Tải bản đầy đủ (.docx) (133 trang)

Hội chứng dễ bị tổn thương(frailty) và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại bệnh viện lão khoa trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.4 KB, 133 trang )

1
1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Già hóa dân số là một trong những vấn đề toàn cầu và ảnh hưởng lớn đến tất
cả các khía cạnh của xã hội. Hiện nay trên thế giới cứ chín người thì có một người
có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên và con số này dự tính đến năm 2050 sẽ tăng lên, cứ năm
người sẽ có một người có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên. Tại Việt Nam, tỷ lệ dân số từ 60
tuổi trở lên đang ở nhóm cao nhất thế giới và dự kiến sẽ chạm ngưỡng 10% tổng
dân số vào năm 2017 (ngưỡng thể hiện cơ cấu dân số già), đến năm 2037, tỷ trọng
người từ 60 tuổi trở lên ở nước ta sẽ tiếp tục tăng nhanh, dự báo lớn hơn hoặc bằng
20% tổng dân số [1]. Như vậy vấn đề già hóa dân số đã đặt ra một thách thức lớn
đối với ngành y tế trong việc chăm sóc, phòng ngừa và điều trị cho người cao tuổi.
Hội chứng dễ bị tổn thương (Frailty) là một hội chứng lão khoa, xảy ra do sự
tích tụ của quá trình suy giảm chức năng nhiều hệ thống cơ quan trong cơ thể, đặc
trưng bởi trạng thái dễ bị tổn thương với các yếu tố về thể chất, xã hội và môi
trường [2]. Hội chứng dễ bị tổn thương (HCDBTT) có thể dẫn đến nhiều hậu quả
bất lợi trên người cao tuổi như té ngã, suy giảm nhận thức, khuyết tật, sống phụ
thuộc, cũng như gia tăng tỷ lệ tử vong, sử dụng quá nhiều thuốc, kéo dài thời gian
nằm viện nhưng đồng thời đây cũng là một dấu hiệu tiên lượng quan trọng góp phần
ngăn chặn, trì hoãn tình trạng tiến triển nặng hơn [3]. Do đó phát hiện, sàng lọc và
can thiệp sớm những bệnh nhân cao tuổi có HCDBTT là biện pháp hữu hiệu nhằm
giảm thiểu gánh nặng bệnh tật và chi phí cho xã hội.
Trong những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về HCDBTT
trong cộng đồng cũng như trên bệnh nhân lão khoa nằm viện, tỷ lệ này có sự khác
nhau giữa các quốc gia, các chủng tộc và giới tính. Tỷ lệ mắc hội chứng này dao
động từ 4,0% đến 59,1%, tùy thuộc vào cộng đồng dân số nghiên cứu và tiêu chuẩn
đánh giá HCDBTT [4]. Ngoài ra, HCDBTT cao hơn ở phụ nữ (30% tại Barbados
đến 48,2% ở Chilê) so với nam giới (21,5% ở Barbados đến 35,4% ở Brazil)
[5].HCDBTT trong các nghiên cứu trên bênh nhân lão khoa nhập viện rất cao, từ



2
2

khoảng 27% đến 47% và các nhóm bệnh nhân có HCDBTT thường có thời gian
nằm viện và tỷ lệ biến chứng, tử vong cao hơn [6-8].
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ và các
yếu tố nguy cơ liên quan đến HCDBTT ở người cao tuổi [9]. Tuy nhiên, cho đến
nay HCDBTT còn là một vấn đề khá mới mẻ tại Việt Nam, nghiên cứu ghi nhận về
hội chứng này trên người cao tuổi còn khá khiêm tốn mặc dù tính cấp thiết của vấn
đề này trong việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi là rất lớn. Chính vì vậy, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu: “Hội chứng dễ bị tổn thương(Frailty) và các yếu tố liên
quan trên bệnh nhân cao tuổi điều trị tại Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương” với
hai mục tiêu:
1.

Đánh giá tỷ lệ hội chứng dễ bị tổn thương trên bệnh nhân cao tuổi điều
trị tại Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương bằng hai tiêu chuẩn Fried và
REFS.

2.

Khảo sát một số yếu tố liên quan và một số yếu tố có khả năng dự đoán
sự xuất hiện hội chứng dễ bị tổn thương trên các bệnh nhân cao tuổi
điều trị tại Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương.


3
3


Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương
1.1.1. Định nghĩa
HCDBTT là một hội chứng lâm sàng thường gặp ở người cao tuổi, dự báo
nguy cơ cao những bất lợi về sức khỏe như tình trạng té ngã, khuyết tật, tăng số lần
nhập viện và thậm chí là tử vong.
Nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích trong việc phát hiện, sàng lọc và
can thiệp sớm, trong hai thập kỷ nay đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về hội
chứng này được công bố. Hầu hết các nhà lão khoa có thể xác định bệnh nhân có
HCDBTT theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau, tuy nhiên vẫn chưa có sự đồng thuận về
định nghĩa của nó [2].
Khái niệm về HCDBTT xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1968 trong một nghiên
cứu cắt ngang trên các đối tượng cao tuổi trong cộng đồng. Nghiên cứu này đã phác
thảo HCDBTT như một phản ứng quá mức và không tương xứng của người cao tuổi
với những sự kiện bất lợi [10]. Đến cuối năm 1990, Roocwood và cộng sự đã đề
xuất HCDBTT là trạng thái trong đó người cao tuổi cần sống phụ thuộc vào người
khác để thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày [3]. Sau đó nhóm nghiên cứu
này đã nghiên cứu và phát triển thành chỉ số HCDBTT (Frailty Index (FI)), có khả
năng dự đoán nguy cơ cao tử vong và phải sống trong các trại dưỡng lão của người
cao tuổi [11].
Hầu hết các định nghĩa mô tả HCDBTT bao gồm các triệu chứng về suy
giảm chức năng, giảm sức khoẻ, giảm dự trữ sinh lý, dễ bị ốm đau và tử vong. Do
đó phần lớn các định nghĩa gồm có các triệu chứng lâm sàng về suy giảm tốc độ đi
lại, sức mạnh, sức bền, dinh dưỡng và hoạt động thể chất, một số định nghĩa khác
còn có suy giảm về nhận thức và trầm cảm [12].
Vào đầu năm 2000, Fried và các đồng nghiệp đã mô tả HCDBTT với các tiêu
chí khách quan nhằm tách biệt hội chứng này với tình trạng khuyết tật và tình trạng



4
4

nhiều bệnh kèm theo. HCDBTT theo Fried được định nghĩa là một hội chứng lâm
sàng, gồm năm tiêu chí: giảm cân không chủ ý, tình trạng yếu đuối, sức bền và năng
lượng kém, sự chậm chạp, mức hoạt động thể lực thấp. Người cao tuổi có từ ba tiêu
chí trở lên sẽ chẩn đoán là có HCDBTT [13].
Tóm lại, HCDBTT là một trạng thái lâm sàng xảy ra do sự tích tụ của quá
trình suy giảm chức năng nhiều hệ thống cơ quan trong cơ thể, đặc trưng bởi trạng
thái dễ bị tổn thương với các yếu tố căng thẳng và dự đoán kết quả bất lợi cho sức
khỏe [2]. Yếu tố căng thẳng được định nghĩa là sự kiện, kích thích, hoặc thay đổi
gây ra đáp ứng; nó thường được coi là tiêu cực, nhưng những kích thích tích cực
cũng có thể gây ra phản ứng toàn thân.
1.1.2. Các mô hình khái niệm về hội chứng dễ bị tổn thương
Các nhà khoa học đã đề xuất ba giả thuyết nhằm giải thích bản chất cũng như
sự phát triển của HCDBTT:
- Thuyết độ tin cậy:
Thuyết độ tin cậy cho rằng tất cả sinh vật sống vốn dĩ chỉ có một số lượng
hạn chế hệ thống sinh học dự phòng để duy trì cân bằng nội môi. Đến một độ tuổi
nhất định sẽ dần dần tích lũy những thiếu hụt (thay đổi gen, các bệnh kèm theo và
sang chấn tâm lý), dẫn đến cạn kiệt hệ thống dự trữ sinh lý và gia tăng tử vong [14].
Mitnitski, Mogilner, và Rockwood đã áp dụng thuyết độ tin cậy trong nghiên cứu
HCDBTT và phát triển thành chỉ số HCDBTT (Frailty Index), bao gồm các tích lũy
thâm hụt liên quan đến lão hóa trên nhiều hệ thống sinh lý [15]. Quan điểm này
cũng nhận được sự đồng thuận của một số nghiên cứu thuần tập quy mô lớn khác
[16-18].
- Thuyết tải ổn định phân phối (Allostatic Load- AL)
Lý thuyết tải ổn định phân phối mặc nhiên cho rằng một lượng đủ lớn của
quá trình hao mòn tự nhiên trên toàn hệ thống sinh lý ảnh hưởng đến trạng thái cân

bằng sinh học. Chỉ số tải ổn định phân phối bao gồm dấu ấn sinh học của tim mạch,
chuyển hóa, nội tiết và quá trình viêm có mối liên quan và là những dấu ấn cận lâm
sàng của HCDBTT [19].


5
5

- Thuyết phức tạp:
Thuyết phức tạp tập trung làm sáng tỏ sự tương tác trên toàn bộ hệ thống
điều khiển chi phối phản ứng của hằng định nội môi với những yếu tố căng thẳng
bên trong và bên ngoài cơ thể. Lý thuyết này tập trung trên cả chất lượng của sự
tương tác trong các hệ thống sinh học và số lượng tích lũy sinh lý bất thường [20].
Theo thuyết này “Sự suy giảm của mạng lưới phức tạp của các tín hiệu tương tác
sinh lý... có thể làm tổn hại đến khả năng gắn kết sinh lý bù trừ thích nghi để đáp
ứng với căng thẳng và dẫn đến tổn thương lâm sàng lớn hơn hay hội chứng dễ bị tổn
thương” [21]. Từ đó các nhà nghiên cứu đã đề xuất một số dấu ấn sinh học như một
phép đo đại diện cho sự suy giảm sinh lý phức tạp.
Tóm lại, HCDBTT có mối liên quan độc lập với suy giảm về số lượng của hệ
thống sinh lý, bất thường về chức năng của nhiều hệ thống, sự gia tăng dễ bị tổn
thương và rối loạn điều hòa trong một mạng lưới tương tác phức tạp.
1.2. Các giai đoạn của hội chứng dễ bị tổn thương
Các tác giả đã phân chia quá trình phát triển của HCDBTT thành ba giai đoạn,
mỗi giai đoạn đều liên quan đến sự suy giảm trong dự trữ cân bằng nội môi.
1.2.1. Tiền hội chứng dễ bị tổn thương (Pre frailty)
Tiền HCDBTT là giai đoạn lâm sàng diễn ra một cách thầm lặng, đây là một
trạng thái dự trữ sinh lý đủ để cho phép cơ thể phản ứng đầy đủ với bất kỳ tác nhân
gây bệnh như bệnh cấp tính, tổn thương hoặc các yếu tố căng thẳng với khả năng
hồi phục hoàn toàn.
1.2.2. Hội chứng dễ bị tổn thương

Tình trạng dễ bị tổn thương được đặc trưng bởi sự hồi phục chậm và không
hoàn toàn sau khi mắc các bệnh cấp tính mới, các tổn thương hoặc các yếu tố căng
thẳng, có thể hiểu rằng các chức năng dự trữ sẵn có không đủ để cho phép cơ thể
hồi phục hoàn toàn. Nhiều tác giả cũng thống nhất HCDBTT là một tập hợp bao
gồm nhiều biểu hiện trên các lĩnh vực khác nhau như suy dinh dưỡng, hoạt động
chức năng bị phụ thuộc, thời gian nằm tại giường kéo dài, lở loét các điểm tỳ đè, rối
loạn dáng đi, suy nhược tổng quát, sút cân, chán ăn, té ngã, mất trí nhớ, gãy xương


6
6

hông, mê sảng, lú lẫn và tình trạng dùng quá nhiều thuốc. Quan trọng là HCDBTT
không phải là tình trạng khuyết tật, dưới tác động của các yếu tố sang chấn tâm lý,
hội chứng này mới dẫn đến tình trạng khuyết tật.
1.2.3. Biến chứng của hội chứng dễ bị tổn thương
Các biến chứng của HCDBTT có liên quan trực tiếp với những tổn thương
sinh lý do sự suy giảm cân bằng dự trữ nội môi và giảm khả năng chịu đựng với các
yếu tố căng thẳng của cơ thể. Hậu quả là dẫn đến tăng nguy cơ té ngã, suy giảm
chức năng dẫn đến khuyết tật, tình trạng dùng quá nhiều thuốc, gia tăng nguy cơ
nằm viện, lây nhiễm chéo và tử vong.

QUÁ TRÌNH LÃO HÓA

KIỂU HÌNH HCDBTT

HCDBTT

ĐÁP ỨNG VỚI YẾU TỐ CĂNG THẲNG BÊN NGOÀI


LÂM SÀNG THẦM LẶNG

ĐÁP ỨNG VỚI YẾU TỐ CĂNG THẲNG BÊN NGOÀI

SUY GIẢM LÂM SÀNG

BIẾN CHỨNG CỦA HCDBTT

KẾT QUẢ BẤT LỢI

TUỔI

Hình 1.1. Sự phát triển của hội chứng dễ bị tổn thương cùng
quá trình lão hóa [22, 23]
1.3. Cơ chế bệnh sinh của HCDBTT

Cơ chế cân bằng nội môi

HIỆU XUẤT

TIỀN HCDBTT


7
7

1.3.1. Cấp độ 1 - Thay đổi ở mức tế bào
Mặc dù không có nguyên nhân cụ thể gây ra HCDBTT, các nhà khoa học đã
nỗ lực để phác thảo cơ chế phân tử và hệ thống của nó. Theo Walston, ở mức độ tế
bào, sự tích lũy tổn thương oxy hóa là một trong những nguyên nhân dẫn đến

HCDBTT [24]. Bên cạnh đó sự thay đổi về nhiễm sắc thể cũng dẫn đến những biến
đổi trong phân chia tế bào và tổng hợp protein có liên quan đến sự suy giảm sinh lý
ở người cao tuổi.
Các tác giả khác cũng cho thấy tỷ lệ tử vong ở những người cao tuổi có
nhiễm sắc thể ngắn hơn gần như gấp đôi so với những người có nhiễm sắc thể dài
hơn [25]. Tuy nhiên, trên một nghiên cứu cắt ngang của Woo và cộng sự lại không
tìm thấy mối quan hệ giữa chỉ số FI (một chỉ số để đánh giá hội chứng dễ bị tổn
thương) và chiều dài nhiễm sắc thể [26]. Như vậy, chiều dài của nhiễm sắc thể có
thể là một dấu ấn sinh học của quá trình lão hóa ở mức độ tế bào, tuy nhiên có thể
không đại diện cho HCDBTT. Do vậy cần có thêm nhiều nghiên cứu để khám phá
cơ sở phân tử của HCDBTT.
1.3.2. Cấp độ 2- Rối loạn điều hòa hệ thống
Trên một cấp độ cao hơn, các nghiên cứu đã chỉ ra quá trình viêm, rối loạn
điều hòa nội tiết tố, rối loạn miễn dịch, kích hoạt các con đường đông máu và trao
đổi chất bất thường có mối liên quan mật thiết với HCDBTT.
1.3.2.1. Rối loạn điều hòa quá trình viêm
Quá trình viêm đóng một vai trò quan trọng trong HCDBTT. Trong nghiên
cứu cắt ngang thực hiện trên ít nhất ba quần thể khác nhau đã xác định mối quan hệ
mật thiết giữa HCDBTT và sự tăng cao của cytokin IL-6, protein C phản ứng, các tế
bào bạch cầu, đặc biệt là bạch cầu đơn nhân và bạch cầu trung tính [27].
IL-6 là một cytokin gây viêm có mức độ lưu hành gia tăng ở người cao tuổi,
đặc biệt là người cao tuổi có HCDBTT. Sự gia tăng mức độ IL-6 theo tuổi có liên
quan đến một số quá trình sinh lý bệnh học, bao gồm cả xơ vữa động mạch, loãng
xương, teo cơ người già (sarcopenia), suy giảm chức năng, khuyết tật, cũng như tất
cả các nguyên nhân tử vong ở người cao tuổi. Ngoài ra, tăng mức độ IL-6 có liên


8
8


quan đến giảm khối lượng cơ và sức mạnh ngay cả trên người đàn ông lớn tuổi và
phụ nữ có hoạt động chức năng tốt. Trong một nghiên cứu tiến cứu dài 3,5 năm,
Ferrucci và các đồng nghiệp chứng minh rằng mức độ IL-6 tăng cao có khả năng dự
đoán nguy cơ cao phát triển khuyết tật về thể chất, suy giảm sức mạnh cơ và hiệu
suất hoạt động của cơ trong cộng đồng người cao tuổi [28].
Protein phản ứng C (CRP), được phát hiện vào năm 1930 như một chất
phản ứng ở giai đoạn cấp tính, một loại protein do gan sản xuất ra và được phóng
thích vào máu trong vòng một vài giờ sau khi mô bị tổn thương do bị nhiễm khuẩn
hoặc nguyên nhân khác gây ra viêm. Ngoài ra nồng độ protein phản ứng C cao có
liên quan đến bệnh tim mạch. Hai nghiên cứu thuần tập lớn đã chứng minh mối liên
quan trực tiếp của dấu ấn viêm này với hội chứng dễ bị tổn thương. Trong nghiên
cứu sức khỏe tim mạch, Walston và các đồng nghiệp đã chỉ ra mối liên quan đáng
kể của nồng độ protein phản ứng C cao trong HCDBTT sau khi loại trừ bệnh tim
mạch và bệnh tiểu đường và điều chỉnh các đặc điểm nhân khẩu học cơ bản. Dữ liệu
từ các nghiên cứu dọc về lão hóa đã tiếp tục khẳng định những phát hiện này [27].
Một số nghiên cứu thuần tập lớn ở người lớn tuổi đã chứng minh rằng tăng
cao số lượng bạch cầu, mặc dù ở trong giới hạn bình thường, có liên quan đến bệnh
tim mạch và mạch máu não, tử vong do tim mạch và ung thư, cũng như tất cả các
nguyên nhân gây tử vong ở người cao tuổi. Nghiên cứu gần đây đã chứng minh mối
quan hệ trực tiếp của HCDBTT với sự gia tăng số lượng bạch cầu cũng như tăng
cao của số lượng bạch cầu trung tính và bạch cầu đơn nhân. Một sự tương tác hiệp
đồng tiềm năng giữa bạch cầu và IL-6 với hội chứng dễ bị tổn thương cũng đã được
đề xuất [27].
Mặc dù giá trị trung bình của các dấu ấn viêm không cao như trong các bệnh
viêm nhiễm, nhưng nó ở mức độ thấp, mạn tính và gây hoạt hóa các cơ chế viêm ở
người lớn tuổi có hội chứng này.
1.3.2.2. Rối loạn điều hòa hệ thống nội tiết
Một trong những giả thuyết cơ chế của HCDBTT là sự rối loạn của các hormon
đồng hóa. Nghiên cứu của Cappola và đồng nghiệp đã cho thấy những đối tượng có



9
9

thiếu hụt nhiều hơn một hormon đồng hóa có khả năng mắc HCDBTT hơn so với các
đối tượng cùng độ tuổi không có sự thiếu hụt này [29].
Quá trình lão hóa cũng như HCDBTT có liên quan đến sự thay đổi của
hormon sinh dục và hormon tăng trưởng (IGF-1). Đây là hai hormon quan trọng gây
ra những rối loạn điều hòa chuyển hóa của cơ vân, do đó dẫn đến sự suy giảm
nhanh khối lượng cơ bắp và sức mạnh ở người cao tuổi. Sự suy giảm nhanh chóng
của estrogen theo tuổi ở phụ nữ sau mãn kinh và giảm dần của testosteron ở nam
giới lớn tuổi dẫn đến giảm khối lượng cơ và sức mạnh cơ bắp. IGF-1 đóng vai trò
quan trọng trong việc phát triển của các tế bào cơ vân và có thể là một yếu tố quan
trọng trong việc duy trì khối lượng cơ bắp khi lão hóa. Ngoài ra còn có bằng chứng
của sự tương tác giữa IGF-1 và IL-6, cho thấy tình trạng viêm có thể đẩy IGF-1
xuống thấp hoặc dưới mức nhạy cảm sinh học của nó.
Trong một nghiên cứu cắt ngang lớn của Voznesensky và cộng sự cũng đã
chứng minh mối tương quan nghịch giữa nồng độ hormon tuyến thượng thận
dehydroepiandrosteron sulfat (DHEA-s) và HCDBTT [30]. Sự suy giảm của nồng
độ DHEA-S và IGF-1 theo tuổi gây suy ra thiếu hụt lớn trong trong sức mạnh, sức
chịu đựng, giảm cân, tốc độ đi bộ, và hoạt động thể chất. Hơn nữa DHEA-S có tác
dụng ngăn chặn tình trạng viêm gây ra bởi yếu tố hạt nhân kappa B (NFKB). Do đó,
nồng độ của DHEA-S giảm có thể góp phần vào tình trạng viêm mạn tính và cuối
cùng gây ra HCDBTT.
1.3.2.3. Rối loạn điều hòa quá trình đông máu
Sự hoạt hóa quá mức của hệ thống đông máu có liên quan đến lão hóa [31],
suy giảm chức năng và tăng tỷ lệ tử vong [32]. Hơn nữa, thay đổi của các dấu ấn
đông máu theo tuổi xảy ra sớm hơn so với các dấu ấn sinh học lão hóa khác [33]
dẫn đến giả thuyết cho rằng dấu ấn sinh học của đông máu (ví dụ D-dimer, yếu tố
VIII, và fibrinogen) và hủy fibrin (ví dụ, tissue-type plasminogen activator [t-PA])

là dấu hiệu quan trọng trong cơ chế sinh lý sự phát triển của HCDBTT.
Pieper và đồng nghiệp nghiên cứu trên 1.729 người tham gia từ 70 tuổi trở
lên chứng minh rằng tuổi tác ngày càng tăng có liên quan đến mức D-dimer cao.


10
10

Hager và cộng sự tại Đức nghiên cứu trên cộng đồng người cao tuổi khỏe mạnh và
thấy rằng mức độ fibrinogen tăng 25 mg/dL mỗi thập kỷ và mức cao 320 mg/dL
được tìm thấy trong hơn 80% số người trong độ tuổi 65 trở lên. Ngoài ra các dấu ấn
đông máu khác, chẳng hạn như chất ức chế hoạt hóa plasminogen (PAI) -1 và yếu tố
VIII đã được chứng minh tăng cao theo tuổi. Rõ ràng rằng quá trình lão hóa có liên
quan với các dấu hiệu đông máu kích hoạt. Trên thực tế đáng chú ý là tỷ lệ huyết
khối tĩnh mạch và tắc nghẽn mạch phổi tăng đáng kể trong người cao tuổi [33].
D-dimer và các dấu ấn khác của trình hoạt hóa đông máu có liên quan với
sự hạn chế trong một loạt các lĩnh vực chức năng, bao gồm cả hoạt động độc lập với
cuộc sống hàng ngày, chức năng chi dưới và trên kiểm tra nhận thức [33].
Các nghiên cứu cho thấy IL-6 cũng đóng một vai trò quan trọng trong tổng
hợp và giải phóng fibrinogen, yếu tố mô, yếu tố VIII và tiểu cầu từ nhiều mô.
Ngược lại, D-dimer được biết có khả năng kích thích sự tổng hợp và giải phóng các
cytokin tiền viêm, bao gồm IL-6 và bạch cầu đơn nhân máu ngoại vi. Như vậy quá
trình viêm và đông máu có khả năng tạo thành một vòng xoắn tương tác với nhau
[33] .
1.3.2.4. Rối loạn điều hòa chuyển hóa
Bằng chứng cho thấy sự gia tăng tình trạng kháng insulin xảy ra cùng với
quá trình lão hóa, dẫn đến sự suy giảm hấp thu glucose của cơ xương [34]. Nghiên
cứu của Abbatecola và cộng sự cũng mô tả mối quan hệ giữa kháng insulin cao và
các các chỉ số lâm sàng của HCDBTT, chẳng hạn như suy yếu cơ xương, các vấn đề
về di động chi dưới, khuyết tật thể chất và suy giảm nhận thức [35]. Do đó kháng

insulin được đề xuất như một rối loạn trao đổi chất có thể ảnh hưởng trực tiếp đến
HCDBTT. Sự thay thế dần các mô nạc bằng mỡ là một trong những nguyên nhân
gây ra kháng insulin tăng và không dung nạp glucose ở những người lớn tuổi [36].
Ngoài ra, tình trạng sản xuất dư thừa cortisol mạn tính để đáp ứng với các
yếu tố căng thẳng có thể dẫn đến ức chế chức năng miễn dịch, tăng tình trạng kháng
insulin, tăng khối lượng mô mỡ và mất khối lượng nạc [37].


11
11

Barzilay và các cộng sự sử dụng dữ liệu từ các trạm y tế xã cũng đưa ra kết quả
về mối liên hệ giữa kháng insulin và tăng nguy cơ 1,15 lần mắc HCDBTT [38]. Do đó,
các biện pháp can thiệp trong tương lai nhằm điều chỉnh kháng insulin có một vai trò
quan trọng trong việc ngăn chặn hoặc ít nhất là làm chậm các đợt tiến triển thành
HCDBTT.
1.3.2.5. Rối loạn điều hòa hệ miễn dịch
Hệ thống miễn dịch tự nhiên là tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại chấn
thương và nhiễm khuẩn ở hầu hết các sinh vật sống. Các thành phần tế bào chính
của hệ thống miễn dịch tự nhiên bao gồm bạch cầu trung tính, bạch cầu đơn nhân và
đại thực bào cũng như các tế bào tua (dendritic cells) và nhiều loại tế bào khác như
nguyên bào sợi và tế bào gan cũng có khả năng gắn kết một đáp ứng viêm với yếu
tố gây sang chấn tâm lý.
Như đã thảo luận trong các phần trước, các nghiên cứu cho thấy có sự gia
tăng tổng số bạch cầu, số lượng bạch cầu trung tính và bạch cầu đơn nhân cũng như
tăng đáng kể bạch cầu đơn nhân/đại thực bào qua trung gian viêm kích hoạt miễn
dịch trong HCDBTT đã cung cấp bằng chứng gợi ý hội chứng này liên quan đến rối
loạn điều hòa miễn dịch tự nhiên [27].
Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng cho thấy mối liên quan giữa HCDBTT và
miễn dịch thích ứng. Bằng chứng từ một nghiên cứu đánh giá mối quan hệ giữa tế

bào T và tử vong ở phụ nữ lớn tuổi ở cộng đồng cho thấy phụ nữ cao tuổi có
HCDBTT có số lượng CD8 cao hơn đáng kể so với những phụ nữ không có hội
chứng này [39].
Sự hiểu biết về thay đổi của tế bào lympo B trong HCDBTT đến nay còn
chưa rõ ràng.
1.3.3. Cấp độ 3 - Suy yếu hệ thống
Thay đổi trên hệ cơ- xương- khớp và nhận thức thần kinh là những thành
phần quan trọng của HCDBTT trong các tài liệu nghiên cứu và đại diện cho suy
giảm ở mức độ cao trong chuỗi các sự kiện sinh lý bệnh.
1.3.3.1. Suy yếu hệ thống cơ xương


12
12

Teo cơ người già (Sarcopenia) xuất hiện cùng với quá trình lão hóa và là một
trong những thành phần chính trong kiểu hình của HCDBTT. Trong nhiều nghiên
cứu [40] teo cơ người già là hậu quả nặng nề cho người cao tuổi vì nó gắn liền với
nguy cơ suy giảm chức năng và tàn tật [41]. Sự mất khối lượng cơ theo tuổi không
diễn ra đơn độc mà được gắn kết chặt chẽ với sự tăng khối lượng mỡ. Sự gia tăng
khối lượng mỡ và giảm khối lượng cơ bắp có thể phối hợp với nhau và dẫn đến teo
cơ béo phì (Sarcopenic obesity). Trong nghiên cứu gồm 923 đối tượng tham gia từ
65 tuổi trở lên cho thấy những đối tượng có HCDBTT có mật độ và khối lượng cơ
bắp thấp hơn, khối lượng chất béo cao hơn những đối tượng không có hội chứng này
[42]. Teo cơ béo phì đặc biệt đáng lo ngại vì nó gắn liền với suy giảm chức năng và
gần như tăng gấp đôi nguy cơ tàn tật trong 2,5 năm theo dõi [43].
Trong nghiên cứu của Koster và cộng sự cho thấy lượng mỡ dư thừa trong
cơ thể là một yếu tố quyết định mạnh mẽ của suy giảm chức năng thể chất ở người
lớn tuổi. Quan trọng hơn, chất béo ở người lớn tuổi là ưu tiên tích lũy phân bố trung
tâm, do đó là một yếu tố nguy cơ lớn đối với rối loạn chuyển hóa [44].

1.3.3.2. Suy yếu hệ thống nhận thức- thần kinh
Các nghiên cứu gần đây tập trung vào mối quan hệ giữa HCDBTT và chỉ số
nhận thức thần kinh bao gồm một loạt các biện pháp như nhận thức, suy giảm giác
quan (ví dụ giảm thị giác hay giảm khả năng nghe) và các yếu tố tâm lý (trầm cảm)
[40]. Avila-Funes và các cộng sự đã khảo sát 6.030 người tham gia độ tuổi từ 65 đến
95 trong nghiên cứu chứng minh rõ ràng suy giảm nhận thức, được đo bằng thang
điểm MMSE và kiểm tra Isaac có khả năng dự báo kết quả bất lợi cho sức khỏe đối
với những đối tượng có HCDBTT như mất trí nhớ, suy giảm chức năng và tái nhập
viện [45]. Rothman và cộng sự thấy rằng suy giảm nhận thức có liên quan độc lập và
mạnh mẽ với tình trạng khuyết tật mạn tính, điều trị lâu dài trong các trại dưỡng lão và
tử vong trong khoảng thời gian 7,5 năm theo dõi [46].
Suy giảm giác quan, chẳng hạn như suy giảm chức năng thị giác, cũng liên
quan đến gia tăng tỷ lệ tử vong ở người lớn tuổi [47, 48]. Nghiên cứu theo chiều


13
13

dọc cho thấy các đối tượng lớn tuổi giảm thị lực có nguy cơ tử vong tăng 70% so
với người không suy giảm [49].
Rối loạn cảm xúc (ví dụ trầm cảm) là một dấu hiệu có khả năng dự đoán
khuyết tật chức năng ở người cao tuổi [50, 51] và đã được đề xuất như một thành
phần của HCDBTT [22]. Phân tích dữ liệu từ các nghiên cứu cho thấy tình trạng
trầm cảm mạn tính ở người cao tuổi tăng 5,3 lần nguy cơ khuyết tật chức năng so
với các cá nhân không trầm cảm trong ba năm theo dõi [51]. Mặc dù có bằng chứng
về ảnh hưởng của rối loạn tâm trạng liên quan đến lão hóa nhưng mối liên quan độc
lập của triệu chứng trầm cảm và HCDBTT trong một số nghiên cứu lại không phù
hợp [52]. Rothman và cộng sự cho rằng các triệu chứng trầm cảm không thể dự
đoán một cách độc lập nguy cơ tàn tật, sống lâu dài trong nhà dưỡng lão, té ngã gây
thương tích hoặc tử vong sau khi điều chỉnh về tuổi tác, giới tính, chủng tộc, giáo

dục, bệnh mạn tính.


14
14

HCDBTT
Yếu đuối
Chậm chạp
Hoạt động thể chất thấp
Năng lượng thấp, Sút cân
Suy giảm giác quan
KẾT QUẢ TRUNG GIAN
Bệnh tật
khuyết tật
Nguy cơ té ngã
Suy giảm nhận thức
dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe……
TửSửvong

Mức

SUY GIẢM H

(Cơ xương, n

thần k
RỐI L

(Nội tiết, Đ



15
15

THAY

(Quá trình ox

Hình 1.2. Mô hình sự phát triển HCDBTT ở người cao tuổi [53]
1.4. Biểu hiện lâm sàng và sinh hóa của HCDBTT
1.4.1. Biểu hiện lâm sàng của HCDBTT
HCDBTT là một hội chứng lâm sàng, do đó nó không phải là biểu hiện của
một tiêu chí duy nhất mà là sự kết hợp của rất nhiều tiêu chí khác nhau, tùy thuộc
vào tiêu chuẩn chẩn đoán của từng tác giả, các tiêu chí bao gồm: yếu đuối, mệt mỏi,
rối loạn thăng bằng, giảm cân, mức độ hoạt động thể chất thấp, giảm xử lý và thực
hiện vận động, cách ly xã hội, thay đổi nhận thức nhẹ và tăng khả năng bị tổn
thương với những yếu tố căng thẳng [3]. Trong đó không vận động và giảm cân là
quan trọng trong dự báo tình trạng khuyết tật và tử vong [54]. Một báo cáo về sự
đồng thuận của một nhóm các nhà nghiên cứu Italy và Hoa Kỳ ủng hộ các tiêu chí
để xác định HCDBTT về thể chất được dựa trên suy yếu trong lĩnh vực sinh lý bao
gồm: di động, sự cân bằng, sức mạnh cơ bắp, xử lý vận động, nhận thức, dinh
dưỡng, sức chịu đựng và hoạt động thể chất [55]. Hiện nay các tiêu chuẩn chẩn
đoán HCDBTT của Fried và cộng sự được nhiều tác giả đồng tình và áp dụng, tiêu
chuẩn này được xác định bởi sự hiện diện của ba hoặc nhiều hơn trong số năm tiêu
chí sau đây: giảm cân không chủ ý, sức bền và năng lượng kém, sự yếu đuối, chậm
chạp và mức hoạt động thể chất thấp.
Các triệu chứng lâm sàng này đại diện cho tình trạng suy dinh dưỡng, teo cơ
người già, loãng xương, mất cân bằng và rối loạn dáng đi. Kiểu hình của hội chứng
này là độc lập dự báo trong vòng ba năm cho sự cố té ngã, giảm nhanh chóng di

động hoặc giảm hoạt động sống hàng ngày (ADL), tái nhập viện và tử vong.
Bên cạnh các tiêu chuẩn đánh giá HCDBTT dựa trên các triệu chứng và dấu
CÁC YẾU TỐ

hiệu về thể chất còn có các thành phần quan trọng khác như tâm trạng, nhận thức,

TUỔI

khiếm khuyết giác quan và các khía cạnh kinh tế - xã hội - cuộc sống của người cao

CHỦNG TỘC

tuổi.

GIÁO DỤC

1.4.2. Biểu hiện sinh hóa

CÁC BỆNH MẠN TÍ

LỐI SÔNG
Như đã trình bày trong phần cơ chế bệnh sinh, HCDBTT có liên quan mật
SUY GIẢM DINH

thiết với quá trình viêm, đông máu, rối loạn điều hòa nội tiết tố và trao đổi chất. Do


16
16


đó, các dấu ấn sinh học của hội chứng cũng có liên quan với các dấu ấn của các quá
trình này, bao gồm sự tăng cao của IL-6, CRP, Fibrinogen, yếu tố VIII, D-dimer và
HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT
đề kháng Insulin, cũng như sự suy giảm của IGF-1, Dehydroepiandrosteron

(DHEAS), nồng độ 25-hydroxy-vitamin D (25 OHD) trong huyết thanh.

Hình 1.3. Chu trình của HCDBTT (theo tiêu chí của Fried) [22, 23, 53]
1.5. Một số tiêu chuẩn đánh giá HCDBTT
Hiện nay, tiêu chuẩn đánh giá HCDBTT trên người cao tuổi vẫn chưa được
thống nhất. Các nhà lão khoa đã nghiên cứu và xây dựng rất nhiều tiêu chuẩn khác
nhau để chẩn đoán hội chứng này, tuy nhiên mục đích cuối cùng vẫn là dự báo
những kết quả bất lợi trong sức khỏe người cao tuổi.
1.5.1. Chỉ số HCDBTT (Frailty Index (FI))


17
17

Rockwood và cộng sự cho rằng người cao tuổi có nhiều bệnh tật, khuyết tật,
và nhiều thiếu hụt khác dẫn đến tăng nguy cơ bất lợi cho sức khỏe. Sự phức tạp của
bệnh cảnh và những biến đổi của quá trình tích lũy thiếu hụt dẫn đến khó khăn đáng
kể cho các bác sĩ lâm sàng. Chính vì vậy việc xây dựng chỉ số FI nhằm cố gắng
đánh giá chính xác và cung cấp đầy đủ thông tin vể sự thiếu hụt của từng cá thể.
Mỗi thiếu hụt nên được xem xét như là một phần của bức tranh tổng thể phức tạp.
Nhận thức và chấp nhận mỗi “bức tranh” của mỗi cá thể bao gồm vô số các nhu cầu
xã hội và y tế cho phép các bác sĩ lâm sàng điều trị toàn diện hơn, chứ không phải
đơn thuần là chia cắt từng vấn đề và đối phó với nó.
Chỉ số FI được phát triển dựa trên đánh giá lão khoa toàn diện bằng cách
đếm số lượng thâm hụt tích lũy theo thời gian, bao gồm cả các bệnh, khiếm khuyết

về thể chất và nhận thức, yếu tố nguy cơ về tâm lý xã hội và các hội chứng lão khoa
phổ biến khác. Một trong những tác động của phương pháp này là HCDBTT có thể
được coi là một hiện tượng phức tạp. Tác giả đã đề xuất sử dụng FI-CGA để giải
quyết sự phức tạp và nâng cao chăm sóc cho bệnh nhân. Thông qua đánh giá về sức
khỏe tổng thể (các bệnh kèm theo), chức năng, nhận thức, tâm trạng và động lực, các
cảm giác đặc biệt, dinh dưỡng và các loại thuốc, công cụ này tạo điều kiện cho việc xác
định các vấn đề sức khỏe và can thiệp thích hợp và theo dõi cho họ. Là một phần của
một kế hoạch quản lý toàn diện, FI-CGA cũng hỗ trợ độc lập liên tục và cải thiện chất
lượng cuộc sống cho một cá nhân, kết hợp với giảm chi phí chăm sóc sức khỏe [11].
FI dường như là một yếu tố dự báo nhạy cảm đối với bất lợi về sức khỏe, tuy
nhiên, chỉ số FI không thể phân biệt HCDBTT với khuyết tật và tình trạng đa bệnh
lý. Hơn nữa xây dựng chỉ số FI gây khó khăn cho các nhà khoa học trong việc tìm
hiểu sâu hơn về cơ chế của HCDBTT [56].
1.5.2. Thang điểm HCDBTT Edmonton (Edmonton Frail Scale)
Thang điểm HCDBTT Edmonton được thiết lập dựa trên chín lĩnh vực, bao
gồm: suy giảm nhận thức được kiểm tra thông qua yêu cầu thực hiện bài kiểm tra
vẽ đồng hồ; thời gian đứng lên và đi cho sự cân bằng và di động, ngoài ra còn có
các lĩnh vực khác như tâm trạng, độc lập về chức năng, các thuốc sử dụng, hỗ trợ


18
18

về xã hội, dinh dưỡng, thái độ về sức khỏe, vấn đề tiểu tiện, tình trạng tổng quát và
chất lượng cuộc sống [57].
Thang điểm này có ưu điểm là đánh giá HCDBTT trên cả lĩnh vực hỗ trợ về
mặt xã hội, đây là một thang điểm có giá trị, đáng tin cậy và khả thi để sử dụng
thường xuyên bởi không cần người có chuyên môn sâu về lão khoa cũng có thể
đánh giá được thang điểm này [57].
Nhiều nghiên cứu áp dụng thang điểm này trên các cộng đồng khác nhau

cũng chứng minh tính khả dụng, có giá trị và đáng tin cậy để đánh giá hội chứng dễ
bị tổn thương ở người cao tuổi, đồng thời hữu ích cho các chuyên gia y tế, trong
nghiên cứu và trong thực hành lâm sàng [58].
Thang điểm HCDBTT Edmonton được trình bày tại phụ lục 1. Tổng điểm là
17 điểm và bệnh nhân có hội chứng dễ bị tổn thương khi trên 7/17 điểm.
1.5.3. Thang điểm Báo cáo HCDBTT Edmonton (Reported Edmonton Frail Scale
(REFS))
Với mục đích là thiết lập một thước đo HCDBTT trên bệnh nhân điều trị các
bệnh cấp tính trong bệnh viện, một nghiên cứu tại Úc đã đề xuất thang điểm REFS,
được cải tiến dựa trên thang điểm EFS, và có thể thực hiện bởi những người không
cần có chuyên môn về lão khoa [59].
Thang điểm REFS cũng có chín lĩnh vực như thang điểm EFS, tuy nhiên phần
kiểm tra thể lực “đứng dậy và đi” được thay thế bằng ba câu hỏi phỏng vấn về chức
năng thể chất trước khi mắc căn bệnh hiện tại, khi bệnh nhân có suy giảm nhận thức
(điểm số của thang điểm MMSE rút gọn nhỏ hơn 20) thì sẽ phỏng vấn người chăm sóc
hoặc lấy dữ liệu từ hồ sơ y tế [59].
Với ưu điểm là dễ thực hiện, có mối tương quan tốt với các thang điểm khác
(Geriatrician’s Clinical Impression of Frailty GCIF), liên quan với tình trạng suy giảm
nhận thức, suy giảm chức năng, gia tăng các bệnh kèm theo, thang điểm này là một công
cụ hữu ích giúp các nhà lâm sàng và các nhà nghiên cứu chẩn đoán hội chứng dễ bị tổn
thương, đồng thời tiên lượng và kiểm tra đáp ứng điều trị trên các bệnh nhân cao tuổi
mắc bệnh cấp tính nhập viện [59].


19
19

Thang điểm REFS được trình bày tại phụ lục 2. Tổng điểm là 18 và chẩn đoán
HCDBTT khi lớn hơn hoặc bằng 8 điểm.
1.5.4. Kiểu hình của hội chứng dễ bị tổn thương (tiêu chuẩn của Fried)

Kiểu hình của HCDBTT đã được Fried và đồng nghiệp đề xuất gồm năm tiêu
chí: sút cân không chủ ý, tình trạng yếu đuối, sức bền và năng lượng kém, sự chậm
chạp, và mức hoạt động thể lực thấp. Mỗi tiêu chí được tính là một điểm nếu đạt
tiêu chuẩn. Khi đối tượng nghiên cứu đáp ứng ba trong số năm tiêu chí thì xác định
là có HCDBTT, từ một đến hai tiêu chí là tiền HCDBTT (Pre frailty), bệnh nhân
không có tiêu chí nào là không có HCDBTT .
1. Giảm cân không chủ ý 4,5 kg hoặc giảm 5% trọng lượng cơ thể so với
năm trước.
2. Tình trạng yếu đuối: cơ lực tay thấp hơn 20% so với mức cơ bản (đã điều
chỉnh theo giới và chỉ số khối cơ thể).
3. Sức bền và năng lượng kém: Tự báo cáo về tình trạng kiệt sức, xác định
bằng hai câu hỏi trong thang điểm CES–D.
4. Sự chậm chạp: nhỏ hơn 20% mức cơ bản đã được điều chỉnh theo giới tính
và chiều cao đứng, dựa trên thời gian đi bộ 15 bước.
5. Mức hoạt động thể lực thấp: Tổng số kilocalo tiêu hao trong mỗi tuần
được tính toán dựa trên bộ câu hỏi các hoạt động trong tuần qua.
HCDBTT xác định theo tiêu chí của Fried ngày càng nhận được sự đồng
thuận ngày càng cao của các nhà khoa học, thống nhất đây là một hội chứng lâm
sàng bao gồm nhiều dấu hiệu và triệu chứng. Bên cạnh đó lý thuyết của tác giả đưa
ra tạo điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu cơ chế sự phát triển của hội chứng
này [60].
Tiêu chuẩn đánh giá HCDBTT theo Fried được Nghiên cứu sức khỏe tim
mạch (Cardio vascular Health Study) và Nghiên cứu sức khỏe phụ nữ và người cao
tuổi (Woman’s Health and Agging Studies (WHAS)) áp dụng được trình bày tại phụ
lục 3 [60].
1.6. Các yếu tố liên quan đến hội chứng dễ bị tổn thương


20
20


Tuổi, chủng tộc, các bệnh đi kèm, nếp sống và tình trạng thiếu dinh dưỡng,
tình trạng đa bệnh lý, các bệnh mạn tính… đã được đề xuất như là yếu tố nguy cơ
độc lập đến sự xuất hiện của HCDBTT và tăng nguy cơ tử vong. Nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra sự độc lập và tác dụng hiệp đồng của các yếu tố này trong sự xuất hiện của
HCDBTT [61-63].
1.6.1. Chủng tộc
Phân tích dữ liệu từ nghiên cứu của CHS đã chỉ ra rằng Người Mỹ gốc Phi có
HCDBTT cao hơn gấp bốn lần so với các đối tượng da trắng [64]. Các tác giả đưa ra
giả thuyết sự khác biệt chủng tộc nhằm chứng minh sự khác biệt đa hình di truyền có
ảnh hưởng đến sự biểu hiện của kiểu hình của hội chứng dễ bị tổn thương. Tuy nhiên
cũng có khả năng tỷ lệ mắc hội chứng này trong số người Mỹ gốc Phi cao hơn do hạn
chế trong tiếp cận chăm sóc sức khỏe, giáo dục chất lượng kém và sự lựa chọn việc
làm ít hơn.
1.6.2. Tình trạng đa bệnh lý:
Tình trạng đa bệnh lý là sự hiện diện đồng thời của hai bệnh trở lên trên cùng
một cá nhân, với chẩn đoán của từng bệnh theo tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi.
Quá trình lão hóa làm gia tăng tình trạng đa bệnh lý, một phần vì tỷ lệ các bệnh mạn
tính gia tăng theo tuổi. Tại Hoa Kỳ có 35,3% đối tượng từ 65 đến 79 tuổi có tình
trạng đa bệnh lý. Dữ liệu từ Medicare cho thấy hai phần ba đối tượng từ 65 tuổi trở
lên có từ hai bệnh mạn tính kết hợp, một phần ba trong số đó có từ bốn bệnh trở lên.
Đa bệnh lý làm gia tăng chi phí chăm sóc sức khỏe, tăng nguy cơ khuyết tật và tử
vong. Mối liên quan mật thiết giữa HCDBTT và tình trạng đa bệnh lý cũng đã được
chứng minh trong nhiều nghiên cứu [65, 66].
1.6.3. Nếp sống
Nếp sống, tình trạng sức khỏe và tình trạng kinh tế xã hội cũng đã được công
nhận là đóng góp vào nguy cơ phát triển của HCDBTT. Trong một nghiên cứu cắt
ngang của nếp sống 10.661 người đàn ông và phụ nữ Mỹ Latin và Caribbean từ 60
tuổi trở lên cho thấy sức khỏe kém, trình độ học vấn thấp, điều kiện kinh tế xã hội
nghèo có liên quan với tỷ lệ cao hơn của hội chứng này [61].



21
21

1.6.4. Tình trạng suy dinh dưỡng
Chế độ dinh dưỡng nghèo nàn cũng góp phần gia tăng sự xuất hiện
HCDBTT [67, 68] Một trong những biểu hiện của suy dinh dưỡng là mức tiêu thụ
năng lượng hàng ngày. Nghiên cứu của Bartali cho thấy mối liên quan giữa số kcal
từ khẩu phần thấp hơn 21kcal/kg/ngày với hội chứng này trong 1.155 người tham
gia trong độ tuổi từ 65-102 [69]. Nghiên cứu một số chất dinh dưỡng suy giảm
(chẳng hạn như protein, vitamin A, C và E, canxi, folate và kẽm), độc lập với năng
lượng tiêu thụ, cũng liên quan đáng kể với hội chứng này. Walston và các đồng
nghiệp đề xuất các tác dụng chống viêm của chất chống oxy hóa trong chế độ ăn là
cơ chế chính liên kết với thiếu hụt vi chất dinh dưỡng và HCDBTT [68].
1.7. Hội chứng dễ bị tổn thương và các bệnh mạn tính
Trên các cuộc điều tra quy mô lớn cho thấy có mối liên quan giữa HCDBTT
và các bệnh mãn tính, bao gồm: Thiếu máu, nhiễm HIV, tăng huyết áp, bệnh răng
miệng, bệnh tim mạch, bệnh mắt, bệnh thận mãn tính, tình trạng suy giảm nhận
thức, đái tháo đường, bệnh Parkinson, gãy xương, tình trạng té ngã, trầm cảm, ung
thư và rối loạn giấc ngủ… Bên cạnh đó, việc điều trị các bệnh mạn tính bằng việc
dùng nhiều thuốc (polypharmacy) cũng góp phần dẫn đến HCDBTT.
1.7.1. Bệnh thiếu máu
Thiếu máu là bệnh lý phổ biến ở người cao tuổi trong cộng đồng, ước tính
26% ở nam giới và 20% phụ nữ. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa thiếu máu là khi
giá trị Hemoglobin (Hgb) thấp hơn 13g/dL đối với nam và dưới 12g/dL ở phụ nữ.
Người cao tuổi có HCDBTT tăng gấp đôi nguy cơ bị thiếu máu. Bằng chứng nghiên
cứu cho thấy có khoảng 1/3 số người cao tuổi mắc HCDBTT có thiếu máu không
giải thích được nguyên nhân, 1/3 có thiếu sắt, và 1/3 có thiếu máu do các bệnh mãn
tính [3].

1.7.2. Tăng huyết áp
Tăng huyết áp là bệnh mạn tính thường gặp nhất liên quan đến HCDBTT ở
người lớn tuổi. Điều thú vị là điều trị hạ áp bằng thuốc ức chế men chuyển giảm
đáng kể tỷ lệ mắc hội chứng này trong một số nghiên cứu [3].


22
22

1.7.3. Bệnh tim mạch
Trong các nghiên cứu quy mô lớn cho thấy HCDBTT có mối liên quan đến
các bệnh tim mạch. Nghiên cứu tổng quan có hệ thống chỉ ra mối liên quan giữa
bệnh tim mạch với tỷ lệ mắc hội chứng này (tăng 1,5 lần nguy cơ mắc hội chứng)
cũng như gia tăng tỷ lệ tử vong (30%).
HCDBTT và bệnh tim mạch có chung một con đường sinh học thông
thường, và bệnh tim mạch có thể đẩy nhanh sự phát triển của HCDBTT. Khoảng
25% đến 50% bệnh nhân có hội chứng này mắc các bệnh tim mạch, tùy thuộc vào
tiêu chí xác định hội chứng và quần thể dân số nghiên cứu. Bệnh nhân có HCDBTT
mắc bệnh tim mạch, đặc biệt là những bệnh nhân đã trải qua điều trị can thiệp hoặc
bị bệnh động mạch vành và suy tim, nhiều khả năng có kết quả bất lợi so với những
người không có hội chứng này. Tốc độ, dáng đi một khoảng cách dài 4 mét là một
công cụ đơn giản và hiệu quả để đo lường khách quan hội chứng này ở những bệnh
nhân có bệnh tim mạch và cần được đưa vào để đánh giá biến cố [70].
Sàng lọc HCDBTT trong bệnh nhân tim mạch là rất quan trọng để xác định
kết quả với các phương pháp điều trị. Nguy cơ tử vong lớn hơn ba lần trên các
bệnh nhân phẫu thuật tim có hội chứng này; sự kết hợp giữa tuổi cao, nữ giới và
HCDBTT làm tăng nguy cơ tử vong đến tám lần. Bệnh nhân tim mạch có hội
chứng này không nên điều trị bằng cách sử dụng kỹ thuật đặt ống thông vì làm
tăng đáng kể nguy cơ bất lợi cũng như tử vong [71].
1.7.4. Bệnh thận mạn tính

Bệnh thận có mối tương quan với HCDBTT và ngược lại. Nghiên cứu về hội
chứng này và bệnh thận mạn tính cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa với tất cả
các giai đoạn của bệnh thận mạn tính và đặc biệt là với bệnh thận giai đoạn trung
bình đến bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối (ước tính mức lọc cầu thận dưới
45ml/min/1.73 m2) [72].
Bên cạnh đó, HCDBTT là một yếu tố tiên lượng xấu cho bệnh nhân và chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân thận mạn tính [73].
1.7.5. Bệnh đái tháo đường


23
23

Không dung nạp glucose, kháng insulin, và bệnh đái tháo đường có liên quan
đến HCDBTT. Tình trạng tăng đường huyết có mối liên quan với tỷ lệ lớn hơn
người cao tuổi mắc HCDBTT và tiền hội chứng này [74]. Bên cạnh đó, bệnh đái
tháo đường cũng có liên quan với HCDBTT và tăng gấp đôi nguy cơ tiến triển đến
tình trạng khuyết tật. Bệnh nhân đái tháo đường có hội chứng này được chứng minh
là tăng 1,6 lần nguy cơ té ngã và 1,7 lần nguy cơ gãy xương sau té ngã [3].
1.7.6. Loãng xương, gãy xương và tình trạng té ngã ở người cao tuổi
HCDBTT, bệnh loãng xương, té ngã và gãy xương có mối tương quan với
quá trình lão hóa. HCDBTT làm tăng nguy cơ giảm mật độ xương, té ngã và gãy
xương. Nguy cơ gãy xương chậu cao hơn 25 lần ở phụ nữ có hội chứng này với mật
độ xương thấp và có tiền sử té ngã. Hơn 50% phụ nữ mật độ xương thấp có teo cơ
người già và có HCDBTT. Dinh dưỡng, cân bằng, và sức mạnh chi dưới ảnh hưởng
đáng kể tình trạng té ngã và nguy cơ gãy xương và chiếm khoảng 10% lần khám tại
khoa cấp cứu và 6% của tất cả các trường hợp nhập viện trên người cao tuổi [3].
1.7.7. Bệnh ung thư
HCDBTT là khá phổ biến ở bệnh nhân cao tuổi bị ung thư, tỷ lệ ước tính
khoảng 88% và hội chứng này dự đoán kết quả bất lợi và tỷ lệ tử vong cao [3].

Nghiên cứu trên các bệnh nhân cao tuổi mắc ung thư tuyến tiền liệt tái phát,
sử dụng biện pháp điều trị ngăn chặn sản xuất androgen ADT có thể đẩy nhanh sự
phát triển của hội chứng này và dẫn đến những kết quả bất lợi, thậm chí là tử vong
[75].
Như vậy ung thư và HCDBTT có tương tác hiệp đồng quan trọng và phải
được quản lý một cách chặt chẽ [3].
1.7.8. Bệnh mắt
Thoái hóa điểm vàng theo tuổi và đục thủy tinh thể có mối liên quan với
HCDBTT. Trong đó các nghiên cứu cho thấy quá trình viêm góp phần gây ra thoái
hóa điểm vàng, đục thủy tinh thể cũng như HCDBTT [3].
1.7.9. Suy giảm nhận thức


24
24

HCDBTT có liên quan với nguy cơ bị suy giảm nhận thức và gia tăng nhanh
chóng tốc độ suy giảm nhận thức ở người cao tuổi [76]. Tỷ lệ suy giảm nhận thức là
hơn 50% trong các bệnh nhân có HCDBTT trong một nghiên cứu, các nghiên cứu
khác đã chỉ ra tỷ lệ này khoảng 20%, và gia tăng gấp năm lần nguy cơ khuyết tật,
1,9 lần thời gian nằm viện kéo dài, 1,9 lần nguy cơ tử vong, và năm lần nguy cơ sa
sút trí tuệ trong tương lai [3].
Một số nghiên cứu cho thấy rằng các chất chống viêm như omega-3 và chất
chống oxy hóa (carotenoid) có thể phòng ngừa cả HCDBTT và tình trạng suy giảm
nhận thức [3].
1.7.10. Bệnh Parkinson
Trong một số nghiên cứu cho thấy HCDBTT khá phổ biến trên các bệnh
nhân Parkinson. Một cuộc điều tra trên 50 bệnh nhân Parkinson đã được thực hiện
và 33% có HCDBTT. So với bệnh nhân không có HCDBTT, các bệnh nhân
Parkinson mắc hội chứng này có sự suy giảm trong sức mạnh cơ lực tay, tốc độ đi,

dáng đi và tình trạng kiệt sức. Các bệnh nhân có HCDBTT có nguy cơ mắc bệnh
parkinson ở mức độ nặng hơn so với bệnh nhân parkinson không có hội chứng này
[77, 78].
1.7.11. Trầm cảm
Mối liên quan giữa trầm cảm và HCDBTT đã được ghi nhận trong nhiều
nghiên cứu. Có thể giải thích mối liên hệ giữa HCDBTT về thể chất và triệu chứng
trầm cảm ở người lớn tuổi bằng một số bằng chứng gián tiếp. Đầu tiên, hầu hết các
bệnh nhân trầm cảm nặng dễ bị mắc HCDBTT bởi các yếu tố lối sống kết hợp với
trầm cảm như giảm hoạt động thể chất, không hoạt động, và không tuân thủ diều trị
thuốc. Tuy nhiên, hai hội chứng này dường như có một số cơ chế sinh lý bệnh thông
thường như sự thay đổi nội tiết tố được kích hoạt bởi trục hạ đồi - tuyến yên thượng thận, sự thay đổi nồng độ cortisol ngày- đêm, các yếu tố gây viêm (IL-6)…
[79]
Người cao tuổi bị trầm cảm có sự suy giảm trong các thành phần của
HCDBTT bao gồm sức mạnh cơ lực tay, tốc độ bước đi, mức độ hoạt động thể lực


25
25

và gia tăng mệt mỏi. Nghiên cứu cho thấy sự suy giảm trong hoạt động thể lực và
sự mệt mỏi liên quan đến việc tiến triển nhanh đến tử vong ở những người phụ nữ
bị trầm cảm [80].
1.7.12. Rối loạn giấc ngủ
Rối loạn giấc ngủ bao gồm mất ngủ và ngủ quá nhiều (hypersomnia), cả hai
đều có mối liên quan với HCDBTT cũng như kết quả bất lợi sức khỏe và tử vong ở
người cao tuổi. Cả triệu chứng ngủ quá nhiều và mất ngủ đều gia tăng trong những
đối tượng có HCDBTT.
Trầm cảm, suy giảm nhận thức, tình trạng dùng quá nhiều thuốc, đau đớn, và các
bệnh đi kèm cũng có ảnh hưởng đáng kể đến giấc ngủ. Rối loạn giấc ngủ và việc điều trị
cũng gia tăng tình trạng té ngã. Rối loạn hô hấp khi ngủ tăng trong HCDBTT và tăng 2,8

lần tiến triển thành khuyết tật [3].
1.7.13. Tình trạng sử dụng nhiều thuốc (Polypharmacy)
Người cao tuổi, đặc biệt là có HCDBTT sử dụng thuốc với số lượng nhiều
hơn những đối tượng khác. Trong khi đó, quá trình lão hóa cùng với quá trình suy
giảm trong độ thanh thải ở thận, chức năng gan, tổng lượng nước trong cơ thể, tỷ lệ
chất béo, quá trình hấp thu và tiêu hóa và chức năng chuyển hóa thuốc của hệ thống
enzym dẫn đến những thay đổi trong dược động học và dược lực học của thuốc.
Những thay đổi này cũng làm tăng tương tác thuốc và gây ra những tác dụng phụ
bất lợi trên người cao tuổi.
Bên cạnh đó việc sử dụng nhiều thuốc làm giảm tuân thủ điều trị sau khi
bệnh nhân ra viện do quên thuốc và dùng sai liều lượng.
Một nghiên cứu tại Canada phát hiện ra rằng số thuốc trung bình bệnh nhân
cao tuổi có HCDBTT dùng trong một ngày nằm viện là 15 thuốc (từ 6 đến 28 thuốc)
và 8 đến 9 vấn đề liên quan đến thuốc được xác định (không uống thuốc, uống
thuốc quá liều, uống thuốc thiếu liều lượng, các tác dụng phụ khi dùng thuốc, tương
tác thuốc...) [81].


×