Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp trong công tác chủ nhiệm để giáo dục học sinh cá biệt tại trường THPT bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.06 KB, 21 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết số 29 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) khẳng định : "Giáo
dục không chỉ là quốc sách hàng đầu", là "chìa khóa" mở ra con đường đưa
đất nước tiến lên phía trước", mà còn là "mệnh lệnh của cuộc sống". Văn kiện
Đại hội XII của Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Giáo dục, đào tạo và khoa học,
công nghệ là quốc sách hàng đầu; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học, công nghệ
trong thế kỷ XXI". Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân
phải chăm lo thực hiện, nhất là trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế giới
hiện nay. Gánh trên vai trách nhiệm to lớn này có vị trí, vai trò của mỗi giáo viên
trong các nhà trường trong đó có giáo viên chủ nhiệm lớp .
Giáo viên chủ nhiệm cũng như giáo viên bộ môn đều gắn liền với hai
nhiệm vụ giáo dục đó là: vừa giảng dạy, vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là
đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm
người, có tâm hồn trong sáng lành mạnh, có khả năng thích ứng và kỹ năng sống
tốt.
Học sinh THPT là lứa tuổi mới lớn nên tâm lí, tính cách của các em chưa
ổn định. Các em lại đang được thừa hưởng thành quả từ công cuộc đổi mới và
hội nhập của đất nước, trong bối cảnh nền cách mạng công nghiệp 4.0. Những
tiến bộ của khoa học và kỹ thuật đã làm cho đời sống vật chất, tinh thần của
người dân ngày càng được cải thiện.Tuy vậy, mặt trái của cơ chế thị trường cũng
ảnh hưởng xấu đến tầng lớp thanh niên. Những yếu tố thiếu lành mạnh từ xã hội
bên ngoài đã tác động đến các em. Sự buông lỏng quản lí của gia đình, sự đua
đòi bè bạn và sa đà vào những thói hư tật xấu của một bộ phận học sinh đã hình
thành nên những học sinh cá biệt (HSCB).
Vấn đề HSCB đã trở thành mối quan ngại của dư luận, nhất là với gia
đình và nhà trường. Trong các cấp học phổ thông, gần như cấp nào, lớp nào
cũng có học sinh cá biệt . Mà đã vào nghề dạy học thì không thể né tránh học
sinh cá biệt. HSCB không nhiều, song lại là "lực cản" rất lớn. Vì thế chỉ một


"hạt sạn" nhỏ cũng có thể trở thành câu chuyện bàn luận sôi nổi trên các diễn
đàn, thậm chí có những cái nhìn khắt khe, thiếu thiện cảm về giáo dục. Học sinh
cá biệt không chỉ là đối tượng làm cho nhà trường, giáo viên lo lắng, phải đầu tư
nhiều hình thức giáo dục, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự bình yên của
mỗi tổ ấm gia đình cũng như sự phát triển chung của toàn xã hội. Đặc biệt là với
nhiệm vụ giáo dục học sinh cấp trung học phổ thông- các em đang ở độ tuổi giáp
ranh giữa trẻ em và người lớn, với những biến đổi về tâm lý, sinh lý, sức khoẻ,
nhận thức, tính “cá biệt ”của một bộ phận học sinh ở lứa tuổi này có thể gây hậu
quả đáng tiếc nếu nhà trường và gia đình không có những biện pháp thích hợp
để ngăn ngừa. Thực tế này đã đặt ra cho giáo viên và các nhà quản lý giáo dục
câu hỏi: Làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả? Đây
là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và
1


đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành
giáo dục nói riêng, mà chủ yếu là nhiệm vụ của các nhà trường, trong đó có
Trường THPT Bá Thước, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa- một ngôi trường
miền núi của một trong số 61 huyện nghèo của cả nước, đa số học sinh là con
em dân tộc thiểu số.
Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Vậy làm sao để giáo dục
học sinh cá biệt có hiệu quả?
Là một giáo viên vừa giảng dạy, vừa làm công tác chủ nhiệm nhiều năm
qua, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra biện pháp tối ưu nhằm giáo dục HSCB
trở thành con ngoan , biết vâng lời và trở thành người có ích cho gia đình, xã
hội. Đây chính là lí do tôi đã lựa chọn đề tài “Mét sè biÖn ph¸p trong
c«ng t¸c chñ nhiÖm ®Ó gi¸o dôc häc sinh c¸ biÖt tại Trường
THPT Bá Thước” để nghiên cứu, tìm hiểu, áp dụng. Tôi tin chắc rằng vấn đề
này hẳn không chỉ riêng tôi, mà còn rất nhiều đồng nghiệp khác cũng quan tâm
mong tìm ra giải pháp tháo gỡ tình hình HSCB trong trường học, góp phần hoàn

thành tốt nhiệm vụ được giao.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định nguyên nhân chính đã dẫn đến một số em có hành vi chưa đúng, chưa
có động cơ học tập, phẩm chất đạo đức chưa tốt…Qua đó, giúp các em định
hướng được ý nghĩa của cuộc sống, định hướng được hành vi và có động cơ học
tập tốt hơn.
- Qua các biện pháp giáo dục nhằm uốn nắn, bồi dưỡng, giáo dục các em từ
những học sinh cá biệt trở thành người có ích cho gia đình, nhà trường, xã hội.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận công tác chủ nhiệm lớp, thực trạng công tác
chủ nhiệm lớp ở trường THPT Bá Thước.
- Tập trung nghiên cứu giải pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Bá
Thước.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập, nghiên cứu những thông tin lý
luận về học sinh cá biệt, tâm lí học lứa tuổi học sinh THPT, nhiệm vụ của giáo
viên chủ nhiệm lớp, các bài tham luận trên Internet, một số sáng kiến về công
tác chủ nhiệm của đồng nghiệp, bạn bè trường bạn.
- Phương pháp điều tra lập phiếu hỏi: Điều tra tình hình lớp khi vừa nhận chủ
nhiệm ngay từ đầu năm( hồ sơ, điểm thi đầu vào, học lực, hạnh kiểm, hoàn cảnh
gia đình,…). Lập phiếu điều tra thông tin để học sinh điền vào.
- Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp cần làm thường xuyên để
theo dõi khách quan những học sinh cá biệt. Nên quan sát toàn diện các biểu
hiện, hành vi của học sinh đó trong học tập, trong lao động, trong các hoạt động
tập thể, trong quan hệ với bạn bè và những người xung quanh.
- Phương pháp phân tích số liệu: Phân tích số liệu cụ thể qua từng kỳ của năm
học, qua tổng kết từng năm học để thấy được sự thay đổi. Từ đó giáo viên chủ
2



nhiệm sẽ tìm ra những mặt tích cực, hạn chế để có giải pháp phù hợp cho năm
chủ nhiệm tiếp theo.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm đề tài vào thực tiễn công
tác giáo dục học sinh cá biệt do bản thân trực tiếp chủ nhiệm ở Trường trung
học phổ thông Bá Thước.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo những báo cáo tổng kết
hàng năm của nhà trường; kinh nghiệm của đồng nghiệp trường mình, trường
bạn; tổng kết rút kinh nghiệm cho bản thân để năm tiếp theo hoàn thành tốt hơn
công tác chủ nhiệm lớp.
PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khái niệm, phân loại, nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá
biệt
* Khái niệm học sinh cá biệt
+ Theo từ điển Wiktionary giải thích: "cá biệt" hiểu theo nghĩa thông thường có
nghĩa là riêng lẻ, không phổ biến, không phải là điển hình.
+ Theo đó" học sinh cá biệt" là thuật ngữ mà nhà trường hay sử dụng để ám chỉ
những học sinh có khuyết điểm về học tập, về rèn luyện nhân cách. Tuy nhiên"
cá biệt" còn bao hàm để chỉ những học sinh có thành tích cao nổi bật, những học
sinh có sáng kiến trong lớp.
+ Để thống nhất cách hiểu, tôi tập trung nghiên cứu vào đối tượng là học sinh cá
biệt. Đây là những học sinh có thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội
quy, quy định của tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của
người học sinh, hoặc thiếu văn hóa, đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi
người, đồng thời không có động cơ học tập nên kết quả học tập yếu kém…
được lặp lại thường xuyên và trở thành hệ thống.
* Phân loại
Học sinh cá biệt được chia thành các nhóm như sau:
+ Nhóm 1: Cá biệt do vi phạm nội quy trường lớp, mất trật tự trong giờ học,
lười học bài, đi học muộn,…

+ Nhóm 2: Cá biệt do ham điện tử, sẵn sàng bỏ học, lừa dối bố mẹ, thầy cô…
+ Nhóm 3: Cá biệt do vi phạm chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô, bố mẹ,
nói tục, chửi bậy,…
+ Nhóm 4: Cá biệt do vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp, trấn lột, cờ bạc…
+ Nhóm 5: Cá biệt do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, hạn bè, hay sợ
hãi, tiêu cực trong suy nghĩ( nhóm học sinh cá biệt này đang có xu hướng gia
tăng trong xã hội ngày nay).
* Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt
Theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác-Lê nin: "Bản chất con
người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội", hiện tượng học sinh cá biệt không
phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà có, tất cả đều có những nguyên nhân nhất
3


định. Có thể rút ra được một số nguyên nhân chủ quan và khách quan cơ bản sau
đây:
- Nguyên nhân khách quan
+ Từ phía gia đình:
Phải nói rằng thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời gian
dài nhất, chính vì thế môi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với
các em, những thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ hình thành cho các
em nền móng để các em tiếp xúc ngoài xã hội. Những em thiếu may mắn sinh ra
trong gia đình cha mẹ bất hoà, cách cư xử của cha mẹ thô bạo, rượu chè say
sỉn... đã tạo cho các em một ấn tượng không tốt điều đó có thể dẫn đến tình trạng
học sinh trở nên lầm lì ít nói; có em ảnh hưởng những thói quen không tốt đó
nên cũng có những hành vi cử xử không tốt với mọi người...Do đó đã hình thành
nên tính cách cá biệt trong học sinh.
+ Từ phía nhà trường :
Đây là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gửi gắm niềm tin
vào việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết,

được lớn lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu cũng không
phải là dễ. Trong thực tế cũng có một vài trường chưa thực hiện được chức năng
là ngôi nhà thứ hai của các em, bởi vẫn còn đâu đó có những thầy cô giáo chưa
nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên
chưa nhiệt tình với các em, chưa thật sự là nơi đáng tin cậy. Cũng có một vài
thầy cô giáo do cách cư xử chưa phù hợp nên đâu đó cũng xúc phạm học sinh,
đối xử thiếu công bằng với các em, ngại khó khi phải giáo dục những em cá biệt,
cáu giận, sỉ nhục học sinh... đã làm mất lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng
cách không đáng có giữa thầy và trò và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện
chống đối lại từ phía học sinh cá biệt.
+ Từ phía môi trường xã hội:
Ngoài môi trường gia đình và nhà trường, học sinh còn phụ thuộc rất lớn
vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển
của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hoá khác
nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh- thiếu niên. Các loại hình dịch
vụ như Internet, bi da, karaoke... đã lôi kéo không ít học sinh vào đam mê những
trò chơi vô bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi da, đánh bạc... là
chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nên nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp giật.
- Nguyên nhân chủ quan từ phía bản thân các em
+ Thứ nhất: Chưa có mục đích học tập rõ ràng, chưa nhận thức được trách
nhiệm, bổn phận của bản thân
Rất nhiều học sinh cá biệt chưa nhận thức được: Học để làm gì? Vì cái gì
mà học? Hoặc chưa biết hài hòa giữa quyền và bổn phận trách nhiệm của mọi
con người trong cuộc sống, do được giáo dục chưa đầy đủ hoặc chưa đúng cách;
hoặc bản thân thiếu tự giác chấp nhận những bổn phận, trách nhiệm của mình
bên cạnh việc được hưởng thụ các quyền lợi trong gia đình, nhà trường và xã
hội. Vì vậy, các em đến trường, đi học như là ý muốn của gia đình, cha mẹ, mà
không nhận thức được đi học là cơ hội để thành công và hạnh phúc sau này cho
4



chính tương lai của các em. Cho nên các em thiếu tự giác, thậm chí thiếu trách
nhiệm với việc học tập và tu dưỡng.
+ Thứ hai: Một số em có niềm tin sai về giá trị của con người và cuộc sống
HS quan niệm chưa hợp lí về giá trị của con người và cuộc sống. Các em
này không tin rằng sự học sẽ đem lại cho con người giá trị và cuộc sống có chất
lượng.
+ Thứ ba: Do chán nản
Chán nản về năng lực, tự đánh giá thấp bản thân, kém tự tin, không vượt
qua được khó khăn, không còn hứng thú hoạt động và động cơ hoạt động.
Chán nản vì cho rằng bản thân không thể nào đáp ứng được các mong mỏi
của thầy cô, cha mẹ hoặc thầy cô, cha mẹ không đánh giá mình đúng mức, quyết
định không đáp ứng lại các mong mỏi, các yêu cầu do người lớn đề ra, từ đó mất
dần hứng thú và cố gắng.
Trong quá trình thích nghi với môi trường mới, nếu học sinh lỡ vi phạm,
mắc lỗi, các em rơi vào cảm giác không an toàn, giảm hứng thú, động cơ học
tập thậm chí chán, bỏ học
Phương pháp học tập không hiệu quả cũng là nguyên nhân gây chán nản
và mất động cơ học tập.
+ Thứ tư: Do rối loạn hành vi xã hội
. Các mức độ rối loạn hành vi xã hội:
Dửng dưng trước tình cảm của những người xung quanh.
Coi thường các chuẩn mực cũng như các nghĩa vụ xã hội.
Hung tợn, có thể dùng vũ lực.
Không có khả năng cảm nhận tội lỗi và không thể rút ra những bài học
có ích từ kinh nghiệm sống, ngay cả sau những lần bị phạt do phạm lỗi.
Có năng khiếu trong việc "kết tội" những người xung quanh hoặc biện hộ
cho những hành động đi ngược lại chuẩn mực của mình.
. Các biểu hiện của rối loạn hành vi xã hội:
Côn đồ, rất thích đánh nhau.

Hung hãn, tàn bạo với mọi người và với súc vật.
Phá hoại mọi tài sản sở hữu ăn cắp, ăn trộm, đốt phá.
Bỏ học, bỏ nhà đi bụi.
Rất hay lên cơn thịnh nộ, giận dữ.
Hay khiêu khích, châm chọc mọi người xung quanh.
Thường xuyên và công khai không chịu nghe lời.
2.1.2. Vấn đề tâm lí học lứa tuổi học sinh THPT và nhiệm vụ của giáo viên
chủ nhiệm
2.1.2.1. Vấn đề tâm lí học lứa tuổi học sinh THPT
*Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí lứa tuổi học sinh THPT
- Khái niệm tuổi thanh niên: Là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và
kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên kéo dài từ 14,15-25 tuổi,
được chia thành 2 thời kì: 14,15 đến 17,18 tuổi- thanh niên mới lớn; 17,18 đến
25 tuổi- tuổi thanh niên( giai đoạn 2 của tuổi thanh niên)
- Đặc điểm cơ thể:
5


+ Sinh lý: Tuổi đầu thanh niên là thời kì đầu đạt được sự tăng trưởng về mặt thể
lực, nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại, đa số các em
đã vượt qua thời kì phát dục.
+ Tâm lý: Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu
trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng cuả não phát triển.
- Những điều kiện xã hội của sự phát triển:
+Trong gia đình: Vị trí ngày càng được khẳng định. Được tham gia bàn bạc
việc gia đình. Yêu cầu cao hơn trong công việc, trong suy nghĩ.
+ Ở nhà trường: Là nòng cốt các phong trào. Tham gia tổ chức Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh. Hệ thống tri thức ngày càng phong phú.
+ Ngoài xã hội: 15 tuổi được cấp chứng minh nhân dân, 18 tuổi được đi bầu cử,
đủ tuổi nghĩa vụ quân sự, nữ đủ tuổi kết hôn.

* Đặc điểm của hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ của học sinh
THPT
- Đặc điểm hoạt động học tập: Hoạt động học tập đòi hỏi tính tích cực, năng
động cao, đòi hỏi sự phát triển mạnh của tư duy lí luận. Hình thành hứng thú học
tập liên quan đến xu hướng nghề nghiệp. Hứng thú học tập được thúc đẩy, bồi
dưỡng bởi động cơ mang ý nghĩa thực tiễn, sau đó mới đến ý nghĩa xã hội của
môn học. Hứng thú học tập có điểm tích cực là: Thúc đẩy các em học tập và đạt
kết quả cao các môn học đã lựa chọn. Tiêu cực là: Nhiều em chỉ quan tâm đến
môn học liên quan đến việc thi cử mà sao nhãng các môn học khác.
- Đặc điểm hoạt động trí tuệ: Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Ghi
nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong các hoạt đọng trí tuệ, đồng thời vai trò
của ghi nhớ lôgic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Các em đã
tạo được tâm thế phân hóa trong ghi nhớ. Có sự thay đổi về tư duy. Các em có
khả năng tư duy lý luận, trừu tượng một cách độc lập, chặt chẽ và có căn cứ nhất
quán. Nguyên nhân: Do sự phát triển của quá trình nhận thức, do sự ảnh hưởng
của hoạt động học tập, do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát
triển.
* Những đặc điểm nhân cách chủ yếu
- Sự phát triển của tự ý thức: Chú ý đến hình dáng bên ngoài. Quá trình tự ý
thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi, có tính đặc thù riêng. Sự tự ý thức của các em
xuất phát từ yêu cầu cuộc sống và hoạt động đến địa vị mới mẻ trong tập thể,
những quan hệ mới với thế giới xung quanh buộc thanh niên phải ý thức được
đặc điểm nhân cách của mình.
- Sự hình thành thế giới quan: Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan
là sự phát triển của hứng thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc
chung nhất, những quy luật phổ biến của tự nhiên, của xã hội…Việc hình thành
thế giới không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận thức, mà còn thể hiện ở phạm vi
nội dung. Vì thế, trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục cần phải xây dựng thế
giới quan lành mạnh, đúng đắn cho các em.
- Giao tiếp và đời sống tình cảm: Tuổi thành niên mới lớn là lứa tuổi mang

tính chất tập thể. Ở lứa tuổi này, các em có khuynh hướng làm bạn với bạn bè
cùng tuổi. Các em tham gia vào nhiều nhóm bạn khác nhau. Vì thế, nhà giáo dục
6


cần chú ý đến ảnh hưởng của nhóm, tổ chức cho các nhóm tham gia vào các
hoạt động tập thể của Đoàn…
- Hoạt động lao động và lựa chọ nghề nghiệp: Hoạt động lao động tập thể có
vai trò lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách thanh niên mới lớn. Việc
lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành công việc khẩn thiết của học sinh. Do đó nhà
giáo dục cần giúp các em lựa chọn ngành, nghề phù hợp với khả năng, năng lực
của các em.
* Một số vấn đề giáo dục: Trước hết cần xây dựng mối quan hệ tốt giữa thanh
niên và người lớn trên tinh thần bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Người lớn cần
phải giúp đỡ các em một cách khéo léo, tế nhị để hoạt động của các em được
phong phú, hấp dẫn và độc lập. Người lớn không được quyết định thay, làm thay
các em. Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
2.1.2.2. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm ngoài các nhiệm vụ qui định của giáo viên bộ môn
(Điều 31, mục 1 Điều lệ trường THPT cơ sở, trường THPT và trường phổ thông
có nhiều cấp học) còn có những nhiệm vụ sau đây( Điều 31, mục 2):
- Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức
giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của lớp.
- Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với giáo viên bộ
môn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động
giảng dạy và giáo dục học sinh của lớp mình chủ nhiệm.
- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kì, cuối năm học, đề nghị khen
thưởng và kỉ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải
kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kì nghỉ hè, phải ở lại lớp,
hoàn chỉnh việc ghi vào sổ điểm và học bạ học sinh.

Những vấn đề lí luận nêu trên là cơ sở vững chắc để chúng tôi thực hiện
các giải pháp cho hướng nghiên cứu của đề tài:" Một số giải pháp trong công
tác chủ nhiệm để giáo dục học sinh cá biệt tại trường THPT Bá Thước".
2.2. Thực trạng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Bá Thước
2.2.1. Đặc điểm tình hình nhà trường
Trường trung học phổ thông Bá Thước được thành lập ngày 15 tháng 10
năm 1966 trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Ngôi
trường có bề dày truyền thống hơn 50 năm xây dựng, trưởng thành và là ngôi
trường đầu tiên của 11 huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa được công nhận là
trường chuẩn Quốc gia.
Trường đóng tại địa bàn thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh
Hóa. Đây là địa bàn tuyển sinh của 12 xã và thị trấn trên tổng số 22 xã, thị trấn
toàn huyện. Bá Thước - một huyện miền núi nằm ở phía tây của tỉnh , nơi sinh
sống của các dân tộc Mường, Thái, Kinh,…Trong đó người Mường, Thái là chủ
yếu. Bá Thước còn là một trong 7 huyện nghèo miền núi của tỉnh Thanh Hóa và
là một trong số 61 huyện nghèo của cả nước.
Hiện tại quê hương Bá Thước đã và đang từng bước chuyển mình nhưng
vẫn còn đó không ít khó khăn, thách thức về mọi mặt . Khó khăn, thách thức của
7


huyện nhà cũng là khó khăn, thách thức đối với nhà trường như: Kinh tế chậm
phát triển; giao thông đi lại không thuận tiện; trình độ dân trí chưa được nâng
cao; đối tượng học sinh chủ yếu là con em dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa,
hoàn cảnh kinh tế gia đình rất khó khăn, điều kiện học tập còn hạn chế, khoảng
cách từ nhà đến trường khá xa, vì thế nhiều em học sinh các xã như: Văn Nho,
Kỳ Tân, Thiết Ống, Thiết Kế, Hạ Trung, Lương Nội, … phải trọ học xa nhà, mà
môi trường trọ học lại rất phức tạp; các em dễ bị lôi kéo, dụ dỗ bởi các quán
game, lô đề, bài bạc, vay nặng lãi, rượu chè, đánh nhau, yêu đương sớm…Trong
khi đó bố mẹ các em thường đi làm ăn xa nhà lâu năm, các em chủ yếu ở nhà

với ông bà, hoặc người thân trong họ hàng. Vì thế nhiều phụ huynh rất nuông
chiều con vì sợ con xa bố mẹ thiếu thốn tình thương. Ngoài một bộ phận các em
phải trọ học, còn một bộ phận các học sinh khác cũng thuộc các xã trên có xe ô
tô hợp đồng đưa đón đi học hoặc các em đi buổi bằng xe cúp dưới 50 phân khối,
xe đạp điện....Có nhiều ngày trong tuần học sinh phải học cả ngày, vì thế các em
phải ở lại buổi trưa tại trường . Bố mẹ cho tiền ăn nhưng chủ yếu các em lôi kéo
nhau uống rượu, chơi game,…Những nguyên do đó khiến cho nhà trường phải
đối mặt với nhiều học sinh cá biệt. Mặt khác, do trình độ dân trí còn thấp nên
mức hiểu biết còn hạn chế, mọi vấn đề liên quan đến học tập của con em phụ
huynh đều trông chờ và giao phó cho nhà trường, cho giáo viên chủ nhiệm.
Ngoài ra, chất lượng đầu vào của học sinh rất thấp, nhiều năm gần đây số lượng
học sinh không đủ chỉ tiêu. Sự thiếu quan tâm, phối hợp của gia đình học sinh,
cộng với những ảnh hưởng từ bên ngoài xã hội ... Tất cả vấn đề trên khiến việc
thực hiện các hoạt động giáo dục gặp không ít khó khăn. Chính vì vậy, trách
nhiệm của nhà trường và giáo viên chủ nhiệm trong giáo dục học sinh rất nặng
nề.
Trước những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, thầy và trò
Trường THPT Bá Thước đã mạnh dạn, dám nghĩ dám làm, năng động sáng tạo,
quyết tâm thi đua dạy tốt, học tốt. Ban giám hiệu cùng tập thể sư phạm nhà
trường đã đổi mới phương pháp quản lý, phương pháp giảng dạy, tăng cường kỷ
cương nền nếp, phát huy mọi tiềm năng, làm tốt công tác xã hội hóa, từng bước
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, xây dựng cơ sở vật chất theo hướng
kiên cố hóa, hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay đứng trước cơ hội và thách thức
của hội nhập, nhà trường đã chủ động xây dựng môi trường giáo dục mở, thân
thiện và chất lượng, với phương châm dạy thực, học thực, nói không với bệnh
thành tích, đổi mới phương pháp dạy học, lấy người học làm trung tâm, nhằm
tạo cơ hội điều kiện để học sinh phát huy hết tiềm năng của mình trong học tập.
Nhà trường còn hết sức chú trọng đến việc nâng cao vai trò, vị trí, trách nhiệm
của giáo viên chủ nhiệm lớp. Tập thể sư phạm nhà trường luôn đoàn kết, thân
thiện. Đây là động lực rất lớn giúp tập thể giáo viên trong trường nói chung,

giáo viên chủ nhiệm nói riêng yên tâm công tác và thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao.
2.2.2. Thực trạng công tác chủ nhiệm ở trường THPT Bá Thước
8


Công tác chủ nhiệm ở trường THPT Bá Thước luôn được quan tâm sát sao,
tuy nhiên thực tế những năm gần đây công tác chủ nhiệm vẫn còn nhiều vấn đề :
- Thứ nhất, mặc dù đội ngũ giáo viên chủ nhiệm còn trẻ, khỏe, nhiệt huyết
nhưng nhận thức của một số giáo viên về chức năng, nhiệm vụ, tầm quan trọng
của công tác chủ nhiệm lớp đôi lúc còn chưa toàn diện.
- Thứ hai, trong nhà trường công tác chủ nhiệm vẫn được coi là công tác kiêm
nhiệm nên việc quản lý, chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp còn chưa được coi
trọng nhiều và chưa được quan tâm đúng mức.
- Thứ ba, một bộ phận giáo viên được phân công làm công tác chủ nhiệm lớp
còn hạn chế về năng lực tổ chức, quản lý, điều hành tập thể lớp. Làm việc chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm sẵn và mang tính áp đặt, tính chủ quan đối với học
sinh.
- Thứ tư, sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường còn
lỏng lẻo, chưa chặt chẽ và thường xuyên. Do đó chưa hỗ trợ tích cực cho công
tác của giáo viên chủ nhiệm.
-Thứ năm, mặt khác do đội ngũ giáo viên hầu hết là trẻ, đa số chủ nhiệm là giáo
viên nữ, con còn nhỏ, kinh nghiệm làm công tác giáo dục còn hạn chế đặc biệt là
phương pháp giáo dục giá trị, kĩ năng sống cho học sinh.
- Thứ sáu, công tác phân công công tác chủ nhiệm của các cấp quản lý còn mang
tính chủ quan, tính ưu tiên, nhiều giáo viên chủ nhiệm thường được xếp chủ
nhiệm các lớp chọn nhiều năm liền, trong khi còn nhiều GVCN khác thường
phải chủ nhiệm ở những lớp cơ bản, có nhiều học sinh cá biệt…
2.3. Biện pháp thực hiện
Trên cơ sở lí luận và thực trạng vấn đề điều tra cơ bản, nắm vững đối

tượng học sinh cá biệt và chuẩn bị về phương pháp, sau đây tôi xin đưa ra một
số biện pháp trong công tác chủ nhiệm để giáo dục học sinh cá biệt, đó là:
2.3.1. Làm tốt công tác tổ chức lớp học
* Xếp chỗ ngồi
GVCN phải nghiên cứu kết quả xếp loại học lực, hạnh kiểm nhất là điểm
ba môn thi vào 10 của từng học sinh trong năm học trước để nắm được học lực,
hạnh kiểm của từng em. Khi sắp chỗ ngồi nên chia đều những học sinh có học
lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những học sinh có học lực trung bình.
Những học sinh nào có biểu hiện cá biệt về hạnh kiểm, học lực nên xếp lên
vị trí phía trên, nhất là hai bên bàn đầu, hoặc ngồi cùng bàn với ban cán sự lớp
để luôn được nhắc nhở.
Có sơ đồ xếp chỗ ngồi(Phụ lục 1) niêm yết tại bàn giáo viên. Đặc biệt sơ đồ
chỗ ngồi có thể được điều chỉnh trong từng tuần sau khi có đề xuất từ phía ban
cán sự lớp và qua trao đổi nắm bắt tình hình từ phía GVCN với giáo viên bộ
môn. Lưu ý: chú ý thêm đến chiều cao học sinh, thị lực của các em để xếp chỗ
ngồi hợp lí nhất.
*Học nội quy nhà trường
Ngay từ hôm đầu tiên nhận lớp và gặp gỡ học sinh lớp chủ nhiệm, GVCN
phô tô nội quy nhà trường phát đến từng học sinh, các em ngồi học nội quy dưới
9


sự hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm. Mỗi ngày đi học các em đều phải mang
theo nội quy. Nội quy trường cùng được niêm yết tại lớp học.
*Bầu Ban cán sự (BCS) lớp
Khi GVCN đã nắm được học lực, hạnh kiểm của học sinh sẽ lựa chọn
những học sinh có đủ phẩm chất đạo đức để bầu ban cán sự lớp lâm thời gồm
lớp trưởng, các lớp phó và các tổ trưởng, tổ phó; trưởng ban nề nếp; tại Đại hội
lớp đầu năm sẽ kiện toàn BCS lớp, ban chấp hành Đoàn. Sau khi kiện toàn ban
cán sự GVCN họp và hướng dẫn đến từng các em những nhiệm vụ được phân

công để quản lí lớp, tổ đạt chỉ tiêu. Giao cho thành viên BCS những sổ sách theo
dõi cần thiết phục vụ cho tổng kết tuần, tháng.
- Phân công nhiệm vụ cụ thể cho BCS lớp
+ Nhiệm vụ lớp trưởng
Là người điều hành, quản lý toàn bộ các hoạt động của lớp, của từng thành
viên trong lớp, cụ thể là:
. Tổ chức, quản lý lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập.
. Theo dõi, đôn đốc lớp chấp hành đầy đủ các qui chế, qui định về nội qui học
tập.
. Tổ chức, đông viên giúp đỡ các bạn gặp khó khăn trong học tập cũng như
trong rèn luyện và đời sống.
. Chủ trì các buổi họp đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, bình xét, đề nghị thi
đua khen thưởng của lớp.
+ Nhiệm vụ lớp phó(học tập, lao động, văn thể, đời sống)
. Đôn đốc các bạn đi học đúng giờ, đầy đủ, học tập nghiêm túc.
. Điểm danh, lấy sổ, ghi sổ, cất sổ bài đầy đủ, kịp thời.
. Tổ chức và quản lý các bạn thực hiện tốt các buổi lao động, các hoạt động tinh
thần và đời sống của tập thể lớp.
. Tổ chức động viên, thăm hỏi thầy cô giáo và bố mẹ cùng các bạn trong lớp.
. Xây dựng sơ đồ lớp cùng với giáo viên chủ nhiệm.
+ Nhiệm vụ của Bí thư chi đoàn thanh niên
. Nắm bắt và tiếp thu những thông báo, chỉ thị của đoàn trường để kịp thời triển
khai cho đoàn viên trong chi đoàn thực hiện đầy đủ.
. Thực hiện các phong trào ủng hộ, quyên góp... do đoàn các cấp phát động.
+ Nhiệm vụ của trưởng ban nề nếp lớp:Theo dõi và ghi chép lại những lỗi vi
phạm về nề nếp đi học, trang phục, đầu tóc, nếp sống văn minh,...của các thành
viên trong lớp.
+ Các tổ trưởng: Trực tiếp kiểm tra việc thực hiện của tổ viên, tổng hợp báo
caos trước lớp cuối tuần.
Cuối tuần cán bộ lớp họp tổng hợp kết quả và đưa ra biện pháp sửa chữa

đồng thời lên kế hoạch của tuần sau.
*GVCN xây dựng nội quy lớp
Ngoài việc GVCN phổ biến cho học sinh biết về nội quy nhà trường bắt
buộc học sinh phải thực hiện, bên cạnh đó GVCN cần xây dựng nội quy riêng
cho lớp để các em thực hiện.
10


Nội quy lớp cơ bản dựa trên nội quy nhà trường với các mức điểm trừ,
thưởng-phạt phân minh. Ngoài ra trong năm học GVCN và ban cán sự lớp còn
có 2 lần xây dựng nội quy thi đua riêng cho từng đợt.
*GVCN tiến hành khảo sát học sinh
GVCN tiến hành khảo sát( bằng phiếu- Phụ lục 2) để nắm được những
thông tin cá nhân học sinh. Qua phiếu thông tin đó giúp GVCN nắm được từng
đối tượng học sinh, trong số đó dễ dàng nhận ra được những học sinh sẽ rơi vào
trường hợp học sinh cá biệt để kịp thời uốn nắn, ngăn chặn.
* Tổ chức tốt tiết sinh hoạt 15 phút đầu giờ, đặc biệt là tiết sinh hoạt cuối
tuần
- Trong buổi sinh hoạt 15 phút và cuối tuần, GVCN đóng vai trò cố vấn, hướng
dẫn các em từng bước tiến hành. Lớp trưởng điều hành tiết sinh hoạt.
- GVCN phải tuyệt đối phát huy tính dân chủ, cho các em được nói, được bàn
bạc, được trình bày ý kiến trước lớp, được phân tích đúng sai,… Luôn coi tiết
sinh hoạt là một tiết học nghiêm túc , với một không khí thân thiện để tạo sự gắn
kết giữa các thành viên.
Ví dụ: Tiến trình tiết sinh hoạt cuối tuần ở lớp 10a4
Hoạt động 1: Lớp trưởng điều hành tiết sinh hoạt lớp. GVCN là người giám sát.
- Lớp trưởng yêu cầu 4 tổ trưởng lên bảng thống kê lỗi vi phạm của tổ viên,
điểm trừ của cả tổ trong tuần, số điểm tốt đạt được.
- Lớp trưởng yêu cầu các lớp phó tổng hợp các mặt nêu trước lớp: Về giờ học,
điểm học( tốt- xấu), về chuyên cần, vệ sinh( lớp, bồn hoa, cầu thang ),…

- Lớp trưởng thông qua bảng xếp loại thi đua giữa các tổ, cá nhân thông báo
trước lớp. Qua đó nêu lên được những mặt mạnh, mặt hạn chế cần khắc phục ở
từng tổ. Đồng thời tuyên dương những cá nhân xuất sắc và phê bình những cá
nhân chưa tốt.
- Đặc biệt trong những tuần học mà có học sinh gian lận, vi phạm nhưng không
thành thực thì mỗi thành viên trong lớp phải viết thư riêng chuẩn bị ở nhà để tố
giác. Lớp trưởng thu và nạp cho GVCN nghiên cứu, có biện pháp xử lý.
- Lớp trưởng và trưởng ban nề nếp lớp lấy ý kiến đề xuất biện pháp xử lý từ các
tổ và từ chính những học sinh vi phạm báo cáo lên GVCN.
Hoạt động 2: GVCN nhận xét, đánh giá học sinh và hoạt động của lớp trong
tuần qua.
- GVCN nhắc lại những chỉ tiêu phấn đấu về các mặt:
+Nề nếp
+ Giờ học.
+ Điểm học.
- GVCN dựa trên sổ đầu bài, những lời nhận xét từ lớp trưởng và các tổ trưởng
đánh giá về chỉ tiêu phấn đấu đã đạt được và chưa đạt được, chỉ và phân tích
nguyên nhân.
- GVCN nêu những tiến bộ của các học sinh trong lớp, tuyên dương, động viên
những em có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức, phát huy sự tiến bộ của mình.
- Nhắc nhở, phê bình những học sinh vi phạm. Đối với những học sinh mắc lỗi
lần đầu, tùy theo mức độ mà GVCN tha thứ hoặc áp dụng hình thức phạt là yêu
11


cầu làm trực nhật lớp trong tuần sau. Đối với những học sinh nhiều lần vi phạm
nội quy, GVCN thi hành kỷ luật nghiêm khắc đối với các em đó: Yêu cầu học
sinh viết bản tự kiểm điểm, có ý kiến của phụ huynh; thông báo về gia đình,
mời phụ huynh đến trường gặp GVCN để trao đổi. Đồng thời, GVCN cũng
thông báo trước lớp nếu học sinh nào bị phạt nhiều lần, vi phạm có hệ thống mà

không có sự chuyển biến tích cực thì tập thể lớp sẽ làm biên bản kỷ luật tại lớp
rồi gửi lên hội đồng kỷ luật nhà trường.
Hoạt động 3: Lập kế hoạch hoạt động tuần tới.
- GVCN lập kế hoạch hoạt động của lớp trong tuần tới theo kế hoạch lớp, nhà
trường, đoàn trường đề ra:
+ Chỉ tiêu phấn đấu về giờ học, điểm học, nề nếp chung cả lớp và từng tổ, từng
cá nhân.
+ Phân công trực nhật tuần: Những học sinh vi phạm tuần này sẽ làm trực nhật ở
tuần sau. GVCN cử một học sinh cá biệt vi phạm làm trưởng nhóm, phân công
và báo cáo kết quả khi thực hiện xong nhiệm vụ trong tiết sinh hoạt tuần kế tiếp.
Hoạt động 4: Học sinh phát biểu ý kiến, GVCN phản hồi và dặn dò học sinh
- Giáo viên chủ nhiệm phát huy tính dân chủ của các em bằng việc để các em có
những ý kiến phát biểu, phản hồi nhất là với những em vi phạm.
- GVCN trả lời những thắc mắc của học sinh khi các em có nhu cầu.
- Nhắc nhở các em thực hiện tốt hơn ở tuần sau.
2.3.2. GVCN phải kiên trì tiếp cận và xây dựng quan hệ tin cậy, tôn trọng,
thân thiện với học sinh cá biệt
- GVCN phải thể hiện sự hiểu biết, trân trọng, thông cảm, quan tâm và chấp
nhận các em.
- Giúp học sinh cá biệt nhận thức đúng về điểm mạnh và điểm yếu của bản thân.
Để học sinh có những ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ, trong các tình
huống, cần giúp học sinh nhận thức đúng bản thân, trong đó phải xác định được
“ Ta là ai? Ta có điểm mạnh, điểm yếu gì?”
+ Nhận thức được những giá trị đối với bản thân. Nhận thức được điều gì có ý
nghĩa và quan trọng đối với mình, và những điều đó có phải thực sự là chân giá
trị của con người và đời người không? Rất quan trọng nữa là cần nhận thấy bên
cạnh những hạn chế nhất định, mình là người có giá trị thì học sinh mới có nhu
cầu, động lực để hoàn thiện bản thân.
+ Tự tin về giá trị và những điểm mạnh của mình để làm điểm tựa cho những
hành vi và ứng xử một cách tích cực. Trên cơ sở làm cho học sinh nhận thức

được những điểm mạnh, giá trị của bản thân, giáo viên cần khích lệ để các em tự
tin phát huy những điểm mạnh và giá trị đó, đồng thời cố gắng khắc phục những
hạn chế, những niềm tin vào những cái phi giá trị hoặc phản giá trị để thay đổi
hành vi, thói quen xấu, tiêu cực theo hướng lành mạnh và tích cực lên.
GVCN sẽ khơi dậy ở học sinh nhu cầu muốn khẳng định khả năng và giá
trị của bản thân, muốn hoàn thiện nhân cách. Từ đó các em được khích lệ để tự
tin và có động cơ học tập, rèn luyện.
Ví dụ : Trường hợp em Phạm Tuấn Thịnh lớp 10a4, là một HS cá biệt
ngay từ đầu năm học 2018-2019.
12


Hoàn cảnh gia đình rất đặc biệt: Con hộ nghèo, bố mất khi em học lớp
8, mẹ sức khỏe yếu không có việc làm, đi phụ hồ cho công trình, ở nhà còn có
em nhỏ và ông bà nội đã già, đau ốm.
Biểu hiện cá biệt: Có tất cả những biểu hiện điển hình của một học sinh
cá biệt thuộc 5 nhóm phân loại như: Đi học muộn, không học bài cũ, không làm
bài tập, nói tục, rất hay gây mất đoàn kết trong lớp, trong trường và hay đánh
nhau, cục tính, ăn nói trống không, ngủ trong giờ, hay cãi lí với thầy cô, chơi bời
lêu lổng,…
Hướng giáo dục:
+ GVCN khai thác điểm mạnh của học sinh Thịnh: Dù cá biệt nhưng sẵn sàng
đứng lên nhận trách nhiệm là do mình gây ra. Chơi thân và lắng nghe những lời
khuyên từ lớp trưởng. Có khả năng học thuộc lòng rất tốt, giọng đọc to, lưu loát.
+ Xếp chỗ ngồi: GVCN xếp chỗ ngồi cho em Thịnh ngay cùng bàn với lớp
trưởng thuộc tổ1 phía đối diện với bàn giáo viên.
+ GVCN luôn kiên trì trong giáo dục em Thịnh:
Đầu năm khi GVCN còn chưa có nhiều thời gian tiếp cận với em, em
phạm lỗi lần đầu là nói tục, đánh một bạn trong lớp: GVCN lên lớp, gọi em
đứng dậy.Tôi hỏi: "Thịnh ơi, em có biết lí do cô gọi em ra đứng lên không?. Em

ấy đứng phắt dậy nói: "Biết, cô muốn đuổi học em thì đuổi, em không đi học
nữa". Rồi vùng vằng bỏ ra khỏi lớp trước sự ngạc nhiên của cô và cá bạn.
Bản thân GVCN mới chỉ hỏi có 2 câu mà em Thịnh có những phản ứng
như thế. Tôi liền gọi ngay cho phụ huynh nói rõ đầu đuôi và bảo chị đến đón con
mình ở cổng trường, đồng thời tôi báo cáo lên nhà trường cho em Thịnh nghỉ
học hết buổi.
Những ngày sau em vẫn đi học nhưng đều tỏ thái độ bất hợp tác với cô và
các bạn. Tiếp tục vi phạm thêm nhiều lỗi. Gọi riêng ra trao đổi em không ra, mời
phụ huynh đến gặp trao đổi em bảo mẹ đến gặp cô con không đi học nữa. Tôi và
phụ huynh chỉ thường xuyên trao đổi qua điện thoại, chị ấy rất thông cảm với cô
và cũng không bao che lỗi của con, chị còn nói ở nhà cháu cũng hư lắm. Nó
muốn bỏ học đi làm. Nhưng 15 tuổi đầu mà còn để ai cũng phải lo.Tôi không
dám cho cháu nghỉ học vì sợ cháu bị xã hội lôi kéo…Cứ như thế gần như cả một
kì học đầu tiên tôi và em Thịnh không thể có tiếng nói chung. Những lần vi
phạm tôi chấp nhận để lớp bị trừ điểm, tôi vẫn nhẹ nhàng, không muốn em bỏ
học giữa chừng và quyết tâm bằng mọi cách sẽ giáo dục được em. Học kì I kết
thúc em bị xếp hạnh kiểm yếu. Em nghỉ học gần một tuần phụ huynh xin phép.
Em nói với các bạn trong lớp là sẽ chính thức bỏ học.
+ Quan tâm và tin tưởng giao nhiệm vụ:
Trước khi về nghỉ tết Nguyên Đán Kỷ Hợi tôi và ban cán sự lớp đến
thăm gia đình em nhân ngày tết vì người nghèo với một món quà nhỏ. Trước khi
ra về tôi nhắn nhủ với em một câu : Chúc gia đình em ăn tết vui vẻ, đầm ấm. Ra
tết nhớ đi học với các bạn, em vẫn còn cả một kì 2 để cố gắng.
Ra tết mấy ngày đầu em không đến lớp. Khi quay lại đi học em có vẻ ít
nói hơn. Bắt đầu có những chuyển biến tích cực.Tôi khích lệ em bằng những lần
gọi đọc bài, khen em đọc truyền cảm, lưu loát. Em có khả năng học thuộc lòng
13


tốt, tôi hay gọi em đọc thuộc lòng. Tôi giao cho em phụ trách mảng công việc nề

nếp của lớp. Em Thịnh tổng hợp nề nếp, trình bày trước lớp những vi phạm nề
nếp của các bạn và đưa ra những đề xuất của mình. Em còn được giao phụ trách
huấn luyện đội bóng đá nữ của lớp trong giải bóng đá chào mừng ngày thành lập
Đoàn TNCS Hồ chí Minh do Đoàn trường tổ chức…Em rất háo hức trong phần
việc của mình.Thi đua kì 2 em Thịnh được khen về chỉ tiêu điểm tốt tại
lớp...Nhiều thầy cô giáo bộ môn đều ghi nhận sự tiến bộ của em ấy.
Trường hợp em Thịnh là học sinh cá biệt “cứng đầu ”, tôi đã không bỏ
cuộc, không đẩy em đó sang môi trường khác, tôi đã gần gũi, thăm hỏi, động
viên, có thái độ thân thiện để cảm hoá em trong vai trò của người mẹ, người chị,
người bạn để chia sẻ, để tranh luận đúng sai, lắng nghe ý kiến của em, công
bằng khi đánh giá. Tôi luôn tin tưởng vào sự tiến bộ ( dù chậm ) của học sinh
Thịnh. Tôi luôn có những lời động viên, khuyến khích để học sinh cá biệt có
động cơ mà tiến bộ .
Ngoài em Thịnh các em có biểu hiện cá biệt trong lớp đều đã bắt nhịp
được với cách giáo dục của GVCN. Để rồi trong những lúc ra chơi giữa các tiết,
được trao đổi, được các giáo viên bộ môn và cả những thầy cô dạy thay ở lớp,
thầy cô đều có những nhận xét tích cực về lớp. Là một GVCN được nghe đồng
nghiệp nhận xét về lớp có tiến bộ, tôi rất ấm lòng.
2.3.3. GVCN cần khích lệ, động viên và giữ thể diện cho học sinh cá biệt
- Khích lệ, động viên là việc mà mỗi GVCN nên làm thường xuyên. Đối với học
sinh cá biệt có được những khích lệ ấy các em sẽ tự tin hơn trước tập thể và có
niềm tin để phấn đấu.
- Giữ thể diện cho các em là việc GVCN phải làm và làm đồng đều, làm bằng
được. Bởi làm tốt điều này có tác dụng rất tốt cho việc hỗ trợ giáo dục học sinh
cá biệt ở các biện pháp khác. Theo tâm lí học thì đây là lứa tuổi thích được
khẳng định mình, nhưng không thích bị chỉ trích đến nỗi xấu hổ trước tập thể.
Nếu GVCN không khéo léo làm mất thể diện của các em thì cách giáo dục của
chúng ta sẽ không phát huy được tác dụng.
Ví dụ: Xử lí tình huống để giữ thể diện cho học sinh Trương Thị Hải
Yến lớp chủ nhiệm 10a4 bị nghi ngờ ăn cắp điện thoại của bạn trong lớp.

Học sinh bị mất điện thoại là Trương Ngọc Anh. Học sinh Anh trước đó
đã từng sử dụng điện thoại trong giờ học, bị bắt và lớp bị hạ giờ. GVCN đã mời
gia đình lên trao đổi, kí cam kết sẽ không giao điện thoại cho con. Hai học sinh
này ngồi bàn trên bàn dưới cùng ở tổ 3. Yến là một học sinh cá biệt hay nói dối
bố mẹ để đi chơi lêu lổng, hay vi phạm nội quy như: tô son, trang phục sai quy
định, hay soi gương trong giờ học, ngủ trong giờ, bố mẹ cho tiền đóng góp
nhưng đóng không đúng số tiền bố mẹ cho…
Học sinh Anh bị mất điện thoại trong tình huống lớp có tiết học thể dục,
cả lớp ra ngoài nhà tập đa năng, học sinh Hiền giữ chìa khóa và khóa cửa, nhưng
học sinh Yến lại mượn chìa khóa vào lớp cất đồ gì đó. Khi hết 45 phút, trở lên
lớp học sinh Anh phát hiện mình bị mất điện thoại. Khi trống vào tiết tiếp theo
14


học sinh Yến vào chậm 5 phút. Cả lớp dấy lên nghi ngờ học sinh Yến vì những
biểu hiện lạ.Trước đó thì lớp còn cho biết điện thoại của Yến bị hỏng không
dùng được.
Học sinh Anh rất sợ hãi vì lo bố mẹ mắng, phạt. Ngày hôm đó trường
học cả ngày. Buổi trưa nhiều học sinh ở lại trong trường vì nhà xa không về đi
buổi được, học sinh Anh và Yến cũng ở lại. Khi học sinh Anh đi ăn cơm trưa
cùng một số bạn quay lại lớp thì cũng là lúc học sinh Yến đi từ lớp ra và đưa cho
Ngọc Anh điện thoại, nói là ai cất lên ô thoáng cửa sổ và úp mũ cối học quốc
phòng lên. Lúc này sự nghi ngờ càng được khẳng định là Yến có hành vi xấu.
Hai em lúc đó theo các bạn chứng kiến nói lại có lời qua tiếng lại với nhau, sự
việc gây xôn xao trong lớp và rất có thể học sinh trong trường cũng biết.
Tôi nắm bắt được thông tin nhưng lúc này các em đã tan học buổi sáng.
Đang nghỉ trưa ở nhà, học sinh Yến xuống nhà rồi khóc, vì các bạn đổ lỗ cho em
ăn cắp điện thoại, và không muốn đi học nữa. Đầu giờ chiều tôi lên lớp sớm
hơn, gọi Ngọc Anh ra trao đổi trước. Tôi nhẹ nhàng hỏi: Ngọc Anh thấy điện
thoại rồi phải không? Sao em lại đem điện thoại đến lớp khi đã kí cam kết về lỗi

sử dụng điện thoại trong giờ học trước đó? Như vậy là em vi phạm cam kết, vi
phạm nội quy nhà trường rồi. Nếu đã thấy điện thoại em thực hiện theo cam kết
ngay nhé. Sau đó tôi gọi cho phụ huynh em Anh. Tôi lại hỏi em : Còn nếu thực
sự là Yến lấy, em có cái nhìn như thế nào nếu đặt mình vào trường hợp của Yến?
Tôi trao đổi với em rất nhiều, mục đích là để tránh những suy nghĩ xấu của Anh
về Yến. Tôi không quên dặn em đừng tỏ thái độ xa lánh bạn, cứ cư xử như chưa
có chuyện gì xảy ra. Em Anh hứa sẽ không nói thêm về chuyện này nữa với bạn
bè.
Còn Yến tôi phải dành nhiều thời gian trao đổi riêng với em. Tôi nói:
Giờ chỉ có hai cô trò em cứ bộc bạch, cô hứa sẽ chỉ cô và em biết. Lúc đầu em
ấy không thừa nhận và nghĩ mình bị oan. Nhưng tôi hỏi em sao em lại phát hiện
được điện thoại của bạn để trên ô thoáng? Em lúng túng. Em nói em vô tình
ngước nhìn lên thấy thôi ạ! Điện thoại bị úp kín như vậy sao em ngước để nhìn
thấy được?... Hỏi đến câu nào em cũng ấp úng, lo sợ. Đấu tranh mãi sau đó em
đã tự nhận mình có ý định lấy điện thoại của bạn để dùng vì điện thoại em bị
hỏng. Tôi phân tích về hành vi ăn cắp nói chung để em thấy được tác hại. May là
Ngọc Anh đã thấy điện thoại rồi. Ngọc Anh cũng nói sẽ không bàn luận thêm về
chuyện vừa xảy ra nữa. Tôi khuyên em và em đã bớt căng thẳng.
Sau đó tôi gọi Ngọc Anh ra gặp cô và Yến để trao đổi thêm. Hai em đã
làm hòa với nhau. Tôi cho hai em bắt tay làm hòa. Tôi cũng khéo léo nhắn nhủ
lớp chủ nhiệm: Chắc bạn nào trêu Ngọc Anh nên giấu điện thoại để bạn lo lắng.
Các em đừng đùa quá như vậy! Chuyện trong lớp đã êm xuôi rồi cô mong các
em không được bàn tán, phát tán thông tin làm ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết
của lớp. Và nhớ nếu đem điện thoại và sử dụng trong lớp, trường là vi phạm nội
quy các em không được mắc lỗi nhớ chưa nào!
Những ngày sau đó Yến vẫn đi học bình thường, tôi quan sát thấy hai em
vẫn hòa đồng với nhau. Không khí lớp đã ổn định và các em vẫn đoàn kết.
2.3.4. Làm tốt công tác phối hợp để giáo dục học sinh cá biệt
15



* Phối hợp với gia đình
Gia đình là tổ ấm đầu tiên của các em. Gia đình có sức ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển trí tuệ, nhân cách của các em. Có tới hơn nửa thời gian trong
ngày các em sống bên gia đình. Do vậy, phối hợp với gia đình để giáo dục các
em học sinh cá biệt là một phần công việc quan trọng của GVCN. Cụ thể:
+ Trao đổi với phụ huynh qua điện thoại, sổ liên lạc điện tử. Thường xuyên liên
lạc với gia đình các em để học sinh cá biệt thấy mình được quan tâm, không bị
bỏ rơi.
+ Mời phụ huynh đến trường trao đổi.
+ Đến thăm gia đình học sinh cá biệt.
+ Gửi kết quả rèn luyện của các em cá biệt về gia đình theo tháng.
+ Một tháng mời Ban đại diện Hội phụ huynh học sinh của lớp đến dự sinh hoạt
cuối tuần vào tuần cuối các tháng. Mục đích là để các bác lắng nghe, định hướng
con em và cùng giúp đỡ GVCN trao đổi thêm với phụ huynh học sinh cá biệt, để
giáo dục các em.
* Phối hợp với giáo viên bộ môn
Giáo viên bộ môn là người trực tiếp giảng dạy tại lớp chủ nhiệm. Giáo
viên bộ môn cũng là một nhà giáo dục, ngoài truyền đạt kiến thức, thầy cô còn
có trách nhiệm uốn nắn, chỉ bảo các em trong từng tiết học về thái độ, hành vi,
nhân sinh quan, thế giới quan trong từng tiết học. Vì thế việc phối hợp với giáo
viên bộ môn là hết sức quan trọng và cần thiết. Do đó tôi:
+ Thường xuyên trao đổi với giáo viên bộ môn về tinh thần, thái độ học tập của
lớp chủ nhiệm, nhất là những học sinh cá biệt.
+ Tham khảo đề xuất của giáo viên bộ môn để có biện pháp giáo dục học sinh cá
biệt.
+ Xin dự giờ lớp chủ nhiệm để quan sát, nắm bắt tình hình học sinh cá biệt.
+ Xin phép thầy cô bộ môn kiểm tra đột xuất giữa các tiết học để nắm bắt tình
hình học sinh cá biệt.
+ Mạnh dạn, khéo léo trao đổi những khuyết điểm của thầy cô bộ môn khi có

học sinh trong lớp phản ánh.
* Phối hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội chữ thập đỏ, Ban nề nếp nhà
trường
- Phối hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh trường THPT Bá Thước là tổ chức chính trị, xã hội của đoàn viên, thanh
niên học sinh. Trong nhiều năm qua, Đoàn trường luôn là một tổ chức vững
mạnh, là mục tiêu phấn đấu của nhiều thanh niên để được đứng vào hàng ngũ.
Đoàn trường chính là nơi tập hợp sức mạnh, là nơi để các em trưởng thành và
khẳng định mình thông qua các hoạt động phong trào đoàn. Là một GVCN lớp,
tôi luôn phối kết hợp chặt chẽ với tổ chức đoàn thanh niên của nhà trường trong
việc giáo dục học sinh, trong đó có học sinh cá biệt. Cụ thể:
+ Bình xét thanh niên ưu tú tham gia học lớp đối tượng đoàn theo quy định.
+ Hưởng ứng nhiệt tình và có hiệu quả các hoạt động do đoàn trường tổ chức.

16


+ Vận động và tổ chức cho đoàn viên, thanh niên chi đoàn lớp kí cam kết không
vi phạm pháp luật, cam kết thực hiện văn hóa học đường, chấp hành luật lệ an
toàn giao thông.
+ Vận động đoàn viên thanh niên tham gia đầy đủ các đợt quyên góp, ủng hộ do
Đoàn trường và Huyện đoàn phát động như: Chiến dịch mùa khô tình nguyện;
tặng sổ tiết kiệm cho tân binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng; mua tăm, bút ủng hộ
trẻ em khuyết tật,…
+ Khuyến khích các em tham gia nhiệt tình các cuộc thi do huyện đoàn và đoàn
trường phát động như: Cuộc thi "Tìm hiểu 990 năm Danh xưng Thanh Hóa với
tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương", cuộc thi “ Rung chuông
vàng”, Hội thi văn nghệ chào mừng ngày 20/11…
Với việc tham gia nhiệt tình, tích cực vào các hoạt động đoàn, các em đã
phát huy được năng lực, sở trường của mình; biết xây dựng hoạt động cá nhân

và tập thể; biết sống có trách nhiệm, có tình yêu thương; nâng cao hiểu biết về
đời sống và pháp luật.
- Phối hợp với Hội chữ thập đỏ nhà trường: Hội chữ thập đỏ nhà trường là
một tổ chức lớn quy tụ tất cả hội viên của học sinh toàn trường. Tổ chức Hội là
nơi giáo dục các em về truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách…
Qua các hoạt động của Hội sẽ giúp tôi có điều kiện gần gũi với học sinh, nhất là
những học sinh là con hộ nghèo, mồ côi, khuyết tật có những biểu hiện cá biệt.
Tôi luôn động viên và hướng các em đến hoạt động của Hội như: Thăm địa chỉ
nhân đạo tại xã Ban Công, tổ chức thăm gia đình và trao quà tết vì người nghèo
cho các em học sinh hộ nghèo là học sinh cá biệt trong lớp, quyên góp ủng hộ tết
vì người nghèo, ủng hộ nạn nhân chất độc da cam,…
- Phối hợp với Ban nề nếp: Luôn phối hợp thường xuyên với Ban nề nếp để
nắm bắt tình hình thực hiện nội quy nhà trường của học sinh, học sinh cá biệt để
có biện pháp xử lý.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Kết quả thực nghiệm
Qua năm học 2017 - 2018; đặc biệt là năm học 2018 - 2019 giáo viên chủ
nhiệm đã tiến hành áp dụng các biện pháp giáo dục học sinh cá biệt, sau khi tiến
hành đánh giá kết quả xếp loại hai mặt giáo dục ở các lớp chủ nhiệm của tôi, tôi
có kết quả cụ thể sau:
* Năm học: 2017 - 2018
Lớp chưa vận dụng các biện pháp giáo dục học sinh cá biệt

12A7
Tốt
( Sĩ số 39) SL %

Hạnh kiểm
Khá
T.bình

SL % SL %

KS ĐN

18

46

9

23

10

Học kỳ I

19

49

8

20

10

Lớp

Yếu
SL %


Học lực
Giỏi
Khá
T.bình
SL % SL
% SL %

Yếu
SL %

26

2

5

1 2,5

19

49

18

46

1

2,5


26

2

5

1 2,5

18

46

19

49

1

2,5

17


Học kỳ II 18

46

9


23

11

28,5

1

2,5 1 2,5

18

46

19

49

1

2,5

Cả năm

46

9

23


12

31

0

0

18

46

19

49

1

2,5

18

1 2,5

* Năm học: 2018 - 2019
Lớp vận dụng các biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
Hạnh kiểm
Học lực
Lớp 10A4
Tốt

Khá
T.bình
Yếu
Giỏi
Khá
( Sĩ số 40)
SL %
SL % SL %
SL %
SL % SL %

T.bình
SL %

Yếu
SL %

KSĐN

20

50

9

22,5 6

15

5


12,5

0

0

21 52,5

18

45

1

2,5

Học kỳ I

31

77,5

4

10

4

10


1

2,5

0

0

28 70

12

30

0

0

Học kỳ II 31

77,5

7

17,5

2

5


0

0

0

0

32 80

8

20

0

0

Cả năm

80

6

15

2

5


0

0

0

0

30 75

10

25

0

0

32

2.4.2. Kết quả đối với chất lượng giáo dục học sinh cá biệt
- Đối với học sinh
Đối tượng học sinh cá biệt sau khi được áp dụng các biện pháp giáo dục
các em đã hòa đồng và bắt nhịp tốt nội quy trường, lớp. Sự tiến bộ của các em
đã góp phần cùng tập thể lớp đạt được những thành tích đáng khích lệ(Phụ lục
3):
+ Lớp 10A4 từ thời điểm đầu năm học liên tục xếp thứ hạng thấp đã được cải
thiện sau một tháng rưỡi. Có nhiều tuần liên tục đạt được tuần học có số giờ học
tốt tuyệt đối, xếp loại chung ba mặt giờ học, điểm học, nề nếp trong top 10 của

trường. Các buổi học luôn duy trì tốt sĩ số học sinh. Số học sinh vắng học rất ít.
+ Được tuyên dương và nhận thưởng trong các đợt tổng kết phong trào thi đua
chào mừng các ngày lễ lớn trong năm do đoàn thanh niên và nhà trường phát
động:
Thi đua đợt 1 học kỳ I năm 2018-2019: Trong 4 tuần thi đua lớp có kết
quả xếp loại chung là 5/26 lớp. Được thưởng về nề nếp, giờ học, điểm học thuộc
tốp 10. Văn nghệ lọt vào chung kết và đạt giải khuyến khích.
Thi đua đợt 2 năm học 2018- 2019: Trong 4 tuần thi đua lớp có xếp loại
chung là 8/ 26 lớp, nề nếp xếp thứ 7/ 26 lớp, giờ học xếp thứ 7/ 26 lớp, điểm học
xếp thứ 13/ 26 lớp. Kết quả thi học sinh giỏi cấp trường lớp đạt 4 giải(1 giải ba
môn GDCD, 2 giải khuyến khích môn Địa và GDCD, 1 khuyến khích môn Văn)
xếp thứ 3/ 9 lớp khối 10 về số giải sau 2 lớp chọn 10A9, 10A1.
+ Nhiều em tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao. Trong đó
có cả những HSCB. Trong số các học sinh cá biệt, đã có nhiều em vươn lên đạt
nhiều thành tích trong học tập và rèn luyện.
+ Tập thể lớp giảm đáng kể hiện tượng học sinh đi học muôn, vi phạm các nội
quy của nhà trường, của đoàn thanh niên và của tập thể lớp đề ra.
18


+ Không còn hiện tượng học sinh tham gia đánh nhau, không có học sinh bị ra
hội đồng kỷ luật của nhà trường.
+ Qua trao đổi, nắm bắt thông tin từ phía giáo viên bộ môn: Các giáo viên có
nhận định tích cực về sự chuyển biến của các em học sinh cá biệt.
+ Cả năm tập thể lớp có xếp loại chung là 13/26 lớp. Bí thư lớp được nhận giấy
khen của Bí thư đoàn trường tặng, chi hội chữ thập đỏ lớp được Chủ tịch Hội
chữ thấp đỏ nhà trường tặng giấy khen.
- Đối với giáo viên
+ Bản thân thông qua việc tìm hiểu đã nắm vững lí luận, thực trạng, từ đó triển
khai các biện pháp vận dụng giáo dục học sinh cá biệt học sinh vào thực tiễn

công tác chủ nhiệm ở trường THPT Bá Thước.
+Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thông qua thực tiễn công tác chủ nhiệm ở đơn vị
cho đồng nghiệp, đúc rút nhiều kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả trong giáo
dục học sinh nói chung và học sinh cá biệt nói riêng.
2.4.3. Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến
- Có khả năng ứng dụng cho tất cả các giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục
các nhóm đối tượng học sinh cá biệt ở các khối lớp tại trường THPT Bá Thước
và mang lại hiệu quả thiết thực.
- GVCN cần tiếp tục nghiên cứu thêm và tìm tòi các giải pháp mới để làm phong
phú, hiệu quả công tác giáo dục học sinh cá biệt khi mà cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 đã ở gần chúng ta.
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Như chúng ta đã biết, giáo dục học sinh cá biệt là một nhiệm vụ vô cùng
khó khăn, phức tạp và rất khó thành công trong một thời gian ngắn. Nó đòi hỏi
một quá trình dài lâu, có sự gắn kết, thật sự trách nhiệm của các giáo viên chủ
nhiệm từ cấp dưới đến cấp trên, cùng sự quan tâm chia sẻ thường xuyên từ phía
phụ huynh, gia đình.
Quy trình giáo dục học sinh cá biệt là một quy trình mang tính toàn vẹn
và thống nhất từ: Lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện; chỉ đạo; kiểm tra, đánh
giá kết quả. Tuy rằng mỗi chức năng có vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ, đan xen và bổ sung cho nhau; thực hiện tốt chức năng này sẽ tạo cơ sở,
điều kiện cho các chức năng tiếp theo. Để thực hiện hiệu quả công tác giáo dục
học sinh cá biệt thì bên cạnh việc xây dựng những nội quy kỷ luật học sinh, cần
phải xây dựng nội quy kỷ luật lao động của giáo viên, cần tạo ra bầu không khí
tâm lý tích cực trong nhà trường, giáo viên có quan hệ đồng nghiệp thân thiết,
tương trợ, đoàn kết lẫn nhau, có môi trường sống lành mạnh, sự mẫu mực trong
sinh hoạt, lối sống của giáo viên sẽ là tấm gương soi sáng và có tác dụng giáo
dục rất lớn đối với học sinh. Công tác giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn
hiện nay càng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, cần thiết hơn khi toàn Đảng,

toàn dân ta đang tích cực tham gia cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Nó sẽ là nguồn lực tinh thần to lớn
để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
19


Giáo dục học sinh cá biệt là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó giáo
dục ở nhà trường có vai trò định hướng. Đó là sứ mệnh lịch sử, là vinh dự và
trách nhiệm mà xã hội giao cho nhà trường và mỗi chúng ta nói riêng, ngành
giáo dục và đào tạo nói chung.
3.2. Kiến nghị
Để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi có hiệu quả tôi xin có một vài
ý kiến đề xuất như sau:
* Thứ nhất, đối với sở GD&ĐT Thanh Hóa
-Cần quan tâm nhiều hơn đến công tác chủ nhiệm của giáo viên ở trường THPT.
- Nên tổ chức nhiều chuyên đề cấp tỉnh về nâng cao chất lượng giáo dục học sinh
nói chung và học sinh cá biệt nói riêng.
*Thứ hai, về phía nhà trường
- Dân chủ khi phân công giáo viên chủ nhiệm đứng lớp, để mỗi giáo viên thấy
được tính khích lệ, công bằng.
- Đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dựng môi trường thân thiện,
xây dựng và bổ sung cơ sở vật chất phục vụ học sinh học tập tốt hơn.
- Xây dựng chuyên đề về giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường.
- Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoài giờ lên lớp, sinh hoạt dưới cờ..
- Tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe vị
thành niên, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường.
- Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên kiểm tra, đôn đốc bằng việc kiểm tra
đột xuất công tác chủ nhiệm ở các tập thể lớp.
* Thứ ba, về phía giáo viên chủ nhiệm
- Cần thực hiện hết chức năng, vai trò và nhiệm vụ của mình.

- Phải có lòng vị tha, hết lòng yêu thương học sinh, công bằng trong đánh giá .
- Xây dựng tập thể lớp tự quản tốt, đoàn kết, tiến bộ.
*Thứ tư, về phía đoàn thanh niên: Cần phát động nhiều phong trào để thu hút
học sinh tham gia và phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo
dục học sinh cá biệt. Nhất là phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, vì
đa số các em học sinh miền núi văn hóa, thể dục thể thao là một điểm mạnh.
* Thứ năm, về phía gia đình học sinh: Cha mẹ, ông bà nên sống mẫu mực để
làm gương cho con cháu. Phải quan tâm đến con cháu nhiều hơn nhất là tâm tư,
nguyện vọng đến việc học của con cháu, và hãy từ bỏ tư tưởng phó mặc con
mình cho nhà trường.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm “Mét sè biÖn ph¸p trong
c«ng t¸c chñ nhiÖm ®Ó gi¸o dôc häc sinh c¸ biÖt tại Trường
THPT Bá Thước” của tôi. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn
đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 22 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
20


Người viết SKKN

Đinh Thị Thùy Dương

21




×