Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TÍCH hợp ĐÔNG tây TRONG THƠ mới NHÌN từ yếu tố TƯỢNG TRƯNG tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.7 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ KIM HẠNH

TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG THƠ MỚI
NHÌN TỪ YẾU TỐ TƯỢNG TRƯNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hà Nội - 2019


Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS.Chu Văn Sơn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2. PGS.TS. Lý Hoài Thu - Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc Gia HN

Phản biện 1: PGS.TS Phạm Xuân Thạch ( Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG HN
Phản biện 2: PGS. TS Tôn Phương Lan ( Viện Văn học)
Phản biện 3: PGS.TS Lê Quang Hưng (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm…


Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
- Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ mới 1932 - 1945 là cuộc cách tân thắng lợi lớn về thơ, đánh dấu một bước
ngoặt lớn trong lịch sử thơ ca và văn học dân tộc, tạo nên một bước ngoặt đưa thơ ca Việt
Nam bước vào thời hiện đại. Do là một hiện tượng văn học chứa đựng nhiều giá trị thẩm
mỹ, Thơ mới vẫn là một hiện tượng độc đáo của thơ Việt cần phải được tiếp tục xem xét.
1.2. Thơ tượng trưng ra đời ở Pháp vào thập niên 60- 70 của thế kỷ XIX. Gần tám mươi
năm hiện tồn trong nền thi ca Việt Nam, thơ tượng trưng không ngừng biến chuyển. Qua mỗi
giai đoạn, ở mỗi nhà thơ, việc tiếp biến các đặc trưng thẩm mỹ, thi học tượng trưng diễn ra rất
linh động, tùy vào thị hiếu mỗi người, và được kết hợp các yếu tố tượng trưng phương Đông và
phương Tây (thơ Pháp và thơ Đường) tạo nên tính đa sắc độ, cho thơ tượng trưng Việt Nam.
1.3. Trước đây đã có nhiều nghiên cứu về sự tích hợp nhìn ở chiều sâu của sự tiếp
biến. Thơ mới tích hợp nhiều yếu tố như lãng mạn, cổ điển, phái Thi Sơn…Tuy nhiên luận
án chỉ dừng lại việc nghiên cứu sự tích hợp ở một điểm là yếu tố tượng trưng của thơ Pháp
và thơ Đường trong Thơ mới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu yếu tố tượng trưng và nhận diện nó trong Thơ mới để thấy sự ảnh hưởng, tác
động của quá trình giao lưu văn hóa thế giới với văn học Việt Nam, từ đó công trình đi đến
những kết luận khoa học, khách quan, khẳng định điểm hội tụ nhiều phương diện cơ bản và đặc
sắc của phong trào Thơ mới là tích hợp tinh hoa của phương Đông (chủ yếu là thơ Đường) và
phương Tây (chủ yếu là thơ theo trường phái tượng trưng TK XIX của Pháp) trong Thơ mới
nhìn từ yếu tố tượng trưng.

2. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ yếu tố tượng trưng luận án
đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Thuyết minh các khái niệm, các thuật ngữ có liên quan đến nội dung cần triển khai
như Tích hợp, Thơ mới, yếu tố tượng trưng…
- Tổng hợp, phân tích khái quát những kết quả nghiên cứu về Thơ mới và sự tích hợp
Đông - Tây trong Thơ mới xoay quanh yếu tố tượng trưng.
- Phân tích những yếu tố tác động đến sự tích hợp Đông - Tây, làm rõ điểm gặp gỡ
Đông - Tây trong cảm quan tượng trưng về thế giới, nhận diện tiến trình thơ tượng
trưng qua những tác giả thơ mới tiêu biểu.


2

- Làm rõ đặc điểm và phương thức biểu hiện của sự tích hợp yếu tố
tượng trưng Đông - Tây trong Thơ mới nhìn từ phương diện kiến tạo thi ảnh
và tổ chức văn bản thơ, chỉ ra cơ chế tích hợp của hai nguồn ảnh hưởng này trong các
tác giả, tác phẩm của phong trào Thơ mới (1932 - 1945).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu cho đề tài này là sự tích hợp yếu tố tượng
trưng của thơ Pháp và thơ Đường trong Thơ mới. Lụận án không bao quát toàn bộ các nhà
thơ mà chỉ chọn những cây bút tiêu biểu, thể hiện ở chỗ, họ có những phát ngôn cho thấy
sự ý thức, chủ động tiếp biến thơ tượng trưng phương Đông và phương Tây.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm Thơ mới, chúng tôi chỉ tập trung vào những
vấn đề cốt yếu, liên quan trực tiếp đến đề tài, cụ thể: nhằm làm sáng tỏ sự tích hợp các yếu
tố tượng trưng trong thơ Pháp và Thơ Đường qua các phương diện như, kiến tạo thi ảnh và
tổ chức thi phẩm…
4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Chúng tôi sẽ luận giải yếu tố tượng trưng
của Thơ mới trong tính hệ thống và sự liên hệ đa chiều với thi phái tượng trưng Pháp
và thơ ca phương Đông (thơ Đường).
4.2. Phương pháp tiếp cận thi pháp học:
Thơ mới thành công trong việc tích hợp thơ tượng trưng Pháp và thơ Đường, dùng
phương pháp này luận án khảo sát yếu tố tượng trưng trong Thơ mới tiếp cận từ góc độ quan
niệm nghệ thuật, đặc trưng nghệ thuật, tư duy nghệ thuật, tổ chức văn bản, liên văn bản…
4.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phối hợp cả nghiên cứu văn học và văn
hóa trong nghiên cứu, đồng thời chúng tôi cũng chú trọng vận dụng thành tựu nghiên
cứu của các ngành khác như: lịch sử, xã hội học, phân tâm học, nhân học văn hóa …
4.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu: Luận án sử dụng phương pháp này để chỉ ra
những điểm tương đồng và dị biệt, tiếp biến và cách tân giữa thơ tượng trưng Pháp và
tượng trưng phương Đông(thơ Đường), giữa khuynh hướng thơ tượng trưng và các
khuynh hướng thơ khác.
4.5. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này dùng để phân tích tác giả,
tác phẩm văn học. Trên cơ sở ấy, chúng tôi rút ra những kết luận mang tính khái quát về
đặc trưng thẩm mỹ và thi học của yếu tố tượng trưng trong phong trào Thơ mới.


3

5. Đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu Tích hợp Đông - Tây trong Thơ mới, nhìn từ yếu tố tượng trưng, luận
án có những đóng góp mới sau:
- Một là, luận án là công trình chuyên biệt lần đầu tiên nghiên cứu trực diện những
biểu hiện tích hợp các yếu tố tượng trưng Đông - Tây trong Thơ mới.
- Hai là, thuyết minh ngắn gọn, sáng rõ các khái niệm cơ bản như Tích hợp, Thơ mới,
Yếu tố tượng trưng… lý giải sự tiếp biến và khẳng định sự hiện diện của yếu tố tượng trưng
trong Thơ mới.
- Ba là, chỉ ra Thơ mới tích hợp Đông - Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng.

- Bốn là, tìm ra dấu ấn tượng trưng Đông - Tây trong tổ chức tứ - hình - nhạc của văn
bản Thơ mới.
- Năm là, bằng góc nhìn tích hợp, luận án vận dụng những kiến thức của thơ tượng
trưng, soi chiếu vào Thơ mới để từ đó nhận diện những chân dung thơ góp công đắc lực vào
quá trình hiện đại hóa văn học. Luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên
cứu, giảng dạy Thơ mới.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo; Nội dung luận án cấu trúc
gồm bốn chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chương2. Cơ sở tiếp biến và sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới
Chương 3. Tích hợp Đông - Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng
Chương 4: Tích hợp Đông - Tây trong tổ chức văn bản thơ
NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thuyết các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm, sự hình thành và đặc trưng thẩm mỹ của Thơ mới
Thơ mới 1932 - 1945 là phong trào thơ lãng mạn, là cuộc cách tân thi ca vĩ đại nhất
trong lịch sử văn học dân tộc. Nhìn trên phương diện khuynh hướng, “tổ chức” - đội ngũ thì
Thơ mới là cả một “phong trào” thơ rộng lớn (chứ không hẹp như “nhóm”, nhóm Tự lực
văn đoàn). Do các tác giả theo khuynh hướng lãng mạn chiếm số lượng áp đảo và sáng tác
của họ là nền tảng cơ bản tạo nên Thơ mới nên lâu nay nhiều khuynh hướng nghiên cứu vẫn
quen nhìn nhận Thơ mới là phong trào thơ ca lãng mạn.


4

Vậy, có thể khẳng định: Phong trào Thơ mới là một hiện tượng thơ lôi cuốn đông đảo
nhiều người làm thơ, yêu thơ hưởng ứng. Nó xứng đáng là phong trào thơ lãng mạn, là cuộc
cách tân thi ca vĩ đại nhất trong lịch sử văn học dân tộc.

Thơ mới 1932 - 1945 vừa với tư cách là một phong trào, vừa với tư cách là một cuộc
cách tân thơ, là hiện tượng thơ lớn nhất ở thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX. Thơ mới ra đời như
một tất yếu lịch sử, giải phóng thơ Việt thoát khỏi những khuôn khổ mang tính quy phạm
chặt chẽ của loại hình thơ trung đại để bước sang phạm trù hiện đại với một loại hình thơ
mang “tinh thần tự do”, tự do về biểu hiện tư tưởng, cảm hứng, tự do về cách thức thể hiện,
nghĩa là không còn bị ràng buộc bởi một quy phạm không cần thiết nào. Thơ mới là quá
trình dịch chuyển của những đặc trưng mang tính loại hình trong kiểu tư duy thơ. Trong tư
cách là một loại hình văn học, hiện tượng văn học, văn hóa, xã hội, với rất nhiều những
khuyết thiếu về tư liệu sáng tác, Thơ mới còn đòi hỏi được chú ý một cách cụ thể, đa dạng
hơn nữa. Với ý nghĩa đó, Thơ mới xứng đáng là cuộc cách tân thơ ca lớn nhất trong lịch sử
văn học Việt Nam thế kỷ XX, một cuộc cách tân triệt để và toàn diện từ nội dung, tinh thần
đến hình thức nghệ thuật.
1.1.2. Khái niệm về tích hợp Đông - Tây trong nghiên cứu văn hóa, văn học
Về từ nguyên, tích hợp (Integration) có nguồn gốc từ tiếng La tinh với nghĩa là xác lập
cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở các bộ phận riêng lẻ, tức là kết hợp các
phần, các bộ phận với nhau trong một tổng thể.
Trong văn học, chúng ta hiểu tích hợp là một trong những nỗ lực tiếp biến văn học,
văn hóa (tiếp thu và biến đổi) để tạo ra một sản phẩm mới. Tích hợp không phải là phép tính
cộng của các yếu tố như hỗn hợp và kết hợp mà ở đó các yếu tố hòa trộn vào nhau thành
một thể mới, các yếu tố không còn giữ nguyên mà có sự thay đổi hoàn toàn về chất, chúng
hòa hợp với nhau đan xen và chuyển hóa vào nhau để tạo ra một sản phẩm khác, mang tính
chất khác. Đó chính là sự hấp thu, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều nguồn khác nhau, đặc điểm
của tích hợp là tính nhiều nguồn.
1.1.3. Khái niệm về thơ tượng trưng và yếu tố tượng trưng trong thơ
1.1.3.1. Nghĩa rộng - Yếu tố tượng trưng như là thủ pháp biểu nghĩa
Tượng trưng là một phạm trù phổ quát của mĩ học, được xác lập thông qua việc đối
chiếu với hai phạm trù kề cận: Một phía là hình tượng nghệ thuật, một phía là kí hiệu. Tượng
trưng là hình tượng được hiểu ở bình diện kí hiệu, và là kí hiệu chứa tính đa nghĩa của hình
tượng. Nghĩa của tượng trưng là cái không thể giải mã bằng nỗ lực lí trí, nó đòi hỏi sự thâm
nhập. Tượng trưng khác với kí hiệu đơn giản, tượng trưng mang tính hàm súc và đa nghĩa.



5

Trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, tượng trưng là một dạng chuyển nghĩa. Sự tiếp
hợp của hai bình diện nội dung của hình tượng và nghĩa bóng của nó, khi đó sẽ là một đối
sánh tượng trưng, hoặc là ẩn kín, sự ám chỉ sẽ nằm ở mạch ngầm văn bản và toàn bộ tác
phẩm sẽ mang ý nghĩa tượng trưng.
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, tượng trưng có thể coi là một biện pháp tu từ, qua đấy
sự vật được biểu hiện bằng những ước lệ, thường là những ẩn dụ cố định: hoa hồng, ong
bướm, tùng, cúc, trúc, mai… Trong sáng tác văn học, tính tượng trưng là một đặc tính cơ
bản có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc biểu đạt, nó tạo nên những cách liên tưởng độc
đáo và góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm.
Trong phong cách học, tính tượng trưng, theo nghĩa rộng nhất có thể xác định là thuộc
tính của lời nói (lời nói nghệ thuật) truyền đạt không chỉ thông tin logic mà cả những thông
tin được tri giác một cách cảm tính (cảm giác, tri giác, biểu tượng) nhờ hệ thống những hình
tượng ngôn từ. Nghệ thuật tượng trưng mang nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhiều tầng ý nghĩa.
Tượng trưng là tên gọi chung cho những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ có tính chất tương đối
bền vững, phổ biến.
1.1.3.2. Nghĩa hẹp - Yếu tố tượng trưng là đặc điểm của một trào lưu văn học
Chủ nghĩa tượng trưng xuất hiện ở phương Tây, trước hết ở Pháp. Thơ tượng trưng
khai thác thế giới tâm linh (cái phi lý, cái chủ quan, cái không nhất thiết, cái vô
thường…).Thơ vì thế chú trọng những trực giác linh thiêng. Sức mạnh của nó là sự gợi cảm
chứ không phải đồng cảm.
Đứng trên phương diện nội dung “Tượng trưng xuất phát từ quan niệm nhìn nhận
thế giới như một thể thống nhất âm u và sâu xa” (Baudelaire) luôn diễn ra những mối
liên hệ giao hòa giữa các sự vật trong vũ trụ, giữa tự nhiên với siêu nhiên, con người với
vũ trụ. Theo đó, mọi vật trong vũ trụ đều là những biểu tượng đa nghĩa. Với chủ nghĩa
tượng trưng, vũ trụ là một khu rừng biểu tượng, ở đó diễn ra những tương ứng, những
mối liên hệ đột khởi của ý thức và vô thức, phù du và vĩnh cửu. Và tượng trưng chính là

một thi pháp để biểu hiện cách nhìn thế giới độc đáo đó.
Tượng trưng còn được tạo ra bởi các thao tác nghệ thuật đơn thuần trong kĩ thuật làm
thơ như việc sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh tượng trưng – chỉ có bình diện cái
biểu đạt, còn cái được biểu đạt được che giấu, mà theo Baudelaire, tượng trưng là sản phẩm
siêu việt ở trạng thái thăng hoa của toàn bộ con người tinh thần của người nghệ sĩ.
1.1.3.3. Cách tiếp cận yếu tố tượng trưng của luận án:
Yếu tố tượng trưng trong Thơ mới là sự tích hợp của cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp như
đã trình bày ở trên. Luận án cũng phân biệt yếu tố tượng trưng và biểu tượng: yếu tố tượng


6

trưng là thủ pháp tư duy phổ biến trong văn học, còn biểu tượng là kết quả, sản phẩm của
thủ pháp tư duy ấy.
Tượng trưng trong Thơ mới là thành quả của sự giao lưu, tiếp nhận, tiếp biến từ nhiều
phía: phương Tây và phương Đông (thơ Pháp và thơ Đường), tiếp cận yếu tố tượng trưng là
cánh cửa để đi vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Yếu tố tựơng trưng thuộc về
thành phẩm sáng tạo chủ động gặp gỡ, giao lưu trong quá trình lao động nghệ thuật của các
nhà thơ mới.
1.2. Lịch sử nghiên cứu
1.2.1. Lược thuật lịch sử nghiên cứu về Thơ mới
Trước năm 1945: Vấn đề nghiên cứu phong trào Thơ mới đã được đề cập từ rất sớm.
Nhìn chung, các công trình nổi bật là Việt Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng
Hàm [40] và Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh - Hoài Chân [132], đã tỏ ra rất nhạy
cảm, xác đáng trong tinh tuyển, tổng duyệt, tổng luận thế nào là Thơ mới, những ý kiến của
các ông rất có ý nghĩa.
Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945: Thơ mới cũng như việc nghiên cứu Thơ mới trải
nhiều thăng trầm. Thành tựu nghiên cứu về Thơ mới trong thời gian này, đáng chú ý nhất là
công trình Phong trào Thơ mới của Phan Cự Đệ [25] cũng khẳng định những đóng góp to lớn
về nghệ thuật của Thơ mới. Trong giai đoạn này, ở miền Nam, Thơ mới được đánh giá cao,

được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Các công trình: Việt Nam văn học sử giản ước
tân biên (tập III, 1961) của Phạm Thế Ngũ, Khảo luận luật thơ của Lam Gian, Những bước
đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới của Bùi Đức Tịnh,…
Từ 1975, sau ngày đất nước thống nhất, vấn đề đánh giá Thơ mới vẫn trượt theo quán
tính phủ định. Từ 1986 (kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI) đến nay, trong bối cảnh thời
kỳ đổi mới, hội nhập (với thế giới), Thơ mới và nhiều hiện tượng văn học tiền chiến được
nhìn nhận lại, được quan tâm, đánh giá một cách bình tĩnh, khách quan và khoa học hơn. Tiêu
biểu là các công trình: Ngôn ngữ thơ (Nguyễn Phan Cảnh) [6], Văn học lãng mạn Việt Nam
1930 - 1945 (Phan Cự Đệ) [34], Thơ mới - bình minh thơ Việt Nam hiện đại (Nguyễn Quốc
Túy) [150], Thi pháp hiện đại (Đỗ Đức Hiểu) [42], Tìm hiểu thơ (Mã Giang Lân) [60], Lịch
sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (Giáo trình lịch sử văn học của Nguyễn Đăng Mạnh) [77],
…. Ngoài ra, còn có dạng các công trình đi vào vấn đề thể thơ thuộc phong cách riêng của các
nhà thơ, như: Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên của Hồ Thế Hà [35], Ba đỉnh cao Thơ
mới Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử của Chu Văn Sơn [124], Thơ tình Xuân Diệu
(Lưu Khánh Thơ) [140], Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng tám 1945 của Lý Hoài Thu
[143], Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu, thời kỳ trước 1945 (Lê Quang Hưng) [50]…


7

Nhìn chung, Thơ mới đã có một bề dày lịch sử nghiên cứu, phê bình, phân tích, đánh
giá và ngày càng có thêm nhiều thành tựu.
1.2.2. Lịch sử nghiên cứu về dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng Pháp trong Thơ mới
Năm 1941, Trần Thanh Mại hoàn thành tập sách: Hàn Mặc Tử - thân thế và thi văn,
công trình chuyên khảo đầu tiên về thơ Hàn. Thi nhân Việt Nam (1942), Hoài Thanh - Hoài
Chân có những đánh giá khá cẩn trọng, khách quan về thơ tượng trưng Pháp, cũng như
sự ảnh hưởng của nó trong phong trào Thơ mới.
Thơ mới những bước thăng trầm của Lê Đình Kị, đã đưa ra cái nhìn tổng quát về
phong trào Thơ mới. Tác giả chỉ ra rằng: “Thơ mới và thơ hiện đại nói chung, đã tìm kiếm
những cách thức mới để nắm bắt và diễn tả những điều khó nắm bắt, vượt ra ngoài khả năng

của thơ truyền thống và một số phong cách nghệ thuật khác” [54]. Phan Cự Đệ trong Phong
trào Thơ mới 1932 – 1945, khi đề cập đến ảnh hưởng của thơ nước ngoài, tập trung trong
phần “Tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài trên cơ sở truyền thống dân tộc” [24
tr.218 – 254] ngoài việc nói về ảnh hưởng của thơ Pháp nói chung, tác giả nhắc đến sự ảnh
hưởng cụ thể của các nhà thơ tượng trưng như Baudelaire, Rimbeau, Verlaire đối với các
thà thơ Việt Nam.
Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, đã dành một số trang viết về 10 nhà thơ tiêu
biểu như Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương,…Khi đề cập mối quan
hệ giữa các nhà thơ Việt Nam, và thơ tượng trưng Pháp, tác giả thấy có sự gần gũi giữa
Xuân Diệu và Rimbeau, Verlaire, một số bài thơ của Thế Lữ phảng phất thơ yếu tố tượng
trưng từ Baudelaire. Trong chuyên luận Một thời đại trong thi ca, bên cạnh khắc họa sinh
động chân dung các nhà thơ mới cùng những đỉnh cao thơ Loạn, Hà Minh Đức chứng minh
các nhà thơ mới Việt Nam học được thơ tượng trưng lối cảm, lối nghĩ và cả lối sống.
Baudelaire, chủ nghĩa tượng trưng của Thơ mới của Hoàng Ngọc Hiến, và Thơ mới
cuộc nổi loạn ngôn từ của Đỗ Đức Hiểu, xuất phát từ những chứng cứ cụ thể từ phong trào
Thơ mới, khẳng định sự hiện diện và tác động tích cực của thơ tượng trưng vào thơ hiện đại
Việt Nam. Hoàng Hưng khi bàn về hành trình đến với chủ nghĩa tượng của phong trào Thơ
mới Việt Nam, đánh giá: “Đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Xuân Thu nhã tập,
Thơ mới đã đi vào quỹ đạo thơ tượng trưng của Âu Mỹ
Trần Thị Mai Nhi trong Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam: Giao lưu gặp gỡ
chứng minh chủ nghĩa tượng trưng là một trường phái của chủ nghĩa hiện đại phương
Tây. Thơ tượng trưng Pháp trên đường du nhập vào văn học thế giới đã dừng chân ở
Việt Nam và để lại dấu tích cho các nhà thơ mới. Phác thảo quan hệ văn học Pháp với


8

văn học hiện đại Việt Nam (NXB Mũi Cà Mau 1998), của Hoàng Nhân thì cho rằng:
Trong quá trình va chạm với văn hóa, văn học Pháp, các nhà thơ hiện đại Việt Nam đã
tiếp thu "có tính chất tổng hợp các khuynh hướng văn học cuối thế kỉ XIX đến thế kỉ

XX như chủ nghĩa tượng trưng, nghệ thuật vị nghệ thuật, chủ nghĩa ấn tượng,
chủ nghĩa siêu thực..." [86, tr.156].
Phạm Văn Sĩ cho ra mắt công trình Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây,
trong đó có bàn đến C.Baudelaire và chủ nghĩa tượng trưng. Viết về tác giả Những bông
hoa Ác cũng như trường phái tượng trưng Pháp, Phạm Văn Sĩ có những nhận định
mang tính phát hiện, khái quát được một số đặc trưng thẩm mỹ và thi học của trường phái
này. Vào đầu thập niên 90, trong không khí đổi mới của đất nước , trong cuộc hội thảo nhân kỉ niệm 60 năm phong trào Thơ mới ra đời (1932 - 1992) nhiều bài viết được Huy
Cận và Hà Minh Đức chọn lọc in thành sách với nhan đề Nhìn lại một cuộc cách mạng
trong thi ca (1993). Trong sự "nhìn lại" đó, không ít người thừa nhận Thơ mới chịu ảnh
hưởng thơ tượng trưng Pháp.
Trần Đình Sử trong Những thế giới nghệ thuật thơ có bài phân tích thơ tượng trưng
và khẳng định ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng đối với các nhà thơ mới Việt Nam. Kế
thừa thành tựu của các học giả đi trước, Trần Huyền Sâm trong tiểu luận Tiếng nói thơ ca
(2002), có những phát hiện mới về sự ảnh hưởng của thi phái tượng trưng Pháp đối với
Thơ mới trên hai bình diện: Quan niệm cái Đẹp và thi pháp.. Các nhà Thơ mới còn học tập
cách tạo nhạc của thi phái tượng trưng Pháp.
Việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với phong trào Thơ
mới , người đầu tiên nghiên cứu vấn đề này một cách hệ thống, công phu và khá toàn diện
là Nguyễn Hữu Hiếu. Năm 2004, ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài
Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưngtrong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945.
Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay, nhất là từ sau năm 1986, việc đánh giá sự ảnh
hưởng của thơ tượng trưng đối với phong trào Thơ mới, có bước chuyển biến tích cực,
mạnh mẽ và gặt hái không ít thành tựu. Khi đánh giá các nhà thơ mới mang yếu tố tượng
trưng, họ có một thái độ bình tĩnh, cẩn trọng và khách quan.
1.2.3. Lịch sử nghiên cứu về ảnh hưởng của thơ Đường trong Thơ mới
Việc nghiên cứu về yếu tố tượng trưng, nói chung vấn đề này cũng được nhắc đến từ
lâu là một vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, tuy nhiên mới chỉ giới
hạn trong khuôn khổ bài viết ngắn chứ chưa được xem xét một cách toàn diện. Trước hết
phải kể đến Hoài Thanh – Hoài Chân, tác giả cuốn “Thi nhân Việt Nam” – Một công trình



9

nghiên cứu và phê bình Thơ mới đầu tiên khá giá trị. Tác giả khẳng định: “Trong hàng
thanh niên chịu ảnh hưởng thơ văn Pháp nhiều người lại quay về Thơ Đường. Thanh thế
Thơ Đường ở nước ta xưa nay bao giờ cũng lớn”. [132, tr. 33].
Ngô Văn Phú trong cuốn “Thơ Đường ở Việt Nam”[105], đã giới thiệu quá trình thâm
nhập của Thơ Đường vào Việt Nam từ nguồn gốc đến những biến đổi, sáng tạo, có giới
thiệu những bài thơ, các nhà Thơ Đường nổi tiếng và các bài Thơ Đường luật tiêu biểu ở
Việt Nam thời trung đại. Hà Minh Đức trong “Khảo luận văn chương” đã phát hiện mối ảnh
hưởng thông qua xu hướng cảm nhận và hòa hợp với thiên nhiên của các nhà Thơ mới, thời
gian thì vô định mà không gian thì hư ảo cùng với tính hàm súc, yếu tố tượng trưng rất tiêu
biểu trong thi pháp.
Nguyễn Xuân Diện – Trần Cảnh Toàn có bài “Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của thơ
Đường đối với Thơ mới” (Tạp chí Hán Nôm – số 3). Tác giả đồng tình với ý kiến cho rằng
chất liệu Đường thi đã khảm sâu và đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong chỉnh thể của thế
giới nghệ thuật Thơ mới. Cuốn Thi pháp thơ Đường của tác giả Nguyễn Thị Bích Hải
nghiên cứu con người, không gian, thời gian nghệ thuật, thể lọai, kết cấu, ngôn ngữ trong
thơ Đường. Khi bàn về ngôn ngữ thơ Đường tác giả cho rằng:“ Thơ Đường thường dùng
hình ảnh ngôn ngữ ước lệ nhưng không sáo mòn.” [39.tr 275].
Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí (từ trung ương đến địa phương),
và các trang website liên quan đến việc nghiên cứu yếu tố tượng trưng trong thơ Đường.
1.2.4. Lịch sử nghiên cứu về sự tích hợp yếu tố tượng trưng của thơ Đường, thơ tượng
trưng Pháp trong Thơ mới
Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của thơ Pháp và thơ Đường trong Thơ mới , Phan Cự Đệ
trong Phong trào Thơ mới viết: “Thơ Đường phần nào cũng có nét giống với thơ tượng
trưng Pháp mà các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng. …” [24, tr.202 – 203].
Có thể thấy, Thi nhân Việt Nam đã có công phát hiện những tài hoa của phong trào
Thơ mới. Hoài Thanh, Hoài Chân viết: “Hai lối thơ Đường và thơ tượng trưng Pháp, có chỗ
giống nhau. Hai lối thơ đều ghét lí luận, ghét kể chuyện, ghét tả chân”. [132, tr. 35,36].

Nhận xét tổng quát trên đã cho thấy, thơ tượng trưng dành được một vị thế ảnh hưởng đáng
kể trong Thơ mới. Về ảnh hưởng thơ ca phương Đông đặc biệt là thơ Đường, và thơ ca
phương Tây đặc biệt là thơ Pháp đối với Thơ mới, Phương Lựu với cuốn Văn hóa, văn học
Trung Quốc cùng một liên hệ ở Việt Nam đã chỉ rõ ảnh hưởng của hai nguồn thơ đối với
Thơ mới.


10

Nguyễn quốc Túy với Thơ mới, bình minh thơ Việt Nam hiện đại(1994), [156] đã
nghiên cứu Thơ mới ở góc độ ảnh hưởng tổng hợp các nền văn hóa: Văn hóa phương
Tây(thơ Pháp), văn hóa phương Đông(thơ Đường). Trong bài “Thơ mới -cuộc nổi loạn ngôn
từ” Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về hệ thống ngôn từ Thơ mới . Đó là sự giao thoa tiếng Việt
với Thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca
lãng mạn Pháp đối với Phong trào Thơ mới không tách rời nhau.
Đi tìm mối quan hệ giữa thơ tượng trưng Pháp với phong trào Thơ mới theo lối
"nghiên cứu ảnh hưởng" (affect study), Phương Lựu chọn cách tiếp cận vấn đề đó theo lối
"nghiên cứu song song" (parallet study), nghĩa là ông không đặt ra việc có ảnh hưởng hay
không, mà Thử tìm nguyên nhân hài hòa giữa thơ Đường với thơ tượng trưng Pháp trong
Thơ mới Việt Nam [88, tr.109]. Lê Thị Anh - tác giả chuyên luận Thơ mới và thơ Đường
(2007) - đã kế thừa quan điểm của vị tiền bối này khi cho rằng: "Thơ Đường hài hòa với
thơ tượng trưng Pháp trong sự tiếp thu của Thơ mới Việt Nam" [3.tr.172].
Bên cạnh những ý kiến, những nhận định mang tính khái quát các bài viết, công
trình nghiên cứu của Hoàng Nhân, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh, Mã Giang
Lân, Nguyễn Lệ Hà, Chu Văn Sơn, Lê Quang Hưng… cũng đã đề cập đến những khía
cạnh ảnh hưởng cụ thể của thơ tượng trưng đến thi pháp của các nhà thơ mới.
Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài
Thứ nhất: Điểm lại lịch sử nghiên cứu và phê bình thơ 1932 – 1945, trong đó có vấn
đề yếu tố tượng trưng và ảnh hưởng của nó vào Việt Nam, ta thấy Thơ mới là một hiện
tượng văn học vô cùng phong phú, đa dạng và phức tạp của Văn học Việt Nam thế kỉ XX.

Vấn đề mà đề tài đề cập vẫn còn có ý nghĩa thời sự.
Thứ hai: Chưa có sự nghiên cứu nào xem xét tượng trưng trong Thơ mới như là kết
quả của sự tích hợp tinh hoa của thơ Pháp và thơ Đường trong Thơ mới (1932-1945), nhìn
từ yếu tố tượng trưng. Do vậy, việc nghiên cứu Thơ mới ở phương diện này vẫn cần phải
được tiếp tục trên một quy mô lớn hơn và theo một góc nhìn toàn diện hơn.
Tiểu kết: Vấn đề ảnh hưởng, yếu tố tượng trưng của thơ Pháp và thơ Đường trong Thơ
mới đã được nêu ra từ lâu. Tuy nhiên để giải quyết vấn đề tích hợp yếu tố tượng trưng của
thơ Pháp và thơ Đường trong Thơ mới vẫn cần một công trình nghiêm túc. Hướng đi của
luận án không nghiên cứu khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới mà chỉ đi vào tìm hiểu
yếu tố tượng trưng, cố gắng nghiên cứu một cách tòan diện Tích hợp tinh hoa của thơ Pháp
và thơ Đường trong Thơ mới (1932-1945), nhìn từ yếu tố tượng trưng.


11
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ TIẾP BIẾN VÀ SỰ HÌNH THÀNH KHUYNH HƯỚNG
TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ MỚI

2.1.Tiền đề dẫn đến sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới với sự
giao thoa Đông - Tây
2.1.1. Cơ sở thực tiễn
Bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 1932 - 1945 sau khi thực dân Pháp xâm lược,
chúng bắt tay vào khai thác thuộc địa một cách ồ ạt dẫn đến việc hình thành các đô thị
kiểu mới và làm xuất hiện các tầng lớp cư dân mới (tư sản, tiểu tư sản, công nhân...). Họ
tạo thành một lực lượng công chúng văn học ngày càng đông đảo, có nhu cầu thưởng thức
những món ăn tinh thần khác lạ.
Trên cơ sở đó, họ đối chứng với nền văn học nước nhà và thấy rõ sự trì trệ, lạc hậu.
Yêu cầu đổi mới văn học dân tộc nói chung, thơ ca nói riêng càng trở nên cấp thiết, là điều
kiện tiên quyết, sống còn. Ngoài việc phát huy các giá trị truyền thống, sức mạnh nội sinh,
các nhà thơ đã chủ động tiếp nhận các yếu tố ngoại nhập. Thay vì tìm đến văn học Trung
Hoa (thơ Đường) như trước đây, họ chọn con đường "hướng tâm" vào văn học phương Tây

(cụ thể là thơ Pháp). Sự lựa chọn ấy đã góp phần làm nên cuộc hôn phối tự nguyện, lâu bền
giữa thơ hiện đại Việt Nam và thơ tượng trưng Pháp.
Thơ lãng mạn phương Tây, trước hết là thơ lãng mạn Pháp, đã tác động một cách sớm
nhất, mạnh mẽ và rộng rãi nhất đến các nhà thơ mới Việt Nam. Với một thời gian dài sáng tạo
trên một tư duy thơ khuôn mẫu, chặt chẽ, khi tiếp xúc với thơ lãng mạn các nhà thơ mới đã thấy
ở đó một cơ hội rõ ràng nhất cho sự giải phóng.
Thơ tượng trưng Pháp đã du nhập vào Việt Nam, tuy nhiên, nhờ bản lĩnh, trí tuệ và
lòng tự tôn dân tộc, tầng lớp trí thức "Tây học bản địa" đã biết chọn lọc trong thứ "văn hóa
thuộc địa" những tinh hoa để tiếp thu. Các nhà thơ hiện đại Việt Nam không chỉ phát hiện ra
cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của thi phái này, họ còn tìm thấy nó có những điểm tương đồng
với nền thơ dân tộc. Vì thế, thơ tượng trưng nhanh chóng chiếm được tình cảm của không ít
thi nhân Việt, làm nên một cuộc hội ngộ mang tính lịch sử.
2.1.2. Cơ sở lý thuyết
Trong giai đoạn lịch sử còn tồn tại nhà nước phong kiến (văn học trung đại), thơ
Đường được truyền bá rộng khắp trở thành mẫu mực trong nghệ thuật thơ ca. Cho đến đầu
thế kỷ XX, mặc dù Nho học đã đến lúc suy tàn nhưng thơ Đường vẫn có sức sống, bởi
người ta không dễ dàng quên đi những cái đã ăn vào máu thịt hàng ngàn năm., nhiều các
nhà thơ mới có vốn Hán học phong phú, họ học tập tiếp thu thơ Đường sâu sắc.


12

Thơ ca giai đoạn giao thời mới chỉ là những nỗ lực bước đầu từ hệ thống thể thơ cũ
chuyển sang hệ thống thể thơ mới, nó chuẩn bị cho sự ra đời của những hình thức thơ
mới mẻ hơn sẽ đến trong cuộc cách tân thể thơ của phong trào Thơ mới ở những năm 30
thế kỷ XX.
2.2. Cuộc gặp gỡ Đông - Tây ở cảm quan tượng trưng về thế giới
2.2.1. Nét tương hợp trong cảm nhận về thế giới tự nhiên
Từ lâu, người phương Đông xem vũ trụ là một thể thống nhất và con người là tiểu vũ
trụ trong cái vũ trụ ấy. Bởi vậy, vạn vật và con người có mối tương giao thầm kín và người

xưa tin rằng nhờ sự liên hệ mật thiết đó mà Trời và Người có khả năng tương cảm, tương
ứng. Việc thơ tượng trưng Pháp phát hiện ra mối tương hợp, hô ứng với nhau giữa các giác
quan, giữa mùi hương, màu sắc và âm thanh, mối liên hệ huyền bí giữa con người và vũ trụ
là sự trùng hợp giữa cái tìm tòi được của thơ Pháp và chiều sâu tâm thức người phương
Đông và Việt Nam.
Những nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa phương Tây đã gặp tinh thần phương Đông ở
chỗ tính thống nhất của vũ trụ, nhưng họ luôn có ý thức vạch rõ đường biên giữa chủ thể
nhà thơ với khách thể thiên nhiên, đồng thời thấy được sự tồn tại song song giữa hai thực
thể vốn luôn có sự tương giao ấy. Nếu người phương Tây có thế mạnh về lối tư duy khái
niệm và thơ thiên về mạnh mẽ, hùng vĩ, chân xác và tráng lệ thì người phương Đông thiên
về lối tư duy trừu tượng, dùng hình ảnh có tính tượng trưng để diễn đạt chân lý, về sự cảm
nhận cái mênh mông huyền diệu của vũ trụ. Đây cũng chính là điểm gặp nhau nữa giữa
thơ Đường ở Việt Nam với thơ tượng trưng Pháp.
2.2.2. Nét tương hợp trong cảm nhận và biểu đạt thế giới dựa vào trực giác
Trước hết, về phương diện cảm xúc, hình ảnh, người ta đã nhiều lần thấy được sự
gặp gỡ giữa tâm hồn của các thi nhân thời Đường với thi nhân Pháp. Tuy xa nhau về thời
gian lẫn không gian, cũng như cách biệt về tư tưởng và tinh thần, họ đã tình cờ gặp nhau
trong lúc mô tả một trạng thái tâm hồn. Họ coi cảm giác là kết quả sự cảm nhận thế giới
bằng hệ thống ngũ quan bao gồm: thính giác, thị giác, xúc giác, khứu giác, vị giác… Họ
nén cảm xúc để đạt đến sự hòa nhập của các cảm giác. Trong tâm tưởng của thi nhân luôn
có một kho dự trữ ấn tượng và cảm nghĩ về những cảnh, những người, những sự vật tạo
thành một trường liên tưởng. Như vậy, ta thấy thơ Pháp - thơ Đường (phương Đông phương Tây) đã có những điểm gặp gỡ, tương đồng với nhau.


13

2.2.3. Nét tương hợp trong cách thức xây dựng hình ảnh, hình tượng thơ
Sự gặp nhau giữa thơ tượng trưng Pháp và thơ Đường còn ở trong nguyên tắc xây
dựng hình tượng. Ta đã biết, nguyên tắc quan trọng nhất của luật thi đó là tính hàm súc, cô
đọng. Các nhà Đường thi quan niệm “ ý kỵ lộ, mạch kỵ thẳng”, họ chủ trương gợi chứ không

tả, không nói thẳng những điều định nói mà chỉ gợi lên thông qua các quan hệ thật hàm súc,
kín đáo nhưng cũng đầy ý vị. Một đặc điểm nữa mà hai loại thơ trên gặp gỡ nhau, đó là yêu
cầu về tính nhạc trong thơ, đòi hỏi phải “thi trung hữu nhạc”. Thơ Đường chẳng những
muốn thơ phải đem lại những cảm nhận, tri thức về thế giới mà còn phải tạo được những
khoái cảm, những rung động thẩm mỹ. Nhà thơ tượng trưng cho rằng, nhờ âm thanh của từ
mà thơ gợi nên được những sắc thái tinh tế nhất của tình cảm, của những thế giới u uẩn bên
trong tâm hồn của con người; với nhạc điệu ấy, thơ sẽ có một giá trị thần chú, có thể mê
hoặc người đọc.
2.3. Khái lược về khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới
2.3.1. Sự hình thành khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới
Các nhà thơ mới đã nỗ lực vượt ra khỏi thơ lãng mạn để hình thành một
khuynh hướng tượng trưng thực sự với sáng tác của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên,
Bích Khê, Đinh Hùng, Xuân Thu nhã tập, Dạ Đài…Ở chặng đường đầu tiên của
phong trào Thơ mới (1932 - 1935), khuynh hướng tượng trưng chưa thực sự
rõ ràng. Bước sang chặng đường thứ hai (1936 - 1939) thơ tượng trưng đã
bắt đầu nảy nở trong Thơ mới. Bắt đầu là Xuân Diệu, sau đó Trường thơ Loạn
gồm Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê…Từ năm 1942 đến năm 1945 Thơ
mới vẫn chứng tỏ nhiều nỗ lực cách tân quan trọng. Nhóm Dạ Đài với sự góp
mặt của Trần Dần, Đinh Hùng, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Chương…đã lập
ngôn về khuynh hướng tượng trưng. Cùng xuất hiện vào giai đoạn này còn
có nhóm Xuân Thu Nhã Tập gồm các tác giả: Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân
Sanh, Đoàn Phú Tứ…
2.3.2. Sự hiện diện của các tác giả thơ mới theo khuynh hướng tượng trưng
2.3.2.1. Chặng thứ nhất ( 1932 - 1935)
Người ta nhận ra Thế Lữ chớm mang nỗi "chán chường" (spléen), truy lạc, muốn tìm
quên trong "thú đau thương" như Baudelaire; Lòng đã tắt không còn tin tưởng nữa/ Thì
quên đi ! Quên hết để say sưa/ Để mê ly trong thú ái ân hờ/ Để trốn tránh những ngày
giờ trống trải. (Trụy lạc); hay nghe trong thơ Lưu Trọng Lư ngân lên vài giai điệu du
dương, mơ màng giống thơ Verlaine: Em không nghe mùa thu/ Dưới trăng mờ thổn thức ?/



14

Em không nghe rạo rực/ Hình ảnh kẻ chinh phu/ Trong lòng người cô phụ?" (Tiếng
thu).Với “Tiếng thu,” Lưu Trọng Lư viết thu thanh và đã dọn cho mình một chỗ ngồi khá
độc đáo trên văn đàn của những thi sĩ mùa thu. Lưu Trọng Lư từng quan niệm: Thơ không
phải là nhạc nhưng nhạc điệu trong thơ cực kì phong phú.
2.3.2.2. Chặng thứ hai (1936 - 1939)
Xuân Diệu – một đại diện tiêu biểu trong phong trào thơ mới đã đồng điệu với tư
tưởng của Baudelaire trong thi phẩm tương hợp (Corespondances). Xuân Diệu mở đầu bài
Huyền diệu của mình bằng lời đề từ “Les parfums,les couleurs et les sons se répondent”
(Hương thơm màu sắc và âm thanh tương ứng nhau) đã có trong Tương hợp. Trước hết với
Tương hợp, Baudelaire nêu lên đặc điểm quan trọng của chủ nghĩa tượng trưng, mở đầu
cho khuynh hướng, tương ứng giác quan ở Pháp.Trong các điểm nổi bật của thuyết “tương
ứng”, Xuân Diệu đã tâm đắc nhất với hai điểm. Một là, quan niệm về tính thống nhất sâu
xa và huyền bí của vũ trụ này. Hai là, sự tương giao tương ứng của các giác quan. Với
phép màu nhiệm của tương giao, thi sĩ đã thực sự đi vào thế giới huyền diệu, làm những
cuộc phiêu lưu kì thú mà sự phân liệt giác quan không thể nào giúp con người có thể thâm
nhập được qua biên giới của nó. Từ quan niệm về tượng trưng của Xuân Diệu, thế giới mở
ra trước mắt nhà thơ không phải những gì quan sát được mà là phần Huyền Diệu, Du Dương
mà tư duy khó có thể nắm bắt nổi. Vì thế không gian trong thơ tượng trưng được mở rộng
đến vô tận và thế giới cũng hiện ra trong tính đầy đủ trọn vẹn nhất của nó.
Thơ tượng trưng bắt đầu bén rễ vào nền thơ Việt từ phong trào Thơ mới. Quan niệm
cái đẹp của Baudelaire đã lan sang các nhà thơ mới Việt Nam, trong đó chịu ảnh hưởng đậm
nhất có lẽ là các nhà thơ thuộc Trường Thơ Loạn. Chính Hàn Mặc Tử thừa nhận khi sáng
tác, thi sĩ ở trạng thái “mê sảng”, “chiêm bao”, “mất trí” tức là dựa vào tiềm thức, trực giác
nảy sinh tức thời không có sự can thiệp của lý trí. Cái đẹp là cái thần bí và sáng tạo nghệ
thuật là sáng tạo cái siêu hình, thần bí.
Quan niệm “Làm thơ là làm sự phi thường”, các nhà thơ muốn ngụp lặn trong thế giới
rùng rợn mà vùng vẫy, kêu la. Vừa tiếp nối chủ nghĩa lãng mạn của phong trào Thơ mới,

nhưng đồng thời Trường thơ Loạn đã đặt bước chân của mình vào chủ nghĩa tượng trưng và
đưa thơ vào những chấm phá đầu tiên của chủ nghĩa siêu thực. Ảnh hưởng Edgar Poe,
Baudelaire cùng các nhà tượng trưng và siêu thực phương Tây, Trường thơ Loạn đề cao vai
trò của thi nhân, của cái đẹp đến mức cực đoan, phiến diện…Nhưng nếu xét từ lịch sử phát
triển văn học, không thể phủ nhận những tiến bộ của Trường thơ Loạn khi thực hiện
bước nhảy vọt về chất trong tư duy sáng tạo bằng quan niệm nghệ thuật tân kỳ.
2.3.2.3. Chặng thứ ba (1940 - 1945)
Nếu quan niệm về tượng trưng của Trường Thơ Loạn nghiêng về tượng trưng phương


15

Tây thì nhóm Xuân Thu Nhã Tập lại có quan niệm nghiêng về yếu tố tượng trưng Phương
Đông. Họ chủ trương một lối thơ “thuần túy”, trong trẻo hàm súc. “Thơ chỉ cần rung động,
không cần hiểu và không nên giải thích thơ” [26, tr.461]. Họ đã làm một cuộc thể nghiệm và
đi khá xa trong sự tìm tòi với những bài thơ kín mít, một thời bị đánh giá là lối thơ “hũ nút”
(Buồn xưa - Nguyễn Xuân Sanh, Đường xuân - Phạm Văn Hạnh…).
Bên cạnh Xuân Thu còn có Dạ Đài. Tuy nhóm này xuất hiện khá muộn và chỉ ra một
số báo vào ngày 16/11/1946, nhưng thực chất các nhà thơ trong nhóm (Đinh Hùng,
Trần Dần, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu, Nguyễn Văn Tậu) sáng tác từ trước, gắn với
phong trào Thơ mới. Ngoài thực tiễn sáng tác in đậm dấu ấn thi học tượng trưng, Dạ Đài
có hẳn một bản tuyên ngôn, chứng tỏ họ có ý thức lập nên thi phái với đường lối sáng tạo
riêng, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây, họ quan niệm
“thơ cũng phải âm u như cảnh giới của cái tôi thầm lặng” chính là cũng gần gũi với cái “vô
ngôn chi mĩ”, cái ảo diệu lung linh của Đường thi, chính là Dạ đài đang nói về nghĩa ám thị.
Tiêu biểu cho nhóm này có Đinh Hùng với một nguồn mạch mang dấu ấn tượng trưng
phương Tây mà rõ nhất là hơi hướng của Baudelaire, đặc biệt là Rimbaud.
Tiểu kết: Có thể thấy, sự tiếp thu chủ nghĩa tượng trưng vừa là một yếu tố khách quan
trong tiến trình hiện đại hóa văn học, vừa là một sự lựa chọn nghệ thuật của các tác giả phong
trào Thơ mới. Tuy là một thi phái đến từ phương Tây, nhưng thơ tượng trưng không quá xa

vời truyền thống và kinh nghiệm thẩm mĩ của người phương Đông và Việt Nam.
CHƯƠNG 3: TÍCH HỢP ĐÔNG-TÂY TRONG KIẾN TẠO
THI ẢNH TƯỢNG TRƯNG
3.1. Những thi liệu tượng trưng của thơ phương Đông và phương Tây
3.1.1. Thi liệu tượng trưng phổ biến của thơ Đường
3.1.1.1.Hình ảnh thiên nhiên
Thiên nhiên trong thơ Đường nghiêng về tính khái quát, chẳng hạn khi nói về Núi,
người ta không cụ thể, mà khái quát hóa gán cho nó nghĩa tượng trưng như sự bề thế, cứng
cỏi, mạnh mẽ. Hay Nước thì mềm mại, bền bỉ, dịu dàng. Các tác giả đã hình thành hệ thống
hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng để biểu đạt thế giới, xã hội và con người. Chẳng hạn,
khi nói về thiên nhiên phải là: “phong, hoa, tuyết, nguyệt”; nói đến các mùa trong năm thì là:
mùa xuân với hoa đào, hoa mai, mùa hạ với hoa sen, mùa thu với hoa cúc, nói về sự chia li xa
cách là dùng hình ảnh: dòng sông, con đò, chiều tà, chiếc áo…Hay nói về con người, thì có
người quân tử và có kẻ tiểu nhân. Người quân tử thường được dùng hình ảnh: tùng, cúc, trúc,


16

mai… kẻ tiểu nhân được quy ước với hình ảnh chim sẻ, chim én… Vì thế, khi đọc bất cứ một
bài thơ nào viết về thiên nhiên, trước mắt bạn đọc không chỉ hiện ra khung cảnh thiên nhiên
mà qua đó họ còn thấy được tâm sự của tác giả.
3.1.1.2. Hình ảnh con người
Không gian, thời gian, con người thường được coi là nội dung cơ bản khi nghiên cứu
văn chương nghệ thuật, trên góc nhìn thi pháp học đó là những yếu tố cấu thành một bức
tranh thơ Đường, ở đó cả con người, không gian và cả thời gian, chúng được khắc hoạ một
cách tài tình, sinh động và đầy hàm ý. Thiên nhiên là không gian vũ trụ đầu tiên ít khi vắng
bóng trong thơ thiền cũng như thơ Đường. Nó là cái nền cho con người xuất hiện và tồn tại.
Dường như ở các chiều kích không gian luôn có sự đối xứng với nhau bởi quan niệm “con người
là trung tâm của vũ trụ. Con người bé nhỏ giữa đất trời rộng lớn nhưng không gian trong thơ
Đường luôn mang tính chất mở, tạo điều kiện cho tâm hồn con người lan toả vào không gian,

vượt qua không gian. Nói chung ý nghĩa tượng trưng trong vật liệu Thơ Đường nghiêng về ẩn
dụ, tương đối cố định. Mỗi hình ảnh con người trong thơ Đường thể hiện một quan niệm triết
lý, con người trong thơ Đường luôn ẩn mình trong thiên nhiên thân thuộc.
3.1.2. Thi liệu phổ biến trong thơ tượng trưng Pháp
3.2.1.1. Ánh sáng, nhạc và hương
Âm nhạc tác động trực tiếp bằng âm thanh, từ đó gợi lên, nối dài những liên tưởng,
tưởng tượng. Hòa nhập vào thế giới của âm nhạc, người thẩm âm có thể trực cảm được
những mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng với thế giới tâm hồn, cảm xúc của con
người. Nhìn thấy khả năng của âm nhạc, các nhà thơ tượng trưng luôn có thiên hướng tạo
nhạc cho thi ca để biểu hiện cách cảm nhận thế giới trong sự hài hòa tổng thể. Thơ tượng
trưng không đơn thuần là tạo nhạc mà còn tạo ra những điệu thơ mang đầy tính chất cá thể.
Đó chính là nhạc cảm tỏa phát từ một tâm hồn run rẩy và bắt nhịp được với làn sóng của thế
giới tự nhiên và siêu nhiên. Chủ nghĩa tượng trưng xem thơ như một thứ siêu cảm giác,
không giải thích được. Thơ phải gắn chặt với âm nhạc, phải gợi chứ không vẽ các đường
nét, hình thể (Verlaine). Nghĩa là thơ không cần có hình tượng rõ nét, và được quan niệm
như một bản hòa âm huyền ảo. Mỗi từ trong thơ phải gắn liền với một nốt nhạc. Theo các
nhà thơ tượng trưng, tính nhạc phải được phát huy tối đa, để mỗi từ, mỗi câu phải là một nốt
nhạc hay những giai điệu của tâm hồn và nhịp điệu của vũ trụ. Thơ không phải là mô tả mà
là ám gợi, có thể ám gợi bằng hình ảnh, bằng âm nhạc.
3.1.2.2. Linh hồn, thân xác và cái đẹp
Vai trò chủ đạo trong nhận thức và sáng tác nghệ thuật của chủ nghĩa tượng trưng là


17

trực giác - đó là sự bừng ngộ thần bí, với sự khải thị, với trạng thái kích động cao. Và lần
đầu tiên trong lịch sử thơ ca, chủ nghĩa tượng trưng đã “thơ hóa” cả cái xấu và cái ác - đó
là tập thơ Những bông hoa ác của nhà thơ tượng trưng Pháp Baudelaire. Chính vì vậy,
Baudelaire rất coi trọng vai trò tương ứng của ngũ quan trong cách cảm nhận và biểu hiện
các cõi tương ứng của thế giới. Cảm hứng của Baudelaire là những ấn tượng về một thế giới

siêu nhiên với tất cả sự âm u, huyền bí của nó. Chủ nghĩa tượng trưng xem thế giới hữu hình
chỉ là hình ảnh, là cái bóng, cho nên, nhà thơ phải đến với cuộc sống bằng trực giác vì chỉ
có trực giác mới tìm ra cái bí ẩn nằm sau thế giới hữu hình, mới nhìn thấy thế giới đích thực
là cái thế giới bí ẩn nằm sau thế giới hữu hình không nhìn thấy ấy. Baudelaire đã xóa nhòa
ranh giới giữa cái đẹp với cái ghê tởm, ca ngợi xác thịt với những câu thơ nặng nhục cảm,
đưa cái ác vào phạm trù thẩm mỹ.
3.2. Phương thức kiến tạo thi ảnh tượng trưng của thơ phương Đông và phương Tây
3.2.1. Phương thức kiến tạo thi ảnh của thơ Đường
3.2.1.1. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ có tính ước lệ và quy phạm
Thơ Đường kiến tạo thi ảnh dựa trên vật liệu quen thuộc, kiến tạo theo nguyên tắc
tối giản, tinh thần bên trong, chủ yếu là theo cách dùng hình ảnh ẩn dụ khái quát. “Ẩn dụ
là cấu trúc cơ bản của ngôn ngữ thơ “ (Thụy Khuê). Ẩn dụ “thực chất là sự so sánh
ngầm, trong đó vế so sánh giảm lược đi, chỉ còn lại vế được so sánh. Như vậy phép ẩn
dụ là phương thức chuyển nghĩa của một đối tượng này, thay cho đối tượng khác khi hai
đối tượng có một nét nghĩa tương đồng nào đó. Thơ Đường Trung Quốc thường chỉ gợi
mà không tả. thơ Đường hàm súc cô đọng nên cũng giàu sức gợi, các nhà thơ Đường chỉ
chọn lấy những gì là cơ bản nhất, phải đúc lại thành một cái gì tinh tế nhất để thể hiện.
Nhu cầu hàm súc cô đọng tạo nên sức gợi sâu xa đã được các nhà thơ mới học tập. Các
nhà thơ mới đã được thụ dưỡng trực tiếp từ Thơ Đường. Vì vậy, một số các nhà thơ mới
không có nguồn gốc từ nho gia nhưng họ có tình cảm đặc biệt đối với thơ Đường như
Hàn Mặc Tử, Bích Khê… Một số người được nuôi dưỡng từ nền văn hóa Hán học như
Quách Tấn thì đã dành trọn vẹn tâm huyết, tài năng của mình cho thơ Đường. Các nhà
thơ như Bích Khê, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Huy Cận… đều có xuất thân từ nho học, họ
đều biết chữ Tây nhưng cuối cùng lại trở về với chữ Hán. Thơ Đường đã đi thẳng vào
tâm hồn họ, trực tiếp chi phối cách cảm, cách nghĩ và cách thể hiện.
3.2.1.3. Chú trọng làm nổi bật tương quan giữa các phạm trù đối lập
Dĩ tiểu kiến đại (lấy nhỏ thấy lớn).
Dĩ tĩnh tả động: (Lấy cái tĩnh diễn tả cái động).



18

Dĩ động tả tĩnh.(Lấy cái động để diễn tả cái tĩnh).
Dĩ lạc tả ai: (Lấy vui nói buồn).
Dĩ tân tả chủ: (Lấy khách thể nói chủ thể).
Dĩ khoắc kiến chân: (lấy phóng đại đển nói sự thực).
3.2.2. Phương thức kiến tạo thi ảnh của thơ tượng trưng Pháp
3.2.2.1. Xây dựng biểu tượng
Biểu tượng là một loại hình tượng tập trung nhất, cô đúc nhất, gợi hàm nghĩa sâu sa ẩn
đằng sau sự vật. Mọi biểu tượng đều là hình tượng nghệ thuật nhưng hình tượng nghệ thuật
chưa chắc đã là biểu tượng. Muốn trở thành một biểu tượng, hình tượng văn học phải có ý
nghĩa khái quát cao, ít nhiều mang tính xã hội và đặc biệt có tính hệ thống trong thế giới
nghệ thuật của người nghệ sĩ. Baudelaire cho rằng, biểu tượng “đó thực sự là một trong
những hình thức nguyên thủy và tự nhiên nhất của thơ ca”, nhà thơ khuyên các nghệ sĩ cần
tập trung khai thác, so sánh, ẩn dụ, biểu tượng trong sáng tạo nghệ thuật của mình. Nếu
đứng trên phương diện là thủ pháp nghệ thuật thì biểu tượng chính là một ẩn dụ đặc biệt.
Biểu tượng của Baudelaire được sáng tạo thường bộc lộ chất huyền bí, là mối tương ứng
giữa tự nhiên và siêu nhiên.
3.2.2.2. Nguyên tắc tương giao
Thơ Pháp kiến tạo thi ảnh theo nguyên tắc tạo nên một thế giới khác biệt, dị thường.
Nguyên tắc mỹ học của chủ nghĩa tượng trưng là sự tương giao, tương hợp, tạo nên một thế
giới khác biệt. Baudelaire quan niệm: Vũ trụ là một thể thống nhất, trong đó tất cả đều
tương ứng với nhau. Có sự tương ứng giữa tự nhiên và cái siêu nhiên, có sự tương ứng giữa
thế giới này với thế giới đằng sau đầy bí ẩn, đặc biệt là sự tương ứng giữa các giác quan
Mùi hương, màu sắc và âm thanh tương giao cùng nhau. Trong thế giới tượng trưng , luôn
chập chờn giữa mộng và thực, giữa tiềm thức và ý thức, chỉ trong sự chập chờn đó, cảm
hứng của nhà thơ mới dâng lên đến tận cùng đam mê và khoái cảm. Các nhà thơ cảm nhận
một cách tinh tế và sâu sắc những va chạm, xung đột trong bản chất của các sự vật và khắc
họa chúng bằng những bức tranh ấn tượng của thơ tượng trưng.
3.3. Thơ mới tích hợp Đông – Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng.

3.3.1. Tiếp thu yếu tố tượng trưng của thơ Đường
Trong sự kết hợp Đông – Tây, các tác giả Thơ mới ở giai đọan đầu của phong trào Thơ
mới, trở về với những lối thơ truyền thống cùng những âm hưởng quen thuộc, nhưng cấu
trúc không hoàn toàn như cũ; trở về với cách nghĩ, điệu cảm quen thuộc nhưng với một tâm


19

trạng của con người thời đại mới. Trong thơ cổ, thiên nhiên luôn chiếm “địa vị danh dự”
(chữ dùng của Đặng Thai Mai), Quách Tấn cũng thích sống với thiên nhiên và thiên nhiên trở
thành hình tượng thơ cơ bản, là đối tượng thẩm mỹ chủ yếu làm nên linh hồn thơ ông. Trong
phong trào Thơ mới, yếu tố tượng trưng trong thơ Đường và thơ Pháp nhiều khi cũng in dấu vết
ở một thi sĩ, thậm chí quyện lẫn với nhau trong một bài thơ. Các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng
trực tiếp, rõ rệt nhất và sâu sắc nhất là thơ Pháp. Tuy nhiên lại có một điều thú vị, thơ Pháp –
thơ Đường có những điểm gặp gỡ, tương đồng với nhau, đó là bản chất của thơ, dù Phương
Đông, phương Tây có những điểm rất khác biệt, lại ở hai thời đại cách xa nhau, và có tính chất
thậm chí đối lập nhau. Các nhà thơ mới trong khi sáng tạo đã có ý thức trong việc kế thừa
hương sắc Đường thi, chủ trương vận dụng hình ảnh, ngôn ngữ thi pháp của Đường thi trong
thơ mình. Như vậy, trong cách xây dựng hình ảnh, tư duy Thơ mới lãng mạn 1932 – 1945 đã
gặp gỡ tư duy Đường thi thông qua tính hàm súc đa nghĩa, trong khi học tập, tiếp thu từ ngữ,
hình ảnh tượng trưng Đường thi, các nhà thơ mới không hề máy móc mà có những liên tưởng
mới mẻ. Điều đó góp phần làm nên sức sống của Thơ mới vốn còn nặng lòng với cổ thi.
3.3.2. Tiếp nhận yếu tố tượng trưng của thơ Pháp
Trong Thơ mới, tích hợp cách kiến tạo thi ảnh tượng trưng giữa thơ Đường và thơ
tựơng trưng Pháp khó nắm bắt vì nó đã nhuần nhuyễn như máu thịt, nhưng vẫn có thể nhận
biết đựợc qua những biểu hiện của nội dung và nghệ thuật. Thơ mới đã phối hợp nhuần
nhuyễn tư duy đồng nhất và thủ pháp tương giao của thơ tượng trưng Pháp. Kết quả là tạo ra
một loại thi ảnh mới nghiêng về biểu tượng. Biểu tượng là một hình ảnh đa nghĩa. Bản thân
một số nhà thơ mới, khi đúng là đã thuộc dòng thơ này nhưng lại không thiếu những biểu
hiện của màu sắc kia.

Thơ mới tích hợp tư duy đồng nhất, các thủ pháp tương giao của thơ Pháp và thơ
Đường. Thơ ca đã lưu giữ và làm sống lại những biểu tượng, những giá trị văn hóa ấy thông
qua các biểu tượng ngôn từ. Tuy thế, quá trình chuyển đổi, va đập văn hóa khiến những biểu
tượng “gốc” ngày càng có nhiều biến thể với các lớp ý nghĩa xếp chồng lên nhau. Cùng một
mẫu gốc song cách diễn giải ý nghĩa của các “biến thể” ấy ở phương Đông và phương Tây
đôi khi rất khác nhau. Thơ tượng trưng vì thế không còn là truyền cảm nữa mà là gợi cảm.
Thơ gợi cảm khiến cho sự nắm bắt của người đọc không dễ dàng. Thơ tượng trưng là một
lối thơ chứa đựng những rung cảm sâu xa của con người phát ra từ đáy tâm linh, từ trong vô
thức của người làm thơ, vì thế độc giả phải tự khai mở những hướng đi của thơ vào tâm hồn
mình để tiếp nhận được những gì tinh tế, vi diệu nhất từ đáy tâm linh, từ trong vô thức ở


20

hình tượng thơ.
3.3.3. Tích hợp Đông - Tây trong kiến tạo thi ảnh tượng trưng
Nếu tư duy phương Đông nghiêng về đơn tính, kiến tạo thi ảnh đơn diện, một nghĩa,
gắn với các thủ pháp ẩn dụ thì thơ tượng trưng phương Tây nghiêng về phức tính, kiến tạo
thi ảnh nhiều lớp nghĩa, nhiều bình diện nghĩa chồng lên nhau vì vậy họ phải xây dựng các
biểu tượng mà ở đó các nghĩa giao thoa, tương giao giữa các mặt nghĩa. Thơ mới tích hợp
các cách kiến tạo của thơ Pháp và thơ Đường, sử dụng và chuyển hóa nhuần nhuyễn giữa
tượng trưng và ẩn dụ; tư duy đồng nhất và thủ pháp tương giao, kết quả là tạo ra một lọai thi
ảnh mới nghiêng về biểu tượng đa nghĩa. Là nhà thơ mới nhưng thơ Xuân Diệu đã thu hút
nhiều tinh túy của thơ ca dân gian, thơ ca cổ điển. Xuân Diệu đã tự làm giàu ngòi bút của
mình bằng tất cả những gì mà một thi sĩ có thể tổng hợp để tạo ra chất lượng mới cho sản
phẩm của mình.
Tiểu kết: Sức sống mãnh liệt của dân tộc, nền tảng văn học chữ Hán với tư duy
phương Đông độc đáo và cuộc gặp gỡ lịch sử với văn học phương Tây đã tạo nên diện mạo
riêng của văn học buổi giao thời này. Sự tích hợp tỏ ra là một khái niệm toàn bích hơn trong
việc diễn đạt quy luật giao thoa của văn hóa. Tích hợp biểu hiện cơ chế tiếp nhận trên tinh

thần hòa trộn của vốn văn hóa truyền thống trong cuộc hội ngộ với thơ Đường và thơ Pháp.
CHƯƠNG 4: TÍCH HỢP ĐÔNG - TÂY TRONG TỔ CHỨC VĂN BẢN
THƠ

4.1. Tổ chức văn bản của thơ cổ điển phương Đông
4.1.1. Tổ chức văn bản theo tứ thơ
Thơ Đường là sản phẩm văn học tinh túy thời thống trị của ý thức về tính bất biến của
vũ trụ, sự đồng nhất giữa ba yếu tố của tam tài là Thiên, Địa, Nhân: thời mà người ta nhìn
nhận mọi sự thay đổi trong xã hội chỉ là một vòng luân chuyển tuần hoàn khép kín: thời tồn
tại của những khuôn vàng thước ngọc” áp đặt lên mọi ứng xử, hoạt động của con người, kể
cả hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Như một hệ quả tất yếu của thế giới quan nói trên một
trong những tứ thơ lớn của thơ trữ tình cổ điển nói chung và thơ Đường nói riêng. Sở dĩ vẫn
thường có hiện tượng đồng nhất tứ thơ với chủ đề là do chỗ mối quan hệ giữa chúng trong thơ
Đường hết sức khăng khít: mỗi chủ đề làm nảy sinh một tứ thơ “riêng” và tứ thơ “riêng” ấy sẽ
được cá biệt hóa thêm nữa trong từng sáng tác cụ thể của những nhà thơ cụ thể. Cái tứ phổ
biến của loại thơ này được triển khai dựa trên đối lập nhưng đồng nhất giữa nhân vật vật trữ
tình với các đại dương lớn của vũ trụ như trời, đất, sông, núi, nhật, nguyệt, xưa, sau…Trong
tương quan ấy, kích thước con người như được phóng to lên và khả năng giao cảm của con
người đối với thiên địa chung quanh gần như là vô giới hạn. Dĩ nhiên, con người ở đây phải là
con người siêu cá thế mới có được những năng lực dị thường như thế.


21

Sự chi phối mạnh mẽ việc sáng tạo tứ thơ, cũng đem tới nhiều cách mở đầu và kết thúc
bài thơ rất phóng túng. Nhưng thực tế thì cái hài hoà trong thơ cổ điển rất khác với cái hài
hoà trong thơ hiện đại. Trong thơ Đường, giữa con người với vũ trụ, giữa lý trí và cảm xúc,
giữa nội dung cảm xúc và hình thức biểu hiện có mối quan hệ tương ứng, thống nhất.
4.1.2. Tổ chức văn bản theo kết cấu không – thời gian
Kiểu “kết cấu không gian” chủ yếu gắn liền với những hình tượng không gian, những

phong cách và chân dung. Mặc dù vẫn chịu sự trói buộc của nghệ thuật thời gian, nhưng
kiểu kết cấu này một khi được vận dụng vẫn có khả năng tạo được một ấn tượng toàn khối
về cái không gian mà nhà thơ muốn miêu tả, với ảo giác về sự xuất hiện đồng thời của các
hình ảnh, sự vật nằm trong đó.
Kiểu “kết cấu thời gian” gắn liền với những hình tượng có sự phát triển trong thời gian (
và dĩ nhiên cả trong không gian nữa) như một câu chuyện, một dòng cảm xúc nào đó v.v…
Thơ trữ tình vẫn thường vận dụng hình thức kể chuyện, trần thuật. Tất nhiên, trần thuật trong
thơ trữ tình rất khác với trần thuật trong các thể loại tự sự. Câu chuyện được đưa vào đây
không bao gồm đầy đủ các chi tiết, biến cố. Nó chỉ được tái hiện một cách cô đọng, vừa đủ
làm cơ sở cho việc bộc lộ và triển khai theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu cảm xúc của nhận vật
trữ tình trước một vấn đề đời sống nào đó
4.2. Tổ chức văn bản của thơ tượng trưng phương Tây
4.2.1. Tổ chức qua mạng lưới biểu tượng
Loại hình thơ tượng trưng xuất hiện cùng với sự xuất hiện của trường phái Tượng
trưng Pháp, sau đó lan rộng ra khắp thế giới với nhiều chiều hướng tìm tòi phong phú. Cá
nhà thơ tượng trưng xem thi ca như một công cụ, một phương pháp giúp con người khám
phá ra siêu hiện thực ẩn đằng sau những hiện tượng biểu kiến của cuộc đời, vũ trụ, và bằng
cách đó, họ khẳng định sức mạnh của tinh thần có thể xuyên vượt cái bề ngoài của sự vật để
đạt tới chân lý. Tất nhiên, để trở thành một “công cụ” kiểu như thế, thơ tượng trưng phải tự
xác lập được cho mình một nguyên tắc tổ chức riêng. Ta có thể nói tới sự bao trùm của phép
loại suy nghĩ xác định quan hệ tương đồng giữa các sự vật. Cùng vận dụng nguyên tắc đó,
mỗi nhà thơ tượng trưng lại tự lựa chọn cho mình một thủ pháp kết cấu riêng.
4.2.2. Tổ chức theo nhạc tính
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những thể nghiệm tổ chức bài thơ theo hướng này, mà
nguyên nhân bao trùm nhất nằm ở sự tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau mang tính qui luật giữa
các loại hình nghệ thuật cùng tồn tại và phát triển trong một thời đại. Thơ mới là thơ của thời
đại lãng mạn – thời đại mà trong bức tranh nghệ thuật tổng thể, vai trò chủ âm thuộc về âm
nhạc (theo nhận xét của R.Jakobson). Thật tự nhiên khi ta thấy thơ ca hướng tới âm nhạc, học
tập những thủ pháp thể hiện rất đặc trưng của âm nhạc để tự làm mới mình, mong đạt được một



22

sự tổng hợp nghệ thuật mới so với trước. Nếu xét Thơ mới như là hiện tượng phổ quát thể hiện
cuộc gặp gỡ, giao lưu văn hóa Đông - Tây mang tính đặc trưng của thời đại chúng ta thì con
đường phát triển này lại có tính tất yếu. Thơ mới đã học tập rất nhiều kinh nghiệm nghệ thuật
của thơ ca Pháp nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, mà trong giai đoạn phát triển này,
Những ngôi sao sáng của thi đàn Pháp luôn kêu gọi thơ phải “tìm đến” với âm nhạc.
4.3. Dấu ấn tượng trưng Đông - Tây trong tổ chức tứ - hình - nhạc
của văn bản Thơ mới
4.3.1. Tổ chức văn bản theo lối kết hợp giữa tứ thơ và những liên tưởng mang tính
ngẫu hứng
Phong trào Thơ mới 1932 – 1945 là bản hòa âm của hai nền văn hóa cách xa nhau vời
vợi, bản giao hưởng cổ điển và hiện đại, là sự kết hợp những vang vọng giữa Đông và Tây
"Đông và Tây, không thể phân biệt, nó là Thơ mới”. Sự hài hòa giữa thơ Đường và thơ
tượng trưng Pháp trong sự tiếp nối của Thơ mới Việt Nam thể hiện ở cấp độ tổ chức văn bản
bài thơ. Nếu như tứ được hiểu như là sự hoá thân của ý vào toàn thể thi phẩm mà trước hết
là vào hình tượng bao trùm, thì cái ý cắt nghĩa này đã chi phối hoàn toàn cấu tứ của Thơ
duyên, trong một tứ thơ, điều quan trọng nhất không hẳn là ý, không hẳn là hình, cũng
không hẳn là hình chứa đựng ý, mà là cái quá trình tức là một sự chuyển hóa. Sự chuyển
hoá này khiến cho thi phẩm là cấu trúc động, trong đó, theo mạch tuyến tính của lời thơ,
tình ý vừa hiện hình vừa chuyển hoá vào hình tượng thơ một cách hợp lí và trọn vẹn. Trong
Vội vàng thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý
thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự
nhiên, nhuần nhị. Vội vàng là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã thưc sự là một
cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần
gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyện ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh
về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh hoạ cho triết học, mà đó chính là cảm
niệm triết học của một hồn thơ.
4.3.2. Tổ chức văn bản theo sự liên kết của hệ thống hình ảnh - biểu tượng

Thơ Đường cũng đã sử dụng lối hình tượng hóa một nhận thức, một suy nghiệm,
nhưng dù sao sự hình tượng hoá đó cũng chỉ mới diễn ra ở cấp độ câu chứ chưa diễn ra ở
cấp độ bài vì các tác giả cổ điển chưa chú ý xây dựng một hình tượng thống nhất mà mỗi
đặc tính của hình tượng lại tương ứng với một khía cạnh cụ thể trong tư tưởng mà nhà thơ
muốn tỏ bày.
Yếu tố tượng trưng trong thơ Bích Khê xảy ra ở cả mức độ chữ, lẫn câu: Bích Khê
không chỉ để hai hình ảnh khác nhau cạnh nhau, mà còn để hai câu thơ hoàn toàn khác nhau
cạnh nhau, như: Vàng sao nằm im trên hoa gầy / Tương tư người xưa thôi qua đây. Câu trên


23

là một câu mô tả sự khăng khít xác thịt: Vàng sao nằm im trên hoa gầy. Sự thay đổi của một
loại hình thơ có cội rễ từ sự thay đổi trong tư duy nghệ thuật. Các nhà thơ mới đã thực hiện
hành trình vượt thoát của mình từ thơ ca cổ điển đến thơ tượng trưng bằng chính những nỗ
lực đổi mới tư duy thơ của mình. Quan niệm mới mẻ về chất thơ cùng với cách kiến tạo thi
ảnh mới, các thao tác “lựa chọn”, “kết hợp” ngôn từ, hài âm, kiến tạo vần, nhịp điệu, âm
nhạc và cách tân thể loại,… trên nền tảng của thơ ca truyền thống đã đem đến những thi
phẩm“mới mẻ trên viện cổ Đông phương”.
4.3.3. Tổ chức văn bản theo nhạc tính
Nhạc điệu thơ cổ điển là thứ nhạc điệu được kiểm soát một cách chặt chẽ, nó chi có
một ngân vang hạn chế trong khuôn khổ quy định, mang chức năng của yếu tố phụ trợ, giúp
cho việc cảm hóa lòng người được tốt hơn, bởi nói như Bạch Cư Dị là "chẳng gì gần gũi
bằng âm thanh" (Thư gửi Nguyên Chẩn). Trong khi đó nhạc điệu Thơ mới lại giữ được tính
độc lập nhất định và nhiều khi đóng vai trò là một yếu tố quan trọng chi phối việc tổ chức
nên bài thơ, một yếu tố năng động của kết cấu, bởi nó đi liền với sự phát triển tự nhiên của
tình cảm, cảm xúc.. Thơ mới không chỉ ám gợi bằng các hình ảnh hay biểu tượng mà còn
bằng âm nhạc. Các nhà thơ mới như Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng
Chương, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Nguyên Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ… dù đậm nhạt khác
nhau, hầu như không ai không ý thức khai thác lợi thế nhạc tính trong thơ. Với họ, thơ là

nhạc, nhạc là thơ để diễn đạt cái phần tế nhị, vô tận của rộng lớn vũ trụ và sâu thẳm tâm
linh, và lợi thế của tiếng Việt, truyền thống “thi trung hữu nhạc” phương Đông được phát
huy ở độ cao nhất của nó. Đó là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo tính nhạc
cho thơ và góp phần tạo nên sự tương đồng, gần gũi giữa Thơ mới và tinh thần âm nhạc của
thơ tượng trưng Pháp.
4.3.4. Tổ chức văn bản theo sự phối hợp tứ - hình - nhạc
Thơ mới vốn đã “đón tiếp” thơ Đường nồng hậu thì giờ họ cũng “đón tiếp” thơ
tượng trưng Pháp nồng nhiệt không kém. Sự ảnh hưởng hài hòa giữa thơ Đường và thơ
tượng trưng Pháp đã khiến cho Thơ mới đặc biệt giờ có về sắc điệu nghệ thuật, vừa giữ
được cái hồn cốt phương Đông vừa đậm dư vị Tây Âu t ạo một bước “đệm” cơ bản cho
công cuộc hội nhập vào đoạn mạch chung của thơ ca thế giới. Sự phối hợp tứ - hình –
nhạc của thơ Đường và thơ Pháp trong tổ chức văn bản thơ của các tác giả Thơ mới rất
phong phú, đa dạng, mang một cá tính sáng tạo rất riêng của mỗi nhà thơ. Ở cấp độ bài
thơ, tác phẩm tiêu biểu như Nguyệt cầm (Xuân Diệu), có mối liên hệ với cả thơ Đường
và thơ tượng trưng Pháp, đều thống nhất với nhau ở những điểm tương đồng, sự hài hòa
giữa thơ Đường và thơ tượng trưng Pháp càng trở nên cụ thể, chi tiết ở từng chữ, từng
câu, từng khổ, từng thủ pháp nghệ thuật...
Thật là một kết quả tự nhiên khi các bài thơ mới có những câu kết rất mực chơi vơi,
những câu kết khó dự đoán trước, ngay cả đối với bản thân người sáng tạo. Khi làm thơ, các


×