.2.1. Đối với sở GD&ĐT Thanh Hóa...................................................................21
3.2.2. Đối với Nhà trường......................................................................................21


3.2.3. Đối với giáo viên...........................................................................................21

1


1. MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài.
Đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường THPT theo định
hướng phát triển năng lực học sinh là muốn nhấn mạnh đến vai trò của người
học với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức. Chương trình giáo dục phát
triển theo năng lực, phẩm chất học sinh đã trở thành xu hướng phát triển mang
tính quốc tế trong cải cách phương pháp dạy học ở trường phổ thông từ những
năm 90 của thế kỉ XX.
Nắm bắt được xu hướng này, Nghị quyết số 29 - NQ/TW của Hội nghị lần
thứ VIII, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, năm 2013 về đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường XHCN và hội nhập quốc tế đã nêu rõ:
"Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người
học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy
cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và
đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp
sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú trọng các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy học".
Để thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo
tinh thần Nghị quyết số 29, một trong những vấn đề quan trọng được đặt ra cho
ngành giáo dục hiện nay là cần có nhận thức đúng đắn về bản chất đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của người học. Thực
chất của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay ở trường THPT là hướng tới
mục tiêu lấy học sinh làm trung tâm, thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm học sinh học cái gì đến học sinh vận dụng được những gì thông qua
việc học. Trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên
phải hiểu yêu cầu của học sinh để cung cấp thông tin, hướng dẫn học sinh trong
quá trình tiếp thu và lĩnh hội kiến thức.

Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học lịch sử hiện nay ở trường THPT
không có nghĩa là giáo viên phải loại bỏ phương pháp dạy học truyền thống như
thuyết trình, đàm thoại... mà phải biết khai thác những ưu điểm của phương
pháp dạy học này. Bên cạnh đó, giáo viên phải sử dụng các phương pháp dạy
học mới để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh trong
lĩnh hội và làm chủ tri thức. Để thực hiện điều đó, giáo viên phải dạy học sinh
cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
phẩm chất cho người học. Mark van Doren từng nói: "Nghệ thuật dạy học chính
là nghệ thuật giúp ai đó khám phá".
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT nhằm nâng cao chất
lượng môn Lịch sử. Tôi xin trình bày một số kinh nghiệm “Đổi mới phương pháp dạy
- học môn Lịch sử ở trường THPT Như Thanh theo định hướng phát triển năng lực
học sinh". Đây là SKKN được đúc rút trong thực tiễn dạy học nhiều năm ở trường
THPT Như Thanh. Tôi hi vọng, với đề tài SKKN này sẽ là kênh tham khảo cho giáo
viên và học sinh trong quá trình dạy - học môn Lịch sử hiện nay ở trường THPT.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng thực hiện đổi mới phương pháp dạy - học môn Lịch sử
nói chung, ở trường THPT Như Thanh nói riêng.
- Đưa ra một số phương pháp dạy - học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh ở trường THPT Như Thanh đã và đang được thực hiện một cách hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Với phạm vi SKKN “Đổi mới phương pháp dạy - học môn Lịch sử ở
trường THPT Như Thanh theo định hướng phát triển năng lực học sinh", đối
tượng mà tôi nghiên cứu là một số phương pháp dạy học mới theo định hướng phát triển
năng lực học sinh.
- Đối tượng tôi áp dụng cho đề tài SKKN là học sinh trường THPT Như Thanh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.

Để hoàn thành SKKN này, tôi đã tiến hành thực hiện các phương pháp
nghiên cứu như sau:
+ Tìm hiểu thực trạng đổi mới phương pháp dạy - học môn Lịch sử hiện
nay ở trường THPT Như Thanh.
+ Trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học
với đồng nghiệp để lựa chọn những phương pháp - kĩ thuật dạy học mới phù hợp
với môn Lịch sử.
+ Nghiên cứu các tài liệu tham khảo về đổi mới phương pháp dạy học
môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh để có thêm kinh nghiệm
trong dạy học.
+ Căn cứ vào thực tiễn học tập của học sinh, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường
để lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp với bộ môn Lịch sử.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận.
Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
là thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang chương
trình giáo dục tiếp cận năng lực của người học. Trước đây, trong dạy học, giáo viên
thường quan tâm học sinh học được cái gì. Hiện nay, giáo viên phải xác định học
sinh vận dụng như thế nào thông qua việc học. Thực chất của phương pháp dạy học
theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất của người học là chuyển từ
phương pháp dạy học theo lối truyền thụ một chiều sang dạy học sinh cách học,
cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất để
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh trong học tập. Từ đó hình
thành và phát triển năng lực tự học của học sinh như nghe, nhìn, ghi chép, tìm kiếm
thông tin, sử dụng SGK, đồ dùng trực quan... trong học tập bộ môn Lịch sử.
Phương pháp dạy học ở trường phổ thông vừa đảm bảo tính khoa học
nhưng lại mang tính nghệ thuật. Tính khoa học là giáo viên phải đảm bảo nội
dung, chương trình, mục tiêu đào tạo. Tính nghệ thuật là giáo viên phải căn cứ
vào đối tượng, tình hình cụ thể của mỗi lớp học đưa ra cách thức, phương pháp
dạy học cho phù hợp để đạt được yêu cầu, chất lượng và hiệu quả. Trong dạy

học hiện nay, nếu giáo viên không quan tâm chú trọng đổi mới phương pháp dạy
học là tự đào thải chính mình. Tuy nhiên, dù sử dụng bất kỳ phương pháp dạy
học nào cũng phải đảm bảo nguyên tắc học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ
nhận thức đặt dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên.
3


2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Trong những năm qua, đổi mới hình thức và phương pháp dạy học ở
trường THPT luôn được giáo viên quan tâm và đã đạt được kết quả ban đầu
đáng khích lệ. Tuy nhiên, do mục tiêu chương trình giáo dục hiện hành chủ yếu
là trang bị kiến thức, cùng với những hạn chế về năng lực thực hiện của giáo
viên, nên việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông hiện nay chưa
mang lại hiệu quả thiết thực. Phương pháp dạy học của giáo viên phần lớn vẫn là
truyền thụ kiến thức một chiều. Số giáo viên thường xuyên sử dụng các phương
pháp dạy học mới để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh chưa nhiều,
chưa ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Phương pháp dạy học còn
nặng về truyền thụ kiến thức, ít chú ý quan tâm đến thực hành. Việc rèn luyện kỹ
năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua vận dụng tri
thức tổng hợp chưa thực sự được giáo viên quan tâm.
Trước xu thế đổi mới giáo dục hiện nay, giáo viên trường THPT Như
Thanh nói chung, giáo viên nhóm Lịch sử nói riêng đã tích cực đổi mới phương
pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Nhiều giáo viên đã
sử dụng các phương pháp dạy học mới trong dạy học như: ứng dụng công nghệ
thông tin, tổ chức dạy học nhóm, dạy học theo dự án, giải quyết vấn đề... đã gây
hứng thú cho học sinh trong học tập, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại
trà, giáo dục mũi nhọn của nhà trường. Trong quá trình thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, chúng tôi có
những thuận lợi và khó khăn sau:
Thuận lợi: Nhà trường rất quan tâm đến công tác chuyên môn, tạo điều kiện

cho giáo viên tham gia đầy đủ các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học do Sở
GD&ĐT tổ chức, giành nhiều thời gian trong các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn để
trao đổi việc thực hiện và triển khai các chuyên đề của Sở tại nhà trường. Hầu hết giáo
viên đã sử dụng những phương pháp dạy học mới để phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học. Học sinh cũng dần làm quen với phương pháp tự học.
Khó khăn: Việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh của một số giáo viên còn mang nặng tính hình thức, chưa
được thực hiện thường xuyên, chỉ thực hiện trong một số tiết thao giảng, còn lại
các tiết dạy học trên lớp vẫn sử dụng phương pháp truyền thống nên việc đổi
mới phương pháp dạy học ở trường THPT hiện nay chưa đạt được kết quả như
mong muốn. Nhiều học sinh trong học tập môn Lịch sử còn thụ động, thiếu tính
tự giác, chưa tích cực và chủ động trong giờ học.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Phương pháp rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự học.
Đổi mới phương pháp dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay,
điều trước tiên là giáo viên phải rèn luyện cho học sinh ý thức và kĩ năng tự học.
Nếu học sinh có kĩ năng tự học sẽ giúp các em luôn tự giác, tích cực và chủ
động trong học tập. Thực tiễn dạy học nhiều năm ở trường THPT, tôi nhận thấy
cần rèn luyện cho học sinh những kĩ năng tự học môn Lịch sử như sau:
2.3.1.1. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng biết khai thác và sử dụng SGK.
SGK là phương tiện rất quan trọng đối với giáo viên và học sinh trong quá
trình dạy - học ở trường THPT. SGK cung cấp cho giáo viên và học sinh những
kiến thức phổ thông cơ bản, có tính bao quát toàn bộ nội dung chương trình theo
từng môn học. Chính bởi vậy mà trong dạy học, điểm cốt yếu là giáo viên phải
4


hướng dẫn học sinh biết cách khai thác và sử dụng SGK sao cho hiệu quả để
giúp các em nắm vững kiến thức bài học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng. Nếu
trong quá trình học tập, học sinh không biết cách khai thác và sử dụng SGK sẽ

dẫn đến tình trạng các em không nắm vững kiến thức bài học. Hướng dẫn học
sinh sử dụng SGK trong dạy học lịch sử, giáo viên thường sử dụng các hình thức
sau: hướng dẫn học sinh cách tự đọc SGK, trả lời câu hỏi và làm bài tập trong
SGK, biết khai thác và sử dụng kênh hình...
Ví dụ 1: Khi dạy tiết 1 - Bài 20 (SGK 12 CB): Cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 - 1954)
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh cách khai thác và sử dụng SGK
thông qua những câu hỏi gợi mở như sau:
Kế hoạch Na va ra đời trong bối cảnh lịch sử như thế nào?
Nêu nội dung của kế hoạch Na va, em có nhận xét như thế nào về kế
hoạch quân sự này của Pháp - Mĩ?
Trước âm mưu mới của Pháp - Mĩ ở Đông Dương thông qua kế hoạch Na
va; Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng tác chiến như thế
nào trong đông - xuân 1953 - 1954?
Cuộc tiến công chiến lược đông - xuân 1953 - 1954 đã diễn ra và giành
được thắng lợi như thế nào?
Tại sao Pháp - Mĩ lại xây dựng Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm
quân sự mạnh nhất ở Đông Dương?
Căn cứ vào đâu mà Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ?
Chiến dịch Điện Biên Phủ đã diễn ra và giành được thắng lợi như thế nào?
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát, tìm hiểu lược đồ hình thái chiến
trường đông - xuân 1953 - 1954 (hình 53), lược đồ diễn biến chiến dịch Điện
Biên Phủ (hình 54) sau đó lên trình bày trên bản đồ treo tường mà giáo viên đã
chuẩn bị. Nêu ý nghĩa của biểu tượng chiến thắng Điện Biên Phủ (hình 55).
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh học bài trên lớp.
Tổ chức cho học sinh các hoạt động học tự học nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, tự giác của các em trong giờ học. Giáo viên không nên quá lạm
dụng phương pháp thuyết trình sẽ hạn chế rất lớn khả năng tự học và tính sáng
tạo của học sinh. Giáo viên phải lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm.
Bằng hệ thống câu hỏi gợi mở, giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt

động cá nhân, hoặc làm việc theo nhóm. Cùng với việc hướng dẫn học sinh khai
thác "kênh chữ", giáo viên còn phải hướng dẫn học sinh khai thác và sử dụng
"kênh hình" để phục vụ bài học. Sau khi học sinh trả lời các câu hỏi, giáo viên
nhận xét và chốt ý.
Như vậy, cùng với kiến thức bài học được thể hiện trong SGK, kết hợp
với những hình ảnh trực quan sinh động trên lược đồ sẽ giúp học sinh hiểu bài
nhanh hơn, nắm vững kiến thức bài học một cách chi tiết và cụ thể hơn. Kênh
hình còn tạo biểu tượng sinh động trong quá trình nhận thức của học sinh, giúp
học sinh như đang được trải nghiệm với lịch sử, làm cho các em yêu thích lịch
sử hơn. Để học sinh khai thác kiến thức, kênh hình trong SGK phục vụ bài học,
giáo viên phải yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp bằng cách trả lời
những câu hỏi trong SGK, hoặc một số bài tập giáo viên yêu cầu chuẩn bị ở nhà
làm vào vở soạn bài.
Ví dụ 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh tự học ở nhà, trước khi dạy tiết 2
5


- Bài 5: Trung Quốc thời phong kiến (SGK 10 CB).
Nếu như ở tiết 1, giáo viên đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu được 2 nội
dung cơ bản của bài học là: Trung Quốc thời Tần, Hán và sự phát triển của chế
độ phong kiến Trung Hoa dưới thời nhà Đường; tiết 2, giáo viên hướng dẫn học
sinh tìm hiểu phần 3: Trung Quốc thời Minh, Thanh; phần 4: Văn hóa Trung
Quốc thời phong kiến. Để chuẩn bị cho tiết 2, sau khi kết thúc bài học tiết 1,
giáo viên phải dặn dò học sinh học bài cũ và chuẩn bị bài học mới. Công việc
chuẩn bị bài mới của học sinh được giáo viên hướng dẫn như sau:
Giáo viên chia học sinh thành 4 nhóm, phân công nhiệm vụ cụ thể cho
từng nhóm như sau:
Nhóm 1: Mầm mống quan hệ sản xuất TBCN đã xuất hiện và phát triển
như thế nào dưới thời kì nhà Minh, Thanh?
Nhóm 2: Tìm hiểu về Tư tưởng, Sử học, Văn học của Trung Quốc thời

phong kiến.
Nhóm 3: Tìm hiểu về khoa học - kĩ thuật của Trung Quốc thời phong kiến.
Nhóm 4: Tìm hiểu về công trình kiến trúc Vạn lí trường thành.
Khi phân công việc cho từng nhóm, giáo viên nên đưa ra một số gợi ý để
các nhóm chuẩn bị bài cho tốt.
Nhóm 1: Tại sao dưới thời kì nhà Thanh, quan hệ sản xuất TBCN ở Trung
Quốc lại bị hạn chế phát triển?
Nhóm 2: Hệ tư tưởng Nho giáo của Trung Quốc có ảnh hưởng như thế
nào đến Việt Nam thời phong kiến?
Nhóm 3: Những phát minh về khoa học - kĩ thuật của Trung Quốc thời
phong kiến đã có ảnh hưởng như thế nào đối với nhân loại?
Nhóm 4: Ngoài công trình kiến trúc Vạn lí trường thành, thời phong kiến ở
Trung Quốc còn có những công trình kiến trúc nào lớn mang đậm dấu ấn lịch sử?
Với sự phân công nhiệm vụ học tập về nhà cho từng nhóm, học sinh sẽ
chủ động và tích cực hơn trong học tập. Các em sẽ biết cách tự học bài trong
SGK, tìm hiểu thêm kiến thức từ các nguốn tư liệu khác để phục vụ bài học.
Hôm sau, giáo viên cử các nhóm lên trình bày sản phẩm. Các nhóm khác lắng
nghe, đặt câu hỏi, bổ sung thêm kiến thức cho nhóm bạn. Sau đó giáo viên tổng
kết, nhận xét và cho điểm các nhóm để khuyến khích tinh thần học tập của học
sinh. Cuối cùng giáo viên sử dụng giáo án điện tử để củng cố kiến thức bài học.
Giáo viên giao bài tập về nhà cho học sinh chuẩn bị trước khi đến lớp
thông qua những câu hỏi cụ thể và chi tiết như vậy sẽ giúp học sinh xác định
được những nội dung cơ bản, trọng tâm của bài học. Định hướng cho các em
cách khai thác kiến thức trong SGK để trả lời câu hỏi, tìm hiểu thêm các nguồn
tư liệu lịch sử có liên quan để chuẩn bị cho bài học. Học sinh sẽ chủ động và
hứng thú hơn khi được giao bài tập về nhà.
2.3.1.2. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng thực hành trong giờ lịch sử.
Để học sinh vận dụng kiến thức bài học vào thực tiễn nhận thức một cách
hiệu quả, trong dạy học, giáo viên phải thay đổi hình thức tiếp cận kiến thức của
học sinh từ nghe, cảm nhận sang làm bài thực hành theo hướng dẫn của giáo

viên. Có như vậy, học sinh mới phát huy được khả năng tự học, tự làm chủ kiến
thức thông qua các hoạt động học. Nếu thay đổi quan niệm và hình thức dạy học
như vậy, giáo viên sẽ hình thành cho học sinh ý thức tự giác trong học tập. Các
6


em sẽ chủ động tìm hiểu bài học, biết vận dụng một cách sáng tạo, có khả năng
tái tạo kiến thức để giải quyết những bài tập tính huống giáo viên đưa ra.
Ví dụ 1: Bài 11 (SGKCB 10): Tây Âu thời hậu kì trung đại. Mục 1. Các
cuộc phát kiến địa lí
Sau khi tìm hiểu xong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc phát kiến địa
lí, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiến thức trong SGK, yêu cầu lập bảng
kê về các cuộc phát kiến địa lí lớn ở Tây Âu vào thế kỉ XV - XVI theo mẫu sau:
Tên nước Người thực hiện Thời gian Con đường đi
Điểm đến
Để hoàn thiện bảng biểu, giáo viên hướng dẫn học sinh kẻ số cột, dòng
cho phù hợp với yêu cầu, biết lựa chọn những sự kiện, nội dung tiêu biểu để
điền vào bảng. Ngôn ngữ sử dụng trong bảng biểu phải ngắn gọn, súc tích, rõ
ràng. Sau khi học sinh hoàn thành bảng kê theo mẫu, giáo viên đưa ra bảng
thông tin phản hồi để các em đối chiếu, so sánh với sản phẩm của mình.
Tên nước

Người thực
hiện
B. Đi-a-xơ

Thời gian
1487

Bồ Đào

Nha
Va-xcô đơ Ga- 1497
ma

Tây Ban
Nha

C.Cô-lôm-bô

1492

Ma-gien-lan

1519-1522

Con đường đi

Điểm đến

Đi vòng qua điểm Đến mũi Hảo
cực Nam châu Phi
vọng, xác định có
thể đến Ấn Độ
bằng đường biển
Đi vòng qua điểm cực 5/1498,
đoàn
Nam châu Phi đến Ấn thám hiểm đến bờ
Độ
Tây Nam Ấn Độ
Từ Tây Ban Nha Tìm ra châu Mĩ

vượt biển Đại Tây nhưng lại lầm
Dương đến quần tưởng là "Đông
đảo Haiti, sau đó trở Ấn Độ"
về TBN
Đi qua cực Nam của Tại Phi-líp-pin, Machâu Mĩ, tiến sang gien-lan bị thiệt
Thái Bình Dương, mạng. Đoàn thám
đến khu vực Đông hiểm đã trở về TBN,
Nam Á, Ấn Độ thực hiện chuyến đi
Dương, Đại Tây vòng quanh thế giới
Dương và trở về lần đầu tiên bằng
Tây Ban Nha.
đường biển.

Ví Dụ 2: Khi dạy bài 17 (SGK 10 CB). Quá trình hình thành và phát triển
của nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X - XV). Mục II. Phần 1. Tổ chức bộ mày
nhà nước.
Để so sánh điểm khác nhau cơ bản giữa bộ máy chính quyền nhà nước
phong kiến Đại Việt thời vua Lê Thánh Tông so với các triều đại phong kiến
trước đó, giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ về bộ máy nhà nước thời vua
Lê Thánh Tông để rèn luyện cho các em kĩ năng thực hành. Nếu dạy về tổ chức
bộ máy nhà nước phong kiến mà giáo viên không hướng dẫn học sinh tự tạo sơ
đồ kiến thức các em sẽ rất khó hình dung được bộ máy nhà nước quân chủ thời
kì nhà Lê sơ như thế nào mà lại khẳng định là đạt đến mức độ hoàn thiện. Để cụ
thể hóa kiến thức trong SGK, giáo viên hướng dẫn học sinh tạo sơ đồ như sau:
7


Bằng sơ đồ trên, học sinh sẽ thấy được tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê sơ
rất chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương nhằm gia tăng quyền lực của nhà vua.
Các chức quan trung gian như Tể tướng, Đại hành khiển bị bãi bỏ, thay vào đó là 6

bộ trực tiếp quản lí một lĩnh vực cụ thể. Chính vì thế, bộ máy nhà nước quân chủ
Việt Nam dưới thời Lê sơ được đánh giá là hoàn thiện nhất thời phong kiến. Thông
qua sơ đồ hóa kiến thức, học sinh hiểu rõ hơn nội dung bài học so với phương pháp
học bài bằng cách ghi nhớ máy móc theo dàn ý. Học bài theo sơ đồ sẽ giúp học
sinh phát triển tư duy nhận thức, khả năng quan sát, kĩ năng đối chiếu, so sánh bộ
máy nhà nước thời Lê sơ với bộ máy nhà nước các triều đại phong kiến trước đó để
rút ra kết luận, đánh giá khoa học về cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh
Tông là tương đối toàn diện. Sơ đồ kiến thức còn giúp học sinh tiếp thu bài học
nhanh hơn, phát huy tính tích cực trong giờ học, làm cho giờ học trở nên sôi nổi
hơn khi các em được tiếp thu bài học với một hình thức mới.
2.3.1.3. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng biết khai thác và sử dụng hiệu quả
kênh hình trong SGK.
Trong dạy học lịch sử, kênh hình SGK là chỗ dựa để học sinh hiểu rõ hơn các
sự kiện, hiện tượng, nội dung lịch sử. Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được gần
gũi với lịch sử, tránh tình trạng hiện đại hóa lịch sử theo trí tưởng tượng thiếu căn cứ
khoa học của các em. Kênh hình trong SGK còn giúp học sinh có khả năng nhớ kĩ,
khắc sâu hơn về các nhân vật, kiến thức, biểu tượng lịch sử. Thông qua hệ thống
kênh hình như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, biểu đồ... sẽ góp phần quan trọng giáo dục tư
tưởng, tình cảm cho học sinh; hình thành cho học sinh thế giới quan, nhân sinh quan
đúng đắn; tạo xúc cảm cho học sinh trong học tập bộ môn Lịch sử. Kênh hình SGK
còn góp phần quan trọng phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy ngôn
ngữ và rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh.
Ví dụ 1: Bài 4 - SGK 10 (Cơ bản). Các quốc gia cổ đại phương Tây Hi
Lạp và Rô-ma. Mục 3. Văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô-ma.
8


Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình ảnh Đền Pác-tê-nông và đặt ra câu
hỏi: Trình bày những hiểu biết của bản thân về công trình kiến trúc Đền Pác-tê-nông
(Hi Lạp)? Câu hỏi này giáo viên đã cho học sinh chuẩn bị trước ở nhà nên các em đã

tự sưu tầm được tư liệu giới thiệu về công trình kiến trúc này qua các cuốn sách Di
sản thế giới, kênh hình lịch sử 10, tìm kiếm trên mạng Internét.

Đền Pác-tê-nông là một trong số những đỉnh cao nhất của nền văn minh Hi Lạp
Sau khi học sinh giới thiệu những nét chính về công trình kiến trúc Đền
Pác-tê-nông, giáo viên sẽ nhận xét và chốt ý, bổ sung thêm kiến thức về công
trình kiến trúc tiêu biểu và độc đáo này: "Đền Pác-tê-nông (Hi Lạp) là một công
trình kiến trúc nghệ thuật xây dựng đền thờ thần đạt đến trình độ tuyệt mĩ. Tất
cả công trình này được xây dựng bằng đá qúi. Toàn bộ công trình toát lên một
vẻ đẹp thanh thoát, có sức thu hút, làm say mê lòng người, là một kiệt tác của
muôn đời, là kì tích về sức lao động và tài năng sáng tạo của con người"
Mục tiêu của việc khai thác bức hình này là giáo viên giúp học sinh nhận
thức được nghệ thuật xây dựng các công trình kiến trúc của Hi Lạp và Rô-ma
thời cổ đại đã đạt đến trình độ tuyệt mĩ của nhân loại. Thông qua đó giáo dục
cho học sinh thái độ biết trân trọng lao động, khả năng sáng tạo của con người,
có ý thức bảo vệ các giá trị văn hóa lịch sử nhân loại.
Ví dụ 2: Bài 31 - SGK 10 (Cơ bản). Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ
XVIII. Phần I. Mục 1. Tình hình kinh tế - xã hội.
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kênh hình 56, kết hợp kiến thức SGK
trình bày hiểu biết của mình về bức tranh biếm họa "Tình cảnh người nông dân
Pháp trước cách mạng".

Trang biếm họa tình cảnh người nông dân Pháp trước cách mạng
Sau khi học sinh trình bày, giáo viên nhận xét và chốt ý, làm rõ tác dụng
của bức tranh muốn phản ảnh những nét nổi bật về tình hình nước Pháp trước
cách mạng trên các khía cạnh kinh tế và xã hội.
9


Về kinh tế: Trước cách mạng, Pháp là một nước có nền kinh tế nông

nghiệp hết sức lạc hậu. Biểu hiện sự suy sụp của nền nông nghiệp là hình ảnh
người nông dân già với chiếc cuốc tượng trưng cho một nền nông nghiệp rất lạc
hậu, công cụ sản xuất thô sơ, năng suất lao động thấp. Trong bức tranh còn có
thỏ, chuột, chim bồ câu đang phá hoại mùa màng.
Về xã hội: Bức tranh có 3 nhân vật chính là Quý tộc, Tăng lữ, Nông dân.
Các nhân vật trong bức họa là sự tượng trưng cho các đẳng cấp khác nhau trong xã
hội nước Pháp lúc bấy giờ. Hai người ngồi trên lưng người nông dân đại diện cho
đẳng cấp 1, 2 gồm Tăng lữ và Quý tộc. Đây là tầng lớp đại diện cho uy quyền và
thế lực của chế độ phong kiến nước Pháp. Họ có những đặc quyền, đặc lợi về kinh
tế - chính trị, là tầng lớp giai cấp thống trị và bóc lột. Trong túi quần, túi áo của họ
thòi ra mớ giấy tờ đó là những văn tự, khế ước, nợ nần, tô thuế… Hình ảnh đối lập
là người nông dân nghèo khổ đại diện cho đẳng cấp 3, họ không có quyền lợi về
kinh tế và chính trị, bị bóc lột bởi thế lực phong kiến và Giáo hội. Với chính sách
thuế khóa nặng nề đã làm cho đời sống của họ vô cùng cực khổ.
Bức tranh biếm họa không chỉ thể hiện tình cảnh khốn cùng của người nông
dân Pháp trước cách mạng, mà nó còn thể hiện sự mâu thuẫn sâu sắc về chế độ 3
đẳng cấp vô lí, đầy bất công trong xã hội nước Pháp trước cách mạng. Chính sự
mâu thuẫn về mặt xã hội này là nguyên nhân cơ bản làm bùng nổ cuộc Cách mạng
tư sản Pháp cuối thế kỉ thứ XVIII. Nếu học sinh biết khai thác kênh hình trong
SKG để phục vụ bài học, các em sẽ có sự hiểu biết đa chiều hơn về lịch sử. Cách
nhìn nhận, đánh giá về lịch sử sẽ khách quan, khoa học và toàn diện hơn.
2.3.1.4. Rèn luyện cho học sinh kĩ năng biết khai thác và sử dụng tư liệu
tham khảo để phục vụ bài học.
SGK là phương tiện quan trọng nhất trong dạy - học lịch sử ở trường phổ
thông. Tuy nhiên, để mở rộng kiến thức giúp học sinh hiểu bài sâu sắc hơn, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh biết cách khai thác và sử dụng những nguồn tài
liệu tham khảo bổ sung kiến thức cho bài học. Vì tư liệu lịch sử có tác dụng cụ
thể hóa nội dung bài học, tạo biểu tượng chân thực về sự kiện, hiện tượng, nhân
vật lịch sử. Qua đó giúp học sinh có thể hình thành về khái niệm, rút ra bài học
lịch sử, góp phần nâng cao trình độ nhận thức cho học sinh, hình thành cho các

em ý thức tự học, tự đọc, tự tìm hiểu, làm quen với phương pháp nghiên cứu
khoa học. Tư liệu lịch sử có thể tìm thấy ở nhiều nguồn tài liệu khác nhau như:
tài liệu hành văn, tài liệu hiện vật, tài liệu trên mạng Internét...
Ví dụ 1: Khi học bài 11 - SGK 11 (Cơ bản): Tình hình các nước tư bản
giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới (1918 - 1939). Mục 1. Thiết lập trật tự thế
giới mới theo hệ thống Vécxai - Oasinhtơn.
Ở mục 1, kiến thức được trình bày trong SGK rất tóm lược về sự thiết lập
trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế giới thứ nhất theo hệ thống Vécxai Oasinhtơn thể hiện ở kênh chữ, còn sự thay đổi bản đồ chính trị ở châu Âu theo
hệ thống Vécxai - Oasinhtơn được thể hiện trên kênh hình (Hình 29).
Để thấy được sự thay đổi lớn về lãnh thổ của các nước đế quốc ở châu Âu
trước và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, học sinh phải tìm hiểu thêm tư liệu
lịch sử bổ sung cho bài học như: "Với Hòa ước Vécxai - Oasinhtơn đã cho thấy:
lãnh thổ của các nước châu Âu trước và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã có
sự thay đổi lớn. Lãnh thổ của nước Đức năm 1923 bị thu hẹp tới 1/8 diện tích,
10


đế quốc Áo - Hung trước kia không còn nữa, mà bị tách thành hai quốc gia nhỏ
là Áo và Hung với diện tích nhỏ hơn rất nhiều so với trước chiến tranh".
Để thấy được sự thay đổi về bản đồ chính trị ở châu Âu theo hệ thống
Vécxai - Oasinhtơn sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, học sinh phải tìm hiểu
thêm tư liệu sau: "Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã gây ra sự thay đổi
rất lớn trong bản đồ chính trị châu Âu. Cuộc chiến dẫn đến sự sụp đổ của 4 đế
quốc Nga (1917), Đức (1918), Áo - Hung (1918), Ốttôman (1923) với các triều
đình quân chủ hàng trăm năm bị sụp đổ. Trong đó 2 cường quốc Áo - Hung và
Ốttôman bị phân rã và mất hẳn vai trò cường quốc. Hai đế quốc Đức, Nga bị
cắt xén lãnh thổ và bị kiềm chế với tình cảm dân tộc nước lớn bị tổn thương sâu
sắc. Đây là đất đai rất tốt cho tư tưởng phục thù để dẫn đến một thế chiến mới.
Rất nhiều các nước nhỏ xuất hiện từ sự phân rã của các đế quốc và từ sự phân
chia mang tính chủ quan, quan liêu của các cường quốc thắng trận dẫn đến các

mâu thuẫn lộn xộn gây mất ổn định thế giới sau này - và cũng phát sinh nhà
nước theo chủ nghĩa Cộng sản tại Nga, chủ nghĩa quân phiệt tại Đức, Ý, Nhật".
Như vậy, thông qua nguồn tư liệu lịch sử tham khảo trên sẽ giúp học sinh
hiểu sâu sắc hơn những thay đổi to lớn về lãnh thổ, tình hình chính trị của các
nước đế quốc ở châu Âu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Rõ ràng, với trật tự
Vécxai - Oasinhtơn đã mang lại nhiều lợi lộc cho các nước đế quốc thắng trận,
xác lập sự nô dịch và áp đặt đối với các nước bại trận, gây nên mâu thuẫn sâu
sắc giữa các nước đế quốc bại trận với các nước đế quốc thắng trận. Thực chất
của hòa ước Vécxai - Oasinhtơn là sự ăn cướp trắng trợn của các nước đế quốc
thắng trận đối với các nước bại trận. Với nguồn tư liệu lịch sử trên, học sinh sẽ
có thêm những kiến thức về sự thay đổi lãnh thổ và tình hình chính trị ở châu Âu
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Ví dụ 2: Bài 20 - SGK 12 (Cơ bản). Cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp kết thúc (1953 - 1954). Phần II. Mục 2. Chiến dịch Điện Biên
Phủ. Để lí giải tại sao Pháp - Mĩ lại chọn Điện Biên Phủ để xây dựng nơi đây trở
thành tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương, ngoài kiến thức được
nêu trong SGK, học sinh phải tìm hiểu thêm tư liệu về địa lí, lịch sử nói lên vị trí
chiến lược quan trọng về quân sự của Điện Biên Phủ ở Việt Nam và Đông
Dương. Sau khi tự tìm hiểu các nguồn tư liệu, kết hợp với sự giúp đỡ của giáo
viên, học sinh được mở rộng thêm những hiểu biết của mình về cứ điểm Điện
Biên Phủ như sau:
Điện Biên Phủ nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Điện
Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn với chiều dài khoảng 20 km, chiều rộng 6
km do sông Nậm Rốn bồi đắp. Đây là đồng bằng giữa núi lớn nhất Tây Bắc Việt
Nam. Điện Biên Phủ cách biên giới Việt - Lào khoảng 35 km, cách Hà Nội
khoảng 474 km. Điện Biên Phủ có vị trí chiến lược quân sự quan trọng ở Đông
Dương và Đông Nam Á, nên Pháp phải cố nắm giữ. Phía Tây giáp Lào, có vị trí
then chốt ở Tây Bắc Việt Nam, cách xa hậu phương kháng chiến của ta, giao
thông đi lại khó khăn. Trước nguy cơ bị thất bại trong kế hoạch Nava, Pháp Mĩ đã tập trung mọi cố gắng xây dựng Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ
điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương. Pháp - Mĩ coi Điện Biên Phủ là “Pháo

đài bất khả xâm phạm”, là điểm “Quyết chiến chiến lược” giữa ta và Pháp.
Bằng những tư liệu tham khảo trên sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn nội
dung bài học. Các em thấy vị trí của Điện Biên Phủ có ý nghĩa và tầm quan
11


trọng như thế nào ở Đông Dương đối với ta và Pháp. Tại sao Pháp - Mĩ lại quyết
tâm xây dựng Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất
Đông Dương. Tại sao ta lại quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Khi kết
thúc bài học, học sinh sẽ thấy được ý nghĩa to lớn của chiến thắng Điện Biên
Phủ đối với lịch sử Việt Nam và mang giá trị tầm vóc thời đại sâu sắc.
2.3.2. Phương pháp hình thành khái niệm cho học sinh trong dạy học lịch
sử thông qua bài tập nhận thức.
Phương pháp dạy học mỗi môn học ở trường THPT đều có những đặc
trưng riêng. Đối với bộ môn Lịch sử, trong quá trình dạy học, giáo viên phải
giúp học sinh nắm vững các sự kiện, hiện tượng, nội dung lịch sử. Qua đó sẽ tạo
biểu tượng, hình thành cho học sinh khái niệm và rút ra bài học lịch sử. Trong
dạy học lịch sử, việc hình thành khái niệm đóng vai trò trung gian đối với quá
trình nhận thức của học sinh từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Nói
cách khác, hình thành khái niệm là một khâu quan trọng trong dạy học lịch sử.
Việc hình thành khái niệm phải được thực hiện trong quá trình dạy học. Tùy
thuộc vào đối tượng nhận thức khác nhau mà giáo viên chọn lựa nội dung kiến thức
và mức độ hình thành khái niệm khác nhau. Hình thành khái niệm trong dạy học
lịch sử không phải là quá trình truyền thụ kiến thức một chiều từ thầy đến trò, mà
phải phát huy được tính tích cực, chủ động trong quá trình nhận thức của học sinh
thông qua các bài tập nhận thức để hình thành khái niệm lịch sử.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 33 (SGK 10 CB). Hoàn thành cách mạng tư sản ở châu
Âu và Mĩ giữa thế kỉ XIX. Mục 1. Cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức. Giáo viên
phải hình thành cho học sinh khái niệm "thống nhất" nước Đức là một hình thức của
các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại. Để làm sáng rõ khái niệm này, giáo viên đặt

cho học sinh câu hỏi gợi mở. Tại sao cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức lại được
xem là một cuộc cách mạng tư sản. Học sinh có thể so sánh cuộc đấu tranh thống
nhất nước Đức với các cuộc cách mạng tư sản đã học trước đó.
Bằng những kiến thức đã học, học sinh có thể chỉ ra những điểm giống
nhau và khác nhau giữa cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức với các cuộc cách
mạng tư sản trước đó về hình thức, thành phần lãnh đạo, nhưng lại giống nhau
về mục tiêu, nhiệm vụ, động lực cách mạng, kết quả, ý nghĩa. Từ sự so sánh đó,
học sinh rút ra được bản chất của quá trình thống nhất nước Đức là một cuộc
cách mạng tư sản diễn ra dưới hình thức thống nhất đất nước.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 36 (SGK 10 CB). Sự hình thành và phát triển của
phong trào công nhân. Mục 3. Chủ nghĩa xã hội không tưởng. Giáo viên phải
giúp học sinh hình thành khái niệm chủ nghĩa xã hội không tưởng. Để hình
thành khái niệm chủ nghĩa xã hội không tưởng, trước hết học sinh phải hiểu
được nội dung tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Sau đó học sinh phải
rút ra nhận xét những mặt tích cực và hạn chế của chủ nghĩa xã hội không
tưởng. Giáo viên đặt ra cho học sinh câu hỏi: Em hiểu như thế nào về chủ nghĩa
xã hội không tưởng? Mặt tích cực và hạn chế của chủ nghĩa xã hội không tưởng?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và chốt ý.
Học thuyết chủ nghĩa xã hội không tưởng là học thuyết của các nhà
không tưởng Xanh Xi-mông, Sác-lơ Phu-ri-ê (Pháp) và Rô-be Ô-oen (Anh) sáng
lập vào đầu thế kỉ XIX. Chủ nghĩa xã hội không tưởng tố cáo mạnh mẽ việc bóc
lột của CNTB, nhưng không đề ra được con đường và phương pháp đấu tranh
cách mạng đúng đắn để giải phóng công nhân và nhân dân lao động. Các nhà
12


không tưởng chỉ rừng lại ở ước mơ xây dựng một xã hội công bằng, tốt đẹp hơn
theo con đường tuyên truyền, giáo dục và thuyết phục mà không tranh đấu. Vì
thế nên mong muốn của các nhà không tưởng sẽ không bao giờ thực hiện được
và CNXH mà các ông vạch ra chỉ là không tưởng mà thôi.

Ví dụ 3: Sau khi học xong về các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại thế
kỉ XVI - XIX, bằng kiến thức đã học, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày cách
hiểu của minh như thế nào về bản chất của các cuộc cách mạng tư sản thời cận
đại. Để làm rõ được khái niệm cách mạng tư sản, học sinh phải huy động kiến
thức tổng hợp đã học để so sánh những điểm giống nhau, khác nhau giữa các
cuộc cách mạng tư sản về nhiệm vụ cánh mạng, thành phần lãnh đạo, động lực,
kết quả, ý nghĩa, tính chất. Sau quá trình tư duy tích cực, học sinh sẽ nhớ lại kiến
thức cũ đã học để so sánh, đối chiếu rồi rút ra kết luận theo cách suy nghĩ của
từng cá nhân. Từ việc giải quyết bài tập nhận thức của học sinh, giáo viên giúp
học sinh làm rõ hơn nội hàm của khái niệm cách mạng tư sản thời cận đại là:
Cách mạng tư sản: là cuộc cách mạng do tầng lớp quý tộc mới, giai cấp
tư sản lãnh đạo, nhằm đánh đổ chế độ phong kiến lỗi thời, mở đường cho CNTB
phát triển, xác lập sự thống trị của giai cấp tư sản. Lực lượng chủ yếu đưa cách
mạng tư sản đến thắng lợi là nhân dân lao động, song thành quả cách mạng lại
rơi vào tay giai cấp tư sản. Có nhiều hình thức diễn ra cách mạng tư sản, nhưng
bản chất vẫn là một: phá vỡ các ngăn cản của chế độ phong kiến để cách mạng
tư sản thắng lợi và phát triển. Cách mạng tư sản trong một thời gian đã xây
dựng một chế độ xã hội tiến bộ hơn xã hội phong kiến bằng một hình thức bóc
lột khác - chế độ TBCN, nên nó có những hạn chế nhất định.
Định nghĩa khái niệm là hình thức khái quát kiến thức bài học một cách
cô đọng và súc tích, giúp học sinh hiểu được bản chất của một sự kiện, hiện
tượng hoặc nội dung lịch sử nổi bật nào đó. Thông qua việc hình thành khái
niệm trong hoạt động dạy học sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về bản chất của khái
niệm, biết phân biệt sự khác nhau giữa các khái niệm lịch sử. Tuy nhiên, trong
dạy học lịch sử, không phải bất kì khái niệm nào giáo viên cũng cần thiết phải
định nghĩa mà phải tùy thuộc vào từng khái niệm, yêu cầu nội dung, mức độ ảnh
hưởng của khái niệm đối với bài học để giáo viên định nghĩa cho học sinh.
2.3.3. Sử dụng phương pháp tổ chức dạy học nhóm để phát huy tính tích
cực, rèn luyện khả năng hợp tác trong học tập cho học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử hiện nay ở trường THPT, giáo

viên phải biết khai thác và sử dụng hiệu qủa hình thức tổ chức hoạt động dạy
học nhóm, dựa trên nguyên tắc dạy học sinh phương pháp "tự học". Trong thực
tiễn, việc tổ chức hoạt động dạy học nhóm không chỉ phát huy được tính chủ
động, tích cực cho học sinh trong học tập, mà còn tạo điều kiện để học sinh thể
hiện quan điểm, chính kiến của mình trước những vấn đề cần tranh luận. Thông
qua tranh luận, ý kiến của mỗi cá nhân học sinh sẽ được bộc lộ, khẳng định hay
bị bác bỏ. Trong việc tổ chức dạy học nhóm, giáo viên trở thành người thiết kế,
tổ chức, hướng dẫn học sinh các hoạt động học để mỗi cá nhân phát huy được
khả năng tự học, tự chiếm lĩnh tri thức bài học thông qua các câu hỏi mang tính
gợi mở của giáo viên để các nhóm hoạt động sao cho hiệu quả.
Để thực hiện phương pháp tổ chức dạy học nhóm đạt hiệu quả, giáo viên
cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Xác định được mục tiêu bài học, kiến thức, kĩ năng học sinh cần lĩnh hội
13


- Chuẩn bị phương tiện dạy học cho phù hợp với đặc trưng từng bài như: tranh
ảnh, hình vẽ, máy tính kết hợp máy chiếu, phiếu học tập, các loại giấy A0, A2, A3...
- Chia các nhóm học sinh trong lớp cho phù hợp, xác định học sinh nào
làm nhóm trưởng để điều hành hoạt động của nhóm, thư kí nhóm.
- Xác định rõ vấn đề thảo luận, đặc biệt là nội dung câu hỏi thảo luận.
- Giáo viên lắng nghe ý kiến phát biểu của học sinh.
- Khi học sinh thảo luận, giáo viên cần tạo ra không khí vui vẻ trong lớp
học để học sinh thi đua hợp tác với nhau, trình bày ý kiến trong quá trình tìm
kiếm vận dụng kiến thức.
Ví dụ 1: Khi dạy bài: Sơ kết lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế
kỉ XIX. Bài 27: Quá trình dựng và giữ nước (SGK 10 CB). Phần I. Các thời kì
xây dựng và phát triển đất nước. Giáo viên chia lớp học thành 4 nhóm để các em
thảo luận và trình bày nội dung vào giấy A0 theo mẫu giáo viên đã chuẩn bị.
Thời kì


Nội dung

Chính trị

Kinh tế

Văn hóa - Giáo dục

Xã hội

Nhóm 1: Thời kì dựng nước đầu tiên.
Nhóm 2: Giai đoạn đầu của thời kì phong kiến độc lập X - XV.
Nhóm 3: Thời kì đất nước bị chia cắt thế kỉ XVI - XVIII.
Nhóm 4: Đất nước nửa đầu thế kỉ XIX.
Sau khi các nhóm thảo luận, giáo viên nhận xét và đưa ra phản hồi bằng
bảng tổng hợp nội dung kiến thức đã chuẩn bị để học sinh các nhóm đối chiếu,
so sánh.
Nội dung
Văn hóa Chính trị
Kinh tế
Xã hội
Thời kỳ
giáo dục
Thời kỳ dựng
nước đầu tiên
(thế kỉ VII - II
TCN). Thời
Bắc thuộc (Từ
thế kỉ I - X)


- Thế kỉ VII - II
TCN, nhà nước Văn
Lang - Âu Lạc
thành lập. Đầu công
nguyên, các quốc
gia cổ như Champa,
Phù Nam ra đời. Bộ
máy nhà nước quân
chủ còn sơ khai.
- Thời Bắc thuộc,
nước ta rơi vào ách
thống trị của các
triều đại phương
Bắc.

- Nông nghiệp
trồng lúa nước.
- TCN như dệt,
gốm, làm đồ
trang sức.
- Đời sống vật
chất đạm bạc,
giản dị, thích
ứng với tự
nhiên.

- Tín ngưỡng:
Đa thần.
- Đời sống tinh

thần phong
phú, đa dạng,
chất phát,
nguyên sơ.

- Quan hệ vua
tôi gần gũi,
hòa dịu
- Thời Bắc
thuộc, mâu
thuẫn giữa
nhân dân ta
với chính
quyền đô hộ
phương Bắc
gay gắt, làm
bùng nổ các
cuộc đấu tranh
chống Bắc
thuộc
Giai đoạn đầu - Thế kỉ X, nhà
- Nhà nước quan - Nho giáo phát - Quan hệ xã
của nước Đại nước quân chủ
tâm đến sản xuất triển, Phật giáo hội chưa
Việt phong
phong kiến được
nông nghiệp.
thịnh hành.
phát triển
- TCN - TN phát Nho giáo ngày thành mâu

kiến độc lập
xác lập dưới các
thế kỉ X - XV triều đại Ngô, Đinh, triển.
càng được đề thuẫn đối
- Đời sống kinh cao.
Tiền Lê.
kháng.
- Thế kỉ X- XV, bộ tế của nhân dân - Giáo dục từ
máy nhà nước quân được ổn định.
năm 1070 được

14


Thời kì đất
nước bị chia
cắt thế kỉ
XVI - XVIII

chủ được từng bước
hoàn thiện từ Trung
ương đến địa
phương trải qua các
triều đại Lý, Trần,
Hồ, Lê sơ.
- Chiến tranh
phong kiến diễn ra
liên miên trong các
thế kỉ XVI, XVII.
Đất nước chia cắt

thành 2 Đàng:
Đàng Trong Đàng Ngoài với 2
chính quyền riêng.
 Nền quân chủ
không còn vững
mạnh như các thế
kỉ trước.

tôn vinh, ngày
càng phát triển.

- Thế kỷ XVII,
kinh tế phục
hồi.
+ NN: ổn định
và phát triển
nhất là ở Đàng
Trong.
+ Kinh tế hàng
hóa phát triển
mạnh, giao lưu
với nước ngoài
mở rộng, tạo
điều kiện cho
các đô thị hình
thành, phát triển
hưng thịnh.

- Nho giáo suy
thoái

- Phật giáo
được phục
hồi.
- Đạo Thiên
chúa giáo
được truyền
bá.
- Văn hóa tín
ngưỡng dân
gian nở rộ.
- Giáo dục tiếp
tục phát triển,
song chất
lượng suy giảm
ở cả hai Đàng.
Đất nước nửa - Năm 1802, nhà
- Chính sách đóng - Nho giáo
đầu thế kỉ XIX Nguyễn thiết lập đã cửa của nhà
được độc tôn.
- Văn hóa duy trì bộ máy nhà Nguyễn đã hạn
nước quân chủ
chế sự phát triển giáo dục có
phong kiến. Song, của nền kinh tế
những đóng
nền quân chủ phong đất nước.
góp đáng kể.
- Kinh tế Việt
kiến đã bước vào
thời kì khủng
Nam trở nên lạc

hoảng, suy vong.
hậu, kém phát
triển.

- Giữa thế
kỉ XVIII,
chế độ
phong kiến
ở hai Đàng
khủng
hoảng.
- Phong
trào nông
dân bùng
nổ, tiêu
biểu là
phong trào
nông dân
Tây Sơn.
- Mâu thuẫn
xã hội gay
gắt, phong
trào đấu
tranh của
nông dân
liên tục bùng
nổ.

Với hình thức tổ chức hoạt động nhóm đã phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh trong giờ học. Các em hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng

bài, rèn luyện cho học sinh kĩ năng thực hành, làm thay đổi cách học mới, lấy
học sinh làm trung tâm.
Ví dụ 2: Bài 12 phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến
năm 1925 (SGK 12 CB). Phần I. Mục 3. Những chuyển biến mới về kinh tế và
giai cấp xã hội ở Việt Nam
GV chia học sinh của lớp thành 4 nhóm, hoàn thiện nội dung phiếu học
tập theo mẫu:
Giai cấp,
tầng lớp

Thành phần
(Phân hóa)

Địa vị kinh tế

Thái độ chính trị và khả năng
cách mạng

Nhóm 1: Tìm hiểu về giai cấp địa chủ phong kiến
Nhóm 2: Tìm hiểu về giai cấp nông dân
Nhóm 3: Tìm hiểu về giai cấp tiểu tư sản
Nhóm 4: Tìm hiểu về giai cấp tư sản
15


Nhóm 5: Tìm hiểu về giai cấp công nhân
- Báo cáo sản phẩm: HS cử đại diện nhóm trả lời câu hỏi.
- GV nhận xét, bổ sung.
Bảng thông tin phản hồi của giáo viên sự chuyển biến về giai cấp ở Việt
Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Giai cấp,
tầng lớp

Thành phần
(Phân hóa)
Địa chủ lớn

Địa chủ
phong kiến Địa chủ vừa và nhỏ

Địa vị kinh tế
Giàu có, cấu kết
chặt chẽ với Pháp
Thế lực kinh tế vừa
và nhỏ
Nghèo khổ, bị bần
cùng hóa...

- Nông dân nghèo
(tá điền)
Nông dân - Một bộ phận mất
hết ruộng đất phải
rời làng ra đi...
Trí thức, học sinh,
Nghèo, đời sống bấp
sinh viên, dân nghèo bênh, bị chèn ép,
Tiểu tư sản
thành thị,...
khinh rẻ, dễ bị phá
sản, thất nghiệp...

Tư sản mại bản
Giàu có, có quyền
lợi kinh tế gắn chặt
với Pháp.
Tư sản
Tư sản dân tộc
Có khuynh hướng
kinh doanh độc lập,
thế lực nhỏ yếu.
Phần lớn xuất thân từ Nghèo khổ, bị bần
Công nhân nông dân
cùng hóa...

Thái độ chính trị và khả
năng cách mạng
Làm tay sai cho Pháp, đàn
áp, bóc lột nhân dân
Có tinh thần yêu nước,
chống Pháp khi có điều kiện
Là lực lượng hăng hái và
đông đảo nhất của cách
mạng.
Có tinh thần hăng hái cách
mạng, chống Pháp, đặc biệt
là bộ phận trí thức, học sinh,
sinh viên
Làm tay sai cho Pháp
Có tinh thần yêu nước, chống
đế quốc, chống phong kiến.
Tuy nhiên, thái độ không kiên

định, dễ thỏa hiệp.
Là lực lượng hăng hái và đông
đảo nhất của cách mạng.

Thông qua hình thức tổ chức hoạt động nhóm, mỗi thành viên trong nhóm
phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một vài thành viên tiêu biểu và năng
động. Các thành viên trong nhóm phải giúp đỡ nhau để tìm hiểu vấn đề. Để việc
tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đạt hiệu quả, giáo viên phải có khả năng
kích thích học sinh tích cực làm việc, khuyến khích các nhóm thi đua học tập.
Thông qua hình thức học tập theo nhóm, học sinh sẽ chủ động hơn trong việc
tiếp thu và lĩnh hội kiến thức. Các em sẽ hiểu biết về lịch sử một cách sâu sắc và
toàn diện hơn.
2.3.4. Sử dụng hiệu quả phương pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy học để
tạo tình huống có vấn đề cho học sinh.
Phương pháp dạy học nêu vấn đề là phương pháp dạy học mà giáo viên
luôn tạo ra những tình huống có vấn đề, yêu cầu học sinh phát hiện vấn đề, rồi
sau đó giúp học sinh giải quyết vấn đề. Trong dạy học nêu vấn đề, học sinh phải
hoạt động một cách tự giác, tích cực, độc lập để giải quyết vấn đề hoặc tình
huống giáo viên đưa ra. Thông qua hình thức hoạt động học này, học sinh sẽ lĩnh
hội được tri thức, kĩ năng và đạt được mục tiêu học tập. Thực hiện phương pháp
dạy học nêu vấn đề, yêu cầu giáo viên phải thực hiện các bước như sau:
- Đưa học sinh vào tình huống có vấn đề.
16


- Học sinh phân tích tình huống có vấn đề (xác định cái chưa biết, phải
huy động tri thức để tìm ra cái chưa biết).
- Học sinh đưa ra giải pháp thực hiện của mình.
- Giáo viên nhận xét và chốt ý vấn đề.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 6. Nước Mĩ (SGK 12 CB). Trước khi vào bài mới,

để kích thích tư duy học sinh, giáo viên đưa học sinh vào tính huống có vấn đề
(hoạt động khởi động) bằng cách đặt ra câu hỏi tình huống sau: Sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, căn cứ vào đâu để Mĩ đặt ra mục tiêu và tham vọng thực hiện
chiến lược toàn cầu với âm mưu làm bá chủ thế giới. Để hiểu rõ hơn về vấn đề
này, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về nước Mĩ (1945 - 2000). Như vậy, bằng câu
hỏi tính huống giáo viên đặt ra trước khi vào bài mới đã dẫn dắt học sinh vào
tính huống có vấn đề, nêu ra bài tập nhận thức sẽ kích thích tư duy nhận thức
của học sinh trong cả tiết học để tìm ra lời giải đáp.
Ví du 2: Bài 16 (SGK 12 CB). Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng
khởi nghĩa tháng Tám (1939 - 1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Phần III - Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Sau khi học xong mục 3.
Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945. Giáo viên đưa ra tình huống có vấn đề sau: Bàn
về thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, một số sử gia tư
sản cho rằng đó là một sự "ăn may" vì nó diễn ra trong điều kiện "trống vắng
quyền lực", còn các nhà sử học của chúng ta thì khẳng định: thành công của
Cách mạng tháng Tám không phải là sự "ăn may". Vậy các em đồng ý với ý kiến
nào? Tại sao?
Trước 2 nhận định trái chiều về thành công của cuộc Cách mạng tháng
Tám, giáo viên phải gợi ý, định hướng cho học sinh lựa chọn được nhận định
nào là đúng đắn và mang tính khoa học. Sau khi đã lựa chọn được nhận thức
đúng, học sinh phải biết dựa vào những kiến thức lịch sử đã học để chứng minh
cho nhận định mình lựa chọn là đúng.
Để chứng minh thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không phải là một sự
"ăn may", diễn ra trong điều kiện "trống vắng quyền lực". Giáo viên phải gợi ý
cho học sinh phải dựa trên những kiến thức cụ thể của cách mạng Việt Nam qua
những lần diễn tập 1930 - 1931, 1932 - 1935, 1936 - 1939, đặc biệt là giai đoạn
1939 - 1945 để thấy được vai trò của Đảng trong quá trình lãnh đạo và chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng lãnh đạo quần chúng. Đó là quá trình
chuẩn bị lực lượng cách mạng bao gồm: lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang,
xây dựng căn cứ địa cách mạng, vai trò của Hồ Chí Minh cùng với Trung ương

Đảng đã phát hiện ra yếu tố thời cơ "ngàn năm có một" phát động nhân dân cả
nước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám. Đồng
thời giáo viên phải đưa ra những câu hỏi gợi mở mang tính chất định hướng cho
học sinh tổng hợp kiến thức đã học để giải quyết vấn đề như: Đảng đã đề ra
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu vào thời điểm lịch sử nào? Qúa trình
chuẩn bị lực lượng cách mạng ra sao? Thế nào là thời cơ của một cuộc cách
mạng? Thời cơ của cuộc Cách mạng tháng Tám xuất hiện khi nào? Vai trò của
lãnh tụ Hồ Chí Minh với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám?
Thông qua những câu hỏi tình huống mang tính gợi mở trên sẽ giúp học sinh
khẳng định được thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám không phải là một sự
ngẫu nhiên "ăn may", mà là một quá trình chuẩn bị lâu dài về mọi mặt của Đảng và
nhân dân ta trong suốt 15 năm, trải qua 3 phong trào cách mạng với sự thất bại và
17


thành công, kết hợp với nghệ thuật lãnh đạo "chớp thời cơ" của Đảng là nhân tố
quan trọng quyết định đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám.
2.3.5. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử bằng phương pháp sử dụng sơ
đồ tư duy.
Để giờ học lịch sử đạt hiệu quả, gây hứng thú cho học sinh, giáo viên nên
sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học. Trước đây, với phương pháp dạy học truyền
thống, giáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình, nặng về truyền thụ
kiến thức một cách áp đặt nên đã hạn chế rất nhiều khả năng sáng tạo của học
sinh. Nếu giáo viên sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, học sinh sẽ dễ dàng tiếp
thu kiến thức hơn bởi não trái có khả năng tư duy về logic, não phải tưởng tượng
về hình ảnh. Học sinh sẽ học tập với sự tập trung cao độ hơn, giúp các em nhớ
nhanh và hiểu sâu kiến thức bài học.
2.3.5.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra bài cũ.
Kiểm tra bài cũ trước khi học bài mới là một khâu không thể thiếu trong
tiến trình thực hiện mỗi bài học trên lớp của giáo viên. Trước đây, với hình thức

kiểm tra bài cũ theo phương pháp truyền thống, giáo viên thường đặt câu hỏi
yêu cầu học sinh trả lời bằng cách tái hiện lại kiến thức được ghi chép theo dàn
ý giáo viên cung cấp. Với hình thức kiểm tra này, vô tình giáo viên đã biến học
sinh rơi vào tình trạng chỉ biết "học vẹt", đọc thuộc lòng kiến thức mà không
hiểu được bản chất bài học. Để đổi mới hình thức kiểm tra bài cũ, giáo viên nên
yêu cầu học sinh tái hiện lại nội dung kiến thức bài học theo sơ đồ tư duy. Thông
qua sơ đồ tư duy, giáo viên sẽ kiểm tra được phần nhớ và phần hiểu của học
sinh. Giáo viên có thể sử dụng sơ đồ tư duy dưới dạng sơ đồ kiến thức hoặc bản
đồ thiếu thông tin, sau đó yêu cầu học sinh điền nội dung còn thiếu vào đó, rồi
rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin để tìm ra từ khóa.
Ví dụ: Trước khi dạy bài 5 (SGK 12 CB): Các nước châu Phi và Mĩ La
tinh, giáo viên sẽ kiểm tra kiến thức bài cũ của học sinh bằng việc yêu cầu học
sinh lên bảng điền thông tin còn thiếu để hoàn thiện sơ đồ tư duy về sự ra đời và
quá trình phát triển của tổ chức ASEAN.

2.3.5.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy bài ôn tập, tổng kết.
Sau mỗi chương, mỗi phần, giáo viên cần phải tổng kết, ôn tập để hệ
thống hóa kiến thức cho học sinh trước khi các em làm bài kiểm tra 1 tiết, kiểm
tra học kì, thi cuối năm... Với thế mạnh của sơ đồ tư duy là kiến thức được hệ
thống hóa dưới dạng sơ đồ. Bằng các đường nối mũi tên trên sơ đồ, bản đồ là
18


học sinh có thể diễn tả mạch lạc, logic kiến thức bài học sơ kết, tổng kết; sác
định được các mối liên hệ nhân qủa hoặc quan hệ tương đương giữa các sự kiện,
hiện tượng, nội dung lịch sử với nhau. Sơ đồ tư duy giúp học sinh nhìn thấy
"bức tranh tổng thể" toàn bộ phần kiến thức đã học. Có nhiều cách xây dựng sơ
đồ tư duy trong tiết ôn tập, tổng kết. Thông thường giáo viên sử dụng một trong
2 cách tạo sơ đồ tư duy sau:
Một là, giáo viên cho câu hỏi và bài tập về nhà để học sinh chuẩn bị trước

khi học bài mới. Trong bài học, tùy thuộc vào nội dung của từng mục hoặc toàn
bài để giáo viên hướng dẫn học sinh cách tự lập một sơ đồ tư duy. Sau đó, học
sinh trao đổi kết quả với nhau và cùng đối chiếu với sơ đồ tư duy do giáo viên
lập ra. Từng học sinh có thể bổ sung hoặc sửa lại sơ đồ tư duy của mình. Sơ đồ
tư duy do học sinh tự tạo sẽ là một tài liệu hiệu quả, giúp học sinh cũng cố lại
kiến thức của một chương, một phần đã được học.
Hai là, giáo viên có thể lập một sơ đồ tư duy theo hướng mở. Trong giờ
ôn tập, giáo viên vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu,
hoặc thừa thông tin theo yêu cầu nội dung của bài học. Giáo viên yêu cầu học
sinh tự bổ sung kiến thức, thêm hoặc bớt thông tin. Cuối cùng toàn lớp lập được
một sơ đồ tư duy ôn tập để củng cố kiến thức bài học một cách tương đối hoàn
chỉnh, hợp lý. Cách học này sẽ lôi cuốn được học sinh tham gia trong quá trình
học tập. Học sinh sẽ suy nghĩ, được trao đổi nhiều hơn, tranh luận nhiều hơn.
Với phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bài tổng kết, sơ kết sẽ làm
cho học sinh hứng thu hơn, tích cực và chủ động hơn trong giờ học.
Ví dụ: Khi ôn tập Bài 11 - SGK lớp 12: “Tổng kết lịch sử thế giới hiện
đại từ năm 1945 đến năm 2000”. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ tư
duy để hệ thống hóa kiến thức của phần lịch sử thế giới hiện đại theo nội dung
từng mục hoặc cả bài.
Mục I. Những nội dung chủ yếu của lịch sử thế giới hiện đại sau năm 1945.

Sử dụng sơ đồ tư duy cho toàn bài như sau:

19


Bằng hai sơ đồ kiến thức trên, học sinh sẽ nắm được kiến thức cơ bản,
trọng tâm của từng mục hoặc cả bài vừa cụ thể, chi tiết lại có khả năng khái quát
cao. Khi học sinh có khả năng học bài theo sơ đồ tư duy, các em sẽ tự tin hơn
trong việc lĩnh hội kiến thức. Hầu hết các em đều hứng thú với hình thức học

này trong mỗi giờ lịch sử, đặc biệt trong bài sơ kết, tổng kết.
2.3.5.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học.
Trước đây, sử dụng phương pháp dạy học truyền thống, ở phần củng cố
bài học, giáo viên thường sử dụng phương pháp thuyết trình để tổng kết, làm rõ
kiến thức trọng tâm, khái quát, xâu chuỗi nội dung bài học. Với hình thức củng
cố bài học như vậy, giáo viên sẽ không biết được khả năng tiếp thu bài học của
học sinh đạt được đến đâu. Chính vì thế, trong đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay, phần củng cố bài học, giáo viên nên yêu cầu học sinh tự củng cố theo
sơ đồ tư duy. Củng cố bài học theo sơ đồ tư duy, học sinh sẽ thể hiện được kiến
thức mình đã tiếp thu được sau mỗi bài học. Sau khi học sinh trình bày sơ đồ tư
duy theo cách hiểu của mình, giáo viên sẽ biết được khả năng tiếp thu bài học
của học sinh như thế nào để tự điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với
những đối tượng học sinh khác nhau.
Ví dụ: Bài 18 (LS12 CB): Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950). Sau khi dạy xong mục IV. Hoàn cảnh
lịch sử mới và chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950. Ở phần củng cố bài học,
giáo viên yêu cầu học sinh tự thiết kế một sơ đồ tư duy theo ý muốn sáng tạo
của mình. Học sinh có thể vẽ sơ đồ thiếu nội dung kiến thức hoặc đầy đủ lượng
kiến thức của bài học theo cách hiểu của từng em. Sau đó giáo viên cho học sinh
hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm để nhận xét về các sơ đồ tư duy mà học sinh
đã tạo ra. Giáo viên sẽ nhận xét về sản phẩm trình bày của các em ở mặt được,
chưa được rồi đưa ra một sơ đồ tư duy hoàn chỉnh để học sinh đối chiếu, so sánh
xem mình còn thiếu sót ở điểm nào để khắc phục.

20


Sơ đồ tư duy do giáo viên chuẩn bị
Thông qua hình thức củng cố bài học theo sơ đồ tư duy, học sinh sẽ khắc
sâu, nắm vững kiến thức bài học hơn so với phương pháp củng cố bài học truyền

thống do giáo viên thực hiện. Củng cố bài học bằng sơ đồ tư duy do học sinh tự
tạo sẽ phát huy được tư duy sáng tạo của học sinh trong học tập, các em sẽ yêu
thích môn Lịch sử hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sử dụng phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh đối với môn Lịch sử ở trường THPT sẽ rèn luyện cho học sinh khả năng tự
học, biết khai thác SGK, kênh hình, tư liệu lịch sử để phục vụ bài học hiệu quả.
Tăng cường khả năng thực hành trong dạy học, giúp học sinh biết suy luận để
tìm và phát hiện kiến thức mới. Rèn luyện cho học sinh cách tư duy phân tích
độc lập, biết khái quát, tổng hợp kiến thức để hình thành khái niệm, rút ra bản
chất của các hiện tượng, nội dung lịch sử. Với phương pháp học tập mới này,
học sinh được chủ động, tích cực tham gia quá trình học tập. Tạo cơ hội cho các
em được chia sẻ kiến thức, phương pháp, kinh nghiệm học tập. Học sinh được
giao lưu, học hỏi, cùng nhau hợp tác trong học tập.
Đổi mới phương pháp dạy - học lịch sử ở trường THPT theo định hướng
phát triển năng lực học sinh là một đề tài SKKN có tính thực tiễn cao, được áp
dụng hiệu quả trong quá trình dạy học ở trường THPT Như Thanh những năm qua.
Tôi thiết nghĩ, đề tài SKKN này không chỉ được áp dụng hiệu quả trong quá trình
dạy học ở trường THPT Như Thanh, mà còn có khả năng ứng dụng và triển khai
rộng rãi cho mọi đối tượng học sinh ở các trường THPT trên địa bàn toàn tỉnh.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Đổi mới phương pháp dạy - học Lịch sử ở trường THPT Như Thanh theo
định hướng phát triển năng lực học sinh được thực hiện trong những năm qua đã
giúp cho học sinh phát triển năng lực tự học; năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề;
năng lực sáng tạo; năng lực giao tiếp và hợp tác... Trong số các năng lực đó, phát
triển năng lực sáng tạo, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề của học sinh là mục
tiêu quan trọng thúc đẩy sự hình thành và phát triển các năng lực khác. Để đạt được
21



mục tiêu đó, giáo viên phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính
tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh trong học tập, bồi dưỡng cho học sinh
phương pháp tự học, hình thành cho học sinh khả năng và ý thức học tập suốt đời.
Tôi hi vọng với SKKN này sẽ góp phần tích cực hơn nữa trong việc đổi mới
phương pháp dạy - học môn Lịch sử ở trường THPT. Với bản thân, tôi sẽ tiếp
tục phát huy những kết quả đạt được trong việc thực hiện SKKN, đúc rút kinh
nghiệm, khắc phục khó khăn để đề tài được triển khai rộng rãi cho các đối tượng
học sinh trong Nhà trường một cách hiệu quả và có chất lượng.
3.2. Kiến nghị đề xuất.
3.2.1. Đối với sở GD&ĐT Thanh Hóa.
- Cần quan tâm nhiều hơn đến bộ môn Lịch sử, hằng năm Sở GD&ĐT nên tổ
chức hội thảo chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh cho giáo viên toàn tỉnh học tập, trao đổi, rút kinh nghiệm.
- Sở DG&ĐT nên tổ chức cuộc thi làm đồ dùng dạy học để phát huy khả
năng sáng tạo của học sinh và giáo viên trong việc làm đồ dùng trực quan để có
phương tiện phục vụ cho việc dạy học ở các trường phổ thông.
- Tổ chức có hiệu quả hội thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh để giáo viên tham
gia. Đây sẽ là đợt sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học cho
giáo viên trong toàn tỉnh, thúc đẩy phong trào thi đua "dạy tốt - học tốt" tại các
nhà trường. Thông qua hội thi giáo viên giỏi sẽ giúp cho giáo viên tích cực đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hiện nay.
3.2.2. Đối với Nhà trường.
- Tạo điều kiện thuận lợi về kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị để giáo
viên thực hiện các tiết dạy học đổi mới theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
- Hỗ trợ kinh phí để tổ chuyên môn Lịch sử thực hiện các buổi hoạt động
ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm lịch sử.
- Duy trì việc sinh hoạt tổ chuyên môn đều đặn để giáo viên trao đổi về
kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh trong học tập.

3.2.3. Đối với giáo viên.
- Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm. Không ngừng đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính
tích cực của học sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử.
- Biết khắc phục những khó khăn, hạn chế của bản thân, học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp, từng bước cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với
những đối tượng học sinh khác nhau.
- Phải thực sự tâm huyết, tận tình với công việc, yêu nghề, có tinh thần
trách nhiệm cao trước học sinh và tập thể sư phạm nhà trường.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯƠNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Xuân Tịnh
22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đổi mới phương pháp dạy học và sáng tạo với sơ đồ tư duy - Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam
2. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS - Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam
3. Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ
thông - Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
4. Môt số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử - Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội
5. Phương pháp dạy học Lịch sử tập I, II - Nhà xuất bản Đại học Sư phạm

6. Dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử THPT - Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm
7. Dạy học theo định hướng hình thành và phát triển năng lực người học ở
trường phổ thông - Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
8. Phương pháp dạy học lịch sử, NXBGD - 1998
9. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn Lịch sử ở trường THPT và
THCS XB - 1999.
10. Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở phổ thông NXB Đại học Sư phạm - Nguyễn Thị Côi.
11. Tìm hiểu SGK, sách bồi dưỡng giáo viên, chuẩn kiến thức và kĩ năng, các tài
liệu tham khảo về lịch sử lớp 12 THPT.

23


×