Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

LV các giải pháp hoàn thiện công tác lập BCTC ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.55 KB, 70 trang )

-1-

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Để đạt mục tiêu phát triển KT-XH năm 2006-2010, đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế trên 8% sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát
triển, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội phải đạt khoảng 2.200 nghìn tỉ đồng.
Trong đó, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân lên tới 911 nghìn tỉ đồng, chiếm
41,4% của toàn xã hội. Để thực hiện được vấn đề trên, nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của khối doanh nghiệp. Kết
quả đạt được là trong những năm qua, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
cũng tăng lên đáng kể. Các doanh nghiệp này cũng ngày càng hoạt động hiệu
quả hơn, đóng góp vào ngân sách nhà nước cũng nhiều hơn càng chứng tỏ
tầm quan trọng của loại hình doanh nghiệp này đối với sự phát triển kinh tế
của đất nước.
Trong xu thế hiện nay, các doanh nghiệp lớn đang phải cố gắng tổ chức,
hoàn thiện bộ máy kế toán, hoàn chỉnh công tác lập báo cáo tài chính để đảm
bảo tính minh bạch nhằm cung cấp thông tin cho các nhóm lợi ích có liên
quan. Tình trạng ở doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hoàn toàn khác. Ở loại
hình doanh nghiệp này, do đặc thù tài sản của doanh nghiệp thuộc sở hữu của
một hoặc một nhóm nhỏ cá nhân; phạm vi hoạt động của loại hình doanh
nghiệp này còn nhỏ hẹp; tổ chức bộ máy kế toán đơn giản, nên công tác kế
toán và nhất là công tác lập BCTC chưa được chú trọng đầu tư nhiều như ở
các doanh nghiệp lớn.
Mục tiêu khi lập BCTC của các DNVVN là gì? Nhân tố nào ảnh hưởng
đến công tác lập báo cáo tài chính của DNVVN? Trả lời các câu hỏi trên thật
sự là cần thiết vì sẽ góp phần cải thiện công tác lập BCTC và nâng cao chất
lượng thông tin cung cấp trong BCTC của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xuất
phát từ những lập luận như vậy, luận văn nghiên cứu công tác lập báo cáo tài



-2-

chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Quận Cẩm lệ Thành phố Đà
Nẵng.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Luận văn nghiên cứu thực trạng tổ chức công tác kế toán của doanh
nghiệp vừa và nhỏ, những mục tiêu mà DNVVN hướng đến khi lập BCTC và
các nhân tố ảnh hưởng đến việc lập BCTC của DNVVN. Qua đó, luận văn đề
xuất các giải pháp hoàn thiện công tác lập BCTC ở các doanh nghiệp vừa và
nhỏ nhằm nâng cao chất lượng thông tin cung cấp trên BCTC.
3. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Dựa vào một số nghiên cứu có liên quan ở trên thế giới, luận văn tiến
hành đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến việc lập báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Quận Cẩm Lệ. Dựa vào cách tiếp cận
thực tế, Luận văn tiến hành đánh giá thực tế thông qua phân tích báo cáo tài
chính thu thập, số liệu điều tra, phỏng vấn bằng bản câu hỏi. Số liệu thu thập
được xử lý, tính toán các tham số thống kê nhằm phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến công tác lập báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
4. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Không kể lời mở đầu và kết luận, luận văn được tổ chức thành ba
chương. Chương I trình bày cơ sở lý luận giới thiệu tổng quan về công tác lập
báo cáo tài chính ở các DNVVN. Chương II trình bày nghiên cứu thực trạng
lập BCTC ở các DNVVN trên địa bàn Quận Cẩm Lệ Thành phố Đà Nẵng.
Cuối cùng, chương III sẽ đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác lập BCTC
ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ.


-3-

CHƯƠNG 1


TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC LẬP BÁO CÁO
TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.1. Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo luật Doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh.
Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng và
phong phú. Tùy theo từng cách tiếp cận khác nhau mà người ta có thể chia
doanh nghiệp thành các loại khác nhau trong đó dựa theo quy mô có thể chia
doanh nghiệp thành doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN).
DNVVN có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó là doanh
nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu
chí của nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có
số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ
10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Việc quy định thế nào là doanh nghiệp lớn, DNVVN tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế xã hội cụ thể của từng quốc gia và nó cũng thay đổi theo từng
thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó mỗi nước lại chọn cho
mình những tiêu chí khác nhau để phân chia doanh nghiệp thành doanh
nghiệp lớn và DNVVN cho phù hợp với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
của đất nước trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của nền kinh tế.
Ví dụ về tiêu chuẩn cụ thể của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại một số nước
ở Châu Á (Nguồn: APEC website />

-4-


Bảng 1.1. Bảng phân loại DNVVN tại một số nước Châu Á
Quốc gia
Hồng Kông

Số lao động

Vốn kinh doanh

Dưới 100 đối với ngành công nghiệp,
dưới 50 đối với ngành dịch vụ

Indonesia

Dưới 100

Dưới 0.6 tỉ Rupi

Singapore

Dưới 100

Dưới 499 triệu SGD

Myanmar

Dưới 100

Philipin

Dưới 200


Dưới 100 triệu pêso

Thái Lan

Dưới 100

Dưới 20 triệu pat

Dưới 50 đối với bán lẻ

Dưới 10 triệu yên

Dưới 300 đối với bán buôn và

Dưới 30 triệu yên

ngành khác

Dưới 100 triệu yên

Nhật

Số liệu bảng trên cho thấy, đa số các nước đều chọn hai tiêu thức chủ
yếu là số lượng lao động và lượng vốn sản xuất kinh doanh như là hai thước
đo chính để phân biệt quy mô DNVVN. Độ lớn trong từng tiêu thức của mỗi
quốc gia cũng không giống nhau, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và đặc điểm
riêng có của từng nước.
Ở Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày
30/6/2009 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nghị Định này đã

nêu: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh
theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy
mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định


-5-

trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân
năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên).
Bảng 1.2. Bảng phân loại DNVVN ở Việt Nam
Quy mô

Doanh
nghiệp siêu

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa

nhỏ
Số

Tổng

Số

Tổng

Số


Khu vực
I. Nông,

lao động
10 người

nguồn vốn
20 tỷ đồng

lao động
Từ trên 10

nguồn vốn
Từ trên 20

lao động
Từ trên

lâm nghiệp

trở xuống

trở xuống

người đến

tỷ đồng

200 người


200 người

đến 100 tỷ

đến 300
người
Từ trên

và thuỷ sản
II. Công

10 người

20 tỷ đồng

Từ trên 10

đồng
Từ trên 20

nghiệp và

trở xuống

trở xuống

người đến

tỷ đồng


200 người

200 người

đến 100 tỷ

đến 300
người
Từ trên 50

xây dựng
III. Thương

10 người

10 tỷ đồng

Từ trên 10

đồng
Từ trên 10

mại và

trở xuống

trở xuống

người đến


tỷ đồng

người đến

50 người

đến 50 tỷ

100 người

dịch vụ

đồng
1.1.2. Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam
DNVVN là một loại hình doanh nghiệp không những thích hợp đối với
nền kinh tế của những nước công nghiệp phát triển mà còn đặc biệt thích hợp
với nền kinh tế của những nước đang phát triển. Ở nước ta trước đây, việc
phát triển các DNVVN cũng đã được quan tâm, song chỉ từ khi có đường lối
đổi mới kinh tế thì các doanh nghiệp này mới thực sự phát triển nhanh cả về
số và chất lượng.


-6-

Việc tăng mạnh về số lượng doanh nghiệp cũng kéo theo sự nảy sinh của
hàng loạt các vấn đề khác như nhân công, nguyên vật liệu, thị trường... và đặc
biệt là nhu cầu về vốn kinh doanh mà trong đó tín dụng ngân hàng là một
kênh rất quan trọng có ảnh hưởng tiên quyết tới sự tồn tại và phát triển của
các doanh nghiệp. Có thể thấy những đặc điểm của các DNVVN ở nước ta
như sau:

- Với quy mô nhỏ giúp cho DNVVN có tính năng động cao, có khả
năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh trước
những thay đổi của thị trường. Sản phẩm của các DNNVV đa dạng phong phú
nhưng số lượng không lớn nên chỉ cần không thích ứng được với nhu cầu của
thị trường thì nó sẽ dễ dàng hơn các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn trong
việc chuyển hướng sang loại hình khác cho phù hợp với thị trường.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế. Hiện nay phần lớn
công nghệ do các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang sử dụng đã lạc hậu hàng
chục năm, có khi vài chục năm. Do quy mô vốn nhỏ nên các DNVVN không
có điều kiện đầu tư quá nhiều vào nâng cấp, đổi mới máy móc, mua sắm thiết
bị công nghệ tiên tiến, hiện đại. Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra
không thể đáp ứng được mẫu mã, chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng cạnh tranh, đến việc nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
DNVVN cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, thâm nhập thị trường
và phân phối sản phẩm do thiếu thông tin về thị trường, công tác marketing
còn kém hiệu quả. Điều đó làm cho các mặt hàng của DNVVN khó tiêu thụ
trên thị trường.
- Tổ chức quản lý còn nhiều yếu kém: Đây là loại hình kinh tế còn non
trẻ nên trình độ, kỹ năng của nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng như của người
lao động còn hạn chế. Số lượng DNVVN có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi,
trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn


-7-

chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài
bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng
quản trị kinh doanh.
Tháng 3/2008, một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của

63.000 doanh nghiệp trên cả nước cho thấy 43% chủ doanh nghiệp có trình độ
trung học trở xuống, 63% doanh nghiệp không tuyển dụng được người tài,
55% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc giữ chân người giỏi. Tình trạng
nêu trên là do nguồn vốn hạn hẹp, DNVVN ít có khả năng thu hút được
những nhà quản lý và lao động có trình độ, tay nghề cao do khó có thể trả
lương cao và có các chính sách đãi ngộ hấp dẫn để thu hút và giữ chân những
nhà quản lý cũng như những người lao động giỏi. Do vậy, lực lượng lao động
chủ yếu vẫn là lao động phổ thông, ít được đào tạo tay nghề và thiếu kỹ năng.
Đồng thời, các chủ doanh nghiệp cũng ít quan tâm đào tạo nghề và đào tạo lại
nhằm nâng cao tay nghề, trình độ cho lao động trong khi chất lượng nguồn
lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Việt
Nam
Ngân hàng Thế giới (WB) đã gọi DNVVN là “xương sống” của nền kinh
tế. Đối với nước ta, khu vực DNVVN là một trong những nòng cốt xây dựng
và phát triển đất nước với những vai trò sau:
 Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động: các doanh nghiệp nhỏ
và vừa thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh
nghiệp. Với số lượng lớn doanh nghiệp nên đóng góp của họ vào tổng sản
lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.


-8-

Theo ông Nguyễn Trọng Hiệu, Phó Cục trưởng Cục phát triển doanh
nghiệp - Bộ kế hoạch và đầu tư cho biết, tính đến hết năm 2010, cả nước có
khoảng 500.000 DNNVV chiếm 97% trong tổng số các doanh nghiệp trên
toàn quốc, tạo thêm khoảng 2,7 triệu chỗ làm mới trong giai đoạn 2006 2010, có thêm 165.000 lao động được đào tạo kỹ thuật làm việc tại các
DNVVN.



Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô

nhỏ, nên dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.


Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh

nghiệp nhỏ và vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được
dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh.


Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường

đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và
vừa lại có mặt ở khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào
thu ngân sách, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Xác định tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển
kinh tế đất nước theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính
phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất
hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình kinh tế
này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được
cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng
phân biệt, đối xử so với các DNNN giảm nhiều. Đặc biệt, ở một số yếu tố
quan trọng, có tính chất sống còn với sự tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ như việc tiếp cận với các nguồn vốn, công nghệ, đất đai,
lao động, thông tin thị trường đã được mở thông thoáng hơn rất nhiều so với
những năm trước đây.



-9-

1.2. CÔNG TÁC LẬP BCTC TẠI CÁC DNVVN
1.2.1. Chế độ kế toán áp dụng cho các DNVVN
Ngày 14/9/2006, Bộ Tài chính ban hành Quyết định 48/2006/QĐ-BTC
về Chế độ kế toán Doanh nghiệp nhỏ và vừa. “Chế độ Kế toán Doanh nghiệp
nhỏ và vừa” áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa thuộc
mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế trong cả nước. Việc ban hành chế độ kế
toán theo QĐ48 là rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu công tác kế toán và
quản lý của loại hình doanh nghiệp này. Tuy nhiên, theo quy định thì DNVVN
có thể lựa chọn, đăng ký áp dụng chế độ kế toán theo QĐ15 tùy theo đặc điểm
và tình hình hoạt động của doanh nghiệp (thường là những doanh nghiệp có
quy mô lớn hơn, hoạt động sản xuất kinh doanh “phong phú” và ổn định).
Trong trường hợp này, doanh nghiệp phải thông báo cho cơ quan Thuế quản
lý doanh nghiệp và phải thực hiện ổn định ít nhất trong thời gian là 2 năm tài
chính.
Như vậy, DNVVN có thể lựa chọn áp dụng chế độ kế toán theo QĐ15
hoặc QĐ48. Bảng 1.3 trình bày tóm lược sự khác biệt cơ bản về kế toán giữa
QĐ15 và QĐ48.
Bảng 1.3. Bảng so sánh QĐ 15 và QĐ 48
Nội dung
qui định
Về áp dụng
Hệ thống

QĐ 15/2006/QĐ-BTC

QĐ 48/2006/QĐ-BTC


Áp dụng đầy đủ tất cả các - Chỉ áp dụng đầy đủ 7 Chuẩn
Chuẩn mực kế toán

mực kế toán cơ bản, áp dụng

Chuẩn mực

không đầy đủ 12 Chuẩn mực kế

kế toán

toán và không áp dụng 7 Chuẩn

Việt Nam

mực kế toán do không phát sinh
nghiệp vụ kinh tế hoặc quá phức

Về đối

tạp đối với DNVVN1.
Áp dụng cho tất cả các Áp dụng cho tất cả các doanh


- 10 -

tượng

doanh nghiệp thuộc mọi nghiệp có qui mô nhỏ và vừa


áp dụng

lĩnh vực, mọi thành phần thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành

Về Hệ

kinh tế.
Có 86 tài khoản cấp I, 120

phần kinh tế trong cả nước.
Có 51 tài khoản cấp I, 62 tài

thống

tài khoản cấp II, 02 tài

khoản cấp II, 05 tài khoản cấp

Tài khoản

khoản cấp III, 06 tài khoản

III, 05 tài khoản ngoài bảng.

kế toán

ngoài bảng.
- Thời hạn lập: BCTC năm


- Thời hạn lập: Báo cáo tài chính

và BCTC giữa niên độ.

năm.

- Loại BCTC bắt buộc:

- Loại BCTC bắt buộc:

+ Bảng CĐKT

+ BCĐKT

+ Báo cáo KQHĐKD

+ BCKQHĐKD

Báo cáo

+ BCLCTT

+ Bản thuyết minh BCTC

tài chính

+ Bản thuyết minh BCTC

+ Phụ biểu – Bảng cân đối tài
khoản (gửi cho cơ quan thuế)

- Báo cáo tài chính khuyến khích

Các chỉ

Nhiều chỉ tiêu. Cụ thể:

lập: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Ít chỉ tiêu. Cụ thể:

tiêu trên

- BCĐKT: 97 chỉ tiêu

- BCĐKT: 64 chỉ tiêu

Báo cáo tài

- BCKQ HĐKD: 19 chỉ tiêu - BCKQ HĐKD: 16 chỉ tiêu

chính năm

- Báo cáo lưu chuyển tiền

- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: 27

tệ: 27 chỉ tiêu

chỉ tiêu

- Bản thuyết minh BCTC:


- Bản thuyết minh BCTC: ít chỉ

nhiều chỉ tiêu
tiêu hơn
Tóm lại, Chế độ kế toán cho DNVVN được xây dựng dựa trên nền tảng
của hệ thống chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán cho doanh nghiệp lớn
(QĐ15). Điểm mấu chốt tạo nên sự khác biệt giữa hai chế độ kế toán là việc
loại trừ một số nội dung thường ít hay không liên quan đến các DNVVN như
1

Những chuẩn mực áp dụng đầy đủ: CM số 01, CM số 05, CM số 14, CM số 16, CM số 18, CM
số 23, CM số 26. Những Chuẩn mực áp dụng không đầy đủ: CM số 02, CM số 03, CM số 04, CM
số 06, CM số 07, CM số 08, CM số 10, CM số 15, CM số 17, CM số 21 CM số 24, CM số 29.


- 11 -

các hoạt động ở nước ngoài, các hoạt động đầu tư tài chính, hợp nhất kinh
doanh.... Bên cạnh đó, do hệ thống tài khoản kế toán trong DNVVN được xây
dựng bằng cách gộp nhiều tài khoản tổng hợp lại dẫn đến số lượng tài khoản
tổng hợp sử dụng giảm đi nhưng lại làm tăng số lượng tài khoản chi tiết.
Chẳng hạn, theo QĐ48, tài khoản 154 “chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang”
được dùng để tập hợp chi phí sản xuất, kinh doanh (chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí
sản xuất chung) đồng thời dùng tổng hợp chi phí sản xuất, kinh doanh phục
vụ cho việc tính giá thành sản phẩm. Nhưng theo QĐ15, tài khoản này chỉ
dùng để tổng hợp chi phí sản xuất, kinh doanh phục vụ cho việc tính giá thành
sản phẩm. Việc tập hợp chi phí phát sinh được thông qua các tài khoản trung
gian (tài khoản 621, tài khoản 622,...).

1.2.2. Yêu cầu về nguyên tắc lập và trình bày BCTC
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các yêu cầu:
- Trung thực và hợp lý;
- Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với qui định của
từng chuẩn mực kế toán nhằm đảm bảo cung cấp thông tin thích hợp với nhu
cầu ra quyết định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các thông tin
đáng tin cậy, khi:
+ Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp;
+ Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ
đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng;
+ Trình bày khách quan, không thiên vị;
+ Tuân thủ nguyên tắc thận trọng;
+ Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu.


- 12 -

Việc lập báo cáo tài chính phải căn cứ vào số liệu sau khi khoá sổ kế
toán. Báo cáo tài chính phải được lập đúng nội dung, phương pháp và trình
bày nhất quán giữa các kỳ kế toán. Báo cáo tài chính phải được người lập, kế
toán trưởng và người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán ký, đóng dấu
của đơn vị.
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ sáu nguyên tắc:
Hoạt động liên tục, cơ sở dồn tích, nhất quán, trọng yếu và tập hợp, bù trừ, có
thể so sánh.
1.2.3. Thông tin cung cấp trên BCTC của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các chỉ tiêu trên BCTC của DNVVN thể hiện các quan hệ tài chính
doanh nghiệp. Điều này đặc biệt cần thiết giúp cho người sử dụng có đủ cơ sở
cho việc phân tích tình hình tài chính. Từ đó có thể tạo ra một bức tranh tổng

thể về hoạt động của đoanh nghiệp, làm cơ sở cho việc ra các quyết định kinh
tế. Thông tin cung cấp trong BCTC được tóm lược theo từng loại báo cáo
dưới đây.
a) Thông tin cung cấp trong Bảng cân đối kế toán
BCĐKT là một báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh tổng quát toàn bộ tài
sản và nguồn hình thành nên tài sản hiện có của doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định. Thông qua BCĐKT, người sử dụng phân tích, đánh giá triển
vọng và dự đoán tương lai. Bảng CĐKT cũng cung cấp cho người sử dụng
thông tin về trách nhiệm của DN đối với cơ quan thuế, công nhân viên, nhà
cung cấp…..
Theo chế độ báo cáo tài chính hiện hành, bảng cân đối kế toán cung cấp
hai thông tin lớn là tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại thời điểm lập
báo cáo.
Phần tài sản phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp
tại thời điểm lập báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp. Các tài sản được sắp xếp theo khả năng


- 13 -

hoán chuyển thành tiền theo thứ tự giảm dần hoặc theo độ dài thời gian để
chuyển hóa tài sản thành tiền.
Phần nguồn vốn phản ánh toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp gồm nợ
phải trả và nguồn vốn của chủ sở hữu. Các loại nguồn vốn được sắp xếp theo
trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn đối với các chủ
nợ và chủ sở hữu.
Các nhóm chỉ tiêu trên BCĐKT cung cấp các thông tin cần thiết cho
người sử dụng với các nội dung cụ thể như sau:
Phần tài sản
- Tiền và các khoản tương đương tiền: phản ánh toàn bộ số tiền hiện có

tại thời điểm lập báo cáo ở doanh nghiệp, bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi
ngân hàng và tiền đang chuyển. Tương đương tiền là các khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn (không quá 3 tháng), có khả năng hoán chuyển thành tiền
nhanh. Đây là loại tài sản có tính thanh khoản rất cao và có thể sử dụng ngay
để thanh toán và đáp ứng nhu cầu chi tiêu khác. Vốn bằng tiền dự trữ quá
nhiều tuy đáp ứng ngay nhu cầu thanh toán nhưng cũng thể hiện vốn chưa đưa
vào SXKD để sinh lợi. Ngược lại, vốn bằng tiền dự trữ quá ít cũng ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Đầu tư tài chính ngắn hạn: Phản ánh giá trị thuần của các khoản đầu
tư tài chính ngắn hạn có thời hạn thu hồi vốn không quá một năm, có khả
năng chuyển đổi thành tiền nhanh.
- Các khoản phải thu ngắn hạn: phản ánh toàn bộ giá trị phải thu thuần
đối với các tổ chức và cá nhân. Đây là số tài sản của doanh nghiệp bị các cá
nhân, tổ chức khác tạm thời sử dụng do chính sách tín dụng bán hàng, do các
quy định về nhận hàng trong khâu cung ứng… Xét theo khía cạnh tài chính,
nếu doanh nghiệp thu hồi các khoản phải thu sẽ bổ sung vốn cho quá trình
SXKD. Về mặt pháp lý, các khoản phải thu được coi là khoản sử dụng hợp


- 14 -

pháp của khách nợ nếu giá trị các khoản này còn nằm trong thời hạn thanh
toán. Các khoản này được coi là không hợp pháp khi quá hạn thanh toán.
Nghiên cứu các khoản phải thu sẽ giúp đánh giá công tác quản lý nợ tại doanh
nghiệp, tình hình thu hồi vốn cho SXKD.
- Hàng tồn kho: Phản ánh giá trị thuần của hàng tồn kho thuộc quyền sở
hữu, quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Giá trị của khoản mục này phụ
thuộc rất nhiều vào đặc điểm hoạt động cung ứng, sản xuất và tiêu thụ, chính
sách dự trữ của doanh nghiệp và đặc điểm của hàng tồn.
- Tài sản ngắn hạn khác: phản ánh giá trị các tài khoản thuộc TSNH

chưa tính vào các chỉ tiêu trên như tạm ứng, chi phí trả trước, tài sản thiếu chờ
xử lý, các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn. Mỗi chỉ tiêu trong nhóm
chỉ tiêu này có những đặc trưng riêng.
- Tài sản cố định: phản ánh giá trị còn lại của toàn bộ TSCĐ thuộc
quyền sở hữu, quản lý và sử dụng tại thời điểm lập báo cáo. Giá trị còn lại của
TSCĐ tại thời điểm báo cáo là chênh lệch giữa nguyên giá TSCĐ và giá trị
hao mòn TSCĐ lũy kế đến thời điểm đó. Như vậy chỉ tiêu này còn chịu ảnh
hưởng bởi phương pháp khấu hao tại đơn vị.
-

Bất động sản đầu tư: phản ánh giá trị thuần của các khoản bất động

sản đầu tư tại doanh nghiệp ở thời điểm báo cáo.
- Đầu tư tài chính dài hạn: phản ánh các khoản đầu tư tài chính của
doanh nghiệp đối với các khoản đầu tư có thời gian thu hồi vốn trên một năm
như đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh và các dạng đầu tư khác,
mục tiêu của đầu tư là để sinh lời và nắm quyền kiểm soát các doanh nghiệp
khác hay không muốn bán ra trong thời gian ngắn.
Phần nguồn vốn
- Nợ ngắn hạn: Phản ánh những khoản nợ mà doanh nghiệp có trách
nhiệm thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh. Các khoản


- 15 -

nợ này là hợp pháp nếu số dư tại thời điểm lập báo cáo còn nằm trong hạn
thanh toán. Ngược lại, khoản nợ này sẽ bất hợp pháp khi số dư nợ đó đã quá
hạn. Do vậy, xem xét chi tiết khoản nợ ngắn hạn sẽ đánh giá thực trạng công
tác thanh toán của doanh nghiệp.
- Nợ dài hạn: Phản ánh những khoản nợ có thời hạn thanh toán trên một

năm hay trên một chu kỳ kinh doanh, gồm: nợ dài hạn và vay dài hạn. Về
nguyên tắc, sử dụng nguồn tài trợ này có chi phí sử dụng vốn cao hơn so với
sử dụng nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp ít chịu áp lực hơn trong thanh
toán.
- Vốn chủ sở hữu: Phản ánh toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của doanh
nghiệp. Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán.
Ngoại trừ nguồn vốn kinh doanh, mỗi quỹ của doanh nghiệp đều có mục đích
sử dụng riêng. Trong trường hợp quỹ chưa sử dụng thì doanh nghiệp có thể sử
dụng quỹ cho mục kinh doanh với nguyên tắc bảo toàn, có hoàn trả.
- Nguồn kinh phí, quỹ khác: phản ánh tổng số kinh phí ròng được cấp
để chi cho các hoạt động ngoài kinh doanh và quỹ khen thưởng phúc lợi của
doanh nghiệp.
Giữa nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả có sự khác nhau. Trong
trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp bị giảm thì giá trị khoản nợ không
thay đổi nhưng giá trị của nguồn vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm. Như vậy, người
chủ sở hữu sẽ chịu rủi ro do biến động giảm giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Trong trường hợp ngược lại thì khoản lợi do tăng giá trị tài sản thuộc về
người chủ sở hữu. Sự khác biệt trên thể hiện người chủ sở hữu sẽ gánh chịu
rủi ro khi doanh nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của
mình.
b) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh


- 16 -

BCKQHĐKD là báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình và kết
quả kinh doanh cũng như tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh
nghiệp đối với nhà nước về các khoản thuế, phí, lệ phí v.v... trong một kỳ báo
cáo. Qua số liệu trên BCKQHĐKD, người sử dụng có những thông tin tài
chính (doanh thu, giá vốn, lợi nhuận….) được sử dụng để tính toán các tỷ số

tài chính làm cơ sở cho việc phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Nội dung của BCKQHĐKD bao gồm:
- Các chỉ tiêu về giá vốn, doanh thu sản phẩm hàng hoá đã tiêu thụ, tình
hình chi phí, thu nhập của các hoạt động và kết quả của doanh nghiệp sau một
kỳ kế toán.
- Khoản thuế doanh nghiệp phải nộp
BCKQHĐKD có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh
và công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua
BCKQHĐKD có thể kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch thu nhập, chi phí
và kết quả từng loại hoạt động cũng như kết quả chung toàn doanh nghiệp. Số
liệu trên báo cáo này còn là cơ sở để đánh giá khuynh hướng hoạt động của
doanh nghiệp trong nhiều năm liền và dự báo hoạt động trong tương lai.
Thông qua BCKQHĐKD có thể đánh giá hiệu quả và khả năng sinh lợi của
doanh nghiệp. Đây là một trong các nguồn thông tin rất bổ ích cho người
ngoài doanh nghiệp trước khi đưa ra quyết định đầu tư vào doanh nghiệp.
c) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (không bắt buộc)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT) là báo cáo tài chính phản ánh việc
hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp
liên quan đến các hoạt động chính: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và
hoạt động tài chính. Dòng tiền của DN là cái có thực và không bị tác động bởi
các nguyên tắc của hạch toán kế toán. Nhìn vào BCLCTT, người sử dụng có
thể đánh giá được chất lượng của thu nhập mà DN tạo ra. Nó sẽ giúp người sử


- 17 -

dụng loại bỏ những hoài nghi về việc sử dụng các phương pháp kế toán để tạo
ra lợi nhuận.
Thông tin phản ánh trong bảng cung cấp cho các đối tượng sử dụng
thông tin có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra tiền và việc sử dụng những

khoản tiền đã tạo ra trong các hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được trình bày các luồng tiền từ các hoạt động kinh
doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính theo cách thức phù hợp nhất
với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Việc phân loại và báo cáo luồng
tiền theo các hoạt động sẽ cung cấp thông tin cho người sử dụng đánh giá
được ảnh hưởng của các hoạt động đó đối với tình hình tài chính và đối với
lượng tiền và các khoản tương đương tiền tạo ra trong kỳ của doanh nghiệp.
Thông tin này cũng được dùng để đánh giá các mối quan hệ giữa các hoạt
động nêu trên.
BCLCTT còn là cơ sở để dự đoán các dòng tiền của doanh nghiệp, trợ
giúp các nhà quản lý trong công tác hoạch định và kiểm soát các hoạt động
của doanh nghiệp . Thông qua BCLCTT, người ra quyết định có thể đánh giá
thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp để ra các quyết định kịp thời.
d) Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính là một báo cáo tổng hợp được sử dụng để
giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh,
tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài
chính khác chưa trình bày rõ ràng, chi tiết và cụ thể được. Nó cung cấp số
liệu, thông tin để phân tích, đánh giá tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu theo
từng loại nguồn vốn và phân tích tính hợp lý trong việc phân bổ cơ cấu, khả
năng thanh toán của DN….
Bản thuyết minh BCTC là một bộ phận hợp thành không thể tách rời
của toàn bộ BCTC DN dùng để mô tả mang tính tường thuật hoặc phân tích


- 18 -

chi tiết các thông tin số liệu đã trình bày trong BCĐKT, BCKQHĐKD,
BCLCTT cũng như các thông tin cần thiết khác theo yêu cầu.
Bản thuyết minh báo cáo tài chính của một doanh nghiệp phải đưa ra

các nội dung sau:
- Đưa ra các thông tin về cơ sở dùng để lập báo cáo tài chính và các
chính sách kế toán cụ thể được chọn và áp dụng đối với các giao dịch và các
sự kiện quan trọng;
- Trình bày các thông tin theo quy định của các chuẩn mực kế toán mà
chưa được trình bày trong các báo cáo tài chính khác;
- Cung cấp thông tin bổ sung chưa được trình bày trong các báo cáo tài
chính khác, nhưng lại cần thiết cho việc trình bày trung thực và hợp lý.
1.2.4. Yêu cầu của thông tin trình bày trong BCTC
Báo cáo tài chính cung cấp các thông tin cần thiết cho người sử dụng
trong việc ra quyết định kinh tế. Thông tin trình bày trong BCTC không chỉ
đơn thuần là phản ảnh lại kết quả của quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Những thông tin này còn có những đặc tính làm cho nó trở nên hữu ích hơn
đối với nhà đầu tư, người cho vay và các đối tượng khác.
1.2.4.1. Tính thích hợp
Tính thích hợp thể hiện ở chỗ thông tin phải có tác động được ở khía
cạnh đánh giá, dự đoán và quyết định. Tính thích hợp của thông tin tài chính
bao gồm hai thành tố là giá trị dự báo và giá trị phản hồi, bởi vì không nhận
thức được quá khứ thì không đủ cơ sở để dự báo, không có lợi ích trong tương
lai thì nhận thức về quá khứ cũng vô dụng. Do vậy, để thích hợp thì thông tin
kế toán phải có khả năng tạo ra sự khác biệt trong một quyết định qua việc
giúp cho người sử dụng thông tin thực hiện thiết lập các dự báo về kết quả của
các sự kiện trong quá khứ, hiện tại, hay tương lai, xác nhận hoặc hiệu chỉnh
các mục tiêu.


- 19 -

1.2.4.2. Tính dễ hiểu
Thông tin phải được trình bày theo cách thức sao cho những người có

trình độ nhận thức tương đối về kinh doanh, hoạt động kinh tế, kế toán và
những người nghiên cứu thông tin có thể dễ dàng hiểu được. Do vậy, BCTC
một mặt phải thể hiện các chỉ tiêu tài chính bằng ngôn ngữ đơn giản, một mặt
phải đảm bảo thiết lập được tiêu chuẩn cơ bản về trình độ và khả năng đọc
hiểu BCTC nhất định của người sử dụng.
1.2.4.3. Tính đáng tin cậy
Thông tin kế toán thực sự đáng tin cậy khi người sử dụng thông tin có
thể đặt niềm tin vào đó để ra quyết định, dựa trên hai đặc trưng quan trọng là
trình bày trung thực và có thể kiểm tra, điều này thể hiện ở chỗ:
 Khẳng định được sự trình bày trung thực thông tin thông qua thông
tin có thể kiểm chứng được.
 Phải phản ánh nội dung hơn hình thức nghĩa là phản ánh nghiệp vụ,
sự kiện đúng bản chất kinh tế không căn cứ vào hình thức hợp pháp của
chúng.
 Phải trình bày trung lập nghĩa là thông tin không bị thiên lệch.
 Phải tuân thủ nguyên tắc thận trọng và trình bày đầy đủ trên mọi khía
cạnh trọng yếu.
1.2.4.4. Tính có thể so sánh
Thông tin tài chính của doanh nghiệp sẽ mang lại sự hữu ích to lớn nếu
được so sánh với những thông tin tương tự về các doanh nghiệp khác hoặc so
sánh với các thông tin qua các thời kì, thời điểm tại cùng một doanh nghiệp.
Điều này càng được thể hiện rõ trong các quyết định cho vay, đầu tư bởi
chúng được dựa trên sự ước lượng các cơ hội thay thế. Tuy nhiên, việc so
sánh gặp nhiều khó khăn bởi vẫn có nhiều phương pháp kế toán khác nhau
đang được sử dụng.


- 20 -

Tóm lại, đảm bảo một cách hài hòa các đặc điểm chất lượng trên sẽ giúp

nâng cao tính hữu ích cho các thông tin trình bày trên BCTC. Do vậy, các
nguyên tắc kế toán, các chuẩn mực, yêu cầu, hướng dẫn lập và trình bày
BCTC phải rõ ràng và đầy đủ, có tính đồng bộ, hay dễ áp dụng, sẽ đảm bảo
được các đặc tính của thông tin cung cấp trên BCTC để BCTC trở nên hữu
ích với mọi đối tượng sử dụng.
1.2.5. Mục tiêu lập báo cáo tài chính của DNVVN
Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp về tình hình tài sản, nguồn
vốn, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo tài
chính là tài liệu cung cấp những thông tin quan trọng cho chủ doanh nghiệp
và các nhà đầu tư, người mua, người bán, các cơ quan quản lý, cơ quan thuế...
Mỗi đối tượng quan tâm đến báo cáo tài chính ở những khía cạnh và phạm vi
khác nhau. Tất cả BCTC đều là những tài liệu có tính lịch sử vì chúng cho
thấy những gì đã xảy ra trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Dựa vào
nghiên cứu của Lavigne (2002) về báo cáo tài chính của doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Canada và đặc thù của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, các mục
tiêu mà DNVVN hướng đến khi lập BCTC được tóm lược dưới đây.
a) Hoạch định và tổ chức thực hiện mục tiêu và hiệu chỉnh những lệch
lạc nếu cần thiết
Mối quan tâm hàng đầu của chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh
nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ để đảm bảo sự tồn tại và phát
triển doanh nghiệp. Ngoài ra, các nhà quản trị doanh nghiệp còn quan tâm đến
các mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm,
đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường v.v... Điều đó chỉ thực hiện được
khi kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ nần. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
này, doanh nghiệp phải sử dụng và phát triển tiềm năng kinh tế của mình.
Không đảm bảo được khả năng sinh lãi, lợi nhuận tương lai sẽ không chắc


- 21 -


chắn, giá trị của doanh nghiệp sẽ bị giảm, người chủ có nguy cơ bị mất vốn.
BCTC (nhất là báo cáo kết quả kinh doanh) cung cấp các thông tin cần thiết
giúp doanh nghiệp có thể xem xét, phân tích và đánh giá tình hình kinh doanh
trên nhiều góc độ để có những hiệu chỉnh phù hợp hoạt động của doanh
nghiệp theo mục tiêu ban đầu đã đặt ra.
b) Quản lý ngân quỹ và vốn lưu động
Vốn là yếu tố quan trọng để tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời nó
cũng là tiền đề để các doanh nghiệp tồn tại, phát triển và đứng vững trong cơ
chế thị trường. Vì vậy, vấn đề quản trị và sử dụng vốn nói chung hay vốn lưu
động nói riêng của các nhà quản trị doanh nghiệp là yếu tố chiến lược quyết
định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong sự cạnh tranh
quyết liệt của nền kinh tế thị trường. Điều này đã chính là những cơ hội và
thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động không còn là vấn đề mới mẻ nhưng
lại luôn đặt ra cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh của
mình.
Vốn lưu động là một chỉ số liên quan đến lượng tiền một doanh nghiệp
cần để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh thường xuyên. Vốn lưu động
phản ánh tiềm lực tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp. Khoản đầu tư vào
vốn lưu động thường chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng tài sản, nhất là đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì vậy chúng cần phải được sử dụng một
cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. BCTC (Bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ) sẽ cung cấp các thông tin giúp chủ doanh nghiệp tập trung
kiểm soát về tiền mặt, hàng tồn kho, nợ phải thu, nợ phải trả là các thành phần
chính của vốn lưu động.


- 22 -

c) Ra quyết định đầu tư của doanh nghiệp

Hoạt động đầu tư bao gồm việc mua sắm tài sản, đầu tư xây dựng cơ
bản, đầu tư vào doanh nghiệp khác. Dựa vào tình trạng tài sản, nợ, vốn chủ sở
hữu (cung cấp trong bảng cân đối kế toán), nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp tiến hành đầu tư mở rộng hoặc đầu tư thay thế.
Hoạt động đầu tư cũng dựa vào tình hình lợi nhuận, khả năng sinh lời (được
cung cấp trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh).
d) Giúp cho nhà đầu tư đưa ra quyết định liên quan đến vốn đầu tư của
họ ở doanh nghiệp
Đối với các nhà đầu tư, sự quan tâm của họ hướng vào các yếu tố như
rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức tăng trưởng, khả năng thanh toán, vốn v.v... Vì
vậy họ để ý đến báo cáo tài chính là để tìm hiểu những thông tin về điều kiện
tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh, khả năng sinh lời hiện tại
và tương lai... để từ đó có quyết định cho việc nên hay không đầu tư vào cổ
phiếu của doanh nghiệp. Thông tin cung cấp trong báo cáo tài chính sẽ cho
phép nhà đầu tư đánh giá thực trạng, tiềm năm của doanh nghiệp, qua đó đưa
ra quyết định mở rộng hay thu hồi khoản đầu tư của họ.
Tuy nhiên, mục tiêu này của báo cáo tài chính chỉ tồn tại trong một số ít
doanh nghiệp, đó là những DNVVN dưới dạng công ty cổ phần.
e) Giúp cho việc xác định lương, thưởng cho ban quản lý và/hoặc một số
nhân viên
Thù lao (lương, thưởng) của ban quản lý của doanh nghiệp thường phụ
thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh (doanh thu, lợi nhuận đạt được). Các
chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận trung thực được cung cấp trong báo cáo tài chính
là cơ sở để hội đồng quản trị, chủ doanh nghiệp, ban giám đốc đưa ra quyết
định về tiền lương, thưởng cho các cá nhân có liên quan. Những thông tin này


- 23 -

được cung cấp trong báo cáo tài chính (Báo cáo kết quả hoạt động kinh

doanh).
f) Cung cấp thông tin cho chủ nợ để các đối tượng này đưa ra quyết
định của họ
Mối quan tâm của các chủ ngân hàng và những người cho vay chủ yếu
hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính phải cung cấp
thông tin về tài sản, nợ, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, qua đó đánh giá
tình trạng nợ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính cũng cung cấp thông tin về
lợi nhuận và khả năng lợi nhuận của doanh nghiệp. Những thông tin này giúp
cho chủ nợ đánh giá thực trạng và khả năng sinh lời của doanh nghiệp, xu
hướng lợi nhuận trong tương lai. Qua đó giúp cho họ đưa ra quyết định tín
dụng hay điều chỉnh chính sách nợ đối với doanh nghiệp.
g) Tối thiểu hóa chi phí thuế
Thuế và kế toán có mối liên hệ chặt chẽ (Nguyễn Công Phương, 2010).
Lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế có nhiều điểm giao thoa. Báo cáo lợi
nhuận trình bày trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có liên quan đến
thu nhập chịu thuế. Mặt khác Báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải nộp
cho cơ quan thuế để kiểm tra việc kê khai thuế của doanh nghiệp. Từ đó, lập
báo cáo tài chính để quản trị chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp là một trong
những mục tiêu ưu tiên của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và
nhỏ nói riêng. Tối thiểu chi phí thuế là giảm số thuế phải nộp trong năm có
thuận lợi về thuế (như được giảm thuế) hoặc dịch chuyển số thuế phải nộp về
các niên độ sau.
h) Tuân thủ quy định kê khai thuế
Các doanh nghiệp đã tham gia hoạt động kinh doanh đều phải tuân thủ
các quy định về kê khai thuế nhằm cung cấp thông tin về tình hình hoạt động
và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với nhà nước. Báo cáo tài chính của doanh


- 24 -


nghiệp vừa và nhỏ phải nộp cho cơ quan thuế. Do tổ chức bộ máy kế toán ở
doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gọn nhẹ, nhân viên kế toán tập trung nhiều
vào công việc kê khai thuế. Từ đó, báo cáo tài chính được lập làm sao cung
cấp thông tin cho báo cáo thuế và tuân theo quy định cơ quan thuế.
i) Cung cấp thông tin cho các cổ đông
Các cổ đông hơn ai hết cần biết công ty của họ hoạt động thế nào, hiệu
quả ra sao, qua đó xác định được giá trị đầu tư của họ trong doanh nghiệp
tăng hay giảm và liệu thù lao trả cho ban giám đốc doanh nghiệp có tương
xứng với lợi ích mà ban giám đốc mang lại cho họ hay không. Lợi ích của cổ
đông cũng chính là lợi ích của doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ
phải báo cáo cho cổ đông tình trạng tài chính, tình hình họat động kinh doanh
của chính doanh nghiệp. BCTC là một trong những báo cáo chính yếu cung
cấp thông tinh tài chính của doanh nghiệp cho cổ đông.
1.2.6. Những nhân tố ảnh hưởng công tác lập báo cáo tài chính và
chất lượng của BCTC của DNVVN
Báo cáo tài chính cung cấp thông tin tài chính cho các nhóm người có
liên quan. Vì vậy, thông tin cung cấp trong báo cáo tài chính trước hết được
xác định bởi các nguyên tắc, phương pháp kế toán trong chuẩn mực, chế độ
kế toán mà doanh nghiệp áp dụng. Ngoài ra, còn có những yếu tố khác không
kém phần quan trọng liên quan đến hành động của doanh nghiệp có tác động
đến chất lượng BCTC, quyết định đến mục tiêu của lập báo cáo tài chính.
Những yếu tố này, theo Lavigne (2002) là quy mô và quản trị doanh nghiệp,
hành vi của doanh nghiệp.
1.2.6.1. Quy mô và quản trị doanh nghiệp
a) Quy mô của doanh nghiệp
Quy mô của doanh nghiệp có ảnh hưởng đáng kể đến công tác kế toán.
Doanh nghiệp có quy mô càng lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực thì các giao
dịch kinh tế càng nhiều về số lượng và phức tạp về nội dung. Từ đó, doanh



- 25 -

nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống kế toán phù hợp để đáp ứng được yêu
cầu của DN trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, các DN có quy mô càng
lớn thì càng có điều kiện về tài chính để hỗ trợ cho công tác kế toán như mua
phần mềm kế toán, đào tạo nhân viên hay sử dụng các dịch vụ kế toán. Ngược
lại, những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường ít chú trọng đến công tác kế
toán. Nhân viên kế toán thường đảm nhận công tác thu, chi. Lập sổ sách kế
toán và báo cáo có thể thuê bên ngoài làm, hoặc nếu doanh nghiệp có nhân
viên kế toán phụ trách thì công tác kế toán và lập báo cáo tài chính thường
không được quan tâm đúng mức.
b) Tổ chức bộ máy kế toán
Tổ chức kế toán là việc thiết lập bộ máy kế toán để thực hiện các mục
tiêu của doanh nghiệp. Tổ chức bộ máy kế toán là một bộ phận của quản trị
doanh nghiệp. Tùy thuộc vào quy mô và đặc điểm của mỗi doanh nghiệp mà
người quản lý có thể thiết lập cơ cấu tổ chức phù hợp. Có thể doanh nghiệp
chỉ tuyển dụng kế toán có trình độ làm toàn bộ các khâu công việc kế toán,
hoặc có thể chỉ tuyển dụng một số lượng hạn chế nhân viên kế toán có trình
độ trung bình để đảm nhận một số khâu trọng yếu (như theo dõi hàng tồn kho,
thu, chi), còn các công việc tổng hợp, lập báo cáo do nhân viên kế toán thuê
ngoài. Báo cáo tài chính do chính doanh nghiệp lập sẽ khác biệt đáng kể so
với báo cáo tài chính do bên ngoài lập (vốn chỉ làm theo hợp đồng, không
hiểu tường tận về doanh nghiệp) về số lượng và chất lượng thông tin cung cấp
cũng như nhấn mạnh mục tiêu của lập báo cáo tài chính.
c) Khả năng sinh lời
Các doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao thường tăng cường hoạt
động, mở rộng thị trường kinh doanh và do vậy, số liệu trên BCTC thường
đáp ứng tốt hơn những yêu cầu về báo cáo tài chính (xem ở trên) để có thể
cung cấp cho các nhà đầu tư hay các ngân hàng nhằm thu hút vốn đầu tư để



×