Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

“Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán các khoản thu chi ngân sách nhà nước tại UBND xã quảng phú huyện thọ xuân tỉnh thanh hóa”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.75 KB, 124 trang )

Báo cáo thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế nước ta đã và đang được đổi mới một cách toàn diện trong sự
chuyển đổi cơ chế quản lý. Trong cơ chế quản lý mới, kế toán HCSN với tư cách là
một bộ phận cấu thành của hệ thống các công cụ quản lý cũng được chú trọng quan
tâm.
Trong quá trình hoạt động, các đơn vị hành chính sự nghiệp dưới sự quản lý của
Đảng và Nhà nước phải có nhiệm vụ chấp hành nghiêm chỉnh luật Ngân sách Nhà
nước, các tiêu chuẩn định mức, các quy định và chế độ kế toán hành chính sự
nghiệp do Nhà nước ban hành. Điều này nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý kinh tế tài chính, tăng cường quản lý kiểm soát chi quỹ Ngân sách Nhà nước, quản lý tài
sản công, nâng cao chất lượng công tác kế toán và hiệu quả quản lý các đơn vị
hành chính sự nghiệp.
Chính vì vậy, công việc của kế toán trong các đơn vị HCSN là tổ chức hệ
thống thông tin bằng số liệu để quản lý và kiểm soát nguồn kinh phí, tình hình sử
dụng quyết toán kinh phí, tình hình quản lý và sử dụng các loại vật tư tài sản công,
tình hình chấp nhận dự toán thu, chi và thực hiện các tiêu chuẩn định mức của Nhà
nước ở đơn vị. Để quản lý một cách có hiệu quả các khoản chi tiêu của đơn vị cũng
như chủ động trong việc chi tiêu, hàng năm kế toán HCSN trong đơn vị phải lập dự
toán cho từng khoản chi và dựa vào dự toán này NSNN cấp phát kinh phí cho đơn
vị. Vì vậy, trong đơn vị HCSN không thể thiếu công tác kế toán HCSN.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của kế toán HCSN trong các đơn vị HCSN
hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước và được sự đồng ý của khoa Quản lý đất
đai trường CĐ Tài nguyên và Môi trường miền Trung cùng với sự giúp đỡ của
Phòng kế toán xã Quảng phú, nên em quyết tâm học hỏi và nghiên cứu để nâng cao
hiểu biết về vị trí vai trò của công tác kế toán HCSN, em quyết định chọn đề tài
“Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán các khoản thu chi ngân
sách nhà nước tại UBND xã Quảng Phú huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa”.
Được thực tập tại Phòng Kế toán xã, được tiếp cận làm quen với từng khâu
của công tác kế toán từ: Lập chứng từ kế toán, ghi sổ kế toán, lưu trữ hồ sơ tài liệu
kế toán. Đã giúp em nhận thức rõ, sâu về tính chất tổng hợp của kế toán HCSN. Và


Sinh viên: Trinh Thi Phương

1


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
có cái nhìn tổng quát về tình hình quản lý ngân sách ở một đơn vị HCSN. Từ đó,
đưa ra một vài nhận xét, kiến nghị về việc hạch toán và tổ chức công tác kế toán tại
đơn vị với mong muốn góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác kế toán tại
đơn vị.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua quá trình thực tập tại đơn vị và khảo sát chung về tình hình thực tế hạch
toán kế toán, tìm hiểu công tác quản lý để thấy được công tác kế toán thu chi ngân
sách xã từ khâu đầu vào và kế toán quá trình sử dụng đến khi quyết toán được thực
hiện như thế nào?
Đi sâu vào tìm hiểu, phân tích đánh giá tình hình công tác kế toán.
Rút ra những ưu nhược điểm, nhận xét và đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện công tác kế toán tại đơn vị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kế toán các khoản thu chi ngân sách nhà nước tại UBND
xã Quảng Phú, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi thời gian:
+ Thời gian thực tập tại UBND xã Quảng Phú từ ngày 21/01 đến ngày
30/06/2015.
+ Nghiên cứu số liệu: Số liệu của tháng 02 năm 2015
- Phạm vi không gian: Đề tài được nghiên cứu tại UBND xã Quảng Phú, huyện
Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi về nội dung:
+ Lý luận về nguồn kinh phí và thu chi ngân sách nhà nước tại UBND xã
Quảng Phú, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

+ Thực trạng về kế toán nguồn kinh phí và thu chi ngân sách nhà nước tại
UBND xã Quảng Phú, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
+ Một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện công tác kế toán
nguồn kinh phí và thu chi ngân sách nhà nước tại UBND xã Quảng Phú, huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu

Sinh viên: Trinh Thi Phương

2


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Để có được thông tin và số liệu về công tác kế toán thu chi ngân sách nhà
nước tại UBND xã Quảng Phú, em đã kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu.
- Phương pháp phỏng vấn về công tác kế toán.
- Tiếp xúc thực tế, quan sát, mô tả.
5. Kết cấu báo cáo
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, báo cáo thực tập gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận về kế toán thu chi ngân sách Nhà nước.
- Chương 2: Thực trạng về công tác kế toán thu chi ngân sách nhà nước tại UBND
xã Quảng Phú, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
- Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện công tác kế
toán thu chi ngân sách nhà nước tại UBND xã Quảng Phú, huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa.

Sinh viên: Trinh Thi Phương

3



Báo cáo thực tập tốt nghiệp

MUC LUC

Sinh viên: Trinh Thi Phương

4


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

NSNN

Ngân sách Nhà nước

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân


BTC
TT
QHVNS

CT
XDCB
ML
HCSN
TSCĐ
KBNN
KT – VH - XH
KH – KT
KT – XH
TK
GTGT
CBCC

Quyết định
Bộ tài chính
Thông tư
Quan hệ với ngân sách
Chủ tịch
Xây dựng cơ bản
Mục lục
Hành chính sự nghiệp
Tài sản cố định
Kho bạc Nhà nước
Kinh tế - Văn hóa – Xã hội
Khoa học – Kỹ thuật
Kinh tế - Xã hội
Tài khoản
Giá trị gia tăng
Cán bộ công chức


Sinh viên: Trinh Thi Phương

5


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN THU CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Tổng quan về ngân sách nhà nước
1.1.1. Lịch sử hình thành ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế mang tính lịch sử, nó phản ánh
những mặt nhất định của các quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực phân phối sản phẩm xã
hội trong điều kiện còn tồn tại quan hệ hàng hóa - tiền tệ và được sử dụng như một
công cụ thực hiện các chức năng của Nhà nước. Điều này có nghĩa là sự ra đời và
tồn tại của NSNN gắn liền với sản xuất hàng hóa, với sự ra đời và tồn tại của Nhà
nước.
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng, khi chế độ tư hữu xuất hiện
thì xã hội bắt đầu phân chia thành giai cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp
trong xã hội. Trong điều kiện lịch sử đó, Nhà nước đã xuất hiện, đó là hình thái
Nhà nước đầu tiên của xã hội loài người - Nhà nước của chế độ nộ lệ. Khi Nhà
nước ra đời thì đồng thời Nhà nước cũng có những nhu cầu chi tiêu về: bộ máy
quản lý, quân đội,…nhằm duy trì quyền lực của Nhà nước. Những khoản này
người dân phải gánh chịu dưới các hình thức thuế, công trái,… và từ đây phạm trù
ngân sách ra đời.
Ở chế độ phong kiến, vai trò quyết định trong thu - chi của Nhà nước thuộc
về nhà vua. Nhà vua có toàn quyền và không chịu bất kỳ một sự kiểm soát nào
trong việc chi tiêu các nguồn tài chính Nhà nước. Hàng năm, những khối lượng tài
chính khổng lồ được được ném vào việc thỏa mãn những nhu cầu cá nhân và gia
đình nhà vua. Bên cạnh đó, tầng lớp quan chức, quý tộc luôn luôn phô trương sự
giàu có của mình bằng những hành động vô cùng sa hoa, lãng phí. Chính sự sa hoa,

lãng phí này là nguyên nhân của tình trạng rối loạn tài chính nhà nước, làm kiệt
quệ đời sống của nhân dân.
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, các nhà tư sản công nghiệp xuất hiện đã lao
vào cuộc đấu tranh chống lại luật lệ tài chính vô lý, đòi hỏi sự hỗ trợ tài chính của
Nhà nước để phát triển sản xuất và yêu cầu sửa đổi hệ thống thuế khóa. Kết quả
của cuộc đấu tranh này đã xóa bỏ được độc quyền chi tiêu tài chính của người
Sinh viên: Trinh Thi Phương

6


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
đứng đầu Nhà nước, hình thành một chế độ tài chính mới và một ngân sách nhà
nước hoàn chỉnh. Đó là một ngân sách được thiết lập và phê chuẩn hàng năm, cơ
chế vận hành cụ thể, rõ ràng theo hệ thống định mức và luật pháp công khai. Một
ngân sách như vậy được xuất hiện đầu tiên ở nước Anh, nơi sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản diễn ra sâu sắc nhất và nhanh chóng nhất.
Nền kinh tế hàng hóa phát triển và hệ thống Nhà nước pháp quyền đã đẩy
ngân sách phát triển tới một trình độ cao hơn, được thiết kế phù hợp với văn minh
dân chủ tư sản hoặc văn minh dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, NSNN được dự
toán, được thảo luận và phê chuẩn bởi những cơ quan pháp quyền, được giới hạn
thời gian sử dụng, được quy định nội dung thu, chi, được kiểm soát bởi hệ thống
thể chế, báo chí và nhân dân.
Nghiệp vụ chủ yếu của NSNN là thu, chi nhưng không đơn thuần là việc
tăng giảm số lượng tiền tệ mà còn phản ánh mức độ quyền lực, ý chí và sở nguyện
của Nhà nước, đồng thời biểu hiện quan hệ kinh tế - tài chính giữa Nhà nước với
các tác nhân khác nhau của nền kinh tế trong quá trình phân bổ các nguồn lực và
phân phối thu nhập mới sáng tạo ra.
1.1.2. Bản chất ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước

Theo từ điển Bách Khoa Toàn Thư của Liên Xô (cũ) (1971) cho rằng: “Ngân
sách là bảng liệt kê các khỏan thu và chi bằng tiền của Nhà nước trong một giai
đoạn nhất định; là mọi kế hoạch thu chi bằng tiền của bất kỳ một xí nghiệp, cơ
quan hoặc cá nhân nào trong một giai đoạn nhất định”.
Từ điển Bách Khoa Toàn Thư về kinh tế của Pháp định nghĩa: “Ngân sách là
văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó, các
nghiệp vụ tài chính (thu, chi) của một tổ chức công (Nhà nước, chính quyền, địa
phương, đơn vị công hoặc tư (doanh nghiệp, hiệp hội …) được dự kiến và cho
phép”.
Từ điển kinh tế thị trường của Trung Quốc định nghĩa: “Ngân sách nhà nước
là kế hoạch thu chi tài chính hàng năm của nhà nước được xét duyệt theo trình tự
pháp định”.
Sinh viên: Trinh Thi Phương

7


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng (1996) của Viện Nghiên cứu Tài chính
cho rằng: “Ngân sách được hiểu là dự toán và thực hiện mọi khoản thu nhập (tiền
thu vào) và chi tiêu (tiền xuất ra) của bất kỳ một cơ quan, xí nghiệp, tổ chức, gia
đình hoặc cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
Riêng về khái niệm NSNN, hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau:
“Thuộc nhóm thứ nhất, thì NSNN là một bản dự toán thu chi trong năm của
Nhà nước. Cách quan niệm đó đúng về hình thức, nhưng đó chỉ là một giai đoạn
của quá trình ngân sách và cũng chưa thể hiện được vị trí của NSNN.
Một số tác giả thuộc nhóm thứ hai cho rằng, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung
của Nhà nước. Cách quan niệm đó đúng ở chỗ, người ta đã thực thể hóa được
NSNN và cũng nêu lên được vị trí của NSNN so với các quỹ tiền tệ khác. Vì thực
tế cũng thường thấy, thu của Nhà nước đưa vào một quỹ tiền tệ và chi của Nhà

nước cũng xuất từ quỹ tiền tệ ấy. Nhưng các quan điểm này chưa phản ánh được vị
trí cân đối vĩ mô của NSNN trong nền kinh tế quốc dân.
Theo quan điểm thuộc nhóm thứ ba thì NSNN là hệ thống các quan hệ kinh
tế giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và phân
phối các nguồn tài chính. Chỗ đúng của quan niệm này là nói lên được NSNN chứa
đựng các quan hệ kinh tế, nhưng nó lại không nói lên được thực thể NSNN là gì?
Quan hệ kinh tế đó có phải là quan hệ tài chính – ngân sách không?
Các quan điểm trên không có sự khác nhau quá lớn, hoàn toàn có thể xích lại
gần nhau. Dựa trên cơ sở phân tích đó và quan sát hiện thực có thể khái niệm
NSNN như sau: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu - chi của Nhà nước
đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Từ các tài liệu vừa nêu trên, có thể rút ra một số điểm đặc trưng của ngân
sách như sau:
- Ngân sách là một bảng liệt kê, trong đó dự kiến và cho phép thực hiện các
khỏan thu, chi bằng tiền của một chủ thể nào đó (Nhà nước, bộ, xí nghiệp, gia
đình, cá nhân).
- Ngân sách tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một
năm.
Sinh viên: Trinh Thi Phương

8


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Hai điểm đặc trưng trên đây là cơ sở để xác định khái niệm về ngân sách nhà
nước. Nói cách khác, về mặt khái niệm, có thể hiểu ngân sách nhà nước là dự toán
(kế hoạch) thu - chi bằng tiền của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định
(thường là một năm).
Theo Luật NSNN đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khóa XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16/12/2002 có hiệu lực thi hành từ
năm ngân sách 2004, cho rằng: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, 5 nhiệm vụ của Nhà
nước”. Khái niệm này có thể coi là cơ bản nhất trong các khái niệm đã nêu trong
đề tài.
Năm ngân sách (còn được gọi là niên độ ngân sách hay năm tài chính hoặc
tài khóa), mà trong đó, dự toán thu, chi tài chính của Nhà nước đã được phê chuẩn
của quốc hội có hiệu lực thi hành. Hiện nay, ở tất cả các nước, năm ngân sách đều
có thời hạn bằng một năm dương lịch, nhưng thời điểm bắt đầu và kết thúc năm
ngân sách ở mỗi nước một khác.
Việc quy định năm ngân sách hoàn toàn là ý định chủ quan của Nhà nước.
Tuy nhiên, ý định này cũng bắt nguồn từ những yếu tố tác động khác nhau, trong
đó có 2 yêu cầu cơ bản là:
- Đặc điểm hoạt động của nền kinh tế có liên quan tới nguồn thu của NSNN.
- Đặc điểm hoạt động của cơ quan lập pháp (các kỳ họp của Quốc hội hoặc
Nghị viện để phê chuẩn NSNN). Ở nước ta, năm ngân sách bắt đầu từ 01/01 và kết
thúc vào 31/12 hàng năm. Điều này phù hợp với các kỳ họp của Quốc hội.
- Kỳ họp thứ nhất vào tháng 6, thường dành để xem xét tình hình chấp hành
NSNN.
- Kỳ họp thứ hai vào tháng 11, tháng 12 để thảo luận và phê chuẩn NSNN
năm tài chính tiếp theo.
1.1.2.2. Bản chất của ngân sách nhà nước
Những khái niệm hoặc định nghĩa trên về NSNN chỉ thể hiện về tính pháp lý
hoặc hình thức hoạt động của NSNN, mà chưa đi sâu vào nội dung khoa học của
NSNN với tư cách nó là phạm trù kinh tế, lịch sử và gắn với bản chất, chức năng
Sinh viên: Trinh Thi Phương

9



Báo cáo thực tập tốt nghiệp
của Nhà nước đương quyền. Dựa trên cơ sở phân tích khoa học về quá trình phát
sinh, tồn tại và phát triển của tài chính và ngân sách, hầu hết các nhà khoa học tài
chính đều thừa nhận tài chính nói chung và ngân sách nói riêng là phạm trù kinh tế
- lịch sử. Là phạm trù kinh tế, nó gắn với sự phát triển kinh tế - hàng hóa; là phạm
trù lịch sử nó gắn với sự ra đời và phát triển của Nhà nước và là công cụ kinh tế
của Nhà nước. Thông qua Nhà nước sử dụng ngân sách để thực hiện các quan hệ
phân phối dưới hình thái giá trị các nguồn lực tài chính, bằng việc huy động một
bộ phận thu nhập của xã hội dưới hình thức thuế và các hình thức động viên khác
để đáp ứng các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Nhà nước. Việc thực hiện các quan hệ
phân phối nói trên, chủ yếu thông qua quyền lực chính trị của Nhà nước, bằng thể
chế hóa của pháp luật, để động viên các nguồn tài chính có tính chất bắt buộc và
hình thành quỹ tiền tệ tập trung, phục vụ cho các chức năng của Nhà nước đương
quyền. Do vậy, nếu nhìn về hình thức hoạt động của NSNN, chắc chắn có nhiều
quan điểm khác nhau về bản chất của NSNN.
Để có cách nhìn nhận đầy đủ hơn về bản chất của NSNN một cách toàn diện
cả về phương diện khoa học và thực tiễn cần phải xem xét trên các góc độ sau:
- Thứ nhất, trên góc độ khoa học - ngân sách là phạm trù kinh tế - lịch sử
(như đã đề cập trên).
- Thứ hai, nhìn từ góc độ kinh tế - xã hội - ngân sách phản ảnh tổng thể các
quan hệ kinh tế - xã hội thông qua quan hệ động viên các nguồn lực tài 7 chính và
phân phối các nguồn lực tài chính đó cho các mục tiêu KT – XH.
- Thứ ba, trên góc độ nội dung vật chất - ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ
tập trung lớn nhất, được sử dụng để thực hiện các chức năng của Nhà nước.
- Thứ tư, nhìn trên góc độ quản lý - ngân sách là kế hoạch tài chính cơ bản
của Nhà nước hay là bảng cân đối thu – chi chủ yếu của Nhà nước.
- Thứ năm, từ góc độ pháp lý - NSNN là đạo luật tài chính cơ bản trong năm
tài chính.
Từ cách tiếp cận đó, có thể rút ra về bản chất sâu sa của NSNN:

Ngân sách nhà nước là hệ thống (tổng thể) các quan hệ kinh tế, gắn liền với
quá trình phân phối các nguồn lực tài chính của xã hội để hình thành quỹ tiền tệ tập

Sinh viên: Trinh Thi Phương

10


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
trung nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ KT - XH của Nhà nước trong
từng thời kỳ nhất định.
Các quan hệ kinh tế thuộc phạm trù ngân sách nói trên bao gồm:
- Thứ nhất, quan hệ giữa NS (Nhà nước) với các tổ chức kinh tế (các doanh
nghiệp) – Thông qua việc phân phối kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh dưới
hình thức động viên thuế, phí để hình thành nguồn lực tài chính của Nhà nước.
Ngược lại, NSNN thực hiện việc đầu tư và tài trợ hoạt động của các doanh nghiệp
như: Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, trợ giá, trợ vốn, bao tiêu để tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp cạnh tranh phát triển. Quan hệ giữa NSNN với các
doanh nghiệp có thể được coi như mối quan hệ trung tâm của hệ thống tài chính, và
đó là quan hệ giữa khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính ngân sách và khâu cơ sở
của hệ thống tài chính (Tài chính doanh nghiệp). Quan hệ giữa NSNN và tài chính
doanh nghiệp là đầu mối trong phân phối các nguồn lực tài chính, quyết định đến
quan hệ giữa tích tụ, tập trung vốn và ảnh hưởng đến cả quy mô và cơ chế vận
hành của hệ thống 8 tài chính. Mặt khác, suy cho cùng, mối quan hệ giữa hai khâu
này có tính chất quyết định đến việc hình thành cơ chế quản lý tài chính và trực
tiếp tác động tích cực đến quá trình kinh tế. Thông qua mối quan hệ đó, Nhà nước
còn thực hiện kiểm tra thường xuyên, toàn diện các hoạt động kinh doanh, môi
trường kinh doanh và tuân thủ pháp luật tài chính. Trên cơ sở đó, Nhà nước thực
hiện điều chỉnh, hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính ngân sách thích ứng với
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.

- Thứ hai, quan hệ giữa ngân sách (Nhà nước) với các cơ quan chức năng
của Nhà nước (các cơ quan quản lý Hành chính sự nghiệp hay các lĩnh vực không
sản xuất vật chất). Các cơ quan này tuy không trực tiếp sản xuất và tạo ra nguồn
lực tài chính trong gián tiếp cũng góp phần phát triển kinh tế thông qua các hoạt
động văn hóa, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội và an ninh - quốc phòng. Quan hệ
ngân sách và các cơ quan chức năng của Nhà nước thông qua việc cấp phát kinh
phí của ngân sách cho các đơn vị dự toán từ trung ương đến địa phương thuộc lĩnh
vực quản lý nhà nước, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội,…. Các hoạt động
này sẽ tạo ra các nguồn lực tài chính tiềm ẩn và tạo ra những tiềm năng cho phát
triển kinh tế và khai thác gián tiếp các nguồn lực tài chính. Điều đó được giải thích
Sinh viên: Trinh Thi Phương

11


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
khi mà tri thức và khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Do vậy, có thể
coi đây cũng là quan hệ kinh tế của NSNN. Trong cơ chế kinh tế thị trường có
quan hệ sau: Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội. Quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước và các tầng lớp dân cư. Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ
thể trên thị trường tài chính.
- Thứ ba, quan hệ giữa ngân sách với các tầng lớp dân cư thông qua nghĩa
vụ nộp thuế, phí đối với các thể nhân; các hình thức tín dụng nhà nước (trái phiếu,
tín phiếu,…) và các nguồn đóng góp tự nguyện của người dân (Nhà nước và nhân
dân cùng làm, xổ số kiết thiết, đóng góp tự nguyện tiền, tài sản). Về phía Nhà nước
quan hệ này được hoàn trả gián tiếp bằng các công trình phúc lợi công cộng về KT
– VH - XH. Ngoài ra, Nhà nước còn thực hiện các khoản trợ cấp xã hội từ ngân
sách như: chính sách thương binh xã hội, học bổng, cứu tế xã hội, trợ cấp cho
những người không nơi nương tựa và các chương trình phúc lợi an sinh như: nước
sạch, vệ sinh môi trường, trường học, bệnh viện, trạm xá và các công tác xã hội

nhân đạo khác. Tất cả những mặt trên suy cho cùng cũng là quan hệ kinh tế, vì mục
đích kinh tế và hướng tới an sinh cho mọi tầng lớp dân cư.
- Thứ tư, quan hệ giữa Nhà nước với các định chế tài chính quốc tế với các
Chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ.
Những quan hệ nói trên thể hiện rõ nội dung KT - XH của NSNN, nhìn trên
góc độ NSNN là phạm trù kinh tế vừa là công cụ kinh tế trọng yếu của Nhà nước.
Ngoài ra trong tư cách là phạm trù kinh tế vừa là công cụ kinh tế của Nhà
nước; do vậy, khi xem xét bản chất của NSNN một cách đầy đủ và sâu sắc hơn,
cũng cần gắn nó với các yếu tố sau:
- Thứ nhất, với các chính sách KT – XH của Nhà nước đương quyền, với
chính sách KT - XH đó thể hiện rõ bản chất của Nhà nước đề ra các chính sách đó
và bản chất của Nhà nước thẩm thấu vào bản chất của NSNN, với ngân sách là
công cụ đắc lực của chính sách Nhà nước đó.
- Thứ hai, với phương thức sản xuất tương ứng cốt lõi là quan hệ sản xuất.
Bởi phương thức sản xuất nào sẽ quyết định việc hình thành thể chế kinh tế, cơ chế
tài chính, cũng như cơ chế quản lý tài chính và ngân sách.

Sinh viên: Trinh Thi Phương

12


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Tóm lại: Những phân tích trên đã hình thành những yếu tố quan trọng để
nhìn nhận một cách toàn diện, khoa học, thực tiễn về bản chất của NSNN, trong tư
cách vừa là phạm trù kinh tế vừa là công cụ kinh tế của Nhà nước. Trên cơ sở đó,
vận dụng nó để xây dựng các chính sách và cơ chế quản lý tài chính, ngân sách
thích ứng, nhằm thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách hiệu
quả và bền vững.
Bản chất của NSNN còn được thể hiện trong hoạt động thực tiễn thông qua

các chức năng của NSNN.
1.1.3. Chức năng của ngân sách nhà nước
1.1.3.1. Chức năng phân phối
Phân phối của NSNN không chỉ dừng ở khâu phân phối thu nhập mà bao gồm
cả phân phối các yếu tố đầu vào, cụ thể là phân bổ các nguồn lực tài chính cho các
đối tượng sử dụng.
- Đối tượng phân phối của NSNN là các nguồn lực tài chính do thu nhập quốc
dân mới sáng tạo thuộc các thành phần kinh tế cùng với các khoản vay, mượn của
Chính phủ, gắn với việc hình thành, sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước trong quá trình thực hiện chức năng phân phối.
- Phạm vi phân phối của NSNN được giới hạn ở các nghiệp vụ có liên quan
đến quyền chủ sở hữu và quyền lực chính trị của Nhà nước, cụ thể như sau:
+ Phân phối nguồn lực tài chính và tài trợ vốn cho các doanh nghiệp, thường
là các doanh nghiệp mà Nhà nước chủ sở hữu toàn bộ hay một bộ phận dưới hình
thức liên doanh liên kết hoặc chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
bằng nguồn vốn tập trung từ NSNN.
+ Phân phối thu nhập cho nhu cầu của các cơ quan và tổ chức kinh tế nằm
trong cơ cấu bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương.
- Đặc trưng cơ bản của phân phối NSNN:
+ Phân phối dưới hình thức giá trị, chủ yếu sử dụng tiền tệ làm đơn vị tính
toán và phương tiện thanh toán.

Sinh viên: Trinh Thi Phương

13


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
+ Phân phối và tái phân phối được thực hiện thông qua hệ thống động viên
các nguồn lực tài chính hình thành qua hệ thống NSNN bảo đảm quan hệ cân đối

trong nền kinh tế kinh tế quốc dân.
+ Tham gia không đầy đủ vào quá trình phân phối các yếu tố đầu vào, chủ yếu
là Nhà nước đầu tư trực tiếp, cấp vốn kinh doanh, trợ cấp đối với nền kinh tế.
+ Thực hiện phân phối kết quả của quá trình sản xuất, cung ứng hàng hóa,
dịch vụ chủ yếu thông qua thuế, phí, lệ phí, thu nhập quyền sở hữu, các khoản chi
NSNN cho cộng đồng.
+ Phân phối NSNN tác động đến cả hai bên cung và bên cầu của nền kinh tế,
gắn liền với sự hình thành và sử dụng quỹ NSNN của Nhà nước.
+ Nhà nước luôn là chủ thể quyết định trong các quan hệ phân phối có liên
quan đến NSNN, Nhà nước sử dụng tối đa quyền lực chính trị thực hiện chức năng
phân phối của NSNN.
+ Về cơ bản, quá trình phân phối lại của NSNN đa phần mang đặc tính không
hoàn trả.
Về mục đích, suy cho cùng, phân phối của NSNN hướng vào việc giải quyết
một cách thỏa đáng mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng xã hội, thực hiện tái sản
xuất mở rộng, xác lập cơ cấu KT - XH hợp lý, làm nền tảng cho quá trình phát
triển phù hợp với các quy luật khách quan.
1.1.3.2. Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc là một thuộc tính khách quan vốn có của NSNN. Giám
đốc ở đây được hiểu là giám sát, đôn đốc, kiểm tra bằng đồng tiền, tiến hành một
cách thường xuyên, liên tục cùng với quá trình vận động của các đối tượng phân
phối NSNN.
Đặc trưng cơ bản của giám đốc NSNN:
+ Giám đốc của NSNN là giám đốc bằng đồng tiền thông qua quá trình vận
động của đồng tiền từ khâu huy động các nguồn lực tài chính đến khâu tái phân
phối các nguồn lực đó cho các đối tượng sử dụng.

Sinh viên: Trinh Thi Phương

14



Báo cáo thực tập tốt nghiệp
+ Giám đốc NSNN được thực hành từ khâu đầu đến khâu cuối cùng của chu
kỳ phân phối của NSNN. Hay nói cách khác, là được thực hiện ở tất cả các giai
đoạn trước, trong và sau khi thực hiện.
* Giám đốc trước khi thực hiện: là giám đốc ở khâu lập kế hoạch nhằm đảm
bảo tính đúng đắn, chính xác và hợp lý hiệu quả của dự toán NSNN, trong kế
hoạch tài chính của các tổ chức kinh tế, của các dự toán tại các cơ quan đơn vị
Hành chính sự nghiệp. Thông qua đó nhằm điều tiết các chỉ tiêu kinh tế, bảo đảm
ngân sách từ khi lập dự toán.
* Giám đốc trong khi thực hiện: là giám đốc quá trình chấp hành thu – chi
NSNN, giám đốc thực hiện kế hoạch tài chính và dự toán kinh phí. Khâu này nhằm
giữ vai trò quan trọng nhất trong quản lý NSNN, bởi vì thông qua kiểm tra thực
hiện NSNN, nhằm bảo đảm NSNN thường xuyên cân đối và thực hiện điều hành
NSNN khi các khoản thu – chi ngân sách không bảo đảm quan hệ cân đối cục bộ
hay toàn cục.
* Giám đốc sau khi thực hiện: là giám đốc tiến hành sau khi kết thúc chu kỳ
vận động của các quỹ và vốn tiền tệ thông qua các báo cáo quyết toán tài chính,
ngân sách, nhằm bảo đảm xác lập cân đối NSNN cho năm kế hoạch. Trong các giai
đoạn giám đốc nêu trên thì giám đốc trong khi thực hiện là khâu quan trọng nhất,
vì khâu này là nhân tố quyết định đến việc biến kế hoạch thành hiện thực.
+ Giám đốc NSNN bao gồm giám đốc tuân thủ và giám đốc hiệu quả.
* Giám đốc tuân thủ: là giám đốc quá trình hình thành và sử dụng quỹ NSNN,
xem xét trong quá trình đó, công việc thu, chi, tài trợ, cấp vốn, … có tuân thủ đúng
chế độ, đúng dự toán được phê chuẩn, có nằm trong khuôn khổ luật pháp cho phép
hay không.
* Giám đốc hiệu quả: là thông qua phân phối thu, chi NSNN mà xem xét
việc phân phối và sử dụng NSNN có mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội không? Có
lãng phí không? …

Về mục đích, giám đốc NSNN là hướng vào việc đảm bảo tính hiệu quả, tiết
kiệm trong việc huy động cũng như sử dụng đồng vốn của NSNN và giữ kỷ luật tài
chính.

Sinh viên: Trinh Thi Phương

15


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Thực hiện tốt chức năng giám đốc NSNN mang lại những ý nghĩa vô cùng
quan trọng, cụ thể:
+ Đảm bảo tính hợp lý trong mối quan hệ giữa tích tụ và tập trung vốn,
cũng như giữa tích lũy và tiêu dùng xã hội.
+ Cho phép khai thác mọi khả năng tiềm tàng sẵn có trong nền kinh tế quốc
dân. + Bảo đảm các quan hệ cân đối trong quá trình phát triển kinh tế, từ đó xác lập
cơ cấu kinh tế hợp lý.
+ Duy trì kỷ cương, pháp luật tài chính, chống tham nhũng và các hiện
tượng gây lãng phí của cãi xã hội.
+ Phát hiện kịp thời những sai sót trong quá trình phân phối, từ đó thực hiện
việc điều chỉnh nó để đảm bảo sự lành mạnh của các quan hệ kinh tế.
Giữa chức năng phân phối và chức năng giám đốc của NSNN có mối quan
hệ hữu cơ với nhau trong quá trình hình thành và vận động của NSNN. Trong đó,
phân phối là chức năng trọng yếu của NSNN, chức năng phân phối vừa là tiền đề,
vừa là cơ sở cho sự hình thành và vận động của chức năng giám đốc, thông qua
phân phối mà thực hiện giám sát, kiểm tra; ngược lại nhờ có kiểm tra, giám sát mà
quá trình phân phối NSNN được thực hiện đúng pháp luật và có hiệu quả. Chức
năng phân phối chỉ mới cho thấy sự vận động của quỹ tiền tệ tập trung cho từng
lĩnh vực phát triển của đất nước, còn về tính đúng đắn, tính hợp lý, phù hợp với
yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan muốn được đảm bảo đòi hỏi phải có

chức năng giám đốc. Chức năng giám đốc có thể đi trước hoặc trong hoặc sau quá
trình thực hiện phân phối, nhưng xét cho cùng giám đốc về NSNN chỉ có thể bắt
nguồn từ quan hệ phân phối.
Ngoài ra, giám đốc còn thông qua các biện pháp hành chính như: Giám đốc
của các cơ quan lập pháp và hành pháp như: Nghị viện, Chính phủ thông qua các
cơ quan Thanh tra, Kiểm toán Nhà nước, Thống kê và dư luận xã hội.
1.1.4. Vai trò của ngân sách nhà nước
1.1.4.1.Vai trò của NSNN trong nền kinh tế quốc dân
 Ngân sách nhà nước – công cụ huy động nguồn tài chính và đảm bảo các nhu cầu
chi tiêu của nhà nước
Sinh viên: Trinh Thi Phương

16


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
 Huy động các nguồn lực tài chính: Ngân sách nhà nước là một công cụ đắc lực của
Nhà nước – NSNN giữ vai trò trọng yếu trong việc động viên và phân phối các
nguồn lực tài chính để bảo đảm việc thực thi các chức năng của Nhà nước đương
quyền, thông qua các chính sách thuế: thuế trực thu, thuế gián thu, phí và các
nguồn thu khác.
Thuế là khoản thu có tính chất bắt buộc được quyết định bởi quyền của Nhà
nước thông qua hệ thống pháp lý, đồng thời thuế là khoản thu không hoàn trả.
Nhưng suy cho cùng với bản chất của Nhà nước, của dân, do dân và vì dân, nó sẽ
được hoàn trả gián tiếp bằng những hình thức khác nhau thông qua các quan hệ
phân phối do Nhà nước thực hiện. Ngoài thuế, phí,…, NSNN còn động viên các
nguồn tài chính khác dưới hình thức nợ công như: phát hành công trái (trái phiếu
hay tín dụng nhà nước), vay nợ nước ngoài (ODA) và tín dụng quốc tế (IMF, WB,
ADB,…).
Để bảo đảm nguồn thu cần thiết cho NSNN, thuế, phí thường được ấn định

từ 22 – 25%/GDP trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa ở Việt Nam và mức
động viên này có thể được gia tăng cùng với quá trình phát triển. Mặt khác, để giữ
vững cân đối thu – chi ngân sách và phát triển nguồn thu bền vững, thì quá trình
huy động các nguồn lực tài chính cho NSNN cũng cần phải tuân thủ các nguyên
tắc cơ bản trong động viên các nguồn lực đó là:
• Trong quá trình huy động các nguồn lực cho NSNN, phải bảo đảm quan hệ cân
đối, hợp lý giữa tích tụ vốn (tích lũy đối với các tổ chức kinh tế) và tập trung vốn
(vào NSNN) để tạo điều kiện bồi dưỡng, tái tạo các nguồn lực tài chính lâu bền.
• Quá trình động viên các nguồn lực vào NSNN cũng là quá trình điều chỉnh các
quan hệ kinh tế theo hướng kích thích hoặc hạn chế các hoạt động kinh doanh tùy
vào lợi ích mà nó mang lại cho quốc kế dân sinh.
• Bảo đảm công bằng XH và hợp lý đối với các loại hình kinh doanh thông qua ý
nghĩa và vai trò của nó đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
• Quá trình huy động vốn vào NS cũng là quá trình bồi dưỡng các nguồn thu và kích
thích tăng trưởng kinh tế, phù hợp với các định hướng phát triển kinh tế - xã hội
của Nhà nước.

Sinh viên: Trinh Thi Phương

17


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
 Bảo đảm nhu cầu chi tiêu của Nhà nước: Chi NSNN nhìn một cách bao quát là chỉ
để bảo đảm việc thực hiện các chức năng KT - XH của Nhà nước đương quyền.
Trong đó, có thể phân thành 3 nội dung chi cơ bản: chi đầu tư phát triển, chi
thường xuyên và chi dự trữ quốc gia.
• Chi đầu tư phát triển: là khoản chi xây dựng nền tảng của nền kinh tế như: kết cấu
hạ tầng, các công trình kinh tế trực tiếp tạo ra sản phẩm xã hội, tài trợ kinh doanh
thuộc kinh tế Nhà nước, trợ giá, liên doanh, liên kết kinh tế (kể cả hợp tác công –

tư). Chi đầu tư phát triển có ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng và phát triển kinh
tế trong từng thời kỳ.
• Chi thường xuyên: Chi về văn hóa, giáo dục, y tế, nghệ thuật, giải trí, an ninh quốc phòng, an sinh xã hội,…. Đây là khoản chi bảo đảm hoạt động của bộ máy
Nhà nước, bảo đảm phúc lợi xã hội và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
phát triển của đất nước. Khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi NSNN,
bởi nội dung và phạm vi và quy mô chi của nó rất lớn.
 Dự trữ quốc gia: Dự trữ quốc gia dùng để chi đảm bảo an ninh kinh tế. Ngoài ra nó
còn là nguồn lực để ứng phó với mọi rủi ro trong kinh tế và đối mặt những tình
huống khẩn cấp trong nước và quốc tế.
Nhìn chung để thường xuyên bảo đảm cân đối thu – chi ngân sách và thực hiện
chính sách tài khóa tích cực, chi NSNN cần tuân thủ các nguyên tắc trong phân
phối vốn NS như sau:
• Tiết kiệm tối đa và hợp lý trong tiêu dùng vốn NSNN.
• Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm đầu trong dùng vốn NSNN chi cho đầu tư
phát triển.
 Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội
 Vai trò điều tiết vĩ mô của NSNN trong nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Kinh tế thị
trường là động lực mạnh mẽ của tăng trưởng và phát triển kinh tế, thúc đẩy tiến bộ
khoa học công nghệ, đẩy nhanh tiến trình xã hội hóa kinh tế trong mỗi quốc gia
đến liên thông quốc tế. Kinh tế thị trường cũng là môi trường phát triển tài năng,
phát triển nguồn nhân lực cao trong cơ chế cạnh tranh kinh tế, đồng thời cũng là
động lực thúc đẩy tiến trình văn minh, hiện đại và thực hiện công bằng xã hội.

Sinh viên: Trinh Thi Phương

18


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Tuy nhiên, bên cạnh các tính ưu việt đó, kinh tế thị trường cũng còn rất
nhiều khiếm khuyết như: nó là môi trường tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt, từ đó có
thể dẫn đến sự phát triển tự phát vô chính phủ, và vì lợi nhuận tối đa mà có thể triệt
hại lẫn nhau, hoặc đầu cơ tích trữ, kìm hãm việc ứng dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ trong thời gian mà các nhà đầu tư còn chiếm giữ những ưu thế trong
kinh doanh và phân hóa sâu sắc sự cách biệt giàu, nghèo, tạo nên phá sản trong
kinh doanh, … .
Những hiện trạng trên, nếu không có sự can thiệp từ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước, thì dễ dẫn tới sự phát triển không lành mạnh, mất cân đối, gây lạm phát, thất
nghiệp, … ảnh hưởng đến chính trị - xã hội.
Để khắc phục những khiếm khuyết trên, vai trò can thiệp của Nhà nước
thông qua điều tiết kinh tế vĩ mô có ý nghĩa rất quan trọng. Ở Việt Nam với công
cuộc đổi mới kinh tế; chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế kinh tế thị trường với thời gian chưa lâu (trên 20 năm) nhưng Chính
phủ đã có nhiều thành công trong điều hành kinh tế vĩ mô bằng các biện pháp kinh
tế.
Điều tiết kinh tế vĩ mô được thực hiện thông qua một hệ thống các công cụ
như: chiến lược, kế hoạch (định hướng và hướng dẫn), pháp luật (điều tiết hành vi)
và các công cụ kinh tế tài chính (thuế, lãi suất tín dụng, chiết khấu,… ). Trong lĩnh
vực tài chính, NSNN giữ vai trò rất quan trọng thông qua chính sách động viên các
nguồn lực tài chính và đầu tư phát triển.
 Điều tiết kinh tế vĩ mô của NSNN thông qua các công cụ động viên tài chính:
Trước hết, cần nhấn mạnh rằng, một số quan niệm cho rằng: điều tiết kinh tế
vĩ mô của NSNN là một nội dung cấu thành “Chức năng của NSNN” . Song, quan
điểm của chúng tôi, điều tiết vĩ mô ở đây là thuộc tính vốn có trong hoạt động của
chức năng phân phối và thông qua quá trình phân phối của NSNN trong hoạt động
thực tiễn, bằng sự tác động của nó thể hiện vai trò của NSNN khi cộng hưởng với
các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước và với các yêu cầu trong hoạt động
thực tế. Do vậy, ở công trình này coi điều tiết vĩ mô là vai trò của NSNN trong ứng
phó với các quan hệ kinh tế - xã hội phát sinh.


Sinh viên: Trinh Thi Phương

19


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Đề cập đến vai trò điều tiết vĩ mô của NSNN; vai trò này được thực hiện
thông qua các công cụ động viên các nguồn tài chính dưới hình thức thuế, phí là
công cụ điều tiết vĩ mô rất nhạy cảm và hiệu quả, bởi thuế, phí luôn gắn chặt với
các hoạt động kinh doanh mà các hoạt động kinh doanh là trụ cột của nền kinh tế.
Vai trò điều tiết vĩ mô của thuế, phí được thông qua các chính sách thuế, mà chủ
yếu là thuế suất, chính sách ưu đãi thuế được xác định trên các loại sản phẩm tùy
thuộc vào mức độ của nó với nhu cầu xã hội và lợi ích của quốc kế dân sinh.
Thông qua các nguyên tắc xây dựng thuế suất và chính sách ưu đãi, miễn
giảm thuế đã tạo ra cho quá trình động viên các nguồn tài chính cũng là quá trình:
• Thu hút các nguồn vốn đầu tư thông qua chính sách thuế suất hợp lý và chính sách
ưu đãi có thời hạn đối với các công trình đầu tư (trong nước và của nước ngoài)
phục vụ phát triển kinh tế theo chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước, như:
Các khu kinh tế trọng điểm, các khu công nghệ cao hoặc các ngành tạo nhiều việc
làm cho người lao động.
• Chính sách ưu đãi về thuế đối với đầu tư (nhập) công nghệ cao nhằm đẩy mạnh
công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
• Bảo đảm công bằng xã hội đối với các tầng lớp dân cư có mức thu nhập khác nhau,
thông qua thuế suất thấp với các hàng hóa thiết yếu, phổ dụng và thuế suất cao đối
với hàng hóa cao cấp, xa xỉ, hoặc không khuyến khích sử dụng rộng rãi (rượu, bia,
mỹ phẩm cao cấp, …).
• Khuyến khích phân bổ và phân công lại lao động lao động xã hội bằng thuế suất ưu
đãi với việc đầu tư khai thác các tiềm lực kinh tế, các vùng kinh tế khó khăn chậm
phát triển hoặc khai hoang phục hóa,….

• Khuyến khích sản xuất sản phẩm mới, công nghệ cao có sự cạnh tranh, thông qua
chính sách miễn giảm thuế có kỳ hạn và chính sách lãi suất ưu đãi.
• Tham gia bình ổn vật giá bằng cách điều chỉnh tăng hoặc giảm giá thích ứng trên
cơ sở bảo đảm nguyên tắc giá cả có thể tách biệt với giá trị trên những mặt hàng cá
biệt, nhưng nhìn tổng thể kinh tế thì giá cả bằng tổng giá trị.
• Can thiệp vào cân đối quan hệ tổng cung – tổng cầu xã hội tùy thuộc vào đặc điểm
và điều kiện kinh tế thông qua điều chỉnh tăng hoặc giảm thuế trên những mặt hàng
cần thiết,….

Sinh viên: Trinh Thi Phương

20


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Tất cả những minh chứng trên là nhằm khuyến khích đầu tư và khai thác các
tiềm năng kinh tế, thực hiện định hướng xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và tái cấu
trúc kinh tế cũng như tạo thêm nguồn thu quốc gia.
 Điều tiết vĩ mô của NSNN thông qua đầu tư phát triển:
Đầu tư công từ vốn NSNN được huy động từ nhiều nguồn khác nhau,
nhưng đều hướng tới mục tiêu: “xây dựng mô hình kinh tế hiện đại với một cơ cấu
kinh tế tiên tiến và hợp lý”.Trong đó, trọng tâm là đầu tư kết cấu hạ tầng công nghệ
cao, phát triển các vùng kinh tế động lực và khai thác các tiềm lực của nền kinh tế
quốc dân. Đó là cơ sở để bảo đảm cho tăng trưởng và phát triển bền vững. Suy cho
cùng đây cũng chính là các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô thông qua hoạt động
của NSNN.
Bên cạnh đó, việc huy động và sử dụng vốn vay của chính phủ (ODA) cũng
là biện pháp gián tiếp điều tiết kinh tế theo các định hướng được xác lập. Mặt khác,
sự đầu tư mạo hiểm từ Nhà nước hoặc huy động vốn dưới hình thức hợp tác công tư đều nằm trong phạm trù điều hành hay điều tiết kinh tế vĩ mô bằng sự can thiệp
vào việc xác lập cơ cấu kinh tế hay điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo quan điểm hiện

đại, chi giáo dục – đào tạo, bảo đảm sức khỏe cộng đồng cũng là chi đầu tư phát
triển, chi cho tương lai, thì vai trò của NS đóng góp không nhỏ trong việc bảo đảm
cân bằng các nguồn lực xã hội cho sự phát triển bền vững.
Tất cả các khoản chi khác của NSNN, dù rất đa diện, nhưng cũng đều hướng
tới điều tiết các mối quan hệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra dự trữ tài
chính của NSNN, cũng là công cụ điều tiết quan trọng thông qua bảo đảm an ninh
tài chính, hậu thuẫn để ứng phó với các động thái kinh tế nhằm vào ổn định kinh tế
- xã hội.
 Kiểm tra, điều chỉnh các quan hệ kinh tế của NSNN
Kiểm tra tính hiệu quả của đầu tư vốn NSNN được thực hiện thông qua thuế
trực thu và thuế gián thu.Thuế trực thu (thuế thu nhập công ty) đánh giá chất lượng
hoạt động kinh doanh và thuế gián thu (thuế GTGT) đánh giá về mặt số lượng hoạt
động của doanh nghiệp. Sự phối hợp của hai hình thức thuế này là cơ sở đánh giá
toàn diện hiệu quả qua các hợp đồng kinh tế, đồng thời cũng là căn cứ để điều
chỉnh các hoạt động kinh doanh, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Mặt khác,
Sinh viên: Trinh Thi Phương

21


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
thông qua kiểm tra hiệu quả vốn đầu tư từ NSNN, cũng là biện pháp để điều chỉnh
cơ cấu đầu tư thích ứng bảo đảm nhịp độ tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách
hợp lý.
Vai trò này còn được thể hiện thông qua việc thực hiện các khâu: lập, chấp hành
và quyết toán NSNN nhằm bảo đảm cân đối các chỉ tiêu kinh tế - xã hội với NSNN
và thực hiện việc điều chỉnh NSNN trong quá trình vận động của nền kinh tế,
nhằm bảo đảm thường xuyên các mối quan hệ cân đối trong nền kinh tế quốc dân.
Tất cả những phân tích trên, được giải thích bởi vai trò của NSNN – chính sách
tài khóa của chính phủ - một đạo luật tài chính cơ bản của quốc gia và sự tác động

hữu cơ của nó giữa các chính sách tài chính với các chính sách kinh tế - xã hội.
 Vai trò của NSNN trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và thị trường:
• Về mặt kinh tế
Để thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc định hướng hình thành cơ cấu
kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Rõ ràng
Nhà nước không thể bỏ qua công cụ ngân sách khi thực hiện vai trò này.
 Ngân sách nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết
cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành then chốt, để
trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
 Việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những biện pháp
căn bản để chống độc quyền và giữ vững cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng
cạnh tranh không hoàn hảo.
 Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước trong những trường hợp
cần thiết đảm bảo cho sự ổn định về cơ cầu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu
mới, cao hơn.
 Thông qua các chính sách thuế, sẽ đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư,
kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
 Các nguồn vay nợ từ nước ngoài và từ trong nước sẽ tạo thêm nguồn vốn cho nền
kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vay nợ của nhà nước cũng là
một vấn đề cần phải xem xét thận trọng khi quyết định thực hiện các biện pháp huy
động tiền vay.
• Về mặt xã hội:

Sinh viên: Trinh Thi Phương

22


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

 Đầu tư của ngân sách nhà nước để thực các chính sách xã hội, chi giáo dục – đào
tạo, y tế, kế hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể thao, truyền thanh, chi bảo đảm xã
hội, sắp xếp lao động và việc làm, trợ giá mặt hàng,…
 Thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân nhằm điều tiết thu
nhập cao để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp.
 Thuế gián thu góp phần hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế của đất nước.
• Về mặt thị trường
Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách
về ổn định giá cả, thị trường, kiềm chế và kiểm soát lạm phát. Bằng các công cụ
thuế, phí, lệ phí, vay và chính sách chi NSNN, nhà nước có thể điều chỉnh được giá
cả, thị trường một cách chủ động.
 Một chính sách ngân sách (chính sách tài khóa) thắt chặt hay nới rộng đều có thể
tác động mạnh mẽ cung – cầu xã hội. Như huy động của NSNN dưới hình thức
thuế, phí, lệ phí,…
 Trên thị trường tài chính, nếu nhà nước vay vốn với lãi suất cao sẽ tác động tăng
cung ứng vốn từ phía các nhà đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng để dành cho tương lai;
đồng thời làm giảm lượng cầu về vốn đầu tư của doanh nghiệp các thành phần kinh
tế.
 Ở đây, cần nhấn mạnh đến dự trữ nhà nước. Trong cơ chế thị trường nhà nước
không thể bắt buộc các doanh nghiệp bán hàng theo giá cả quy định, mà ngược lại,
giá cả là do thị trường quyết định, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và các yếu tố
khác.
 Kiềm chế và kiểm soát lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình điều
chỉnh thị trường.
 Ngân sách nhà nước có cân bằng hay không sẽ tác động sâu sắc đến sự cân bằng
của cán cân thanh toán quốc tế. Bởi vì: Cân bằng của NSNN tác động trực tiếp đến
sự cân bằng của cán cân thương mại; cân bằng của NSNN thực hiện được hay
không, nói lên khả năng trả nợ đến hạn của các khoản vay nước ngoài có thực hiện
được hay không.

1.1.4.2. Vai trò của NSNN trong hệ thống tài chính

Sinh viên: Trinh Thi Phương

23


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Căn cứ tổ chức, bộ máy nhà nước, cơ cấu thành phần kinh tế và đặc điểm hình
thành, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính cùng với phạm vi tác động và
chức năng hoạt động, các chủ thể trong nền kinh tế thị trường, được chia thành 5
khu vực thể chế và từ đó hình thành 5 khâu của hệ thống tài chính, đó là:
- Tài chính nhà nước (NSNN – Tài chính các DNNN).
- Tài chính các tổ chức kinh tế (Tài chính các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, các ngành kinh tế quốc dân, dưới các hình thức: Tài chính doanh
nghiệp, Tài chính các tập đoàn, Tổng công ty hoạt động với mục đích sinh lợi).
- Các định chế tài chính trung gian (kinh doanh tiền tệ): Ngân hàng, tín dụng
phi ngân hàng, các công ty tài chính, cho thuê tài chính, bảo hiểm,…
- Tài chính kinh tế cá thể và hộ gia đình.
- Tài chính các tổ chức xã hội nghề nghiệp không vì mục đích sinh lợi và hỗ trợ
các hoạt động xã hội, từ thiện.
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

Tài chính Nhà
nước

Tài chính các tổ
chức kinh tế

Các định chế

TC trung gian

TC kinh tế cá
thể và hộ GĐ

Tài chính các
tổ chức XH

Sơ đồ 1.1. Hệ thống tài chính
Trong các khâu của hệ thống tài chính, tài chính nhà nước được xem là khâu
quan trọng của hệ thống tài chính gắn liền với quỹ tiền tệ tập trung hoạt động của
nó liên quan đến việc thực hiện các chức năng của Nhà nước về kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng và phúc lợi xã hội.
Tài chính nhà nước bao gồm: ngân sách nhà nước, dự trữ nhà nước, tín dụng
nhà nước, ngân hàng nhà nước, tài chính các cơ quan hành chính nhà nước, tài
chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước, tài chính doanh nghiệp nhà nước, các quỹ
nhà nước, trong đó NSNN là hạt nhân là thành phần chủ yếu. Ngân sách nhà nước
đóng vai trò chủ đạo và tổ chức các hoạt động của hệ thống tài chính. Điều này
được chứng tỏ bằng sự chi phối, tác động và phối hợp hoạt động của nó với các
khâu khác của hệ thống tài chính.
Trong nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước không chỉ đóng vai trò huy
động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho
Sinh viên: Trinh Thi Phương

24


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
an ninh – quốc phòng và các mục đích khác nhằm củng cố quyền lực nhà nước, mà
nó còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Đó là vai trò định

hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống
xã hội,…. Để thực hiện được vai trò này đòi hỏi NSNN phải có các nguồn vốn
được huy động từ các khu vực kinh tế, từ dân cư và từ các nguồn tài chính ngoài
nước. Từ đó, thực hiện các khoản chi về đầu tư kinh tế và ngoài kinh tế. Hoạt động
thu, chi của NSNN làm nảy sinh các mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội,
giữa nhà nước này với các cơ quan chức năng của nhà nước hoặc các tổ chức kinh
tế, tài chính quốc tế. Việc chi tiêu của NSNN cho các mục tiêu kinh tế và ngoài
kinh tế sẽ có tác động làm gia tăng nguồn vốn bằng các con đường trực tiếp hoặc
gián tiếp.
1.1.5. Tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp NSNN
1.1.5.1. Nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN
Tổ chức hệ thống NSNN căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Luật NSNN, luật pháp hiện hành và theo yêu cầu của từng thời kỳ
phát triển của đất nước. Mỗi cấp chính quyền nhà nước theo quy định của Hiến
pháp được phân định rõ ràng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm. Vì vậy, mỗi cấp
chính quyền phải có một ngân sách tương ứng để đảm bảo chủ động hoàn thành
chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì vậy, hiện nay mỗi cấp chính quyền có một ngân
sách trong hệ thống NSNN và có thể phân cấp, phân quyền quản lý theo yêu cầu
phát triển của từng thời điểm lịch sử.
Nguyên tắc tổ chức hệ thống NSNN dựa trên hai nguyên tắc chủ yếu sau:
• Nguyên tắc thống nhất: Thể hiện qua hệ thống NSNN ở nước ta là một hệ thống
thống nhất từ trung ương đến địa phương thống nhất về chủ trương đường lối chính
sách, những quy định của Nhà nước về quản lý, tổ chức điều hành, cũng như về
các chế độ, định chế về tài chính.
Nguyên tắc thống nhất của NSNN yêu cầu mọi nguồn thu và mọi khoản chi
của NSNN đều phải tập trung đầy đủ và trọn vẹn vào NSNN. Tất cả các cơ quan,
đơn vị khi thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao, nếu phát sinh các khoản thu, chi liên
quan đến các hoạt động của mình thì đều phải đặt trong hệ thống NSNN.
Sinh viên: Trinh Thi Phương


25


×