Tải bản đầy đủ (.doc) (170 trang)

TÍCH hợp ĐÔNG tây TRONG THƠ mới NHÌN từ yếu tố TƯỢNG TRƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (862.88 KB, 170 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ KIM HẠNH

TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG THƠ MỚI
NHÌN TỪ YẾU TỐ TƯỢNG TRƯNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ KIM HẠNH

TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG THƠ MỚI
NHÌN TỪ YẾU TỐ TƯỢNG TRƯNG

Chuyên ngành:

Văn học Việt Nam

Mã số:

9.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:


1: TS. CHU VĂN SƠN
2: PGS.TS. LÝ HOÀI THU

HÀ NỘI - 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................1
1.2. Tiếp nhận và tiếp biến văn học là hiện tượng tất yếu trong đời sống văn học nghệ thuật,
nhất là đối với các nước có quan hệ ảnh hưởng, tác động từ lịch sử đến văn hóa xã hội. Thơ
mới không chỉ là một hiện tượng độc đáo của văn học dân tộc giai đoạn đầu thế kỷ XX mà
còn là một hiện tượng văn hóa của dân tộc. Quy luật biện chứng của sáng tạo nghệ thuật là kế
thừa giao thoa và tiếp biến. Thơ tượng trưng ra đời ở Pháp vào thập niên 60- 70 của thế kỷ
XIX. Khi vừa xuất hiện, nó lập tức tạo nên một cơn địa chấn làm xôn xao văn đàn, các nhà
thơ tượng trưng bằng cả lý luận lẫn thực tiễn sáng tác sinh động của mình đã từng bước khẳng
định con đường thi ca mà họ lựa chọn phù hợp với quy luật phát triển của văn học. Vào nửa
sau thế kỉ XIX, thơ tượng trưng rất được ưa chuộng, tạo thành một trào lưu, dòng chính trong
nền thơ Pháp. Sang thế kỉ XX, nó tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng lên toàn thế giới, đồng
thời, thiết lập thành công vị thế của mình ở nền thơ hiện đại phương Đông, trong đó có Việt
Nam. Gần tám mươi năm hiện tồn trong nền thi ca Việt Nam, thơ tượng trưng không ngừng
biến chuyển. Qua mỗi giai đoạn, ở mỗi nhà thơ, việc tiếp biến các đặc trưng thẩm mỹ, thi học
tượng trưng diễn ra tùy vào mỗi người, và việc kết hợp các yếu tố tượng trưng phương Đông
và phương Tây (thơ Pháp và thơ Đường) tạo nên tính đa sắc độ cho thơ tượng trưng Việt
Nam. Như một cuộc cách mạng, Thơ mới Việt Nam (1932-1945) đã đi vào lộ trình hiện đại,
hội tụ được những tinh hoa văn hóa Đông - Tây trong cốt cách, tâm hồn Việt. Ngay từ 1941
khi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã phân chia Thơ mới thành 3 dòng: Thuần Việt,
Đường thi và dòng chịu ảnh hưởng của thơ Pháp đồng thời có nhận xét đặc biệt tinh tế: “Nếu
ví những dòng thơ trên là dòng sông thì đó là dòng sông mà nước luôn tràn bờ” [127]. Việc
tiếp nhận Thơ mới (1932 - 1945) được dấy lên từ sau 1986, từ đó đến nay, phong trào thơ này

được phục dựng trong nhiều công trình nghiên cứu. Thơ mới và các tác giả trong phong trào
Thơ mới được nghiên cứu rất nhiều, rất kỹ, đã có nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng
của thơ Pháp đến Thơ mới, về âm vang của Đường thi trong Thơ mới. Tuy nhiên để giải quyết
vấn đề tích hợp yếu tố tượng trưng của thơ Pháp và thơ Đường trong Thơ mới vẫn cần một
công trình hệ thống, chuyên sâu. Luận án nghiên cứu yếu tố tượng trưng để khẳng định Thơ
mới như là sự tích hợp tinh hoa của cả thơ Đường và thơ Pháp. Đây là việc làm cần thiết góp
phần cung cấp cái nhìn toàn diện hơn về Thơ mới trong sự tiếp nhận và tiếp biến các yếu tố
ngoại nhập...................................................................................................................................1
1.3. Yếu tố tượng trưng và khuynh hướng tượng trưng là đặc điểm nổi bật của Thơ mới. Việc
khảo sát, phân tích, kiến giải và nhận định Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu tố
tượng trưng là một vấn đề mới mẻ và lý thú nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức, bởi vì cái
mới thực sự trong các tiếp xúc nghệ thuật ở bất cứ đâu trên thế giới đều hiện diện như một
hợp kim chứa đựng căn cước nghệ thuật của nó, cùng với những giá trị tân kỳ từ phương xa
đem đến. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn bằng kết quả
nghiên cứu của mình, một mặt chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn về yếu tố tượng trưng - một
yếu tố được sử dụng phổ biến trong Thơ mới, sự kế thừa và sáng tạo của các nhà thơ mới
trong việc tiếp biến của thơ phương Đông và phương Tây. Mặt khác, tìm hiểu, nghiên cứu văn
học theo hướng này cũng đang là hướng nghiên cứu có nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn
trong việc lý giải những thành công của một phong trào thơ được gọi là một cuộc cách mạng
trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, qua đó hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng giao lưu, tiếp biến
văn học Việt Nam và văn học Pháp, văn học Trung Quốc..........................................................2
Ngoài ra, chúng tôi tập trung vào Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng


trưng làm đề tài luận án còn là vì vấn đề được đặt ra có ý nghĩa thiết thực đối với nghiên
cứu và giảng dạy văn học Việt Nam. Đây không chỉ là nhiệm vụ của người làm công tác
nghiên cứu giảng dạy văn học mà còn là con đường để phát huy những giá trị mang tính đổi
mới độc đáo của tiền nhân, góp phần tôn vinh giá trị văn học đặc sắc của Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay.....................................................................................................................3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................................4
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................................4
3.2. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................................4
Dùng phương pháp này luận án khảo sát yếu tố tượng trưng trong Thơ mới tiếp cận từ góc
độ quan niệm nghệ thuật, đặc trưng nghệ thuật, tư duy nghệ thuật, tổ chức văn bản, liên văn
bản….......................................................................................................................................5
4.3. Phương pháp liên ngành...............................................................................................5
4.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu.................................................................................5
5. Đóng góp mới của luận án..................................................................................................6
Chương 2. Cơ sở tiếp biến và sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới..........6
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU...................................................................................8
1.1 Giới thuyết các khái niệm cơ bản......................................................................................8
1.1.1. Khái niệm, sự hình thành và đặc trưng thẩm mỹ của Thơ mới.................................8
1.1.2. Khái niệm tích hợp Đông - Tây trong nghiên cứu văn hóa, văn học......................10
1.2.1. Lược thuật lịch sử nghiên cứu về Thơ mới.............................................................17
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu về dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng Pháp trong Thơ mới.....19
1.2.3. Lịch sử nghiên cứu về ảnh hưởng của thơ Đường trong Thơ mới..........................27
1.2.4. Lịch sử nghiên cứu về sự tích hợp yếu tố tượng trưng của thơ Đường, thơ tượng
trưng Pháp trong Thơ mới.................................................................................................29
Trong giai đoạn “gió Âu mưa Mỹ” tràn vào nước ta, “người thanh niên Việt Nam đang
đi tìm thi nhân của mình như con đi tìm mẹ” (Lưu Trọng Lư), và lẽ dĩ nhiên, phương Tây
đã giúp chúng ta phát hiện ra mình trên mảnh đất giàu tiềm năng và bề dày trầm tích văn
hóa. Vì vậy, Thơ mới là “một bước tổng hợp mới những giá trị văn hóa Đông Tây, truyền
thống và hiện đại” (Phan Cự Đệ)......................................................................................29
Trước khi phong trào Thơ mới xuất hiện và chiếm lĩnh thi đàn, thơ tượng trưng phương
Tây đã được biết đến ở Việt Nam thông qua sự giới thiệu của Phạm Quỳnh trong “Tạp
chí Nam Phong số 6”. Tác giả đã giới thiệu Charles Baudelaire, tuy không gọi
Baudelaire là nhà thơ tượng trưng, nhưng Phạm Quỳnh đã nhìn thấy nhà thơ Pháp này
“thực sự là nhà thơ có tài nhất của nước Pháp thế kỷ XIX” Với con mắt của một trí thức

Tây học, không chỉ gắn bó mà còn ngưỡng mộ văn hóa, văn học Pháp, Phạm Quỳnh đã
nhìn thấy ở phong cách thơ Baudelaire đầy sự mới mẻ, độc đáo, và hi vọng các nhà thơ
Việt Nam “Từ xưa đến nay thuần chịu ảnh hưởng của thơ Tàu” học tập “để thay vào mấy
cái xáo cũ xưa nay”. Là người dịch thơ Baudelaire ra văn Việt, Phạm Quỳnh đồng thời
cũng là người đầu tiên tìm hiểu yếu tố tượng trưng trong thơ Việt Nam..........................29
Có thể thấy, Thi nhân Việt Nam đã có công phát hiện những tài hoa của phong trào Thơ


mới. Hoài Thanh, Hoài Chân khẳng định: “Hai lối thơ Đường và thơ tượng trưng Pháp,
có chỗ giống nhau. Hai lối thơ đều ghét lí luận, ghét kể chuyện, ghét tả chân” [127, tr.3536]. Nhận xét tổng quát trên đã cho thấy, thơ tượng trưng dành được một vị thế ảnh
hưởng đáng kể trong Thơ mới...........................................................................................30
CƠ SỞ TIẾP BIẾN VÀ SỰ HÌNH THÀNH KHUYNH HƯỚNG TƯỢNG TRƯNG TRONG
THƠ MỚI..................................................................................................................................33
2.1.Tiền đề dẫn đến sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới với sự giao
thoa Đông - Tây................................................................................................................33
2.1.1. Cơ sở lý thuyết........................................................................................................36
Bước vào thế giới Đường thi có cảm giác như bước vào thế giới của sự hòa điệu. Những
con người siêu cá thể tồn tại giữa lòng thiên địa càn khôn trong sự hô ứng, tương giao,
hòa hợp với thiên nhiên…Vì vậy, các nhà thơ mới Việt Nam không gặp nhiều khó khăn
khi tiếp nhận cảm quan tương ứng của thơ tượng trưng. “Họ mài sắc các giác quan, tổ
chức lại tự nhiên bằng các sức mạnh tưởng tượng của tinh thần theo ý niệm về sự tương
hợp Baudelaire” [90,Tr.110], khiến thơ ca có khả năng chiếm lĩnh và biểu hiện thế giới tự
nhiên một cách tinh vi nhất. Tuy nhiên, sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên trong
thơ xưa thường bắt nguồn từ cơ sở triết học “dĩ vạn vật vi ngã” (lấy vạn vật để làm rõ
lòng mình), nên thiên nhiên là chuẩn mực để đánh giá, thể hiện, bày tỏ tình cảm tâm hồn
con người. Những nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa phương Tây đã gặp tinh thần phương
Đông ở chỗ tính thống nhất của vũ trụ, nhưng họ luôn có ý thức vạch rõ đường biên giữa
chủ thể nhà thơ với khách thể thiên nhiên, đồng thời thấy được sự tồn tại song song giữa
hai thực thể vốn luôn có sự tương giao ấy. Để rồi qua trực giác, họ phát hiện ra một thế
giới mới cao hơn thế giới thực tại, ở đó có những tương ứng bất ngờ giữa con người, vũ

trụ......................................................................................................................................40
2.3. Khái lược về khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới..............................................53
2.3.1. Sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới..........................................53
Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề: Thơ mới có thực sự hình thành khuynh hướng tượng
trưng? Ngay cả Hoài Thanh cũng cho rằng Thơ mới chủ yếu là thơ lãng mạn, Hoài Thanh
rất dè dặt khi nói về tượng trưng. Nếu nhìn Thơ mới mà chỉ nhìn vào Thi nhân Việt Nam thì
ta chỉ thấy thơ lãng mạn, nhưng nếu thoát ra khỏi Thi nhân Việt Nam ta sẽ thấy rộng hơn
với sự xuất hiện của hàng loạt tác giả tượng trưng như Đinh Hùng, Phạm Văn Hạnh,
Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Phạm Hầu, Bích Khê…Thậm chí Bích Khê còn hướng
tới thơ “thuần túy tượng trưng”. Khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới giai đoạn sau
rất rõ. Các nhà thơ mới đã nỗ lực vượt ra khỏi thơ lãng mạn để hình thành một khuynh
hướng tượng trưng thực sự. Tuy nhiên thời Thơ mới, khuynh hướng tượng trưng chưa được
người ta nhìn nhận một cách đầy đủ. Sau này do biến động lịch sử họ không tiếp nối, vì vậy
thành tựu nghiên cứu về khuynh hướng tượng trưng còn mỏng và bị lấn át bởi thành tựu
của thơ lãng mạn. Các nhà nghiên cứu chưa có cái nhìn công bằng với khuynh hướng tượng
trưng. Họ chỉ quan tâm đến tác giả tượng trưng chứ chưa chú ý nghiên cứu khuynh hướng
tượng trưng để khẳng định sự bắt đầu, phát triển, đỉnh cao và các bước tiến trình của nó.
Người ta có thể viết rất sâu về từng tác giả tượng trưng nhưng lại không quan sát nó như
một khuynh hướng của Thơ mới. Với sáng tác của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê,


Đinh Hùng, Nhóm Xuân Thu nhã tập và Dạ đài… thì có thể nói đã hình thành khuynh
hướng tượng trưng trong Thơ mới. Tuy nhiên, tượng trưng thường đi với siêu thực, nên
ngay chính các tác giả tiêu biểu của khuynh hướng tượng trưng lại đôi lúc, chỗ này, chỗ
khác, đan xen cả lãng mạn, tượng trưng và siêu thực...........................................................53
Ở chặng đường đầu tiên của phong trào Thơ mới (1932 - 1935), khuynh hướng tượng trưng
chưa thực sự rõ ràng. Bước sang chặng đường thứ hai (1936 - 1939) thơ tượng trưng đã bắt
đầu nảy nở trong Thơ mới. Bắt đầu là Xuân Diệu, sau đó Trường thơ Loạn gồm Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê…đã tiến sâu vào tượng trưng với những thao tác thực hành
thơ sáng tạo thiên về khai tác sự tương giao trong cảm giác, biểu hiện một thế giới bí ẩn

giàu biểu tượng và tính nhạc hấp dẫn. Từ năm 1942 đến năm 1945 Thơ mới vẫn chứng tỏ
nhiều nỗ lực cách tân quan trọng. Nhóm Dạ Đài với sự góp mặt của Trần Dần, Đinh Hùng,
Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Chương…đã lập ngôn về khuynh hướng tượng trưng. Cùng xuất
hiện vào giai đoạn này còn có nhóm Xuân Thu Nhã Tập gồm các tác giả: Phạm Văn Hạnh,
Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ…Họ ý thức được sự cạn nguồn, lối mòn của thơ lãng
mạn cũng như mức độ ảnh hưởng khá sâu đậm của văn học phương Tây đối với thơ Việt,
mà trong đó họ muốn giữ căn cốt phương Đông, đưa thơ trở về cội nguồn. Cuộc sống phát
triển trên cái nền móng thực là dân tộc trước hết..................................................................54
Sự tích hợp kể trên là sản phẩm của nhu cầu tự nhiên kết hợp văn hóa truyền thống và nhu
cầu của thời đại, không khí của thời đại và học vấn mà thời đại đưa đến. Nó đem đến sự
thành công cho Thơ mới, đó là tạo ra một thành quả tốt đẹp, mang đến một nét tân kỳ vừa
truyền thống vừa mới mẻ cho thơ. Trong sự tích hợp Đông - Tây, có những nhà thơ nhanh
chóng được độc giả đồng thuận, chấp nhận nhưng cũng có một số nhà thơ tượng trưng tạo
ra sự khác lạ với truyền thống thường gây thắc mắc, khó hiểu và nhận những lời phê bình
của một bộ phận độc giả đương thời, nhưng với độ lùi về thời gian, nó lại mở ra một kênh,
một đường hướng mới đáng quý, đặt viên gạch tiếp của nền thơ tương lai..........................55
2.3.2. Sự hiện diện của các tác giả thơ mới theo khuynh hướng tượng trưng......................55
2.3.2.1. Chặng thứ nhất ( 1932 - 1935).............................................................................55
Nói chung, Thơ mới chặng thứ nhất (1932 - 1935) chủ yếu vẫn là lãng mạn và nhen
nhóm một vài yếu tố tượng trưng phương Tây nhưng còn mờ nhạt, chưa rõ nét. Thơ
tượng trưng bắt đầu bén rễ vào nền thơ Việt từ phong trào Thơ mới, nó đang ở dạng
"phôi thai", chưa hình thành một khuynh hướng..............................................................56
2.3.2.2. Chặng thứ hai (1936 - 1939)................................................................................56
Sang chặng thứ hai (1936 - 1939), khi ảnh hưởng của văn chương Pháp thấm thía thêm
một tầng nữa, thì trường phái tượng trưng được người ta ưa chuộng hơn cả, dấu ấn tượng
trưng đã xuất hiện trong Thơ mới giai đoạn này tạo nên một khuynh hướng thi ca với
những đặc điểm rõ nét: Thứ nhất: Sự tương giao của các giác quan; thứ hai: Hệ biểu
tượng; thứ ba: Nhạc tính trong thơ....................................................................................56
Trong các nhà thơ mới, Xuân Diệu là người đầu tiên có ý thức tiếp thu trường phái này,
nhất là C.Baudelaire. Xuân Diệu thừa nhận chính cha đẻ Ác hoa đã giúp ông đi toàn vẹn

vào tính chất hiện đại của thơ. Ông học được ở C.Baudelaire một nghệ thuật tinh vi để
diễn đạt nguồn cảm xúc trữ tình lãng mạn của mình. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông
như: Trăng, Nhị hồ, Đây mùa thu tới, Huyền diệu, Vội vàng, Nguyệt cầm, Buồn trăng,


Thơ duyên…, đều có sự kết hợp nhuần nhị giữa lãng mạn và tượng trưng, trong đó tiêu
biểu nhất là Huyền diệu. Thi sĩ đã mượn câu thơ nổi tiếng của C.Baudelaire trong Tương
hợp: “Les parfums, les couleurs et les sons se répondent” làm đề từ cho bài thơ của mình.
Thi sĩ thực sự thức nhọn giác quan nhạy bén trước thiên nhiên, cái đẹp và tình yêu. Một
thế giới huyền diệu dù chỉ là cảm xúc với ánh trăng, khúc nhạc, chiếc lá, làn gió…, qua
tâm hồn nhà thơ đã trở thành sự rung động đầy tinh vi. Bài thơ Huyền diệu là trạng thái
đắm say đến ngất ngây. Sự giao cảm kì diệu trong thi phẩm này được dẫn dắt bởi âm
nhạc, cả bốn khổ thơ đều lan tỏa những khúc nhạc Du Dương. Cách cảm nhận của Xuân
Diệu rất đặc biệt, không phải bằng thính giác thông thường mà bằng sự thấm thía của
khứu giác, thị giác, vị giác: “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm/ Say người như rượu tối
tân hôn;/ Như hương thấm tận qua xương tủy,/ Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn” (Huyền
Diệu - Xuân Diệu). Âm nhạc như đang tỏa ra mùi hương thấm vào thể xác và linh hồn,
từ khúc nhạc thơm, thi sĩ đã chuyển gam độ sang rượu tối tân hôn, đó là dư vị ngọt ngào
làm cho nhà thơ chìm đắm trong men say tình yêu đang ngập tràn khắp không gian. Thế
giới huyền diệu nâng đôi cánh cảm xúc thăng hoa hòa vào màu sắc và âm thanh du
dương: “Hãy tự buông cho khúc nhạc hường/ Dẫn vào thế giới của du dương/ Ngừng hơi
thở lại, xem trong ấy / Hiển hiện hoa và phảng phất hương;” (Huyền Diệu - Xuân Diệu).
Dường như Xuân Diệu nhạy bén với âm nhạc nên không chỉ huyền diệu mà rất nhiều thi
phẩm khác như Nhị hồ, Nguyệt cầm cũng đều khởi phát cảm hứng bằng những rung cảm
về âm thanh. Đối với thơ tượng trưng, khám phá và hé mở sự bí ẩn sâu xa của thế giới là
bản chất, các nhà thơ tượng trưng còn hướng đến biểu hiện tương giao của vạn vật. Xuân
Diệu vốn là thi sĩ nhìn thế giới bằng đôi mắt xanh non, nên luôn phát hiện ra vẻ đẹp tươi
tắn hòa hợp tràn đầy thơ mộng, cũng xuất phát từ nguyên tắc tương giao, Xuân Diệu
nhìn thấy một thế giới huyền diệu, du dương: “Một tối bầu trời đắm sắc mây/ Cây tìm
nghiêng xuống cánh hoa gầy/ Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ/ Nghiêng xuống làn

rêu một tối đầy” (Với bàn tay ấy - Xuân Diệu ). Trong thơ Xuân Diệu, ta thấy thi sĩ bị
quyến rũ trước vẻ huyền bí luôn nối từ sâu thẳm của tâm linh với đáy sâu của tạo vật
thiên nhiên. Ở đây lời huyền bí, ý bao la chính là tiếng nói của vạn vật đang bày tỏ cùng
nhau, nó là sợi dây vô hình gắn kết tất cả với nhau. Đó còn là biểu hiện của một năng
lượng vũ trụ đang bao trùm khắp không gian, nó đồng điệu với quan niệm tương hợp gần
gũi với quan niệm “vạn vật nhất thể” trong triết lí phương Đông. Với phép màu nhiệm
của tương giao, thi sĩ đã thực sự đi vào thế giới huyền diệu, giúp con người thâm nhập
được góc khuất bí ẩn của nó. Từ quan niệm về tượng trưng của Xuân Diệu, thế giới mở
ra trước mắt nhà thơ không phải những gì quan sát được mà là phần huyền diệu, du
dương mà tư duy khó có thể nắm bắt nổi..........................................................................56
Như vậy, ở chặng thứ hai (1936 - 1939), Thơ mới ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc nhất từ
thơ tượng trưng Pháp, mà thơ tượng trưng Pháp lại có nhiều điểm gặp gỡ với thơ Đường.
Thơ mới chính là hiện tượng giao thoa văn hóa giữa mỹ học phương Đông - phương Tây.
Cảm thức phương Đông như yếu tố gốc rễ của Thơ mới, mang trạng thái tâm hồn Việt,
các nhà thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê đã
mượn hình thức của thơ tượng trưng phương Tây (thơ Pháp), tiếp thu những yếu tố hiện
đại phương Tây để tỏ lòng................................................................................................61


2.2.2.3. Chặng thứ ba (1940 - 1945).................................................................................61
TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG KIẾN TẠO......................................................................64
THI ẢNH TƯỢNG TRƯNG....................................................................................................64
3.1. Những thi liệu tượng trưng của thơ phương Đông và phương Tây...............................64
3.1.1. Thi liệu tượng trưng phổ biến của thơ Đường........................................................64
3.1.2. Thi liệu phổ biến trong thơ tượng trưng Pháp.........................................................68
3.2. Phương thức kiến tạo thi ảnh tượng trưng của thơ phương Đông và phương Tây........72
3.2.1. Phương thức kiến tạo thi ảnh của thơ Đường.........................................................72
Trong phong trào Thơ mới, sức sống của thơ Đường rất mãnh liệt. Thơ Đường đã trở
thành máu thịt trong nguồn gốc sáng tạo văn chương Việt Nam qua hàng nghìn năm và
ngày càng trở nên tinh vi hơn trong cảm xúc cũng như thể hiện của tác giả thơ mới. Các

nhà thơ mới trong khi sáng tạo đã có ý thức trong việc kế thừa, chủ trương vận dụng hình
ảnh, thi liệu, ngôn ngữ thi pháp của Đường thi trong thơ mình, tăng cường cải biến, phát
huy những hình ảnh tượng trưng tiếp nhận biến đổi và phát triển nguồn thi liệu tượng
trưng phong phú của Đường thi tạo nên những hình ảnh mới mẻ, giàu ý nghĩa..............80
3.3.1.1. Vận dụng sáng tạo một số nguyên tắc nghệ thuật kiến tạo thi ảnh tượng trưng của
thơ Đường.........................................................................................................................80
Huy Cận viết: “Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu” ; Hai câu thơ gợi ta
nhớ lại cái buồn của một thi nhân khác, Trần Tử Ngang ngàn năm trước, cũng đã có một
cuộc viễn du tương tự như thế trong bài Đăng U Châu đài ca: “Tiền bất kiến cổ nhân/
Hậu bất tri lai giả/ Niên nhiên địa chi du du/ địa chi du du/ Độc sảng nhiên chi thế hạ”
“Ai người trước đã qua? Ai người sau chưa đến?/ Nghĩ trời đất vô cùng/ Một mình tuôn
giọt lệ” (Võ Liêm Sơn dịch). Huy Cận khi viết bài thơ Tràng giang bất hủ của mình, tư
tưởng chủ đạo của toàn bài thơ cũng chính đến từ dòng Trường Giang, thế nên tác giả
mới viết thêm lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài…”, Tràng giang của Huy
Cận mang không khí Đường thi, cổ kính và thấm đẫm màu sắc phương Đông qua những
thi liệu cổ, tuy vậy nó tuyệt nhiên không bị coi là cũ. Dòng sông lạnh, cũng như dòng
Trường Giang với dòng nước cuồn cuộn chảy, gợi nỗi buồn vì thời gian không ngừng
chảy trôi. Mở đầu bài thơ, tác giả viết: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Tràng
giang là cách đọc chệch của hai chữ trường giang. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái
cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong Thơ Đường thi, một dòng
sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng, cổ kính và thấm đẫm màu sắc
phương Đông. Trường giang là một biểu tượng gợi buồn, với dòng nước cuồn cuộn chảy,
gợi nỗi buồn về thời gian không ngừng chảy trôi. Thơ Lý Bạch có câu “Duy kiến trường
giang thiên tế lưu” “Duy chỉ có dòng trường giang chảy mãi bên trời”. Hai chữ “Tràng
giang”, tên của bài thơ chính là yếu tố tượng trưng, nó chỉ nỗi sầu vô bờ bến của con
người cá nhân trong xã hội cũ, và toàn bộ bài thơ dù được khai triển ở bất kì khía cạnh
nào đều hướng tới phục vụ nội dung hay chủ đề tư tưởng nêu trên. Huy Cận đã từng phát
biểu rằng từ “đùn” được sử dụng trong câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” là ông
mượn từ bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Người ta thường
nói thơ của Huy Cận mang âm hưởng phong vị thơ Đường có lẽ cũng bắt nguồn từ chỗ

này. Hình ảnh thiên nhiên ấy đã gợi cho Huy Cận một nỗi nhớ quê cồn cào da diết. Thời


gian vô hạn vô cùng, không gian mênh mông vô tận, còn kiếp người thì hữu hạn. Chính
cảnh ấy, tình ấy đã gợi cho nhà thơ viết nên hai câu cuối tuyệt tác:“Lòng quê dợn dợn vời
con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Câu thơ mang một nỗi nhớ thiết tha,
một nỗi buồn sâu lắng của Thôi Hiệu trong buổi chiều tà nơi đất khách nhớ về quê
hương. Có điều, thi nhân đời Đường ngày xưa nhìn khói sóng trên sông mới nhớ quê tức
là còn có cái để bám víu mà nhớ. Ngày nay, với Huy Cận, dù không có khói hoàng hôn
trên sông, tức không có chỗ bám víu nhưng nhà thơ vẫn cứ nhớ nhà, vẫn cứ buồn. Huy
Cận đã cho người đọc thấy rõ hồn thơ của mình, một hồn thơ hiện đại nhưng đậm chất
cổ xưa, một trí thức Tây học nhưng mang đậm phong vị thơ Đường...............................81
Tiểu kết....................................................................................................................................113
TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG TỔ CHỨC VĂN BẢN THƠ.........................................114
4.1. Tổ chức văn bản của thơ cổ điển phương Đông...............................................................114
4.1.1. Tổ chức văn bản theo tứ thơ..................................................................................114
4.1.2. Tổ chức văn bản theo kết cấu không - thời gian...................................................116
4.2. Tổ chức văn bản của thơ tượng trưng phương Tây......................................................118
4.2.1. Tổ chức văn bản qua mạng lưới biểu tượng..........................................................118
4.2.2. Tổ chức văn bản theo nhạc tính............................................................................120
4.3. Dấu ấn tượng trưng Đông - Tây trong tổ chức tứ - hình - nhạc của văn bản Thơ mới 122
4.3.4. Tổ chức văn bản theo sự phối hợp tứ - hình - nhạc...............................................141
LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ TÀI........................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................152


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. “Thơ mới” là tên gọi của một trào lưu sáng tác thơ, chịu ảnh hưởng của
nguyên tắc thẩm mỹ và cấu trúc biểu đạt của thơ hiện đại phương Tây. Thơ mới xuất
hiện ở Việt Nam đầu thế kỷ XX và đạt đến đỉnh cao ở giai đoạn 1932 - 1945. Điều này
đã được Hoài Thanh diễn tả “… một cơn gió mạnh bỗng từ xa thổi đến. Cả nền tảng
xưa bị một phen đảo điên, lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất
trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”[127]. Nhưng chính tác giả lại xác nhận:“
Không có Thơ mới. Có điều các anh gọi là Thơ mới, hơn ngàn năm trước đã có
rồi”[127]. Từ đó tác giả đi đền nhận định: “Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong
cái mới vẫn còn lại ít nhiều cái cũ. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau…”( Một thời
đại trong thi ca). Như vậy ngay từ khi phong trào Thơ mới đang diễn ra ở đỉnh cao sôi
nổi người ta đã tìm hiểu và tìm cách lý giải hiện tượng văn hóa, văn học này. Từ đó
đến nay, Thơ mới đã được nghiên cứu nhiều, tuy nhiên, không phải mọi vấn đề đã
được khai thác cạn kiệt. Do là một hiện tượng văn học chứa đựng nhiều giá trị thẩm
mỹ, phong trào văn học này vẫn là một hiện tượng độc đáo của thơ Việt rất cần được
quan tâm và tiếp tục xem xét. Có thể nói ảnh hưởng của nó bao trùm lên thơ ca dân tộc
ở cả nửa sau thế kỷ XX. Đó là cuộc chạy nước rút của thơ Việt để bắt kịp thơ hiện đại
thế giới với hình mẫu là thơ - lãng mạn Pháp thế kỷ XIX và đã vượt qua chủ nghĩa
lãng mạn để tiến tới chủ nghĩa tượng trưng và chạm vào bờ siêu thực. Những cách tân
táo bạo đã đưa Thơ mới thoát khỏi sự ràng buộc của những công thức tồn tại hàng
nghìn năm theo mô hình phương Đông, đồng thời tiếp nhận phương Tây, nhanh chóng
tạo nên một bước ngoặt đưa thơ ca Việt Nam bước vào thời hiện đại. Với phong trào
Thơ mới, thơ ca Việt Nam từ một nền thơ nặng tính khu vực đã được quốc tế hóa và
hội nhập vào quỹ đạo thơ ca hiện đại thế giới.
1.2. Tiếp nhận và tiếp biến văn học là hiện tượng tất yếu trong đời sống văn học
nghệ thuật, nhất là đối với các nước có quan hệ ảnh hưởng, tác động từ lịch sử đến văn
hóa xã hội. Thơ mới không chỉ là một hiện tượng độc đáo của văn học dân tộc giai đoạn
đầu thế kỷ XX mà còn là một hiện tượng văn hóa của dân tộc. Quy luật biện chứng của
sáng tạo nghệ thuật là kế thừa giao thoa và tiếp biến. Thơ tượng trưng ra đời ở Pháp vào



2

thập niên 60- 70 của thế kỷ XIX. Khi vừa xuất hiện, nó lập tức tạo nên một cơn địa chấn
làm xôn xao văn đàn, các nhà thơ tượng trưng bằng cả lý luận lẫn thực tiễn sáng tác sinh
động của mình đã từng bước khẳng định con đường thi ca mà họ lựa chọn phù hợp với
quy luật phát triển của văn học. Vào nửa sau thế kỉ XIX, thơ tượng trưng rất được ưa
chuộng, tạo thành một trào lưu, dòng chính trong nền thơ Pháp. Sang thế kỉ XX, nó tiếp
tục mở rộng tầm ảnh hưởng lên toàn thế giới, đồng thời, thiết lập thành công vị thế của
mình ở nền thơ hiện đại phương Đông, trong đó có Việt Nam. Gần tám mươi năm hiện
tồn trong nền thi ca Việt Nam, thơ tượng trưng không ngừng biến chuyển. Qua mỗi giai
đoạn, ở mỗi nhà thơ, việc tiếp biến các đặc trưng thẩm mỹ, thi học tượng trưng diễn ra
tùy vào mỗi người, và việc kết hợp các yếu tố tượng trưng phương Đông và phương Tây
(thơ Pháp và thơ Đường) tạo nên tính đa sắc độ cho thơ tượng trưng Việt Nam. Như một
cuộc cách mạng, Thơ mới Việt Nam (1932-1945) đã đi vào lộ trình hiện đại, hội tụ
được những tinh hoa văn hóa Đông - Tây trong cốt cách, tâm hồn Việt. Ngay từ 1941
khi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã phân chia Thơ mới thành 3 dòng: Thuần
Việt, Đường thi và dòng chịu ảnh hưởng của thơ Pháp đồng thời có nhận xét đặc biệt
tinh tế: “Nếu ví những dòng thơ trên là dòng sông thì đó là dòng sông mà nước luôn
tràn bờ” [127]. Việc tiếp nhận Thơ mới (1932 - 1945) được dấy lên từ sau 1986, từ đó
đến nay, phong trào thơ này được phục dựng trong nhiều công trình nghiên cứu. Thơ
mới và các tác giả trong phong trào Thơ mới được nghiên cứu rất nhiều, rất kỹ, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của thơ Pháp đến Thơ mới, về âm vang của
Đường thi trong Thơ mới. Tuy nhiên để giải quyết vấn đề tích hợp yếu tố tượng trưng
của thơ Pháp và thơ Đường trong Thơ mới vẫn cần một công trình hệ thống, chuyên
sâu. Luận án nghiên cứu yếu tố tượng trưng để khẳng định Thơ mới như là sự tích hợp
tinh hoa của cả thơ Đường và thơ Pháp. Đây là việc làm cần thiết góp phần cung cấp
cái nhìn toàn diện hơn về Thơ mới trong sự tiếp nhận và tiếp biến các yếu tố ngoại
nhập.
1.3. Yếu tố tượng trưng và khuynh hướng tượng trưng là đặc điểm nổi bật của
Thơ mới. Việc khảo sát, phân tích, kiến giải và nhận định Tích hợp Đông - Tây trong

Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng trưng là một vấn đề mới mẻ và lý thú nhưng cũng đầy
khó khăn, thách thức, bởi vì cái mới thực sự trong các tiếp xúc nghệ thuật ở bất cứ đâu


3

trên thế giới đều hiện diện như một hợp kim chứa đựng căn cước nghệ thuật của nó,
cùng với những giá trị tân kỳ từ phương xa đem đến. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn mạnh
dạn chọn đề tài này với mong muốn bằng kết quả nghiên cứu của mình, một mặt
chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn về yếu tố tượng trưng - một yếu tố được sử dụng phổ
biến trong Thơ mới, sự kế thừa và sáng tạo của các nhà thơ mới trong việc tiếp biến
của thơ phương Đông và phương Tây. Mặt khác, tìm hiểu, nghiên cứu văn học theo
hướng này cũng đang là hướng nghiên cứu có nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn
trong việc lý giải những thành công của một phong trào thơ được gọi là một cuộc cách
mạng trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, qua đó hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng giao
lưu, tiếp biến văn học Việt Nam và văn học Pháp, văn học Trung Quốc.
Ngoài ra, chúng tôi tập trung vào Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu
tố tượng trưng làm đề tài luận án còn là vì vấn đề được đặt ra có ý nghĩa thiết thực đối
với nghiên cứu và giảng dạy văn học Việt Nam. Đây không chỉ là nhiệm vụ của người
làm công tác nghiên cứu giảng dạy văn học mà còn là con đường để phát huy những
giá trị mang tính đổi mới độc đáo của tiền nhân, góp phần tôn vinh giá trị văn học đặc
sắc của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ một phương diện cơ bản và đặc sắc của phong trào Thơ mới là tích
hợp tinh hoa của thơ phương Đông (chủ yếu là thơ Đường) và thơ phương Tây (chủ yếu
là thơ theo trường phái tượng trưng thế kỷ XIX của Pháp) nhìn từ yếu tố tượng trưng.
Xem tượng trưng là điểm quan trọng, nhưng không có nghĩa chỉ có tích hợp yếu tố tượng
trưng mới làm nên Thơ mới. Thơ mới vừa tiếp thu yếu tố nước ngoài một cách hợp lý vừa
tự làm mới mình trên căn bản những vận động nội sinh của thơ Việt. Sự tiếp nhận yếu tố

bên ngoài, do đó, chỉ làm giàu thêm cho chính chủ thể thơ Việt. Tìm hiểu yếu tố tượng
trưng và nhận diện nó trong Thơ mới còn để thấy sự ảnh hưởng, tác động của quá trình
giao lưu văn hóa thế giới với văn học Việt Nam.


4

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng trưng luận
án đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Thuyết minh các khái niệm cơ bản, các thuật ngữ có liên quan đến nội dung cần
triển khai như Thơ mới, Tích hợp, yếu tố tượng trưng…
- Nhìn lại, đánh giá tình hình nghiên cứu về sự tích hợp Đông - Tây trong Thơ
mới xoay quanh yếu tố tượng trưng.
- Chỉ ra cơ sở về mặt xã hội, văn hóa tạo ra sự tiếp biến trong Thơ mới và sự hình
thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới.
- Phân tích làm rõ những biểu hiện của sự tích hợp yếu tố tượng
trưng Đông - Tây trong Thơ mới trên các bình diện: Kiến tạo thi ảnh và tổ
chức văn bản thơ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thơ mới là hiện tượng nổi bật của quá trình hiện đại hóa. Nó, tất nhiên, chịu
tác động và ảnh hưởng thơ Pháp, nhưng đồng thời cũng không tách rời nền tảng thơ
ca dân tộc mà thơ ca dân tộc có tiếp nhận ảnh hưởng sâu sắc từ thơ Đường. Việc
nghiên cứu sự tiếp biến, tích hợp là để soi sáng đầy đủ quá trình hình thành, tồn tại phát
triển của Thơ mới.
Thơ mới tích hợp nhiều yếu tố như cổ điển, lãng mạn, siêu thực…Tuy nhiên
nghiên cứu tất cả các yếu tố tích hợp trên thì rất rộng, vượt quá khả năng của luận án.
Ở đây, luận án chỉ dừng lại việc tìm hiểu khía cạnh tích hợp Đông -Tây trong Thơ
mới qua một phương diện cụ thể là yếu tố tượng trưng. Chúng tôi xác định đối tượng

nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu sự tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới thông
qua yếu tố tượng trưng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sự tích hợp Đông - Tây diễn ra trong nhiều lĩnh vực, nhưng trong giới hạn
của luận án, chúng tôi tập trung vào yếu tố tượng trưng trong Thơ mới. Ảnh hưởng
tượng trưng phương Đông phương Tây được Thơ mới tiếp biến có thể tìm thấy ở
nhiều hiện tượng thơ phương Đông và phương Tây, nhưng các nhà nghiên cứu đã


5

chỉ ra nguồn ảnh hưởng trực tiếp nổi trội là thơ Đường và thơ Pháp. Vì vậy trong
luận án chúng tôi chỉ tập trung vào yếu tố tượng trưng của thơ Đường và thơ Pháp
trong Thơ mới.
Luận án tìm hiểu sự tích hợp các yếu tố tượng trưng Đông - Tây qua các tác
phẩm của phong trào Thơ mới (1932 -1945), chú trọng đi sâu vào các tác giả tiêu
biểu như: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Lưu Trọng Lư, Vũ
Hoàng Chương, Đinh Hùng, nhóm Xuân Thu nhã tập và nhóm Dạ Đài.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thơ mới thành công trong việc tích hợp thơ tượng trưng Pháp và thơ Đường.
Nghiên cứu Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng trưng, chúng tôi
sẽ phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu. Trong đó, sẽ thường xuyên sử dụng một
số phương pháp chính sau đây:
4.1. Phương pháp hệ thống - cấu trúc

Luận án ý thức đặt các yếu tố trong một chỉnh thể thống nhất, toàn vẹn để làm rõ
mối quan hệ nội tại của nó. Cụ thể ở đây, chúng tôi sẽ luận giải yếu tố tượng trưng của
Thơ mới trong sự liên hệ đa chiều với thi phái tượng trưng Pháp và thơ ca phương
Đông (thơ Đường). Bên cạnh đó, khi bình giá các vấn đề về tác giả, tác phẩm và
những biểu hiện của yếu tố tượng trưng, người viết không xem xét một cách cô lập mà

đặt nó trong một hệ thống để xác định các sắc độ tiếp biến nghệ thuật tượng trưng ở
mỗi nhà thơ.
4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
Dùng phương pháp này luận án khảo sát yếu tố tượng trưng trong Thơ mới tiếp
cận từ góc độ quan niệm nghệ thuật, đặc trưng nghệ thuật, tư duy nghệ thuật, tổ chức
văn bản, liên văn bản…
4.3. Phương pháp liên ngành
Luận án sẽ vận dụng phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác như:
lịch sử, xã hội học, phân tâm học, nhân học văn hóa,...khi cần, nhằm phân tích và lý
giải các hành vi và sản phẩm sáng tạo mới mẻ, phức tạp xuất hiện trong luận án.
4.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp này giúp luận án chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt,


6

tiếp biến và cách tân giữa thơ tượng trưng Pháp và tượng trưng phương Đông (thơ
Đường), giữa khuynh hướng thơ tượng trưng và các khuynh hướng thơ khác, giữa
các nhà thơ theo khuynh hướng tượng trưng; qua đó, làm nổi bật yếu tố tượng trưng
các nhà thơ mới.
4.5. Phương pháp phân tích tổng hợp
Luận án sử dụng phương pháp này để phân tích tác giả, tác phẩm văn học. Trên
cơ sở ấy, chúng tôi rút ra những kết luận mang tính tổng hợp, khái quát về đặc trưng
thẩm mỹ và thi học của yếu tố tượng trưng trong phong trào Thơ mới.
5. Đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới, nhìn từ yếu tố tượng trưng,
luận án có những đóng góp mới sau:
- Một là, luận án là công trình chuyên biệt lần đầu tiên nghiên cứu trực diện
những biểu hiện tích hợp các yếu tố tượng trưng Đông - Tây trong Thơ mới.
- Hai là, thuyết minh ngắn gọn, sáng rõ các khái niệm cơ bản như Tích hợp, Thơ

mới, Yếu tố tượng trưng… lý giải sự tiếp biến và khẳng định sự hiện diện của yếu tố
tượng trưng trong Thơ mới.
- Ba là, chỉ ra Thơ mới tích hợp Đông - Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng.
- Bốn là, tìm ra dấu ấn tượng trưng Đông - Tây trong tổ chức tứ - hình - nhạc của
văn bản Thơ mới.
- Năm là, khẳng định quá trình tích hợp Đông - Tây chính là qui luật của sự
giao lưu và tiếp biến làm cho thơ Việt đạt tới thành tựu tư duy nghệ thuật mới ,
góp phần lý giải một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm nên giá trị và
thành công của phong trào Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945, bằng góc nhìn tích hợp,
luận án vận dụng những kiến thức của thơ tượng trưng, soi chiếu vào Thơ mới để từ đó
nhận diện những chân dung thơ góp công đắc lực vào quá trình hiện đại hóa văn học.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo nội dung luận án được cấu trúc
gồm bốn chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở tiếp biến và sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới
Chương 3. Tích hợp Đông - Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng


7

Chương 4: Tích hợp Đông - Tây trong tổ chức văn bản thơ


8

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thuyết các khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm, sự hình thành và đặc trưng thẩm mỹ của Thơ mới
Hiện nay giới học thuật có hai cách hiểu Thơ mới. Thứ nhất, Thơ mới được dùng
để chỉ toàn bộ thơ của quá trình hiện đại hóa, trong đó bao gồm cả nhà thơ “hiện thực”
như Tú Mỡ, Đồ Phồn… Thậm chí, ngay cả những nhà thơ cách mạng, tiêu biểu là Tố
Hữu. Thứ hai, Thơ mới là loại hình thơ gắn với khuynh hướng thơ lãng mạn để phân
biệt hai khuynh hướng còn lại là cách mạng và hiện thực, đồng thời phân biệt các thi
phái thơ ca như tượng trưng, siêu thực…
Ở đây, luận án tiếp cận cách hiểu thứ hai: Thơ mới là loại hình thơ gắn với
khuynh hướng lãng mạn chứ không phải toàn bộ thơ trong quá trình hiện đại hóa văn
học. Nhìn trên phương diện khuynh hướng, tổ chức, đội ngũ thì Thơ mới là cả một
phong trào thơ rộng lớn. Do các tác giả theo khuynh hướng lãng mạn chiếm số lượng
áp đảo và sáng tác của họ là nền tảng cơ bản, nên lâu nay nhiều khuynh hướng nghiên
cứu vẫn quen nhìn nhận Thơ mới là phong trào thơ ca lãng mạn. Ngoài ra, trong thơ
một số nhà thơ, nhóm Thơ mới còn mang ít nhiều dấu ấn của khuynh hướng tượng
trưng, siêu thực(Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, nhóm “Xuân Thu nhã tập”…).
Vậy, có thể khẳng định: Phong trào Thơ mới là một hiện tượng thơ lôi cuốn đông đảo
người làm thơ, yêu thơ hưởng ứng. Trong đó, khuynh hướng chủ yếu là lãng mạn, thể
hiện tiếng nói của cái tôi cá nhân cá thể với nhiều biểu hiện mới lạ, phong phú. Ngày
nay, khi nhìn lại Thơ mới, có thể quả quyết đây là một sự kiện thiết yếu đồng thời đánh
dấu bước đột khởi trong lịch sử thơ ca và văn học dân tộc. Công lao lớn nhất của nó
cần được ghi nhận là đã thực hiện thành công cuộc cách tân sâu sắc có ý nghĩa quyết
định trong công cuộc hiện đại hóa thơ ca và văn học nước nhà, từ đó mở ra một thời
đại trong thi ca, mở đầu cho một hành trình mới của thơ Việt Nam hiện đại.
Về phương diện văn bản, Thơ mới là một loại hình thơ ca, là hiện tượng thơ lớn
nhất ở thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX. Cuộc xung đột và gặp gỡ với phương Tây trên
nhiều phương diện đã tạo nên những biến thiên lớn trong đời sống dân tộc, nhất là
trên lĩnh vực ý thức hệ tư tưởng, văn hóa, văn học. Sự bừng tỉnh của cái tôi cá nhân
và nhu cầu khẳng định cá thể một cách bức thiết, yêu cầu hiện đại hóa văn học nảy
sinh trên những tiền đề lịch sử văn hóa, xã hội những năm đầu thế kỷ chính là



9

nguyên nhân đặc thù trực tiếp thôi thúc buộc Thơ mới phải ra đời như một tất yếu
lịch sử, giải phóng thơ Việt thoát khỏi những khuôn khổ mang tính quy phạm chặt
chẽ của loại hình thơ trung đại để bước sang phạm trù hiện đại với một loại hình thơ
mang tinh thần tự do, tự do về biểu hiện tư tưởng, cảm hứng, tự do về cách thức thể
hiện, nghĩa là không còn bị ràng buộc bởi một quy phạm không cần thiết nào. Sự giải
phóng tinh thần trong Thơ mới đòi hỏi những cách thức biểu hiện phù hợp cùng với sự
ra đời của cái tôi cá nhân, nó đồng thời đưa lại một quan niệm hoàn toàn mới về thơ,
sáng tạo ra một hệ thống thi pháp mới cho phép thay thế hệ thống thi pháp thơ trung
đại ngự trị hàng nghìn năm, trong đó đặc biệt đề cao quan điểm cá nhân, mang lại cho
thơ một nhãn quan ngôn ngữ mới, cách thức thể hiện mới, và một hệ thống thể thơ
mới. Thơ mới đã có công giải phóng thơ ra khỏi chức năng tải đạo, ngôn chí của quan
niệm thơ ca truyền thống, đưa lại một quan niệm mới về thơ: thơ trước hết là của cái
đẹp, của cảm xúc thành thực và tự do. Nhìn chung, các nhà thơ mới tôn thờ cái đẹp
thuần túy, một cái đẹp nếu thoạt nhìn có vẻ xa lạ với lí trí và lợi ích, đặc biệt chú trọng
đề cao rung cảm trong sáng tạo thơ ca. Thơ mới đã làm một cuộc tổng duyệt đánh giá
lại các thể thơ tiếng Việt, tiếp thu cái tốt đẹp trong thơ truyền thống đồng thời học tập
một cách có sáng tạo thơ ca nước ngoài nhất là thơ Pháp, tìm những hình thức mới lạ,
phong phú cho thơ. Quan niệm mới về nghệ thuật, con người, nhãn quan ngôn ngữ
mới, cách thức thể hiện mới,…với chừng ấy đổi thay, Thơ mới đã thực sự thuộc loại
hình thơ trong tiến trình thơ Việt Nam. Thơ mới cũng là một sự kiện lớn trong lịch sử
văn học dân tộc, là cuộc biến đổi lớn lao về thi pháp và tư duy thơ, nhất là thể thơ.
Nhưng cuộc biến đổi không phải là một sự thay thế hoàn toàn cái cũ bằng cái mới mà
dựa trên cơ sở tiếp thu có sáng tạo những tinh hoa văn học truyền thống. Thơ mới đi
vào quỹ đạo hiện đại mà không thoát li nguồn mạch dân tộc và văn chương nước nhà,
vừa mang nội dung đổi mới vừa bao hàm ý nghĩa kế thừa truyền thống. Trong khi chờ
đợi một thế hệ trẻ được đào luyện trong các trường Pháp - Việt thực thi cuộc cách tân
thể thơ, thế hệ các nhà thơ trong hai thập kỷ đầu có gắn bó với cái học cũ đã tích cực

thể nghiệm các thể thơ truyền thống nhằm cách tân nền thơ ca nói chung.
Với tư cách là một loại hình thơ ca, Thơ mới còn đòi hỏi được chú ý một cách cụ
thể, đa dạng hơn nữa. Phong trào văn học này xứng đáng là cuộc cách tân thơ ca lớn,
triệt để và toàn diện từ nội dung, cảm hứng đến hình thức nghệ thuật.


10

1.1.2. Khái niệm tích hợp Đông - Tây trong nghiên cứu văn hóa, văn học
Các nhà thơ mới đã tiếp nhận thơ tượng trưng trong sự dung hợp yếu tố tượng
trưng phương Tây với yếu tố tượng trưng của truyền thống thi ca phương Đông, làm
nên một khuynh hướng thơ mang bản sắc Việt Nam. Theo định vị của luận án,
phương Tây được dùng để chỉ văn học phương Tây (chủ yếu là thơ theo trường phái
tượng trưng thế kỷ XIX của Pháp), còn phương Đông được dùng để chỉ văn học
phương Đông chủ yếu là thơ Đường, (các bài thơ của các tác giả sống, sáng tác trong
khoảng gần 300 năm dưới thời nhà Đường (618 - 907).
Về từ nguyên, tích hợp (Integration) có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa là
xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở các bộ phận riêng lẻ, tức là
kết hợp các phần, các bộ phận với nhau trong một tổng thể. Ở đây cũng cần phân biệt
các khái niệm Tích hợp, hỗn hợp và kết hợp. “Tích hợp là lắp ráp kết nối các thành
phần của một hệ thống theo quan điểm tạo nên một hệ thống toàn bộ” [99]. Hỗn hợp là
hai hay nhiều chất trộn lẫn với nhau có thể tạo thành một hỗn hợp, trong hỗn hợp, mỗi
chất giữ nguyên tính chất của nó. Còn kết hợp là các yếu tố gắn kết với nhau để bổ
sung, hỗ trợ cho nhau, là sự cộng ghép có tính chất cơ học. Tích hợp không phải là
phép tính cộng cơ học của các yếu tố như hỗn hợp và kết hợp mà ở đó các yếu tố hòa
trộn vào nhau thành một thể mới, các yếu tố không còn giữ nguyên mà có sự thay đổi
hoàn toàn về chất, chúng hòa hợp với nhau đan xen và chuyển hóa vào nhau để tạo ra
một sản phẩm khác, mang tính chất khác. Đó chính là sự hấp thu, kết hợp nhuần
nhuyễn nhiều nguồn khác nhau, đặc điểm của tích hợp là tính nhiều nguồn.
Trong văn hóa, văn học, chúng ta hiểu các khái niệm “Đông” và “Tây” mang

nghĩa khu vực văn hóa. Giữa hai khu vực này trong lịch sử đã có sự giao lưu tiếp nhận
chuyển hóa đặc biệt trong thời kỳ có sự biến động về lịch sử. Tích hợp Đông - Tây
trong Thơ mới là sự hòa hợp, hóa hợp các yếu tố với nhau, đan xen, chuyển hóa vào
nhau để tạo ra một sản phẩm mới, thực chất là sự giao thoa, tiếp biến văn hóa rồi đến
văn chương, sự hấp thu nhuần nhuyễn các yếu tố phương Đông (thơ Đường) và
phương Tây ( thơ Pháp).
1.1.3. Khái niệm thơ tượng trưng và yếu tố tượng trưng trong thơ
1.1.3.1. Nghĩa hẹp: Yếu tố tượng trưng - đặc tính của một trào lưu văn học
Người ta biết khái niệm chủ nghĩa tượng trưng (Symbolisme), bắt đầu từ tờ báo
Le Figaro ra ngày 18/9/1886, khi Jean Moreas, một trong những nhà thơ tượng trưng
đăng Tuyên ngôn thơ tượng trưng công bố với người đọc sự ra đời của một thời đại


11

mới trong thơ ca Pháp. Đi gần hết chặng đường đầu tích cực, trong cái nhìn của các
nhà tượng trưng, thi ca lãng mạn cả hình thức và nội dung đã nặng nề không diễn đạt
nổi những giá trị cao cả thuần túy của thơ nữa.
Khái niệm tượng trưng (symbol), chủ nghĩa tượng trưng (symbolisme), là một
chủ nghĩa thẩm mĩ mới đi xa hơn chủ nghĩa lãng mạn (romantisme). Nó muốn đi vào
lĩnh vực siêu hình, đi tìm bề sâu của cái tôi (le Moi) và cái tôi đa ngã (le Moi multiple)
hoặc cái tôi chưa biết (le Moi inconnu). Nó muốn khám phá và phát hiện về bề khác
của sự vật. Nó còn được coi là một hình thức luyện kim thơ …Nó quan niệm cái đẹp
khác hẳn chủ nghĩa cổ điển và lãng mạn. Với thi phái tượng trưng, thơ là hòa điệu của
âm thanh, màu sắc và hương thơm (Correspondence - Baudelaire) và nhạc là trước hết
(Verlaine). Thơ tượng trưng là một nghệ thuật thuần túy, nó không đề cập đến các vấn
đề chính trị và xã hội, mà là một thẩm mĩ phẩm, đôi khi người ta tiếp cận nó như nhạc
và tranh. Ngoài ra nó chống lại chủ nghĩa lý tính, duy thực, nó diễn tả về cái chưa biết
hoặc khó nắm bắt được một cách cụ thể, rõ ràng, nó nói về cái mơ hồ, về thân xác hoặc
cái huyền bí. Tượng trưng là cách diễn tả một cái gì lớn hơn sự vật, sâu sắc hơn sự vật

(với thơ Đường là sư uyên bác, cô đúc, kín đáo, thâm thúy), với thơ tượng trưng Pháp
là cái mới lạ, khác thường thậm chí dị thường. Chủ nghĩa tượng trưng có ý thức phản
đề lại thơ lãng mạn. Thơ lãng mạn là bước tiến quan trọng của giải phóng cá nhân. Cá
nhân đứng ở trung tâm cảm nhận, khám phá thế giới và lần đầu được công khai thành
thực với chính mình. Đó là thứ thơ chú trọng tình cảm. Sức mạnh của nó là ở sự
đồng cảm, đồng điệu. Thơ tượng trưng lại khai thác thế giới tâm linh (cái phi lý, cái
chủ quan, cái không nhất thiết, cái vô thường…).Thơ vì thế chú trọng những biểu
hiện của trực giác linh thiêng. “Thơ tượng trưng là tiếng nói của thế giới, là khát
vọng tìm kiếm cái bí ẩn đằng sau, bao gồm bản chất của thế giới, các hiện tượng tâm
linh con người, thế giới cảm giác và vô thức” [115, tr. 68]. Đó là điểm nổi bật của sự
khác biệt của thơ tượng trưng với thơ lãng mạn. Đồng thời chính vì đi sâu vào vô
thức, những nhà tượng trưng chủ nghĩa cho rằng giữa con người - vũ trụ có những
mối tương giao thần bí mà mọi sự mô tả đều vô nghĩa. Tuy nhiên, sự mở đầu của thi
phái tượng trưng sớm hơn nhiều, tiếp ngay sau sự kết thúc thời kỳ thịnh vượng của
trào lưu lãng mạn của Lamartine, Vigny, Musset… bắt đầu cùng với sự xuất hiện của
tập thơ Những bông hoa ác, của Baudelaire, năm 1857. Tuy chủ nghĩa tượng trưng
không có cuộc đời dài như một số trường phái nghệ thuật khác nhưng nó có một vận
mệnh văn học đặc biệt. Thơ tượng trưng đã mở ra cho thơ Pháp nói riêng và rộng


12

hơn là châu Âu một thời kỳ mới - thơ hiện đại, với cảm xúc mới, ngôn ngữ mới và
những khả năng thể hiện mới của thế giới đời sống và tâm hồn muôn mặt của con
người hiện đại. Chủ nghĩa tượng trưng khởi phát từ Pháp nhưng với ưu thế và những
nét riêng trong nhận thức thế giới và đời sống, với những tiềm năng thẩm mỹ mới mẻ
trong thực tế nó đã trở thành khuynh hướng chủ đạo của thơ châu Âu ở thập niên
cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, mở rộng từ châu Âu ra châu Á trong đó có nền
văn học Việt Nam.
Về cơ sở thời đại: Sau sự thành công của cách mạng tư sản Pháp 1789, hầu hết

các nhà văn lãng mạn bị cuốn hút bởi cơn lốc lịch sử, họ kỳ vọng lịch sử sẽ có một
hướng đi đúng về miền ánh sáng và đẹp đẽ. Sau cuộc chính biến của Napoléon tiểu đế
(Napoléon petit), năm 1851 nước Pháp bước vào thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, tính chất
thù địch của hiện thực đời sống với nghệ thuật bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Nhìn vào
nước Pháp thế kỷ XIX, ta thấy đầy đủ hơn lý do thời đại dẫn đến sự ra đời của thơ
tượng trưng. Chủ nghĩa tượng trưng nảy sinh trên cơ sở ý thức được nỗi đau khổ về tự
do tinh thần của các nghệ sĩ, mọi giá trị tinh thần bị băng hoại chìm trong thời kỳ nước
Pháp đế quốc. Chống lại chủ nghĩa tôn thờ vật chất và sự cằn cỗi về vật chất, những
triệu chứng phản ứng xã hội nảy sinh. Những năm 70, 80 của thế kỷ XIX, tại thủ đô
Paris xuất hiện ngày càng nhiều các nhà văn, nhà thơ phản ứng lại thực tại tư sản. Họ
nhận ra sự trì trệ, ngưng đọng và cần lối thoát, bất mãn với hiện thực, tư tưởng sùng
bái các thần tượng như văn học đầu thế kỷ XIX bị lung lay dữ dội. Một làn sóng xã hội
đầy tính nổi loạn từ ăn mặc sinh hoạt đến thái độ đối với các giá trị tinh thần truyền
thống. Họ nhận ra nền văn minh đang bị suy thoái, những gì hàn lâm, cũ kĩ cần phải
phá bỏ để làm lại. Những phản ứng như vậy thoạt đầu có vẻ phá phách, nổi loạn, vô
chính phủ, nhưng chiều sâu vấn đề có một lôgic khác, đó là nhu cầu về sự đổi mới,
trong đó có đổi mới về nghệ thuật - cốt lõi trong đời sống tinh thần của nước Pháp.
Cuối thế kỷ XIX, bước ngoặt của văn học Pháp thực sự có tính nổi loạn để bước ra
khỏi tình trạng u ám của hiện thực. Sự nổi loạn đó là bi kịch của một thế hệ các nghệ sĩ
vô vọng trong ảo tưởng về những điều tốt lành của hiện thực mà nhiều thế hệ đã theo
đuổi. Từ đó có thể hiểu rằng tại sao sự nổi loạn phá phách, thậm chí là suy đồi của các
nhà thơ tượng trưng vẫn thường được giới phê bình phương Tây đánh giá với một thái
độ trân trọng.
Về cơ sở đời sống văn học: Chủ nghĩa tượng trưng là thi phái ra đời trên cơ sở
vừa tiếp thu vừa phủ nhận thơ lãng mạn và thơ của phái Thi sơn (Parnasse). Các nhà


13

thơ tượng trưng cho rằng, thơ đối với họ không phải chỉ là sự mô tả sự vật với hình

dáng, màu sắc, đường nét rõ ràng mà cần phải đem lại cái gì đó mơ hồ, bí ẩn. Chính
điều đó mới tạo ra niềm vui thú và sự sáng tạo. Các nhà thơ tượng trưng chống chủ
nghĩa hình thức của trường phái vị nghệ thuật nhưng lại thấy đối với thơ thực sự phải
có những yêu cầu khắt khe về cách thức biểu hiện. Nhiều nhà thơ tượng trưng, trước
hết là nhà thơ Baudelaire trân trọng, đồng cảm với phái Thi sơn, vì họ nhận ra các nhà
thơ này một điều rất quan trọng, đằng sau quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật là thái
độ phản ứng, bất mãn trước tình thế hiện thực đang bị thống trị bởi chủ nghĩa vị lợi.
Thái độ của các nhà thơ tượng trưng đối với các trường phái thơ khác như lãng mạn,
Thi sơn là lối ứng xử nghệ thuật hợp lý, có nhiều điểm tích cực. Đứng trên phương
diện nội dung “Tượng trưng xuất phát từ quan niệm nhìn nhận thế giới như một thể
thống nhất âm u và sâu xa” (Baudelaire). Theo đó, mọi vật trong vũ trụ đều là những
biểu tượng đa nghĩa. Với chủ nghĩa tượng trưng, vũ trụ là một khu rừng biểu tượng,
ở đó diễn ra những tương ứng, những mối liên hệ đột khởi của ý thức và vô thức, phù
du và vĩnh cửu. Và tượng trưng chính là một thi pháp để biểu hiện cách nhìn thế giới
độc đáo đó. Tượng trưng còn được tạo ra bởi các thao tác nghệ thuật đơn thuần trong
kĩ thuật làm thơ như việc sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh tượng trưng mà
theo Baudelaire, là sản phẩm siêu việt ở trạng thái thăng hoa của toàn bộ con người
tinh thần của người nghệ sĩ. Tức là muốn đạt đến tượng trưng, người nghệ sĩ phải
huy động toàn bộ con người cảm xúc, con người cảm giác luôn hòa nhập với thế giới
tâm linh ở cõi siêu nghiệm, để đạt đến trạng thái siêu thăng, người nghệ sĩ phải là
nhà thấu thị xây dựng lên những biểu tượng tượng trưng từ đó mang đến cho văn học
năng lực thẩm thấu thế giới từ mọi góc độ và nhiều bình diện cùng một lúc.
Thơ tượng trưng đem lại một cách nhìn mới về thế giới. Với những điều đã làm
được, chủ nghĩa tượng trưng trở thành một hiện tượng thơ đầy quyến rũ. Đó là một
hiện tượng thơ mà tiềm năng thẩm mỹ dường như không bao giờ vơi cạn. Những nhà
thơ mới Việt Nam trong buổi chuyển giao mới - cũ cũng đã nhìn thấy từ nguồn thơ
tượng trưng những gợi dẫn vô cùng có ý nghĩa, từ đó họ sáng tạo góp phần nâng cao
thơ dân tộc lên một tầm mới: Thơ hiện đại.
1.1.3.2. Nghĩa rộng: Yếu tố tượng trưng- thủ pháp biểu nghĩa
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, tượng trưng có thể coi là một biện pháp tu từ, qua

đấy sự vật được biểu hiện bằng những ước lệ, thường là những ẩn dụ cố định: hoa


14

hồng, ong bướm, tùng, cúc, trúc, mai…“hình tượng nghệ thuật cũng chính là một
tượng trưng vì một mặt vừa cho thấy đặc điểm của nó, mặt khác lại bộc lộ một ý nghĩa
phổ biến, sâu rộng hơn cái sự vật, cá biệt được miêu tả” [115, tr.60]. Tính tượng trưng
là một đặc tính cơ bản có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc biểu đạt, nó tạo nên
những cách liên tưởng độc đáo và góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm.
Bản thân ngôn từ đã mang nghĩa tượng trưng. Ngôn từ khi đi vào hoạt động giao tiếp
trong những hoàn cảnh nhất định thì lại tạo ra những nét nghĩa mới. Quá trình tạo
nghĩa là quá trình đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, đi từ nghĩa đen đến nghĩa bóng
hay còn gọi là nghĩa tượng trưng. Những loại hình ảnh thường được dùng làm chất liệu
tượng trưng trong thơ ca là: thiên nhiên, con người…Chẳng hạn như mượn các dấu
hiệu trong thiên nhiên (natural symbols) để biểu đạt nội dung, ví dụ như ngôi sao
tượng trưng cho hi vọng, mặt trời mọc gợi lên một cái gì mới bắt đầu… Các loại hình
này qua cơ chế liên tưởng, tương đồng đã tạo nên tính tượng trưng của thơ ca.
Trong phong cách học, tượng trưng là tên gọi chung cho những hình ảnh ẩn dụ và
hoán dụ có tính chất tương đối bền vững, phổ biến. Tượng trưng cũng là nguyên lí
chung cho cả ẩn dụ và hoán dụ trong ngôn ngữ nghệ thuật và trong các loại hình hoạt
động nghệ thuật, hơn thế, hoạt động xã hội của con người nói chung: lấy một hình thức
cảm tính nhất định để biểu đạt một đối tượng khác, không đồng nhất với hình thức
cảm tính đó nhưng có một mối quan hệ chặt chẽ về một góc độ nào đó. Giá trị của
tượng trưng là ở chỗ lặp đi, lặp lại nhưng không sáo mòn do người sử dụng đặt đúng
văn cảnh của nó. Tượng trưng thông qua quá trình miêu tả một sự vật cụ thể, tạo nên
một hình ảnh sinh động, mới mẻ, coi đó là hình thức tượng trưng, có tác dụng gợi sự
liên tưởng từ phía người đọc, nhằm gửi gắm một cách trực tiếp hoặc ám thị ra những
khái niệm, tình cảm mang tính trừu tượng; cách làm này vừa khiến hình ảnh cụ thể do
có thêm nét nghĩa tượng trưng nên sinh động, mới mẻ và sâu sắc thêm, vừa khiến ý

nghĩa tượng trưng nhờ có hình ảnh cụ thể nên biến thành cụ thể hơn, dễ cảm hơn; nhờ
đó không chỉ tính biểu cảm của nghệ thuật được tăng lên, mà tư tưởng của tác phẩm
cũng trở nên sâu sắc hơn. Trên thực tế, tượng trưng thường được cấu thành bởi hai yếu
tố: Một là cần thiết phải có một sự vật, (trong thơ ca dùng thuật ngữ hình ảnh) cụ thể;
hai là, cần thiết phải có một nội dung hoặc ý nghĩa trừu tượng. Thông qua việc dùng
(sự vật hoặc hình ảnh) cụ thể, ám thị nội dung hoặc ý nghĩa trừu tượng, cái mà chúng
ta có được chính là tượng trưng. Có thể nói, đặc trưng ám thị chính là bản chất của
tượng trưng.


15

Trong lĩnh vực văn học, tượng trưng chính là một dạng chuyển nghĩa. Tượng
trưng khác với kí hiệu đơn giản, tượng trưng mang tính hàm súc và đa nghĩa. Sự tiếp
hợp của hai bình diện nội dung của hình tượng và nghĩa bóng của nó, khi đó sẽ mang ý
nghĩa tượng trưng. Ở mức giới hạn mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật, thậm chí cả
nhân vật, nhan đề tác phẩm đều có thể trở thành tượng trưng. Theo từ điển tiếng Việt:
“Tượng trưng là dùng một sự vật cụ thể có tính hình thức hoặc tính chất thích hợp để
gọi ra sự liên tưởng đến cái trừu tượng nào đó. Ví dụ chim bồ câu tượng trưng cho hòa
bình, sư tử tượng trưng cho sức mạnh, xiềng xích tượng trưng cho nô lệ, hoa tượng
trưng cho cái đẹp” [99, tr.1046]. Ví dụ: Hình ảnh cụ thể mặt trời ngoài bản thân mang
nghĩa là một vật phát sáng, nó còn hàm nghĩa quang minh, đồng thời còn hàm ý nguồn
gốc của sự sống. Như vậy, trước hết cần thiết phải có mặt trời với tư cách vật tượng
trưng mang hình ảnh cụ thể, sau đó tính ám thị mới có thể sản sinh. Tượng trưng tất
yếu phải thể hiện ra kết quả của ám thị, đó chính là ý nghĩa, và ý nghĩa này lại có mối
quan hệ nội tại với vật dùng để ám thị. Ví dụ: Sông Hoàng Hà với tư cách vật tượng
trưng, ý nghĩa nhất định mà nó thể hiện chính là nền văn minh lâu đời của dân tộc
Trung Hoa, nhưng chúng ta đều biết từ bao đời nay, mọi hoạt động, sinh hoạt của dân
tộc Trung Hoa đều diễn ra tại lưu vực sông Hoàng Hà, thế nên Hoàng Hà được xem là
“cái nôi” nâng đỡ và nuôi lớn nền văn minh Trung Hoa. Hiểu theo nghĩa trên có thể

thấy, tượng trưng chính là một kiểu ngôn ngữ của đời sống. Đồng thời tượng trưng
cũng là thứ ngôn ngữ thứ hai của các lĩnh vực nghệ thuật: hội họa, âm nhạc, điêu
khắc, vũ đạo…“Khái niệm tượng trưng vừa mang nghĩa rộng là một phạm trù thẩm
mĩ, vừa được giới hạn lại để chỉ một phương thức chuyển nghĩa trong ngôn từ nghệ
thuật” [94, tr.1998].
Tóm lại: Tượng trưng về bản chất là một kiểu ám thị, nên bất kì lúc nào cũng đều
cần đến sự tồn tại của vật (dùng để ám thị) còn gọi là vật tượng trưng. Ở đây, vật ám
thị dùng để tượng trưng tất yếu phải là một vật cụ thể, đầy đủ hình ảnh, nó cần thiết
dùng khái niệm để thuyết minh, hơn nữa, từ sự vật hình ảnh cụ thể, có thể đạt tới khá
nhiều nét nghĩa, như vậy, khả năng hàm nghĩa của nó là hết sức phong phú. Như vậy,
tượng trưng là dùng sự vật này để ám gợi sự vật kia, trong đó sự vật kia được ẩn đi,
chính vì vậy nội hàm của sự vật được gợi mở với nhiều tầng ý nghĩa, khơi dậy
tưởng tượng của người tiếp nhận.


16

1.1.3.3. Cách tiếp cận yếu tố tượng trưng của luận án:
Yếu tố tượng trưng trong thơ là sự kết hợp của cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp như đã
trình bày ở trên. Luận án cũng phân biệt yếu tố tượng trưng và biểu tượng: Tựơng
trưng là thủ pháp tư duy, tượng trưng và biểu tượng có lúc đồng nhất với nhau khi
người ta dùng để phân biệt với các thủ pháp khác. Tuy nhiên ở nghĩa hẹp tượng
trưng là thủ pháp của tư duy, còn biểu tượng là kết quả của quá trình tư duy, là sản
phẩm của quá trình tư duy ấy. Từ nhiều hình ảnh sẽ dẫn đến biểu tượng, nhưng không
phải bất cứ trường hợp nào có hình ảnh là có biểu tượng. Tự bản thân chúng, các hình
ảnh không được sử dụng như biểu tượng; chúng trở thành biểu tượng khi được đặt
trong môi trường phù hợp. Một hòn đảo cũng chỉ là một phần đất liền được bao quanh
bởi nước, cho đến khi John Donne nói “không ai là một hòn đảo”, nó đã trở thành biểu
tượng cho sự cô độc, tự cung tự cấp. Như vậy một hình ảnh có thể mang nhiều ý nghĩa
biểu tượng, cũng như nhiều hình ảnh khác nhau có thể được sử dụng để chuyển tải một

ý nghĩa biểu tượng giống nhau.
Thơ lãng mạn biểu hiện bằng hình tượng còn thơ tượng trưng biểu đạt cái tinh thần của
thế giới đầy bí ẩn. Ngôn từ của chủ nghĩa lãng mạn là ngôn từ diễn cảm, còn với chủ
nghĩa tượng trưng ngôn từ là sự tương hợp của những mối quan hệ giữa con người và sự
vật, nghệ thuật của cái bên trong, cái tinh thần của khát vọng cái vô tận, nó khai thác giấc
mơ vô thức. Nó biểu đạt bằng ngôn từ hiện đại, những nhịp thơ siêu tự nhiên, những im
lặng tạo âm vang, những câu thơ đứt nối không ăn khớp. Các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng
sâu sắc các nhà thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, Rimbaud, Verlaine, Mallarmé, tiếp
nhận chung cái thế giới bên trong. Mỗi nhà thơ cảm nhận một góc độ riêng: Xuân Diệu
hương hoa, màu sắc, âm thanh tương ứng, Huy Thông với tiếng ca vũ trụ, Vũ Hoàng
Chương với tính đô thị, Lưu Trọng Lư với âm nhạc mơ hồ, huyền ảo…Tượng trưng trong
Thơ mới là thành quả của sự giao lưu, tiếp nhận, tiếp biến từ nhiều phía: phương Tây và
phương Đông (thơ Pháp và thơ Đường), tiếp cận yếu tố tượng trưng là cánh cửa để đi vào
tìm hiểu thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Yếu tố tượng trưng thuộc về thành phẩm sáng
tạo chủ động gặp gỡ, giao lưu trong quá trình lao động nghệ thuật của các nhà thơ mới.
Không phải đợi đến khi ra đời chủ nghĩa tượng trưng thì mới có yếu tố tượng trưng, yếu
tố tượng trưng là thủ pháp tư duy mà văn học thời nào cũng có, nhưng nó được kết tinh ở
chủ nghĩa tượng trưng, đến chủ nghĩa tượng trưng thì yếu tố tượng trưng được đẩy lên cao
hơn, tập trung hơn.


×