Tải bản đầy đủ (.docx) (198 trang)

Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông hồng lãnh đạo cải cách tư giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.45 KB, 198 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

TRN TH BèNH

CáC TỉNH ủY ở ĐồNG BằNG SÔNG HồNG
LãNH ĐạO CảI CáCH TƯ PHáP GIAI ĐOạN HIệN NAY

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: XY DNG NG V CHNH QUYN NH NC

H NI - 2019


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

TRN TH BèNH

CáC TỉNH ủY ở ĐồNG BằNG SÔNG HồNG
LãNH ĐạO CảI CáCH TƯ PHáP GIAI ĐOạN HIệN NAY

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: XY DNG NG V CHNH QUYN NH NC

Mó s: 62 31 02 03

Ngi hng dn khoa hc:

1. PGS,TS. TRN KHC VIT
2. TS. CAO THANH VN

H NI - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Trần Thị Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài
1.2. Công trình nghiên cứu ở Việt Nam
1.3. Kết quả đạt được của các công trình khoa học và những vấn đề
luận án tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ
Chương 2: CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH
ĐẠO CẢI CÁCH TƯ PHÁP - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. Các tỉnh, tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng và cải cách tư pháp ở
các tỉnh giai đoạn hiện nay
2.2. Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp
hiện nay - khái niệm, nội dung, phương thức và vai trò

Chương 3: CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO CẢI CÁCH TƯ PHÁP - THỰC
TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

3.1. Thực trạng cải cách tư pháp ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng
3.2. Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐỐI VỚI CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐẾN
NĂM 2030

4.1. Dự báo thuận lợi, khó khăn và phương hướng tăng cường sự
lãnh đạo của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng đối với cải
cách tư pháp đến năm 2030
4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh
ủy ở đồng bằng sông Hồng với cải cách tư pháp đến năm 2030
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ANCT
BTVTU
CAND
CCHC
CCTP

CNH, HĐH
CNXH
CQTP
CTQG
CT-XH
ĐBSH
HĐND
HTCT
KT-XH
MTTQ
NXB
PTLĐ
QP, AN
TAND
TTATXH
UBND
VKSND
XHCN


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp (CCTP) là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta, một trong những vấn đề trọng tâm trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, tạo thuận lợi căn bản và điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi mục
tiêu, nhiệm vụ công cuộc đổi mới ở nước ta và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đây
là một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước ta. Những ý
tưởng, quan điểm này, đã được Đảng ta đã đưa ra và nhấn mạnh tại Đại hội VI

của Đảng ngay từ khi đất nước chính thức bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện.
Tiếp theo, các nghị quyết của Đảng khóa VIII, khóa IX về CTTP, đặc biệt Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm với các quan
điểm, nội dung, giải pháp cụ thể về CCTP. Lãnh đạo CCTP đạt hiệu quả đáp
ứng những điều nêu trên thật sự là vấn đề rất cấp thiết của Đảng, các cấp ủy
đảng, trong đó có các tỉnh ủy ở đòng bằng sông Hồng (ĐBSH).
Chiến lược CCTP đã được các cấp ủy đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện
đạt kết quả quan trọng bước đầu. Hoạt động của các CQTP đã có một số đổi
mới, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), hoàn
thiện nền dân chủ XHCN và hội nhập quốc tế và là cơ sở quan trọng để xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở
nước ta.
Tuy nhiên, tiến trình CCTP vẫn còn chậm chưa theo kịp quá trình đổi
mới, nhất là theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế. Hoạt động tư pháp và
bổ trợ tư pháp chưa theo kịp và phục vụ tốt sự phát triển KT-XH. Vẫn còn tình
trạng bỏ lọt tội phạm; còn oan, sai trong điều tra, truy tố và xét xử, khiếu nại,
tố cáo; công chức vi phạm pháp luật vẫn còn nhiều; thi hành án dân sự còn tồn
đọng không ít. Một bộ phận cán bộ tư pháp yếu về năng lực và có biểu hiện
suy thoái về phẩm chất đạo đức, không thực thi đúng quyền hạn,


2
gây bức xúc trong xã hội, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào hệ thống
pháp luật nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Thực tế đó càng đòi hỏi
Đảng, các cấp ủy đảng, trong đó có các tỉnh ủy ở ĐBSH, đặc biệt coi trọng
tăng cường lãnh đạo CCTP.
Các tỉnh ĐBSH có vai trò rất quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc
phòng và an ninh (QP, AN), một trong những cái nôi văn hóa truyền thống lâu đời

của người Việt, là vùng đang phát triển khá mạnh mẽ. Việc CCTP ở ĐBSH đạt kết
quả sẽ góp phần quan trọng vào kết quả CCTP trong cả nước. Trong những năm
qua, các tỉnh ủy ở ĐBSH đã chủ động lãnh đạo, triển khai thực hiện các nghị
quyết, chủ trương của Đảng về CCTP và đạt được những kết quả quan trọng. Sự
lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với CCTP đã có những đổi mới đáng ghi nhận về nội
dung và phương thức lãnh đạo (PTLĐ). Nhận thức về CCTP của các cấp ủy, nhất
là các tỉnh ủy, cán bộ chủ chốt, đảng viên được nâng lên một bước khá rõ nét. Tổ
chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan
trong lĩnh vực tư pháp được đổi mới, hoàn thiện hơn, hoạt động hiệu quả hơn.
Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ mọi mặt và chuyên môn, nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ các cơ quan trong lĩnh vực tư pháp được nâng lên, góp phần
vào kết quả lãnh đạo CCTP của Đảng.

Tuy nhiên, sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSH đối với CCTP vẫn còn
những khuyết điểm, hạn chế. Việc xác định nội dung lãnh đạo CCTP của nhiều
tỉnh ủy còn chưa thật chính xác trên một số điểm, nhất là xác định những điểm
trọng tâm, khâu đột phá trong lãnh đạo CCTP. Việc lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết
những vấn đề nổi cộm chưa kịp thời, hiệu quả chưa cao. Ở một số địa phương,
án oan tuy có giảm, nhưng vẫn còn một số vụ nghiêm trọng không được giải
quyết thỏa đáng, kịp thời. Công tác CCTP chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhiệm vụ đấu tranh chống tham
nhũng và tiêu cực trong Đảng, Nhà nước và xã hội, xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và HTCT. Công tác tổ chức, cán bộ trong một số cơ quan trong lĩnh vực còn
hạn chế, khuyết điểm. Trong các cơ quan và đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực tư
pháp vẫn còn những tiêu cực, gây bức xúc trong nhân


3
dân, dư luận, làm giảm niềm tin của nhiều người dân vào bộ máy công quyền.
Vai trò giám sát của các cơ quan dân cử trong giám sát các các cơ quan trong

lĩnh vực ở nhiều nơi chưa được phát huy mạnh mẽ, hiệu quả thấp...
Thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) cần được áp
dụng mạnh mẽ, có hiệu quả vào hoạt động của các ngành, các cấp, các lĩnh
vực, trong đó có lĩnh vực CCTP; yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập
quốc tế ở nước ta những năm tới đòi hỏi các cấp ủy đảng, trong đó có các tỉnh
ủy ở ĐBSH, tăng cường lãnh đạo CCTP. Nghiên cứu một cách cơ bản, toàn
diện tìm các giải pháp đồng bộ, khả thi phát huy ưu điểm, khắc phục những
khuyết điểm, hạn chế, tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSH đối với
CCTP những năm tới thật sự là vấn đề rất cấp thiết.
Để góp phần giải quyết có hiệu quả vấn đề cấp thiết nêu trên, nghiên
cứu sinh chọn và thực hiện đề tài luận án tiến sĩ: "Các tỉnh ủy ở đồng bằng
sông Hồng lãnh đạo cải cách tư pháp giai đoạn hiện nay".
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tỉnh ủy ở
ĐBSH lãnh đạo CCTP, luận án đề xuất các giải pháp khả thi tăng cường sự
lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSH đối với CCTP đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan

đến đề tài luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo

CCTP trong giai đoạn niện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng CCTP và các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo

CCTP từ năm 2006 đến nay, chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế, nguyên
nhân và kinh nghiệm.
- Dự báo những nhân tố tác động, đề xuất phương hướng và những giải


pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSH đối với CCTP
đến năm 2030.


4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án: các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo CCTP
giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu thực trạng CCTP ở 09 tỉnh ở ĐBSH gồm: Vĩnh

Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Quảng Ninh, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình,
Hà Nam và Ninh Bình và thực trạng các tỉnh ủy ở 09 tỉnh ĐBSH lãnh đạo
CCTP từ năm 2006 đến nay.
- Phương hướng và các giải pháp luận án đề xuất có giá trị đến năm 2030.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, phát
triển các lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là về lĩnh vực tư pháp, CCTP; Đảng
lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội và về công tác xây dựng Đảng.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng CCTP và thực trạng các tỉnh ủy
ở 09 tỉnh ĐBSH lãnh đạo CCTP từ năm 2006 đến nay.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp logic kết hợp với lịch sử,
phân tích kết hợp với tổng hợp; tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học, phỏng

vấn sâu.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
Luận án nêu ra khái niệm: Các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo CCTP là toàn
bộ hoạt động của tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy (BTVTU), với sự tham gia của
các tổ chức trong HTCT, các tổ chức khác và nhân dân ở các tỉnh để xây dựng,
ban hành các nghị quyết, quyết định về đổi mới, điều chỉnh, cải tiến tổ chức bộ
máy, cán bộ và hoạt động của các CQTP; tổ chức thực hiện; kiểm tra,


5
giám sát để các nghị quyết, quyết định ấy thành hiện thực, các CQTP thực hiện
đúng đắn, đầy đủ quyền tư pháp theo luật định, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ
công cuộc đổi mới của địa phương, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta.
Luận án đúc rút ra kinh nghiệm: các tỉnh ủy lãnh đạo xây dựng và thực
hiện tốt quy chế phối hợp hoạt động của các CQTP với ban nội chính tỉnh ủy,
ban chỉ đạo CCTP tỉnh trong lãnh đạo CCTP.
Luận án đề xuất một số giải pháp mang tính đột phá: một là, nâng cao
chất lượng tỉnh ủy, BTVTU đáp ứng yêu cầu CCTP trong những năm tới; hai
là, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy các CQTP tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ các CQTP đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận án góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh
đạo CCTP trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
trong quá trình lãnh đạo CCTP của các tỉnh ủy ở ĐBSH trong những năm tới.
Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được dùng tài liệu tham khảo
phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Xây dựng Đảng ở Học viện Chính
trị quốc gia (CTQG) Hồ Chí Minh và các Học viện Chính trị khu vực của Học

viện, các trường chính trị tỉnh, thành phố vùng ĐBSH.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác
giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục và 4 chương, 9 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI
- John Ferejohn, Các thẩm phán độc lập, tư pháp phụ thuộc, giải thích

về độc lập tư pháp (Independent judges, dependent judiciary: explaining
judicial independence) [68]. Tác giả cho rằng, độc lập tư pháp là một ý tưởng
được tiếp cận dưới hai yếu tố: yếu tố bên trong (mang nghĩa thông thường)
hoặc bên ngoài (mang tính tổ chức). Theo nghĩa thông thường, thẩm phán cần
sự độc lập và có phẩm chất đạo đức, có thể được tin tưởng để giải quyết các
nhiệm vụ công độc lập với các mối quan tâm khác. Tuy nhiên, thẩm phán cũng
là một con người và những việc họ quyết định liên quan rất lớn đến con người.
Vì vậy, thẩm phán cần đến sức mạnh của tổ chức để đối phó với những áp lực
hoặc ham muốn vật chất có thể có trong công việc. Tư pháp độc lập là một yếu
tố của việc thiết lập tổ chức nơi mà hoạt động tư pháp diễn ra. Tuy nhiên, độc
lập tổ chức là một giá trị phức tạp, bởi nó là công cụ để theo đuổi một giá trị
khác, giá trị nhà nước pháp quyền hoặc giá trị Hiến pháp.
- Triệu Gia Kỳ, Tăng cường xây dựng Đảng ủy địa phương, phát huy

đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo [85]. Tác giả đã phân tích công tác xây dựng
Đảng, phát huy đầy đủ vai trò lãnh đạo của Thành ủy Bắc Kinh, tạo nên sự

thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức đảm bảo cho sự phát triển liên tục,
nhanh chóng, hài hòa và lành mạnh của kinh tế, xã hội của thành phố, chỉ ra
những kinh nghiệm về đỏi mới, hoàn thiện PTLĐ của cấp ủy địa phương, nhất
cấp tỉnh, đối với các lĩnh vực đời sống xã hội. Một là, kiên trì bao quát toàn
cục, điều hòa các mặt, phát huy dầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng ủy
địa phương, gồm: kiện toàn và hoàn thiện thể chế lãnh đạo để đảng ủy địa
phương phát huy vai trò hạt nhân, quán triệt và thực hiện tốt đường lối, phương
châm và chính sách của Trung ương Đảng kiên trì "lập Đảng vì công, cầm
quyền vì dân". Hai là, nắm chắc nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, thiết


7
thực đảm đương trách nhiệm thức đẩy kinh tế, xã hội địa phương phát triển toàn
diện, hài hòa và bền vững, luôn coi phát triển là chức trách hàng đầu, ưu tiên hóa
môi trường phát triển, đẩy mạnh sáng tạo và thể chế, kiên trì giải quyết tốt mối
quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn định. Ba là, thiết thực tăng cường xây dựng
bản thân mình, không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền,
quán triệt thực hiện nguyên tắc tậ trung dân chủ, kiện toàn và hoàn thiện hơn nữa
cơ chế nghị sự và ra quyết sách của đảng ủy địa phương. Bốn là, các cán bộ lãnh
đạo địa phương cần thích ứng với tình hình mới, đón đầu thách thức, ra sức tăng
cường xây dựng ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ.
- Thomas Selby Ellis III, Minh bạch luật pháp và độc lập tư pháp [67].

Tác giả đã đề cập bản chất minh bạch của quá trình tư pháp và cho rằng, tư
pháp độc lập phải được ghi nhận, bảo đảm bởi Hiến pháp, được thực hiện bởi
ngành tư pháp thông qua các hành động của nó, hay quá trình thẩm phán thực
hiện nền công lý trong thực tế. Vì vậy, tư pháp độc lập - ở mức độ nào đó - phụ
thuộc vào sự minh bạch của nền tư pháp: điều gì thẩm phán làm trong quá trình
và sản phẩm của quá trình xét xử phải được mở rộng đến sự kiểm soát của
công chúng. Quy trình bí mật - bao gồm cả việc ngăn cản không hợp lý việc

tiếp cận của công chúng đối với các bản ghi âm hoạt động của tòa án - sẽ làm
tăng sự nghi ngờ, thiếu tin tưởng và tự tin trong quá trình tư pháp. Quá trình
này thường dẫn đến những nỗ lực hạn chế quyền lực tư pháp và tư pháp độc
lập.
Ngày nay, cách mạng công nghệ đã mang đến những tiến bộ vượt bậc
của máy tính, mạng internet và công nghệ không dây thì việc đáp ứng yêu cầu
đầy đủ cho minh bạch tư pháp không phải là quá khó. Khi áp dụng chúng,
quyền tiếp cận của công chúng mang tính hiến định và nó chỉ có thể bị từ chối
dựa trên lợi ích của chính quyền, thể nhân hoặc cá nhân khi những lợi ích nà,
lớn hơn quyền tiếp cận của công chúng. Nhưng, khi bị thu hẹp, nó cũng chỉ
được áp dụng đối với một số bản ghi âm và tài liệu tư pháp tại buổi bào chữa
vô tội và tuyên án có tội trong vụ án hình sự, tài liệu tổng kết của tòa án trong
vụ án dân sự, hoặc bí mật cá nhân, bí mật thương mại...


8
- Thoong Băn Seng Aphone, Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo

giữ vững an ninh quốc gia trong giai đoạn hiện nay [121]. Tác giả đã làm rõ
những nội dung chủ yếu của an ninh quốc gia ở Lào hiện nay; xây dựng khái
niệm, xác định nội dung, PTLĐ của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đối với
giữ vững an ninh quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Tác giả phân tích tình hình
an ninh ở Lào hiện nay và khảo sát, đánh giá thực trạng Đảng Nhân dân cách
mạng Lào lãnh đạo an ninh quốc gia những năm qua, chỉ ra ưu điểm, khuyết
điểm, nguyên nhân và năm kinh nghiệm có giá trị. Tác giả chỉ ra và phân tích
những thuận lợi, khó khăn đối với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào đối với giữ vững an ninh quốc gia trong những năm tới.
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp đồng bộ, khả thi, gồm: nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, cán bộ, đảng viên về giữ vững an ninh
quốc gia; đổi mới mạnh mẽ nội dung lãnh đạo, đặc việt coi trọng xác định điểm

trọng tâm, mấu chốt để đề ra nghị quyết chuyên đề; kiện toàn tổ chức bộ máy,
nâng cao chất lượng các CQTP, nhất là lực lượng công an; phối hợp chặt chẽ
hoạt động của lực lượng công an và quân đội trong giữ vững an ninh quốc gia;
phát huy vai trò của HTCT và nhân dân trong giữ vững an ninh quốc gia...
- Bun-Thoong Chit-Ma-Ni, Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo xây

dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay [36]. Tác giả đã luận bàn và làm rõ
những vấn đề chủ yếu, như: khái niệm nông thôn mới, những đặc trưng của nông
thôn mới ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào; khái niệm Đảng Nhân dân cách
mạng Lào lãnh đạo xây dựng nông thôn mới; nội dung và PTLĐ của Đảng Nhân
dân cách mạng Lào đối với xây dựng nông thôn mới. Tác giả đề xuất sáu giải
pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đối với
xây dựng nông thôn mới đến năm 2020. Trong đó, đáng chú ý là giải pháp về xây
dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các nghị quyết chuyên đề về xây dựng nông
thôn mới; tập trung cao độ thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành nông
nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh lãnh đạo, chỉ đạo dồn các bản rời rạc thành các cụm
bản để xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, xây
dưng các cụm bản thành nông thôn mới ở Lào.


9
- Hướng dẫn tăng cường năng lực và liêm chính tư pháp, (Resdurce

guide on strengthening judicial integrity and capacity) [148]. Nội dung cuốn
sách đã đưa ra các ý tưởng, đề xuất và chiến lược được phát triển bởi các
chuyên gia cải cách luật và tư pháp. Các nhà nghiên cứu ứng dụng và những
nhà thực hành giàu kinh nghiệm đã đóng góp cho các tài liệu hướng đến nỗ lực
CCTP ngày càng phong phú về số lượng và nội dung. Đặc biệt, cuốn sách đã
giới thiệu về cơ chế giám sát đối với công việc của các CQTP ở một số nước
trên thế giới, mô hình phổ biến là ban thanh tra (hoạt động cho Bộ Tư pháp,

cho Hội đồng tư pháp hay cho Tòa án tối cao).
- Thường Vệ Quốc, Tập trung giải quyết vấn đề nổi cộm mà quần

chúng nhân dân phản ánh gay gắt [104]. Tác giả đã luận giải và chỉ rõ, vấn đề
nổi cộm mà đông đảo quần chúng nhân dân Trung Quốc phản ánh gay gắt là
tác phong làm việc quan liêu, xã dân, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, suy
thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ, đảng
viên làm việc trong cơ quan công quyền ở các cấp. Đảng Cộng sản Trung Quốc
đã tập trung cao độ lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy đảng, chính quyền với sự tham
gia của các tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) và nhân dân để ngăn chặn, loại
trừ tình trạng này. Trong đó, phương châm xây để chống luôn được coi trọng
với các giải pháp đồng bộ, khả thi về xây dựng tác phong Đảng liêm chính
trong thời kỳ mới. Tác giả chỉ ra khâu then chốt trong xây dựng tác phong
Đảng liêm chính trong thời kỳ. Một là, Đảng thực hiện tôn chỉ vì nhân dân
phục vụ, đem lại và bảo vệ lợi ích thiết thực của nhân dân. Hai là, duy trì quan
hệ máu thịt với nhân dân. Ba là, có các giải pháp đem lại kết quả trên thực tế là
đáp ứng nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Đồng thời, tác giả xác
định con đường hiệu quả để xây dựng tác phong Đảng liêm chính trong thời kỳ
mới, gồm: thứ nhất, liên trì việc cán bộ, đảng viên tự học, tự rèn và tranh thủ
sự ủng hộ của quần chúng nhân dân; thứ hai, kiên trì giáo dục tư tưởng, xây
dựng cơ chế hiệu quả lâu dài về giáo dục, ngăn chặn suy thoái và quản lý chặt
chẽ quyền lực, được tác giả gọi là "đem nhốt quyền lực vào trong cái lồng của
cơ chế, chính sách"; thứ ba, coi trọng sự nêu gương về Đảng


10
phong của cán bộ Trung ương, cán bộ cấp cao kết hợp chặt chẽ với rèn luyện
Đảng phong của cán bộ cơ sở.
- Mao Chiếu Huy, Ý nghĩa quan trọng của sách lược trừng trị tham


nhũng "đánh cả hổ lẫn ruồi [80]. Tác giả phân tích sâu sắc nội dung của sách
lược nêu trên. Thứ nhất, "đánh hổ", gồm hai trọng điểm: tập trung cao độ, tăng
cường và kiên quyết điều tra, xử lý các hành vi tham nhũng của những cán bộ
trung cấp, cao cấp, ở bất kỳ mức độ nặng, nhẹ nào đều bị điều tra, xem xét xử
lý nghiêm khắc theo kỷ luật đảng và pháp luật; tập trung điều tra xét xử các vụ
tham nhũng tập thể có tính tổ chức. "Đánh ruồi" là tập trung điều tra, xét xử
những "quan nhỏ tham nhũng lớn"; tham nhũng trong lĩnh vực dân sinh. Hai
là, ý nghĩa của sách lược trừng trị tham nhũng "đánh cả hổ lẫn ruồi" là nâng
cao sự tin tưởng của nhân dân đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng do Đảng lãnh đạo; qua đó tích cực tham gia; răn đe và giảm bớt những
vụ tham nhũng. Ba là, sách lược cũng chỉ ra những điểm cần chú ý khi thực
hiện sách lược, gồm: dự báo đầy đủ những khó khăn, đặc biệt là những khó
khăn cực kỳ lớn khi "đánh hổ", vì "hổ" có quyền lực, có sức mạnh kinh tế,
chính trị, quan hệ rộng rãi và được các lực lượng khác ủng hộ, bảo vệ; quán
triệt sâu sắc mục tiêu của sách lược là: có tham nhũng thì phải trừng trị, không
được bỏ qua; cần nhận thức sâu sắc: "hổ" và "ruồi" ở cấp nào cũng có, "đánh
hổ" phải kết hợp chặt chẽ với "đánh ruồi"; thực hiện nghiêm chỉnh, có hiệu quả
chế độ chất vấn trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp là biện pháp quan
trọng để thực hiện sách lược đạt kết quả.
1.2. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

1.2.1. Các công trình về cải cách tư pháp trong nhà nước pháp quyền
- Lê Xuân Thân, Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của tòa án

nhân dân ở Việt Nam hiện nay [118]. Tác giả trình bày cơ sở lý luận về việc áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND; phân tích thực trạng, những
ưu điểm đã đạt được và những vướng mắc trong hoạt động xét xử của TAND ở
nước ta trong thời gian qua; đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản
nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND ở
Việt Nam góp phần thực hiện có hiệu quả công cuộc CCTP.



11
- Đỗ Thị Ngọc Tuyết, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ

thống tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền
[143]. Tác giả đã luận giải về quyền tư pháp được thực hiện thông qua hoạt

động xét xử của tòa án và hoạt động của các CQTP khác. Hoạt động xét xử của
tòa án là sự thể hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, thể hiện nền công lý, sự
công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật, do đó việc cải cách hệ
thống tòa án về tổ chức, thẩm quyền và hoạt động là một đòi hỏi tự thân, xuất
phát từ vị trí, vai trò và chức năng của tòa án trong bộ máy nhà nước. Tác giả
cũng làm rõ cơ sở lý luận về tòa án và cải cách hệ thống tòa án Việt Nam theo
định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền; lịch sử hình thành, phát triển và
thực trạng về tổ chức, thẩm quyền, hoạt động xét xử của hệ thống tòa án ở
nước ta; phương hướng và giải pháp cải cách hệ thống tòa án Việt Nam theo
định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền. Các cơ sở lý luận và thực tiễn
được trình bày góp phần xây dựng các CQTP trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Đào Trí Úc, Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam [144]. Tác giả khẳng định, việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN trong điều kiện và xuất phát điểm của Việt Nam hiện nay là
một nhiệm vụ chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Đây là một vấn đề mới mẻ cả
về lý luận và thực tiễn. Với mục đích góp phần nghiên cứu, tổng kết để làm rõ
những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN, việc triển khai thực
hiện các chiến lược cải cách pháp luật và CCTP, cải cách hành chính (CCHC)
cần được đẩy nhanh và đúng hướng hơn nữa, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu

cầu phát triển KT-XH. Tác giả khẳng định, việc nghiên cứu những đặc trung cơ
bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam sẽ góp phần tạo tiền đề nhận
thức phương pháp luận cho những bước nghiên cứu tiếp theo, cụ thể hơn về
các khía cạnh khác nhau của Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Đồng thời, việc
nghiên cứu, xác định rõ mô hình lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sẽ giúp


12
tạo thêm những điều kiện nhận thức cho tiến trình cải cách về lập pháp, hành
pháp, tư pháp đang được xúc tiến mạnh mẽ và khẩn trương hiện nay.
- Trịnh Thị Xuyến, Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý

luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay [154]. Tác giả luận bàn và chỉ rõ: để
giám sát và hạn chế quyền lực, phải thực hành dân chủ: cơ chế hoạt động của
bộ máy chính quyền phải công khai, có sự giám sát của dân, các tổ chức xã hội
dân sự… Xây dựng các cơ chế pháp lý đảm bảo cho nhân dân tham gia giám
sát và phản biện xã hội là một trong những giải pháp cấp thiết nhằm thực hiện
quyền dân chủ, tự do của nhân dân. Hơn thế nữa, ở nước ta, đó còn là giải pháp
quan trọng góp phần đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu quả quản
lý, điều hành của Nhà nước và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức
CT-XH. Cuốn sách còn chỉ rõ cơ sở lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước;
thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số quốc gia tiêu biểu; thực tiễn
và những mâu thuẫn, bất cập trong kiểm soát quyền lực nhà nước mà Việt Nam
đang và sẽ giải quyết trong tiến trình phát triển; phương hướng và những giải
pháp chủ yếu cho kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
- Nguyễn Đăng Dung, Cải cách tư pháp trong tổ chức quyền lực nhà

nước [42]. Trên cơ sở luận giải về nhà nước pháp quyền cần có sự phân quyền
giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng tư pháp vẫn là cành quyền lực

đáng được phân quyền hơn cả, tác giả đã phân tích những đòi hỏi của nhà nước
pháp quyền, thực trạng về tổ chức và hoạt động của tòa án Việt Nam, nêu ra
các yêu cầu và giải pháp cho công cuộc CCTP hiện nay.
- Nguyễn Ngọc Chí, Chức năng của tòa án trong tố tụng hình sự trước

yêu cầu cải cách tư pháp [38]. Tác giả khẳng định: với chức năng xét xử, tòa
án là đại diện cho quyền lực tư pháp, do đó nghiên cứu chức năng xét xử của
tòa án trong tố tụng hình sự nhằm hoàn thiện chức năng này, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, hạn chế tối đa tình
trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân… tùng bước hoàn thành công tác CCTP và xây
dựng nhà nước pháp quyền.


13
- Nguyễn Văn Mạnh, Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam- lý luận và thực tiễn [89]. Công trình khoa học này đã làm rõ việc xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là tất yếu.
Tiến hành công việc này không làm thay đổi bản chất của Nhà nước Việt Nam
XHCN, mà thể hiện đầy đủ bản chất của một nhà nước dân chủ, nhà nước thật sự
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phù hợp với xu thế phát triển chung của
thời đại. Cuốn sách tập trung phân tích và làm rõ những đặc trưng của nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam, đánh giá những thành tựu cũng như những hạn chế
về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong những năm qua; trên
cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
- Lê Thu Hà, Tổ chức xét xử vụ án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp [72]. Tác giả chỉ rõ: hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành mạnh

mẽ công cuộc cải cách nhằm loại bỏ những khâu bất hợp lý trong tổ chức và
hoạt động của cơ quan nhà nước, trong đó có các CQTP mà hệ thống tòa án là
một bộ phận quan trọng. Thực tiễn xét xử của ngành tòa án trong thời gian qua
cho thấy, không ít những vụ việc dân sự đã giải quyết kéo dài, giảm sút lòng tin
trong một bộ phận nhân dân. Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng
trên là sự bất cập trong cách thức tổ chức phân cấp thực hiện thẩm quyền giải
quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống tòa án. Những quy định của pháp luật
hiện hành về giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống tòa án chưa thật sự
tạo ra một cách thức phù hợp, hiệu quả, chưa đủ khả năng giải quyết các tranh
chấp dân sự vốn đã phức tạp và ngày càng phức tạp trong đời sống xã hội. Hệ
thống pháp luật về tố tụng, về tổ chức tòa án, tuy đã có nhiều sửa đổi, nhưng
vẫn còn những quy định chưa phù hợp, tập trung nhất là việc tổ chức thực hiện
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự của tòa án. Tác giả đề xuất mô
hình tổ chức xử án dân sự khoa học, có khả năng nâng cao chất lượng xét xử
về dân sự, phục vụ mục tiêu CCTP hiện nay.
- Trần Văn Nam, Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm

sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam [93]. Tác giả phân


14
tích quá trình hình thành, phát triển và thực trạng của viện kiểm sát ở Việt Nam
còn tồn tại các hạn chế như: chưa toàn diện và có hệ thống, thực hiện CCTP
chưa đồng bộ, còn chậm, nhiều nơi lúng túng nên chất lượng và hiệu quả chưa
cao. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các yêu cầu quan điểm và giải pháp đổi mới
tổ chức và hoạt động của VKSND, đảm bảo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; góp phần giữ vững bản chất của Nhà nước
ta, bảo vệ nền pháp chế XHCN, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Nguyễn Minh Đoan, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt


Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [61]. Tác
giả luận giải và chỉ rõ, một trong những yêu cầu quan trọng của nhà nước pháp
quyền nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN nói riêng là quản lý đất nước
và xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, có thể thấy, nhà nước pháp quyền gắn liền với
pháp luật và được hợp pháp hóa bởi pháp luật. Pháp luật là nền tảng của nhà
nước pháp quyền, là công cụ quản lý của nhà nước. Pháp luật trong nhà nước
pháp quyền XHCN là sự thể chế hóa các đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng để đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo đảm công bằng, tiến
bộ xã hội, bảo vệ chế độ, bảo vệ chính quyền nhân dân. Cùng với sự phát triển
của xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế ở nước ta, phạm vi điều chỉnh của pháp luật
ngày càng được mở rộng, vai trò ngày càng được nâng cao, vì vậy yêu cầu tất
yếu là cần được củng cố và hoàn thiện.
- Thái Vĩnh Thắng, Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước [116]. Tác

giả luận giải và khẳng định: quyền lực của Nhà nước cần được tổ chức và kiểm
soát chặt chẽ; hành pháp không chỉ đơn thuần là chức năng tổ chức thực hiện pháp
luật. Hành pháp bao gồm những chức năng cơ bản: xác lập chủ trương, chính sách
của Chính phủ về đối nội và đối ngoại phù hợp với quy định của Hiến pháp và các
luật; tổ chức thi hành các quy định của Hiến pháp và các luật bằng việc xây dựng
và ban hành các văn bản pháp quy nhằm cụ thể hóa các quy định


15
của Hiến pháp và luật; xây dựng và duy trì hoạt động thường xuyên một bộ máy
công quyền từ Trung ương xuống địa phương nhằm điều hòa các mối quan hệ xã
hội trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đảm bảo một trật tự an toàn
chung cho mọi công dân trong xã hội; tổ chức và quản lý các dịch vụ công, quản
trị các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, quản lý hành chính việc tổ chức và hoạt

động của các doanh nghiệp nhà nước; tổ chức kiểm tra, thanh tra việc chấp hành
pháp luật trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước và tổ chức kiểm toán
tất cả các cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Nguyễn Minh Sử, Đổi mới tổ chức TAND cấp huyện trong quá trình

cải cách tư pháp ở Việt Nam [111]. Tác giả tập trung nghiên cứu lý luận về tòa
án cấp huyện và đổi mới tổ chức tòa án cấp huyện ở Việt Nam; phân tích thực
trạng và tổ chức TAND cấp huyện ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất
quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức TAND cấp huyện trong CCTP, nêu bật
trọng tâm cơ bản của quá trình CCTP là đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ
thống tòa án các cấp, đáp ứng yêu cầu Chiến lược CCTP đến năm 2020 với
khâu trung tâm là hoạt động xét xử của tòa án các cấp, đảm bảo xây dựng hệ
thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người.
- Đào Trí Úc, Về viện kiểm sát ở Việt Nam [145]. Cải cách bộ máy nhà

nước nói chung và CCTP nói riêng ở Việt Nam đang đặt ra hàng loạt vấn đề lý
luận và thực tiễn cần tiếp tục được nghiên cứu và giải quyết, trong đó có vấn
đề VKSND với tính cách là một chế định trong hệ thống quyền lực nhà nước ở
nước ta. Bài viết đã khái quát về viện kiểm sát, công tố và các thiết chế tương
tự trong cơ cấu quyền lực nhà nước ở các nước trên thế giới, khái quát về quá
trình hình thành và phát triển của thiết chế VKSND ở Việt Nam. Tác giả đề
xuất cách nhìn mới về mô hình tổ chức và chức năng của VKSND
ở nước ta trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà

nước pháp quyền XHCN.
- Nguyễn Huy Phượng, Giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ

quan tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa



16
Việt Nam [101]. Tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận về giám sát xã hội đối
với hoạt động của các CQTP trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN; thực trạng giám sát xã hội đối với hoạt động của các CQTP ở Việt
Nam; quan điểm và các giải pháp bảo đảm giám sát xã hội đối với hoạt động
của các CQTP. Việc nghiên cứu có hệ thống về lý luận và thực tiễn và đề xuất
giải pháp bảo đảm giám sát xã hội đối với hoạt động tư pháp đã được tác giả
luận giải khúc chiết, sâu sắc, có giá trị khả thi góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của giám sát xã hội - một trong những nội dung quan trọng trong tiến trình
CCTP, đảm bảo định hướng của Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương.
- Nguyễn Sơn Hà, Những điều kiện bảo đảm cho thẩm phán xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật [73]. Tác giả chỉ rõ, khi xét xử, thẩm phán nhân
danh Nhà nước để định tội danh, hình phạt trong các vụ án hình sự, để phân
định đúng sai trong các vụ việc, tranh chấp dân sự, hành chính, lao động, kinh
doanh thương mại, hôn nhân - gia đình... Tác giả đề cập đến nguyên tắc "thẩm
phán xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật" trở thành điểm tựa của nền tư
pháp, của pháp đình, có tính bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, hoạt động của thẩm
phán còn chịu sự chi phối của các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, cơ chế tác động.
Vì vậy, để bảo đảm cho thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét
xử phải có những điều kiện nhất định, trong đó có các điều kiện quan trọng: trí
tuệ và tâm lý, tiền lương, cơ sở vật chất...
- Lưu Bình Nhưỡng, Vai trò của tòa án trong công tác thi hành án [98].

Bài viết khái quát, việc thi hành án không phải là hoạt động triển khai thi hành
các văn bản pháp luật, mà là thực thi các quyết định tư pháp, tức là "chấp
pháp"; là khâu tiếp theo của một quá trình giải quyết vụ án, vụ việc theo thủ tục
tố tụng tư pháp; là sự "thừa hành" với nhiệm vụ duy nhất là thi hành các bản
án, quyết định do các tòa án tư pháp tuyên nhân danh Nhà nước và quyết định

có hiệu lực pháp luật của các chủ thể khác nhằm thực thi công lý trên thực tế.
Tòa án đóng vai trò quyết định đưa ra bản án, bản án được thi hành thể hiện
quyền lực chính trị của tòa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
Ngoài ra, bài viết còn nêu một số kiến nghị


17
nhằm xác định rõ hơn một số vấn đề về nhiệm vụ, quyền hạn của TAND trong
công tác thi hành án.
1.2.2. Các công trình về Đảng lãnh đạo Nhà nước và các lĩnh vực đời
sống xã hội
- Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt, Nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới [137]. Các tác giả đề
cập một cách khái quát, có hệ thống những vấn đề cơ bản về đảng cầm quyền;
tình hình đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong những năm vừa qua. Các tác giả dành
một phần quan trọng để luận giải về chất lượng các tổ chức cơ sở đảng. Trên
cơ sở phân tích công phu, nghiêm túc cơ sở lý luận và thực tiễn những vấn đề
cơ bản về xây dựng Đảng nói chung, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng nói
riêng, các tác giả đề xuất phương hướng và các giải pháp cấp bách không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới.
- Phạm Ngọc Quang, Ngô Kim Ngân, Phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân [102]. Các tác giả luận giải tầm quan trọng, sự
cần thiết phải đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước; khái quát quá trình
đổi mới tư duy về PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước những năm qua và nêu
lên một số mô hình lãnh đạo của đảng cầm quyền ở một số nước. Trên cơ sở
đó, các tác giả phân tích, đánh giá thực trạng đổi mới PTLĐ của Đảng trên một
số lĩnh vực chủ yếu của Nhà nước ở cấp Trung ương; nêu quan điểm và một số

giải pháp tiếp tục đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn
hiện nay.
- Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng chỉnh đốn Đảng - một số vấn đề lý luận

và thực tiễn [138]. Tác giả đề cập một số vấn đề chung về công tác xây dựng
Đảng, từ đó rút ra các bài học về xây dựng Đảng trong những năm đổi mới.
Đặc biệt, trong phần xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ, tác giả đã đưa ra các
biện pháp để đảm bảo dân chủ trong Đảng; quan niệm và PTLĐ của Đảng duy
nhất cầm quyền; đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước, từ đó đúc kết các
bài học, kết luận quan trọng về công tác xây dựng Đảng, góp phần


18
nâng tầm lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng trong giai đoạn mới.
- Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn, Thể chế Đảng cầm quyền - một số

vấn đề lý luận và thực tiễn [112]. Các tác giả đã phân tích và chỉ rõ, trong thời
đại ngày nay, vấn đề đảng chính trị và đảng cầm quyền ngày càng có vị trí, vai
trò quan trọng trong đời sống chính trị nói chung và với nhà nước nói riêng.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước được Đảng
khẳng định là một nguyên tắc hoạt động cơ bản, là trụ cột của cơ chế vận hành
của cả HTCT, là nhân tố, điều kiện để đảm bảo quyền lực của nhân dân, xây
dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ đó, theo các tác
giả, làm rõ những nội dung lý luận, thực trạng cũng như phương hướng, biện
pháp xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước góp phần giải quyết các vấn
đề đặt ra trong công cuộc đổi mới ở nước ta, nhất là vấn đề xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, phát triển nền dân chủ XHCN
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội
nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

- Trần Đình Thắng, Đảng Cộng sản Việt Nam với việc cải cách nền

hành chính nhà nước [115]. Tác giả đã đề cập vai trò của nền hành chính quốc
gia là bộ phận vô cùng quan trọng trong cơ cấu nhà nước, bao gồm các yếu tố
về thể chế, tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực và các phương tiện vật chất, kỹ
thuật cần thiết để đảm nhận chức năng thực thi quyền hành pháp, quản lý, điều
hành các lĩnh vực trong đời sống xã hội và thực thi quyền lực của nhân dân.
Tác giả cũng phân tích, luận giải có căn cứ khoa học trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn để làm rõ yêu cầu tất yếu khách quan của Đảng lãnh đạo cải
cách, xây dựng nền hành chính nhà nước trong công cuộc đổi mới đất nước;
đánh giá khách quan, có cơ sở khoa học về kết quả lãnh đạo và rút ra một số
kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cải cách, xây dựng nền
hành chính nhà nước trong thời kỳ mới. Qua đó, tác giả khẳng định sự phát
triển về tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của Đảng đối với
việc xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, hiện


19
đại trong công cuộc đổi mới đất nước - nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Nguyễn Hữu Nhân, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công

tác cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay [97]. Tác giả đã
làm rõ nội hàm các khái niệm công cụ quan trọng của công trình khoa học này
là: hành chính nhà nước và CCHC nhà nước ở thành phố, Thành ủy lãnh đạo
CCHC nhà nước. Tác giả xác định, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo
CCHC là toàn bộ hoạt động của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy và các tổ
chức có liên quan, đề ra các nghị quyết về đổi mới, điều chỉnh, cải tiến một số
bộ phận, mặt công tác, các thể chế hành chính, tổ chức, bộ máy, cán bộ và hoạt
động của ủy ban nhân dân (UBND) và các cơ quan thuộc UBND thành phố,

quận, huyện, xã, phường, thị trấn; tổ chức thực hiện các nghị quyết đã đề ra; tổ
chức kiểm tra, giám sát nhằm thực hiện thắng lợi các nghị quyết ấy, xây dựng
nền hành chính thành phố dân chủ, từng bước hiện đại, góp phần xây dựng
chính quyền thành phố trong sạch, vững mạnh đáp ứng tốt yêu cầu công cuộc
đổi mới và yêu cầu của nhân dân thành phố. Từ khái niệm đã xác định, tác giả
chỉ rõ 09 nội dung mà Thành ủy cần tập trung lãnh đạo CCHC trên địa bàn
thành phố, đồng thời cũng xác định phương thức Thành ủy lãnh đạo CCHC
trên địa bàn, đó là tổng thể các hình thức, phương pháp, quy chế, quy định, quy
trình, chế độ, phong cách, lề lối làm việc... Thành ủy sử dụng để tác động vào
UBND thành phố và các cơ quan thuộc UBND thành phố, UBND quận, huyện,
xã, phường, thị trấn nhằm thực hiện thắng lợi nội dung lãnh đạo CCHC của
Thành ủy. Tác giả nhận định, sự lãnh đạo của Thành ủy là nguyên nhân trực
tiếp, quyết định những thành tựu và hạn chế của công cuộc CCHC trên địa bàn.
Kết quả nghiên cứu của công trình này đã gợi ý cho đề tài nghiên cứu vấn đề
các tỉnh ủy lãnh đạo công tác CCTP giai đoạn hiện nay.
- Trần Quang Cảnh, Đổi mới phương thức lãnh đạo của huyện ủy đối

với chính quyền huyện ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay [37]. Tác
giả làm rõ vai trò, đặc điểm các huyện ủy và chính quyền huyện ở các tỉnh
thuộc ĐBSH hiện nay, từ đó đi sâu phân tích làm rõ PTLĐ của huyện ủy đối


20
với chính quyền và đổi mới PTLĐ. Tác giả tập trung làm rõ những nội cần đổi
mới trong PTLĐ đối với chính quyền, đánh giá được thực trạng các huyện ủy
đổi mới PTLĐ chính quyền những năm vừa qua. Từ đó, tác giả đề xuất hệ
thống giải pháp có tính khả thi nhằm đổi mới PTLĐ của huyện ủy đối với
chính quyền huyện ở ĐBSH giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Hữu Đổng, Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng đáp


ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa [63]. Tác giả đề
cập việc sử dụng công cụ quyền lực của các đảng cầm quyền. Quyền lực của
đảng cầm quyền là quyền chi phối, định hướng đối với nhà nước để thực hiện
cương lĩnh, mục tiêu của đảng đó. Phương thức cầm quyền của các đảng cầm
quyền diễn ra rất đa dạng, nhưng chủ yếu là hai phương thức: thông qua các cá
nhân đảng viên ưu tú đứng bên trong nhà nước trực tiếp lãnh đạo và quản lý
đất nước; bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương lớn, được thông qua trong các nghị quyết đại hội đảng, hội nghị cấp ủy
các cấp của đảng theo những nhiệm vụ cụ thể của từng cấp.
- Trịnh Đức Thảo, Trần Thái Dương, Xây dựng và hoàn thiện mô hình

quan hệ giữa Đảng với cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện
quyền tư pháp [119]. Bài viết đề cập mô hình quan hệ giữa Đảng với cơ quan
tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp đã được xác lập,
củng cố và ngày càng rõ nét hơn. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước nói chung, CQTP và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp nói
riêng thể hiện thẩm quyền, trách nhiệm chính trị của Đảng. Nội dung chủ yếu
là việc xác định các định hướng chính trị; đề ra, chỉ đạo và kiểm tra việc thực
hiện các cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà
nước, ngoài ra Đảng còn thực hiện công tác bồi dưỡng, đào tạo, rèn luyện, bố
trí, sử dụng cán bộ, đảng viên. Ngoài vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các
CQTP, các tác giả còn đề cập đến vai trò, trách nhiệm của cơ quan tư pháp và
các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp đối với Đảng. Tính độc lập của
cơ quan tư pháp và các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp thể hiện ở
nguyên tắc độc lập xét xử góp phẩn bảo vệ trật tự pháp luật, bảo đảm tính


×