Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường trung học phổ thông hà trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.66 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài................................................................................ ....... 2
1.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu. ........................................................... ................. 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu. ......................................................................... 3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
Khái niệm về học sinh cá biệt và đặc điểm của học sinh cá biệt..................3
Thực trạng của vấn đề học sinh cá biệt ở trường THPT Hà trung................4
Nguyên nhân phát sinh học sinh cá biệt...................................................... .4
2.2 Giải pháp, biện pháp tổ chức giáo dục học sinh cá biệt.
2.2.1 Những giải pháp giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện để giáo dục học sinh
cá biệt................................................................................................................... ....6
2.2.2 Biện pháp tổ chức giáo dục học sinh cá biệt:Xây dựng một tập thể đoàn
kết, các thành viên quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, thi đua học tập, tạo không khí “
mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Tìm hiểu phân loại học sinh .........................................................................10
Tìm hiểu nguyên nhân học sinh trở thành học sinh cá biệt...........................10
Tìm hiểu năng lực học tập, sở thích năng khiếu của mỗi học sinh cá biệt....11
Sắp xếp, bố trí học sinh cá biệt vào các tổ, xây dựng đôi bạn cùng tiến.......11
Lựa chọn, huấn luyện đội ngũ cán bộ lớp.....................................................
12
Tổ chức hoạt động thi đua giữa các tổ, phát huy tinh thần “mình vì mọi
người và mọi người vì mình”................................................................................. 13
Kết hợp chặt chẽ mối quan hệ giữa nhà trường- gia đình và xã hội........15
2. 3. Kết quả đạt được...........................................................................................15
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết
luận.............................................................................................................16


3.2. Kiến nghị..........................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................19

1


1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Khi nói về kỷ niệm đáng nhớ trong nghề, giáo viên thường kể về những học
sinh cá biệt, bởi đối tượng này khiến giáo viên trăn trở nhiều nhất, tốn nhiều công
sức và không ít người thất bại, chán nản, mất lửa yêu nghề. Dạy học sinh là một
người bình thường thành người có ích cho xã hội đã là một thành công, thì việc
cảm hóa, giáo dục học sinh cá biệt thành người có ích là một thành công gấp bội!
Có thể nói hầu như trường nào, kể từ Tiểu học trở lên cũng đều có học sinh "cá
biệt". Chỉ có điều nhiều hay ít, nặng hay nhẹ mà thôi. Điều đó cũng không có gì là
lạ. Bởi vì các em học sinh đang ở cái lứa tuổi “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò ”.
Những học sinh “cá biệt” đã ít nhiều gây khó khăn cho công tác giảng dạy, làm ảnh
hưởng đến việc học tập của cả lớp, làm đau đầu các thầy cô giáo, đặc biệt là giáo
viên chủ nhiệm.
Có thể nói rằng công tác chủ nhiệm lớp ở trường Trung học phổ thông là công
việc có khá nhiều khó khăn. Vì có lẽ đây là một nhiệm vụ mà người thầy gặp khá
nhiều bài toán khó trong cách giáo dục học sinh, nhất là học sinh chậm tiến bộ, hơn
nữa xã hội ngày nay có nhiều ảnh hưởng phức tạp đến học sinh, đội ngũ giáo viên
bộ môn ít để tâm đến hoàn cảnh, tính cách của học sinh…tất cả dồn cho trách
nhiệm của giáo viên chủ nhiệm. Trong khi đó bạo lực học đường không chỉ là mối
quan tâm riêng của ngành giáo dục mà trở thành vấn đề cả xã hội phải lo lắng trăn
trở. Vậy chúng ta phải làm gì để giáo dục những học sinh như thế? Áp dụng các
biện pháp nào để có thể giáo dục các học sinh cá biệt để các em trở thành học sinh
ngoan hơn giúp các em phát triển toàn diện? Bản thân tôi là giáo viên sau nhiều
năm làm công tác chủ nhiệm tôi rất trăn trở trước vấn nạn học sinh chưa ngoan,

học sinh cá biệt. Bản thân cũng đã từng giúp không ít học sinh chưa ngoan trở
thành những học sinh đúng mực và đã trở thành những người có nhiều đóng góp
cho xã hội và cũng chính những em này, sau này đã trở về trường nhiều hơn, biết
ơn những thầy cô giáo cũ nhiều hơn.
Từ những thực tế nêu trên, từ những kinh nghiệm giáo dục những học sinh
chưa ngoan qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm tại trường THPT Hà trung tôi

2


xin đề xuất ‘ Một số phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Hà
Trung”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra phương pháp thích hợp để tiếp cận, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng,
hoàn cảnh, điểm mạnh, điểm yếu của học sinh cá biệt để có biện pháp giáo dục
hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 12E năm học 2016-2017. Học sinh lớp 10 Đ năm học 2017-2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra giáo dục, phương pháp thực
nghiệm sư phạm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
Khái niệm về học sinh cá biệt và đặc điểm của học sinh cá biệt.
Học sinh cá biệt là thuật ngữ thường dùng của nhà trường, thầy cô giáo chỉ
những học sinh: thường gây gỗ đánh nhau, bỏ giờ, trốn học,vô lễ với thầy cô giáo
… , không chấp hành nội qui nhà trường … thêm vào đó là sự lôi kéo bạn bè về
phía mình nhằm thỏa mản cá tính hoặc thỏa mãn nhu cầu giải tỏa tâm lý bị ức chế
về hoàn cảnh của bản thân mình .
Học sinh cá biệt là hiện tượng tâm lý ở lứa tuổi thanh thiếu niên, nó dễ bị

lôi cuốn làm cho học sinh dễ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu dẫn đến tình
trạng bỏ học giữa chừng và có nguy cơ phạm tội, là nỗi day dứt của nhà trường, gia
đình và xã hội.
Học sinh cá biệt biểu hiện ở nhiều khía cạnh, trạng thái khác nhau, tạm chia
làm 4 nhóm :
1- Gây gổ đánh nhau , kết bè thành băng nhóm .
2- Bỏ giờ trốn học dẫn đến học tập sa sút hơn .
3- Quậy phá, thiếu nghiêm túc trong học tập .
4- Ương ngạnh, học đòi, không nghe lời thầy cô giáo, ý thức tổ chức kỷ luật kém.
* Ở nhóm thứ 1 : Học sinh thường có thể lực phát triển, phát sinh tâm lý đua đòi,
làm “anh hùng” ở tuổi mới lớn, tuổi dễ bị kích động, lôi kéo thành băng nhóm,

3


thích gây gỗ đánh nhau … giữa học sinh trong lớp, trong trường và ngoài nhà
trường .
* Ở nhóm thứ 2 : Một bộ phận học sinh vì điều kiện học tập thiếu, tiếp thu chậm
dẫn đến năng lực học tập hạn chế, thường không thuộc bài, sợ bị kiểm tra ở những
môn học khó, hoặc thầy cô khó, nên bỏ giờ dần dần thành thói quen hay bỏ giờ
trốn học và từ đó lực học sa sút và có khả năng bỏ học giữa chừng hoặc do bạn bè
lôi cuốn vào những trò chơi vô bổ mà bỏ giờ trốn học .
* Ở nhóm thứ 3: Như ở nhóm 2, học sinh do đặc điểm tâm sinh lý phát triển không
bình thường, không tập trung nghe giảng, tiếp thu hạn chế, không hiểu bài dẫn đến
ý thức học tập kém, thường xuyên quậy phá, không tập trung cho việc học
tập,“phá” bạn và bày những trò chơi ngớ ngẩn khác trong giờ học. Những học sinh
này dần dần lực học giảm sút, dẫn đến bỏ giờ trốn học và bỏ học .
* Ở nhóm thứ 4: Một số ít học sinh biểu hiện tính ương ngạnh, bướng bỉnh, không
chấp hành những qui định của lớp, khi được lưu ý nhắc nhở, có vẻ ăn năn sửa sai
nhưng rồi vẫn “chứng nào tật ấy ” rồi thường xuyên vi phạm bất chấp sự góp ý của

bạn bè, sự giáo dục của thầy cô giáo, kể cả những hình phạt cho những vi phạm
vẫn không chấp hành: chẳng hạn như tác phong không nghiêm túc: áo in hình quái
dị, tóc nhuộm màu, để đuôi sau, bấm lỗ tai, xăm hình, hút thuốc, nói tục với bạn
bè, không tham gia sinh hoạt lớp, tách rời tập thể .
Ở tất cả các nhóm học sinh cá biệt trên đều ảnh hưởng đến sự hình thành
nhân cách và năng lực học tập của hoc sinh .
Thực trạng của vấn đề học sinh cá biệt ở trường THPT Hà Trung.
Qua theo dõi những năm gần đây, hiện tượng học sinh cá biệt ở trường THPT
Hà Trung có phần gia tăng và ở nhiều cấp độ khác nhau: trốn học, bỏ giờ, đánh
nhau, đánh hội đồng, ma túy, mại dâm…đặc biệt số học sinh nữ cá biệt gia tăng, nó
tác động trực tiếp đến học sinh đang học trong nhà trường .
Học sinh cá biệt tăng theo xu thế phát triển của xã hội theo “ cơ chế thị trường
“ ở khía cạnh tiêu cực .
Dù ở nhóm học sinh cá biệt nào nếu chúng ta không kịp thời uốn nắn, giáo dục
các em thì dễ dẫn đến các em từ những vi phạm nhỏ đến việc làm không có ý thức
khác, rồi bỏ học và có nguy cơ trở thành tội phạm .

4


Tất cả những học sinh bình thường trở thành những học sinh cá biệt đều có
nguyên nhân của nó, ở đây chỉ nêu lên một số nguyên nhân làm ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến học sinh làm cho các em trở thành học sinh cá biệt.
Nguyên nhân phát sinh học sinh cá biệt.
Rất nhiều yếu tố làm cho học sinh trở thành học sinh cá biệt, tùy từng môi
trường cụ thể mà có những nguyên nhân khác nhau, trường THPT Hà Trung là một
trường miền xuôi, địa bàn tuyển sinh rộng, nhiều em nhà ở khá xa trường cách
trường từ 10-15 km như : Hà Châu, Hà Long, Hà Tiến, Hà Toại, Hà Hải ….gần đây
còn có cả học sinh ở thị xã Bỉm Sơn, dân cư chủ yếu thuần nông, qua tìm hiểu Tôi
thấy có một số nguyên nhân sau đây tác động trực tiếp đến học sinh làm nảy sinh

những tư tưởng, tình cảm không lành mạnh làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân
cách và làm hạn chế đến năng lực học tập của các em .
Ảnh hưởng của sự phát triển xã hội theo cơ chế thị trường :
Xã hội phát triển là điều đáng mừng, nhưng khi phát triển theo cơ chế thị trường
nó kéo theo một bộ phận không lành mạnh khác như dịch vụ giải trí không lành
mạnh, phim ảnh ảnh bạo lực, tình cảm lứa đôi quá trớn …
Các em đi học xa cha mẹ không giám sát được, trong khi đó hiện nay, do sự
quản lí không chặt chẽ của nhà nước, các dịch vụ bida, internet, ka raokê … được
tổ chức gần trường học, lôi cuốn, hấp dẫn các em vào các trò chơi vô bổ. Các em
lao vào các trò chơi đó dẫn đến bỏ giờ trốn học và những vi phạm khác. Đồng thời
tren intenet có nhiều hình ảnh bạo lực làm cho các em dễ dàng bắt chước. Những
tụ điểm ăn chơi hàng ngày nhan nhản, đập vào mắt các em làm cho các em không
tự chủ, tham gia không có ý thức dần dần tiêm nhiễm và trở thành học sinh hư.
Ảnh hưởng của môi trường giáo dục gia đình :
Gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn :
Từ những khó khăn về đời sống kinh tế, cha mẹ phải lao động vất vả, không
quan tâm đến việc học tập của con em, phó mặc cho nhà trường, có gia đình buộc
con cái phải lao động, làm cho các em không có thời gian học tập ở nhà như soạn
bài, học bài cũ, do đó khi đến lớp việc tiếp thu bài mới rất khó khăn, không làm
được bài kiểm tra, lo lắng sợ sệt khi thầy cô giáo kiểm tra bài cũ .. từ đó thua sút
bạn bè và phát sinh tâm lí chán học dẫn đến bỏ giờ trốn học, bỏ học.
Gia đình chỉ lo làm ăn, không quan tâm đến việc học của con cái :

5


Nhiều gia đình vì kế sinh nhai, cả vợ chồng đều đi làm ăn xa ( đi làm ở miền
nam hằng năm mới về, đi xuất khẩu lao động) phó mặc con cái cho ông bà hoặc chị
em chăm sóc lẫn nhau, một số học sinh chưa tự giác và thiếu sự quản lí chặt chẽ
của người lớn nên nảy sinh những tư tưởng không lành mạnh, từ đó ham chơi mà

trốn học, bỏ học .
Có gia đình tuy không khó khăn về kinh tế nhưng có tham vọng làm giàu, bỏ
mặc con cái, không quan tâm đến việc học tập của con cái kể cả những thói hư tật
xấu của con cái, cha mẹ cũng không biết để răn dạy, do đó từ những vi phạm nhỏ
dần dần đến việc lớn.
Gia đình có cha mẹ bất hòa, không có hạnh phúc :
Lứa tuổi các em rất nhạy cảm, những cuộc cãi vả của cha mẹ, sự to tiếng quát
nạt, bạo lực của người cha làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng, từ đó nảy sinh
những việc làm không lành mạnh (biểu hiện ở nhóm 1 ) thích đánh lộn để giải tỏa
tâm lý, bị ức chế, bỏ nhà đi chơi không thiết tha đến việc học, từ đó lực học giảm
sút dẫn đến chán học, bỏ học. Ngoài ra, gặp hoàn cảnh gia đình có người cha nát
rượu, cũng ảnh hưởng rất lớn đến học sinh làm các em trở thành học sinh cá biệt .
Với môi trường giáo dục của gia đình như vậy, Học sinh khó có thể trở thành
con ngoan trò giỏi, nếu không có sự động viên kịp thời của bạn bè, nhà trường và
thầy cô giáo .
Thấy rõ được những nguyên nhân trên và từ những phân tích sự hình thành các
nhóm học sinh cá biệt Tôi xin đề xuất một số giải pháp, biện pháp tổ chức nhằm
hạn chế sự phát triển và giáo dục học sinh cá biệt.
2.2.Giải pháp, biện pháp tổ chức giáo dục học sinh cá biệt.
Những giải pháp giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện để giáo dục học sinh cá
biệt.
Theo tôi việc giáo dục học sinh cá biệt có thành công hay không thì phụ thuộc
vào người thầy, người thầy phải là người có “Tâm”.
Chữ “Tâm” tôi muốn nói ở đây không phải chỉ là sự yêu thương vô bờ đối với học
trò như một người con, người em ruột thịt của mình mà còn là tâm huyết tha thiết
yêu nghề, tập trung cho từng hành động nhỏ nhất của mình từ lời ăn tiếng nói, ăn
mặc, hành động, chăm chút cho từng tiết giảng, từng cử chỉ của mình.
Hầu hết học sinh cá biệt không ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, không
ý thức được vai trò của việc học tập đối với cuộc đời của mình, vì vậy các em
6



không có thói quen tự giác, việc đi học với các em chỉ là để vừa lòng cha mẹ, thầy
cô, để được găp bạn, để không phải làm việc nhà… Các em chỉ học cho có học,
chứ không biết học để làm gì, học có tác dụng như thế nào đến cuộc sống của mình
sau này, vì vậy người giáo viên chủ nhiệm phải chỉ ra cho các em thấy tác dụng của
việc học bằng những ví dụ cụ thể những tấm gương rất gần gũi với các em của sự
thành công và thất bại trong cuộc sống do sự học mang lại. Giáo viên chủ nhiệm
cần tư vấn trong quan hệ ứng xử xã hội, gia đình, cộng đồng và trong tình bạn, tình
yêu, định hướng nghề nghiệp, việc làm của học sinh, đặc biệt đối với các lớp cuối
cấp.
Giáo viên chủ nhiệm không được gọi các em là học sinh cá biệt, đặc biệt là
trước lớp, trước mặt người khác. Các em chỉ là những “học sinh chưa ngoan”,
những “học sinh có hoàn cảnh đặc biệt”. Nếu gọi các em là “học sinh cá biệt” (cá
biệt tức là khác biệt) vậy vô hình chung chúng ta đã cố tách học sinh đó ra khỏi
lớp, cô lập các em trước lớp. Nhiệm vụ của chúng ta là giáo dục các em học sinh
“chưa ngoan” này trở thành học sinh ngoan. Tôi xin trích dẫn một câu danh ngôn:
“Nếu bạn nhìn ai đó với ánh mắt yêu thương, bạn sẽ không nhìn thấy những nét
xấu xa mà bạn sẽ chỉ nhìn thấy toàn những nét đẹp mà thôi”.
Người giáo viên chủ nhiệm phải là chỗ dựa tinh thần tin cậy.Đa số các em
học sinh cá biệt rất cần một điểm tựa tinh thần tin cậy để có thể được sẻ chia tâm
sự, để được bộc bạch những khó khăn những nỗi niềm riêng tư thầm kín, thầy cô sẽ
trở thành một người bạn lớn của các em.Tìm cách cho các em thể hiện cái “tôi” cá
nhân của mình trước tập thể, không thẳng tay trừng trị các em, đừng làm mất đi
điểm tựa cuối cùng của các em. Nhìn các em bằng sự bao dung của người cha, sự
nhân từ của người mẹ, sự gần gũi, cảm thông của người anh người chị, sự thân
thiết của người bạn.
Nhẹ nhàng phân tích những ưu khuyết điểm những đúng sai trong nhận thức
và hành động của các em, cố gắng giúp các em tự nhận ra sai lầm, lỗi lầm của
mình mà không phải mang mặc cảm nặng nề về lỗi lầm đó của mình, tạo cho các

em thiện chí sửa chữa và không tái phạm. Không la mắng chửi bới các em, đừng
biến lớp học thành “địa ngục” đối với các em, đừng biến giờ sinh hoạt hay giờ ra
chơi thành một giờ “tổng sỉ vả” đối với các em, đừng để học sinh nghĩ cứ gặp thầy
cô là lại bị la mắng.

7


Tìm hiểu, phát hiện và tạo điều kiện cho các em phát huy những sở trường,
những phẩm chất tích cực để thức tỉnh các em. Học sinh cá biệt dù cho có khó giáo
dục đến đâu đi chăng nữa thì bên trong các em vẫn luôn tiềm ẩn những nhân tố,
những phẩm chất tích cực nếu có phương pháp đúng chúng ta vẫn khơi gợi để làm
thức tỉnh các em. Để từ đó phát huy làm điểm tựa cho các em, khôi phục lại niềm
tin để các em thấy rằng mình không hề kém cỏi, không phải là “đồ bỏ đi”, từ đó có
thể vứt bỏ được sự tự ti, mặc cảm mà tự giác, chủ động hội nhập với các bạn. Hãy
tìm ra điểm mạnh của các em để có thể “ khích tướng” vì đa số học sinh sự sĩ diện
là rất lớn.
Thầy cô hãy nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng tích cực, đừng nghiêm trọng
hoá vấn đề hãy tạo cho các em một lối thoát, một cơ hội để sửa chữa, xin đừng
“mổ một con gà bằng một cái búa”.Tin tưởng chờ đợi sự chuyển biến của các em,
không nên nóng vội, vì thầy cô càng nóng vội càng tạo áp lực lên các em, các em
càng bối rối, càng sa vào đối phó. Hãy cố gắng nhìn nhận sự tiến bộ của các em
không quá khắt khe, nên có cái nhìn bao dung, độ lượng, chân tình, vị tha. Trân
trọng từng sự tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất vì đó là cả một sự nỗ lực, cố gắng
rất lớn của các em, mạnh dạn biểu dương các em trước tập thể. Đừng tiết kiệm lời
khen với các em vì một lời động viên khen ngợi còn có giá trị hơn rất nhiều những
bản kiểm điểm.
Giáo viên chủ nhiệm hãy tôn trọng quyền lựa chọn, sự quyết định của học
sinh trong phạm vi cho phép, cùng nhau xây dựng nội quy của lớp, các em sẽ tự
giác thực hiện vì nội quy đó do chính các em đưa ra.Tôn trọng cả sự “cá biệt” của

các em vì mỗi cá nhân là một nhân cách độc đáo cần phải được tôn trọng. Không
được áp đặt thô bạo với các em, không xúc phạm làm tổn thương danh dự của các
em trước tập thể, cố gắng thận trọng khi phát ngôn vì học sinh cá biệt hết sức nhạy
cảm.
Thầy cô hãy cố gắng điềm tĩnh, biết tự kiềm chế vì “học sinh cá biệt” là một
sự “thử thách” rất lớn đối với đức tính điềm tĩnh, tự kiềm chế của mỗi giáo viên,
nếu nóng vội là công sức mà chúng ta cố gắng sẽ đổ xuống sông, xuống biển.
Không nên quá khắt khe xử lí mạnh tay bằng những hình thức kỉ luật nặng nề,
không nên đe doạ, thành kiến với các em. Đừng nhắc đi nhắc lại nhiều lần lỗi vi
phạm của các em sẽ tạo nên sự xấu hổ dần dần dẫn đến sự chai lì.

8


Giáo viên chủ nhiệm phải kiên quyết cứng rắn, lời nói phải đi đôi với việc
làm, đừng hứa suông. Đã nói thì phải kiên quyết thực hiện, biết không thực hiện
được thì không nói.Vận dụng linh hoạt “lạt mềm buộc chặt”, “mềm nắn rắn
buông”. Dù rất gần gũi với các em nhưng luôn phải giữ một khoảng cách nhất định
của thầy trò.
Giáo viên chủ nhiệm phải phối kết hợp với Hội phụ huynh học sinh, giáo
viên bộ môn, tổ chức Đoàn để giáo dục học sinh cá biệt.
Hội phụ huynh học sinh là cầu nối giữa nhà trường, giáo viên chủ nhiệm với gia
đình học sinh. Thực tế, những năm qua Thường trực hội phụ huynh học sinh đã
giúp cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm bằng cách tác động với phụ huynh để
giáo dục học sinh từ chỗ bỏ học, trốn học đến đi học chuyên cần và học tập nghiêm
túc. Mặt khác, thường trực hội phụ huynh học sinh đã tác động đến gia đình các
em để cha mẹ các em quan tâm và có trách nhiệm đối với con cái của họ hơn, từ đó
sẽ hạn chế được học sinh cá biệt.
Giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp tốt phụ huynh nhất là phụ huynh học sinh cá
biệt. Liên hệ chặt chẽ với phụ huynh học sinh thông qua số điện thoại, thông báo

kịp thời tình hình học tập, rèn luyện của con em. Không nên hăm dọa gửi thư mời
đến gia đình mỗi khi các em mắc lỗi. Hãy đến gia đình gặp gỡ trực tiếp phụ huynh
để trao đổi, tìm biện pháp tốt nhất để giáo dục các em. Tránh làm cho các em lo sợ
không dám về nhà, không dám đi học. Điều đó sẽ rất tai hại. Hãy yêu thương các
em, làm cho các em cảm nhận được tình thương của thầy cô dành cho mình. Người
giáo viên chủ nhiệm phải vừa là thầy vừa là bạn tâm tình để các em thổ lộ mọi suy
nhĩ, là chỗ dựa đáng tin cậy mỗi khi các em gặp khó khăn. Thái độ vừa dịu mềm,
vừa nghiêm khắc, dám chấp nhận mọi hành vi cá biệt của học sinh để tìm phương
pháp giáo dục cảm hóa.
Thường xuyên liên hệ, phối hợp với giáo viên bộ môn để nắm tình hình học
tập, rèn luyện của từng học sinh trong lớp để có biện pháp giáo dục kịp thời.
Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với tổ chức Đoàn thanh niên tăng cường tuyên
truyền và giáo dục đoàn viên thanh niên hiểu rõ và nhận thức đúng đắn về tổ chức
Đoàn, làm cho đoàn viên thanh niên thực sự tự hào rằng mình đang được đứng vào
hàng ngũ của Đoàn, cánh tay đắc lực của Đảng để các em cố gắng phấn đấu.
Phối hợp với các Đoàn thể và các lực lượng khác trong xã hội. Hiện nay ở địa
phương nhiều nơi đã xây dựng khu dân cư văn hóa, thôn văn hóa, đó là điều kiện
9


tốt để các Đoàn thể cùng với nhà trường, qua đó giáo dục học sinh. Các đoàn thể,
chính quyền địa phương giúp cho các thành viên xây dựng gia đình văn hóa, hạn
chế tình trạng cha mẹ bỏ mặc con cái đi làm ăn, những mối bất hòa trong gia đình
dần dần chấm dứt, từ đó cha mẹ sẽ có điều kiện chăm sóc giáo dục con cái tốt hơn .
Đối với những học sinh cá biệt hay bỏ học chơi bời có biểu hiện vi phạm thì giáo
viên chủ nhiệm cần thường xuyên liên hệ, phối hợp với công an xã để nắm bắt
những vi phạm của các em. Từ đó kết hợp với chính quyền địa phương, các đoàn
thể, gia đình để gặp gỡ, giáo dục và giúp đỡ.
Biện pháp tổ chức giáo dục học sinh cá biệt :
Xây dựng một tập thể đoàn kết, các thành viên quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau,

thi đua học tập, tạo không khí “ mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Tìm hiểu phân loại học sinh .
Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu, nắm hiểu rõ từng học sinh, đây là nhiệm
vụ đầu tiên tối cần thiết để đưa ra các biện pháp giáo dục phù hợp. Là một công
việc mà giáo viên chủ nhiệm phải bắt tay làm ngay từ đầu và thường xuyên trong
suốt quá trình. Để làm được điều đó giáo viên chủ nhiệm cần phải phối hợp với
nhiều lực lượng để tìm hiểu, phải tham gia nhiều hoạt động của học sinh để nắm
bắt.
Căn cứ vào năng lực học tập,năng lực hoạt động tập thể có thể phân học sinh
cuả lớp thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: Gồm những học sinh có học lực khá, tích cực, nhiệt tình trong các hoạt
động tập thể.
- Nhóm 2: Gồm những học sinh có học lực trung bình, học lực khá nhưng không
thể hiện rõ tính tích cực trong hoạt động tập thể.
- Nhóm 3: Đó là những học sinh có biểu hiện yếu kém về học tập, tư cách đạo đức
( học sinh cá biệt).Các em này cần phải được quan tâm nhiều nhất.
Tìm hiểu nguyên nhân học sinh trở thành học sinh cá biệt.
Sau khi đã phân loại được học sinh, biết em đó thuộc loại “cá biệt” nào người
thầy phải tìm hiểu nguyên nhân nào làm cho học sinh của mình trở thành học sinh
cá biệt như vậy.
Bản chất của con người vốn là rất tốt đẹp như Khổng Tử từng nói: “Nhân chi sơ
tính bản thiện”. Vậy ai, cái gì đã làm cho học sinh của mình trở thành học sinh cá
biệt như vậy? Đây là một công việc không hề đơn giản nó đòi hỏi rất nhiều công
10


phu và hơn hết là cần đến cái “Tâm” rất lớn của người thầy giáo. Người giáo viên
chủ nhiệm phải điều tra tỉ mỉ, nhiều lần, gặp gỡ nhiều người để tìm ra nguyên nhân
sâu xa bên trong. Khi đã tìm ra nguyên nhân rồi người giáo viên sẽ tìm ra biện
pháp hữu hiệu nhất để giáo dục.

Tìm hiểu năng lực học tập, sở thích năng khiếu của mỗi học sinh cá biệt.
Có những em giỏi các môn tự nhiên nhưng lại kém về các môn xã hội. Có những
em rất giỏi các môn xã hội và ngoại ngữ nhưng lại sợ các môn lý hóa. Thầy, Cô
chủ nhiệm phải nắm bắt được từng học sinh mạnh môn nào để khơi dạy phát huy
những sở trường, yếu môn nào, khi nào thì bắt đầu sa sút để có biện pháp thúc đẩy,
phụ đạo kịp thời, không để học sinh có cảm giác bị bỏ rơi, không để học sinh vì
yếu một môn nào đó mà dẫn đến nản lòng rồi bỏ học…
Hầu như mỗi học sinh đều có một năng khiếu nhất định, năng khiếu này có thể
do bẩm sinh, do rèn luyện,vấn đề là người Thầy có thấy được năng khiếu ấy và
phát huy sở trường của các em nhằm lấy nó làm động lực kéo theo cho học sinh cố
gắng hơn ở những mặt còn yếu kém. Có những học sinh thích lao động chân tay,
khéo tay trong các hoạt động tỷ mỷ, có những học sinh thích ca nhạc, múa hát…có
học sinh thích thể dục thể thao…hãy để cho các em có cơ hội thể hiện với bạn và
đóng góp công sức của mình cho tổ, lớp, đấy chính là động cơ thúc đẩy các em học
tập tốt hơn nhằm không làm xấu đi hình ảnh cuả mình với các bạn.
Sắp xếp, bố trí học sinh cá biệt vào các tổ, xây dựng đôi bạn cùng tiến.
Việc sắp xếp các nhóm học sinh được phân đều vào các tổ, mỗi tổ đều có học
sinh khá giỏi, trung bình, yếu kém để tổ chức hoạt động thi đua giữa các tổ. Sắp
xếp vị trí chỗ ngồi trong bàn có bạn học khá kèm bạn học yếu, các học sinh cá biệt
được sắp xếp ngồi cạnh những học sinh ngoan, những học sinh cá biệt trong tổ
phải có những học sinh ngoan ở gần nhà hoặc đi học qua nhà để kèm cặp, giúp đỡ.
Qua việc tìm hiểu học sinh thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của mỗi em,
đặc biệt đối với học sinh cá biệt cần ưu tiên phân công các chức vụ trong lớp như
bàn trưởng, tổ trưởng, tổ phó, lớp phó văn nghệ, lớp phó lao động để khích lệ sự
phấn đấu của các em, các em có cảm giác mình được coi trọng, được thầy cô, bạn
bè tin tưởng sẽ cố gắng phát huy hết sở trường của mình, các em sẽ cố gắng nhiều
hơn để khắc phục những mặt còn yếu kém. Tuy nhiên sự phấn đấu của những học
sinh này sẽ không liên tục cần có sự giám sát, động viên kịp thời của giáo viên chủ
nhiệm.
11



Lựa chọn, huấn luyện đội ngũ cán bộ lớp.
Lựa chọn:
Việc lựa chọn đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm cần định hướng cho tập
thể lựa chọn, biến ý định của mình thành quyết định dân chủ của tập thể, không áp
đặt để học sinh cho các em thấy được sự tôn trọng của giáo viên chủ nhiệm với các
quyết định của các em, khích lệ các em phấn đấu.
Đội ngũ cán bộ lớp gồm: Lớp trưởng, lớp phó học tập, lớp phó văn thể, lớp phó
lao động, bí thư, phó bí thư, ủy viên, cán sự bộ môn, cán sự tài chính (thủ quỹ), bàn
trưởng. Đội ngũ này chiếm 30% trong lớp. Lớp trưởng, lớp phó, bí thư, phó bí thư
được bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín nhiệm kỳ 1 năm. Còn các chức danh khác
thì sẽ luân phiên thay đổi trong từng học kỳ để nâng cao tính trách nhiệm và sự chủ
động của các em.
Huấn luyện:
- Tập hợp đội ngũ cán bộ lớp, cán bộ tổ bồi dưỡng cho các em những hiểu biết về ý
nghĩa, vai trò, nhiệm vụ của cán bộ lớp, cán bộ tổ trong việc xây dựng, phát triển
tập thể lớp, mối quan hệ công tác giữa các cán bộ với nhau.
- Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ lớp, tổ:
+ Lớp trưởng: tổ chức điều hành, theo dõi các hoạt động của lớp dưới sự chỉ đạo,
cố vấn của giáo viên chủ nhiệm, nhận xét, đánh giá kết quả thi đua của lớp hàng
tuần, xếp loại thi đua giữa các tổ.
+Lớp phó học tập: tổ chức các hoạt động tự quản học tập của lớp, phân công cán
sự bộ môn chữa bài tập vào 15 phút đầu giờ.
+ Lớp phó văn thể: điều khiển các hoạt động về văn hóa ,văn nghệ thể thao của
lớp.
+ Lớp phó lao động: phụ trách công tác vệ sinh, lao động của lớp.
+ Cán sự bộ môn: cùng nhau giải quyết các bài tập khó, chữa bài tập cho lớp vào
15 phút đầu giờ.
+Cán sự tài chính: thu giữ quỹ lớp,quản lý chi tiêu.

+Thư ký lớp: ghi biên bản sinh hoạt lớp, xếp loại thi đua giữa các tổ.
+Tổ trưởng: theo dõi, điều khiển các hoạt động của tổ, nắm tình hình về học tập, tu
dưỡng của các thành viên trong tổ, tổ chức bình xét hạnh kiểm từng thành viên của
tổ trong từng tuần, từng tháng, từng học kỳ, báo cáo vào tiết sinh hoạt trước lớp.
+ Tổ phó: theo dõi thi đua của tổ khác.
12


+ Bàn trưởng: Nhắc nhở các bạn cùng bàn giữ gìn trật tự trong giờ học, đôn đốc
làm vệ sinh.
- Giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn nội dung ghi chép sổ công tác cho từng loại cán
bộ.
Tổ chức hoạt động thi đua giữa các tổ, phát huy tinh thần “mình vì mọi
người và mọi người vì mình”.
Trước khi tổ chức hoạt động thi đua trong lớp, giáo viên chủ nhiệm tổ chức họp
cán sự lớp, tổ, bàn bạc thống nhất các chỉ tiêu thi đua đưa vào chấm điểm thi đua
sau đó đưa ra trước lớp để thống nhất thực hiện.
Việc chấm điểm thi đua được quy định như sau:
a. Về nề nếp: mỗi tổ cho vốn 10 điểm.
- Cứ 1 học sinh đi học chậm trừ 1 điểm.
- Cứ 1 học sinh nghỉ học vô lý do hoặc bỏ tiết trừ 3 điểm.
- Một học sinh không đeo phù hiệu, không mặc đồng phục mỗi buổi trừ 1 điểm.
- Tổ làm vệ sinh chậm, không sạch, mỗi buổi trừ 2 điểm.
- Cứ một học sinh bị ghi sổ đầu bài trừ 5 điểm.
b. Về học tập: mỗi tổ cho vốn 10 điểm.
- Cứ 1 học sinh không học bài cũ, điểm kém trừ 1 điểm.
- Cứ mỗi điểm 9,10 được cộng 1 điểm.
- Tổ nào không chữa bài tập 1 buổi trừ 2 điểm.
- Tổ báo cáo không trung thực bị phát hiện trừ 5 điểm.
Cuối tuần đánh giá thi đua từng tổ. Khi đánh giá thi đua theo từng tổ, các em

trong tổ có sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, phát huy tinh thần “mình vì mọi người
và mọi người vì mình” các em cá biệt sẽ được các bạn quan tâm nhiều hơn, thấy
mọi người vì mình, các em cũng sẽ cố gắng phấn đấu tốt hơn.
Lớp được chia thành 4 tổ, tổ nào có điểm thi đua thấp nhất thì làm trực nhật tuần
kế tiếp. Để đánh giá sự thi đua ở các tổ được công bằng, chính xác phải có sự theo
dõi chéo giữa các tổ: tổ 1 theo dõi tổ 2, tổ 2 theo dõi tổ 3, tổ 3 theo dõi tổ 4, tổ 4
theo dõi tổ 1. Việc theo dõi này do tổ phó ghi chép, sổ công tác của tổ phó ghi
giống như tổ trưởng nhưng ghi danh sách của tổ được theo dõi.
Sau khi thống nhất đưa ra tiêu chí chấm điểm thi đua,vào buổi sinh hoạt lớp giáo
viên chủ nhiệm công bố phát động thi đua trước lớp. Giáo viên chủ nhiệm kết hợp
với hội phụ huynh của lớp tổ chức thưởng cho các tổ theo từng tháng, từng kỳ.
13


Tuy nhiên để đạt được kết quả người giáo viên chủ nhiệm phải động viên khuyến
khích, giáo dục ý nghĩa của sự thi đua và đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ nếu
không thì sẽ trở thành sự ganh đua mất đoàn kết trong tập thể.
Hàng tuần vào tiết sinh hoạt, sau khi nhận xét kết quả thi đua của các tổ, đối với
học sinh cá biệt giáo viên chủ nhiệm phải có sự khen chê uốn nắn kịp thời. Khen
học trò là cả một nghệ thuật, nếu biết khen đúng người, đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ
rất hiệu quả. Đôi khi một hành động nhỏ xuất phát từ cái tâm người thầy cũng đủ
làm thay đổi số phận một con người. Đã là con người ai cũng có tâm lý mong
muốn người khác nhìn nhận điểm tốt, điểm tích cực của mình và khi được người
khác thừa nhận khả năng của mình thì sẽ có tâm lý tự tin, dễ sống hòa đồng thân
thiện với tập thể. Còn nếu bị người khác đem điểm yếu của mình ra phê bình nhiều
lần sẽ gây tâm lý chán nản, buông xuôi, riết rồi sẽ tin là mình không có khả năng.
Do đó, giáo viên phải biết điểm mạnh của học sinh yếu và có khen thưởng, động
viên, khích lệ giúp các em tự tin hơn về bản thân, cũng như cho học sinh khác cơ
hội nhìn thấy điểm tốt của bạn để không xa lánh bạn và có cái nhìn thiện cảm về
bạn".

Sau khi phổ biến kế hoạch tuần tới, giáo viên chủ nhiệm cố vấn cho cán bộ lớp
(ban chấp hành Đoàn) tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí như: thi hát giữa các
tổ, tổ chức các trò chơi tập thể tạo không khí vui vẻ, thoái mái, tạo cơ hội cho các
cá nhân thể hiên năng khiếu của mình tạo sự gắn kết của các thành viên trong tổ,
lớp.
Để tăng sự đoàn kết quan tâm lẫn nhau trong tập thể, giáo viên chủ nhiệm cố vấn
cho lớp có những món quà nhỏ của lớp tặng các bạn trong ngày sinh nhật, tổ chức
các ngày lễ như ngày quốc tế phụ nữ 8/3, ngày sinh nhật lớp…
Tùy theo từng thời điểm, kế hoạch hoạt động của tổ chức đoàn, giáo viên chủ
nhiệm cố vấn hướng dẫn cán bộ lớp xây dựng nội dung tổ chức các hoạt động
ngoại khóa như: tìm hiểu về ma túy –HIV/AIDS, tìm hiểu về Đoàn, an toàn giao
thông, tổ chức cho lớp vui chơi cắm trại, tham quan du lịch. Khi tổ chức các hoạt
động này, đối với học sinh cá biệt giáo viên chủ nhiệm phải bám sát, động viên
khích lệ, cho các em cơ hội để thể hiện sở trường của mình. Như vậy tổ chức
những hoạt động ngoại khóa, những buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp chính là tạo
điều kiện, cơ hội cho các em có thể thể hiện tài năng của mình, lấy lại sự tự tin với
các bạn, khẳng định thế mạnh của mình để từ đó các em nhận được sự khuyến
14


khích của những người xung quanh, các em sẽ cố gắng nhiều hơn ở những mặt còn
yếu kém. Việc xây dựng một tập thể đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tạo không khí vui
tươi trong lớp học để các em cảm nhận được mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
Kết hợp chặt chẽ mối quan hệ giữa nhà trường- gia đình và xã hội.
Giáo viên chủ nhiệm là trung tâm ,đầu mối trong thiết lập các mối quan hệ
này. Giáo viên chủ nhiệm liên hệ chặt chẽ, thường xuyên với cha mẹ học sinh qua
gặp gỡ trực tiếp, gọi điện thoại, sổ liên lạc điện tử, các buổi họp phụ huynh để
thông báo kịp thời cho gia đình về tình hình học tập, rèn luyện và những vấn đề
liên quan đến học sinh cần sự phối hợp của gia đình. Đặc biệt đối với học sinh cá
biệt mối quan hệ này phải chặt chẽ, thường xuyên, kịp thời khi xảy ra các vấn đề

đối với học sinh.
Gia đình phải thường xuyên chủ động ,nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện của
con em mình đồng thời cung cấp thông tin về tình hình học tập ở nhà, diễn biến
tâm lý tình cảm của con em mình cho giáo viên chủ nhiệm, gia đình cần tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho con em tham gia các hoạt động cộng đồng, quan tâm, khai
thác thông tin từ các bạn bè của con,của các phụ huynh trong lớp. Để thiết lập ,duy
trì và tăng cường mối liên hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội được tốt thì vai
trò của gia đình là vô cùng quan trọng. các bậc cha mẹ cần chủ động xây dựng mối
liên hệ và thường xuyên duy trì liên lạc, tránh tình trạng khoán trắng việc giáo dục
con em mình cho nhà trường thì việc hỗ trợ học tập và rèn luyện con em mình mới
đạt hiệu quả.
Gia đình, giáo viên chủ nhiệm có thể phối hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh để
hỗ trợ ,giám sát, giáo dục các em.
Để việc giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả, cần có cái tâm, sự nhiệt tình, tất cả
vì con em chúng ta, vì học sinh thân yêu.
2. 3. Kết quả đạt được.
Sau 2 năm áp dụng các biện pháp trên trong giáo dục học sinh cá biệt, Tôi thấy học
sinh cá biệt có sự tiến bộ rõ rệt, số học sinh cá biệt giảm hẳn.
Năm học 2015- 2016 chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở lớp 11E thì số lượng
học sinh cá biệt và tỷ lệ bỏ học như sau:
Đầu năm
Sĩ số : 42
Số học sinh cá biệt:
4
Cuối kỳ 1
Sĩ số : 40
Số học sinh cá Số học sinh cá biệt bỏ học
15



biệt:2
:2
Cuối năm
Sĩ số : 40
Số học sinh cá Bỏ học :0
biệt:2
Năm học 2016- 2017 khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở lớp 12E thì số lượng học
sinh cá biệt và tỷ lệ bỏ học như sau:

Đầu năm

Sĩ số : 40

Số học sinh cá
biệt: 2
Cuối kỳ 1
Sĩ số : 40
Số học sinh cá Số học sinh bỏ học
biệt:1
:0
Cuối năm
Sĩ số : 40
Số học sinh cá Bỏ học :0
biệt:0
Đặc biệt năm học 2017-2018 Tôi lại tiếp tục được phân công làm công tác chủ
nhiệm tại lớp 10Đ, là lớp có đầu vào yếu nhất khối, có nhiều học sinh cá biệt. Tôi
tiếp tục áp dụng sáng kiến trên và kết quả ở lần thực nghiệm này khả quan hơn và
đạt được như sau:

Đầu năm


Sĩ số : 40

Số học sinh cá biệt:
10
Cuối kỳ 1
Sĩ số : 40
Số học sinh cá Số học sinh bỏ
biệt:6 (xếp loại học :0
HK : TB hoặc yếu)
Cuối năm
Sĩ số : 40
Số học sinh cá Bỏ học :0
biệt:2
Qua lần thực nghiệm thứ 2 này kết quả học sinh cá biệt giảm hẳn, không còn học
sinh bỏ học, xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết, biết quan tâm, giúp đỡ lẫn
nhau. Điều này giúp tôi có cơ sở để khẳng định rằng hướng đi của Tôi là hoàn toàn
đúng đắn và có thể áp dụng trong thực tế hiện nay ở trường trung học phổ thông.
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
3.1.Kết luận:
Giáo dục học sinh cá biệt là cả một quá trình đòi hỏi sự kiên trì, sáng tạo của
người giáo viên chủ nhiệm. Mỗi trường hợp học sinh cá biệt người giáo viên chủ
nhiệm sẽ có những cách giải quyết riêng cụ thể. Để cảm hóa, giáo dục học sinh cá
biệt, người giáo viên phải thực sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng toàn vẹn từ
nhận thức đến hành động thực tiễn, từ lời nói cử chỉ điệu bộ đến thái độ ứng xử
16


hằng ngày đây là cách giáo dục dùng nhân cách tác động đến nhân cách. Để trở
thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo, tôi luôn quan niệm: Phải sống cho

trong sạch dù có nghèo về vật chất nhưng luôn giàu có về mặt tâm hồn, tình cảm
và mỗi ngày sẽ là một sự tiến bộ hơn hoàn thiện hơn.
Thực tế cho thấy, những học sinh cá biệt phần lớn đều bị thu phục bởi cái tâm cái
tình của người thầy. Do đó, về giải pháp, trước hết vẫn phải là tình cảm yêu thương
học sinh thực sự, giúp các em vượt qua những biến cố, những vấn đề nảy sinh
trong cuộc sống. Xây dựng được một tập thể đoàn kết các em biết quan tâm, giúp
đỡ lẫn nhau để các em cảm thấy nhớ trường, nhớ lớp, xa rời các tệ nạn xã hội. Khi
học sinh vi phạm, giáo viên phải tìm hiểu lý do qua nhiều kênh như trò chuyện
chân tình với học sinh, tìm hiểu qua bạn bè, hàng xóm, đặc biệt là với cha mẹ học
sinh. Việc tìm hiểu, gần gũi, quan tâm học sinh phải thật sự xuất phát từ tình yêu
thương của người thầy. Khi học sinh biết được tình cảm đó thì việc cảm hóa, giáo
dục các em cũng dễ dàng hơn nhiều.Thuyết phục học sinh bằng lời lẽ có lý, có
tình, bằng tình cảm và phép tắc, khen, chê đúng lúc, tìm cách tác động lên nhận
thức và tình cảm của học sinh thông qua trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc
tốt. Giáo viên chủ nhiệm còn phải biết ứng xử giải quyết đúng các mối quan hệ
giữa các em học sinh với nhau, giữa học sinh với giáo viên, biết phối kết hợp với
giáo viên bộ môn, với tổ chức Đoàn Thanh niên, … với cha mẹ học sinh. Giáo
viên chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để kết nối 3 môi trường giáo dục: nhà trường,
gia đình và xã hội.
Nếu không có cái tâm, không có tấm lòng của một người cha, người mẹ lo
lắng cho học sinh một cách thật lòng, có lẽ người giáo viên chủ nhiệm sẽ không thể
làm tốt nhiệm vụ của mình. Bởi có bao nhiêu việc “có tên” và “không tên” đòi hỏi
người giáo viên chủ nhiệm phải ra tay giải quyết, có biết bao trách nhiệm mà người
giáo viên chủ nhiệm phải gánh trên vai. Dẫu chưa có một danh hiệu nào dành riêng
cho những giáo viên chủ nhiệm giỏi, thì thành công của học trò sẽ là những phần
thưởng quý giá nhất dành tặng những giáo viên chủ nhiệm thân yêu.
3.2. Kiến nghị.
Đối với giáo viên bộ môn: Cần có sự đồng bộ, phối hợp chặt chẽ kịp thời
với giáo viên chủ nhiệm về những biểu hiện của từng học sinh đặc biệt là những
học sinh cá biệt để có các biện pháp giáo dục kịp thời.


17


Đối với phụ huynh học sinh: Cần phải giám sát, động viên, phối kết hợp với
giáo viên chủ nhiệm và bạn bè để nắm bắt tâm lý con em mình có biện pháp uốn
nắn kịp thời.
Đối với tổ chức đoàn: Cần tổ chức các hoạt động tập thể, các buổi giáo dục
kỹ năng sống để các em có kiến thức phòng tránh các tệ nạn xã hội, gắn kết với
nhau để mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân tôi và được áp dụng trong công
tác chủ nhiệm ở lớp 12E năm học 2016-2017 và lớp 10Đ năm học 2017-2018 tại
trường trung học phổ thông Hà Trung nơi tôi công tác. Sau những lần thực nghiệm
trên thực tế và đã đạt được những kết quả khả quan, Tôi mạnh dạn đưa ra kinh
nghiệm này. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng giáo dục nhà trường
cũng như của tất cả các quý thầy cô. Và đặc biệt là các thầy cô đã từng làm công
tác chủ nhiệm lớp để cho đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Thanh hóa, ngày 07 /05/ 2018

ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

PHẠM THỊ HẰNG


18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm - ThS Lý Minh Tiên – TS
Nguyễn Thị Tứ chủ biên - NXB Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh, năm 2012.
2. Giáo trình tâm lý học đại cương- Nguyễn Quang Uẩn chủ biên - Nhà xuất bản:
Đại học sư phạm , năm 2011.

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NHÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN.

Họ và tên tác giả: PHẠM THỊ HẰNG.
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng tổ Sinh- Công nghệ.
TT

1

2
3

4

Tên đề tài SKKN


Sử dụng bài toán trong PPDH
nêu vấn đề phần : Các quy luật
di truyền.
Phương pháp xây dựng tập thể
lớp đoàn kết vững mạnh.
Tích hợp giáo dục môi trường
trong phần sinh học VSV – Lớp
10.
Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy
học kiến thức mới.

Cấp đánh
Kết quả
giá xếp loại
đánh giá
(Nghành GD xếp loại
cấp Tỉnh)
Cấp Tỉnh
C

Năm học
đánh giá
xếp loại
2003-2004

Cấp Tỉnh

C

2006-2007


Cấp Tỉnh

C

2008-2009

Cấp tỉnh

C

2015-2016

……………………………………………………………..

20



×