Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN“Tạo hứng thú học văn bản nghị luận cho học sinh lớp 8 qua dạy phần đọc – hiểu”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.15 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TẠO HỨNG THÚ HỌC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
CHO HỌC SINH LỚP 8 QUA DẠY PHẦN ĐỌC - HIỂU


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nhà tâm lí học nghiên cứu và chỉ ra rằng hứng thú có vai trò quan
trọng đối với mọi hoạt động của con người. Trong hoạt động học tập, hứng thú
thôi thúc người học nắm bắt tri thức một cách nhanh hơn, sâu sắc hơn, luôn say
mê tìm tòi nghiên cứu. Nhờ đó mà kết quả học tập ngày càng được nâng cao.
Tạo hứng thú cho học sinh học môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở nói
chung, Ngữ văn lớp 8 nói riêng, đặc biệt các văn bản nghị luận là rất cần thiết.
Bởi vì: văn bản nghị luận là loại văn bản trực tiếp nói lí lẽ, được viết ra nhằm
phát biểu một nhận định, tư tưởng, quan điểm, thái độ trước một vấn đề đặt ra
trong cuộc sống, qua đó xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan
điểm nào đó; những văn bản được học rất phong phú về đề tài và đa dạng về thể
loại: Có văn bản nói về những vấn đề lớn lao của dân tộc, thời đại như tinh thần,
ý chí của cha ông trong công cuộc chống ngoại xâm giữ nước (Hịch tướng sĩ,
Bình Ngô đại cáo); có văn bản phản ánh khát vọng của dân tộc về việc xây dựng
một quốc gia hùng cường độc lập (Chiếu dời đô); lại có những văn bản bàn luận
về các vấn đề hết sức gần gũi trong đời sống hằng ngày (Bàn luận về phép học,
Đi bộ ngao du) và có văn bản nhằm vạch trần bộ mặt kẻ thù, nói lên nỗi khổ
nhục của những người dân bị áp bức (Thuế máu); những văn bản này thuyết
phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lí lẽ.
Dạy học văn bản nghị luận có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện cho
học sinh tư duy lô gíc; kĩ năng lập luận sắc bén, năng lực biểu đạt những quan
niệm, tư tưởng một cách sâu sắc và bản lĩnh, tinh thần tự chủ trước đời sống. Mà


mục tiêu giáo dục xã hội hiện nay cũng đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết đối
với con người hiện đại là sự mạch lạc trong tư duy, năng lực phân tích tổng hợp
khám phá các vấn đề, năng lực thuyết phục trên cơ sở lí lẽ chặt chẽ có căn cứ
xác thực. Học tốt văn bản nghị luận là góp phần thực hiện thành công mục tiêu
trọng tâm này.
Để học sinh nắm vững kiến thức của các văn bản nghị luận trong chương
trình Ngữ văn lớp 8, giáo viên dạy cần phải có phương pháp, cách thức dạy phù
hợp còn học sinh cần phải có hứng thú, có khả năng tư duy trừu tượng tốt. Tuy
nhiên, hiện tại chưa có các tài liệu nghiên cứu bàn sâu vào vấn đề này, học sinh
phần lớn chưa thực sự say mê, yêu thích học, chưa thực sự thấy hứng thú trong
những tiết đọc -hiểu văn bản nghị luận.
Vậy làm thế nào để các em tiếp thu kiến thức môn Ngữ văn lớp 8 nói
chung, văn bản nghị luận nói riêng một cách nhẹ nhàng, hứng khởi, nâng cao
được chất lượng của môn học? Điều đó luôn làm bản thân tôi trăn trở. Vì vậy,
trong quá trình giảng dạy tôi đã nghiên cứu, tìm tòi áp dụng các phương pháp để
2


nâng cao chất lượng của môn dạy . Trong đó tôi chú ý phương pháp “Tạo hứng
thú học văn bản nghị luận cho học sinh lớp 8 qua dạy phần Đọc – hiểu”.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận:
Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009, Điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý
nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm trong quá trình hoạt

động. Hứng thú học tập là thái độ lựa chọn đặc biệt của chủ thể đối với đối
tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết
thực của nó trong quá trình nhận thức và trong đời sống của cá nhân.
Khi học sinh có hứng thú thì trong giờ học biểu hiện ở sự say mê, chăm
chú nghe giảng; ghi chép bài đầy đủ, cẩn thận; tích cực suy nghĩ, hăng hái phát
biểu xây dựng bài, hay nêu thắc mắc với giáo viên; tích cực làm việc cùng nhóm
để hoàn thành nhiệm vụ. Ở ngoài lớp và về nhà, các em tự giác học bài và làm
bài đầy đủ; tự sưu tầm, đọc thêm nhiều tài liệu, sách báo có liên quan đến môn
học...
Văn bản nghị luận là kiểu văn bản được viết ra nhằm xác lập cho người
đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Muốn thế, văn nghị luận phải
có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục. Những tư tưởng, quan
điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra
trong đời sống thì mới có ý nghĩa (Theo SGK Ngữ văn 7- Tập II ) .
Văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn lớp 8, đa số là những tác
phẩm có lịch sử lâu đời, nó không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao
của đất nước, thời đại như công cuộc dựng nước, giữ nước, canh tân đất nước,
mà còn rất gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống con người hiện nay. Vì vậy, văn
bản nghị luận được tuyển chọn dạy trong chương trình Ngữ văn 8 rất phong phú
về đề tài và đa dạng về thể loại như chiếu, hịch, cáo, tấu... Giáo viên dạy những
tác phẩm nghị luận đó như thế nào trong những giờ đọc – hiểu để trả lại vẻ hấp
dẫn thẩm mỹ đích thực của chúng?
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về đọc – hiểu văn bản, song đọc – hiểu
được dùng trong sách giáo khoa Ngữ văn mới bao gồm toàn bộ hoạt động cảm
thụ, phân tích và tiếp nhận văn bản. Đọc – hiểu ở đây không chỉ là đọc và thông
3


hiểu nội dung của văn bản mà còn bao gồm đọc, phát hiện, tưởng tượng, liên
tưởng, cắt nghĩa, lí giải, phân tích, đánh giá, khái quát. Đọc – hiểu nhấn mạnh

đến vai trò chủ động, sáng tạo của người học.
Tất cả những kiến thức lí thuyết trên là cơ sở để tôi thực hiện đề tài sáng
kiến kinh nghiệm này. Bên cạnh đó, tôi cũng khảo sát thực trạng đọc – hiểu văn
bản nghị luận lớp 8 ở đơn vị trường để có giải pháp thực hiện hợp lí, hiệu quả.
2. Thực trạng của vấn đề:
Đơn vị trường tôi đang trực tiếp giảng dạy thuộc xã xa trung tâm, điều
kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng giáo
dục.
Chương trình Ngữ văn lớp 8 được học 6 văn bản nghị luận, trong đó có 4
văn bản trung đại được thể hiện bằng những thể văn cổ: chiếu, hịch, tấu, cáo;
một văn bản hiện đại Việt Nam và một văn bản nước ngoài. Mỗi thể loại có
những cách diễn đạt, ngôn ngữ, tính chất nghị luận mang những sắc thái đặc thù
riêng. Những văn bản nghị luận trung đại có nhiều từ ngữ cổ, nhiều hình ảnh
giàu tính ước lệ, câu văn biền ngẫu sóng đôi nhịp nhàng, dùng nhiều điển tích,
điển cố. Với đối tượng là học sinh lớp 8 đây là kiến thức vừa mới lại vừa khó
nên khó khăn trong việc tổ chức cho học sinh tiếp nhận và cảm thụ một cách sâu
sắc giá trị nội dung và nghệ thuật của các văn bản đó.
Về phía giáo viên, trong thực tế giảng dạy, qua thăm dò ý kiến, dự giờ của
đồng nghiệp cho thấy giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận đôi khi được tiến hành
như một giờ lí thuyết Tập làm văn về văn nghị luận. Điều này khiến cho việc
đọc – hiểu văn bản nghị luận vốn đã nặng nề, kém hứng thú lại càng nặng nề,
khô khan hơn đối với học sinh.
Hình thức hoạt động nhóm đang được giáo viên từng bước áp dụng, tuy
nhiên việc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm đôi khi còn máy móc, tuỳ tiện,
lệch lạc, nhiều giờ học ồn ào, lộn xôn; nội dung thảo luận nhóm không phù hợp
với khả năng của học sinh; giờ văn rời rạc, vỡ vụn cảm xúc.
Đối với học sinh, tình trạng các em chưa chăm chú nghe thầy cô giảng
dạy, chưa tích cực suy nghĩ, phát biểu xây dựng bài, có làm bài tập nhưng còn sơ
sài đối phó, còn ngại đọc sách, đọc tài liệu, không say mê với việc tìm hiểu
những vấn đề thuộc lĩnh vực trừu tượng, khó hiểu của văn bản nghị luận còn

nhiều. Phong trào học tập, thời gian cũng như sự quan tâm của phụ huynh còn
hạn chế. Học sinh chưa có điều kiện giao lưu học hỏi kiến thức của các bạn
trong địa phương cũng như các xã bạn nên ảnh hưởng không nhỏ đến sự cập
nhật, mở rộng, nâng cao tầm nhận thức, hiểu biết, đặc biệt là khả năng tư duy ở
các em.
Ở lớp 7, các em đã được học 4 văn bản nghị luận hiện đại, còn lại chủ yếu
4


là học các văn bản tự sự, trữ tình. Tuy đã được học nhưng do thực trạng dạy và
học của học sinh như đã nói ở trên nên thói quen của các em vẫn chỉ là tư duy
hình ảnh theo phản ánh một chiều đối với hiện thực khách quan. Vì vậy mà tư
duy lập luận lôgic của các em chưa được định hình, trong khi đó văn bản nghị
luận đòi hỏi yêu cầu cao hơn về tính khoa học, tính lôgic, tính biện chứng. Đây
là khó khăn lớn nhất từ phía học sinh khi học văn bản này. Bởi vậy, sự tiếp nhận
kiến thức mới về văn bản nghị luận đối với các em là rất khó, ảnh hưởng rất
nhiều đến sự lắng đọng kiến thức mà giáo viên muốn truyền thụ đến các em, đặc
biệt là ảnh hưởng đến tâm lí ngại và sợ học văn bản nghị luận.
Từ thực trạng trên, tôi đã tiến hành phát phiếu thăm dò ý kiến học sinh về
quan điểm, hứng thú đối với việc học các văn bản nghị luận ở lớp 8A, 8C của
trường năm học 2011 – 2012. Phiếu trắc nghiệm đối với số học sinh là: 65 em.
Nội dung thăm dò:
Trong sáu kiểu văn bản các em đã được học: miêu tả, tự sự, biểu cảm,
nghị luận, thuyết minh, hành chính – công vụ. Em thích, không thích học những
kiểu văn bản nào? Đánh dấu (x) vào các cột tương ứng trong bảng sau:
Kiểu văn bản

Thích học

Có giờ thích học, có

giờ không thích học

Không
thích học

Miêu tả
Tự sự
Biểu cảm
Nghị luận
Thuyết minh
Hành chính – công vụ
Qua hình thức phát, thu phiếu; tổng hợp, kết quả thăm dò cụ thể như sau:

Tổng
số HS

65

Thích học
Kiểu văn bản

Miêu tả
Tự sự
Biểu cảm
Nghị luận
Thuyết minh
Hành chính – công vụ

SL
47

55
50
3
39
20

%
72,3
84,6
76,9
5,0
60,0
30,8

Mức độ hứng thú
Có giờ thích
học, có giờ
không thích học
SL
%
17
26,2
9
13,9
14
21,6
35
54,0
25
38,5

38
58,5

Không
thích học
SL
1
1
1
27
1
7

%
1,5
1,5
1,5
41,0
1,5
10,7
5


Nhìn vào bảng kết quả trên, so với các kiểu văn bản khác, văn bản nghị
luận có tỉ lệ học sinh thích học thấp nhất, không thích học chiếm tỉ lệ cao.
Từ mức độ hứng thú học tập của học sinh đối với kiểu văn bản nghị luận,
tôi tiến hành khảo sát chất lượng học tập của các em. Đề khảo sát tôi đưa ra như
sau:
Em nắm được những nội dung và đặc điểm nghệ thuật gì của các văn
bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn lớp 8?

Cụ thể kết quả:
Mức độ hiểu biết
Chưa nắm
Lớp Sĩ số
Nắm vững
Nắm khá
Không hiểu
vững
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8A
33
2
6,0
4
12,1
12
36,4
15
45,5
8C
32
2
6,2

3
9,4
16
50,0
11
34,4
Như vây, mức độ hứng thú có liên quan trực tiếp đến chất lượng học tập
của học sinh.
Từ kết quả thực tế trên, trong quá trình dạy học bản thân tôi đã nghiên
cứu, tìm tòi, áp dụng các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học kiểu văn bản
nghị luận. Các giải pháp đã được tôi áp dụng ở các năm học 2012 – 2013, 2013 2014. Kết qủa rất khả quan, nhất là ở năm học 2013 - 2014.
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện:
Để tạo nên sự hứng thú cho học sinh học văn bản nghị luận, ngoài những
giải pháp cơ bản, đặc thù của môn dạy, bản thân tôi đã nghiên cứu, áp dụng một
số giải pháp sau:
- Tái hiện không khí lịch sử, thời đại, tình huống tạo nên tác phẩm .
- Hướng dẫn học sinh đọc tốt văn bản nghị luận.
- Giảng bình trong giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận.
- Liên hệ với thực tế.
- Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm khi dạy đọc – hiểu văn bản
- Kiểm tra, đánh giá trong dạy học đọc – hiểu văn bản nghị luận.
Với mỗi giải pháp đã nêu, tôi đã xác định rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của
mỗi giải pháp, từ đó, căn cứ vào mục tiêu của bài học để đưa ra các biện pháp tổ
chức dạy học cho phù hợp với đối tượng học sinh của từng lớp, từng văn bản.
3.1. Tái hiện không khí lịch sử, thời đại, tình huống tạo nên tác phẩm .
Mỗi văn bản nghị luận thường được ra đời trong những tình huống, hoàn
cảnh khá đặc biệt. Những chi tiết xúc động về tác giả, những câu chuyện lịch sử
thú vị liên quan đến tác phẩm và sự ra đời của tác phẩm thường rất dễ gây được
sự tò mò, hứng thú của học sinh. Vì vậy, để tạo tâm thế cho học sinh sẵn sàng đi
6



vào tác phẩm cần tái hiện sinh động không khí lịch sử, thời đại, tình huống đã
sản sinh ra tác phẩm. Các hình thức tái hiện này, tôi sử dụng vào quá trình kiểm
tra bài cũ, giới thiệu bài mới. Với mỗi văn bản cụ thể, tôi có cách thức thực hiện
khác nhau.
Ví dụ: Dạy văn bản Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn.
Trước khi vào bài học mới tôi giới thiệu câu chuyện lịch sử liên quan đến
sự ra đời của tác phẩm:
Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân
Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Vua Nhân Tông thấy thế giặc mạnh,
cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng:
"Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà
cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân ?"
Hưng Đạo Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn
miếu Xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi
đã, rồi sau hãy hàng!”. Vua Trần Nhân Tông nghe thế yên lòng. Hưng Đạo
Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ
tướng hịch văn (gọi là Hịch tướng sĩ) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh
sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách
Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ
2.
Ví dụ: Dạy văn bản Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo) của Nguyễn Trãi
Với văn bản này, tôi đưa ra câu hỏi kiểm tra bài cũ để dẫn dắt học sinh
tiếp nhận kiến thức văn bản mới bằng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề:
Trong lịch sử văn học dân tộc, những tác phẩm nào được coi là Tuyên
ngôn độc lập của nước Việt Nam? Em đã được học những tác phẩm đó chưa?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét, chuẩn kiến thức và định
hướng vấn đề: Những tác phẩm được coi là Tuyên ngôn độc lập của nước Việt

Nam: “Nam quốc sơn hà” (Ngữ văn lớp 7), “Bình Ngô đại cáo”, “Bản tuyên
ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết, đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngày
2 tháng 9 năm 1945 (học trong môn lịch sử).
Cuối năm 1427, Vương Thông, tên tổng chỉ huy quân đội nhà Minh ở
Việt Nam đã phải mở cửa thành Ðông Quan đầu hàng. Cuộc kháng chiến 10
năm đã kết thúc vẻ vang. Thay mặt vua Lê, Nguyễn Trãi viết bài cáo (Bình Ngô
đại cáo) nhằm tổng kết quá trình kháng chiến và tuyên cáo thành lập triều đại
mới. Văn bản Nước Đại Việt ta là phần đầu của bài cáo.
Tôi thực hiện cách thức như trên sẽ thu hút mạnh mẽ trí tò mò, sự thích
thú, độ tập trung chú ý của học sinh; xoá bớt khoảng cách quá xa về không gian,
7


thời gian; tạo sự quan tâm, chia sẻ giữa học sinh với tác giả và những vấn đề
được đặt ra trong tác phẩm và mọi sự phân tích, giảng giải của giáo viên về sau
là không áp đặt, hình thức.

3.2. Hướng dẫn học sinh đọc tốt văn bản nghị luận
Đọc là con đường đầu tiên và quan trọng nhất để đến với một tác phẩm
văn học. Đọc văn bản nghị luận không giống với đọc văn bản tự sự, trữ tình. Tác
phẩm văn chương hình tượng thường có tính mơ hồ, đa nghĩa, tính mở. Thông
tin trong văn bản văn chương hình tượng chủ yếu là thông tin hình tượng, hình
ảnh, cảm xúc. Ngôn ngữ tác phẩm văn chương hình tượng có tính hàm ngôn, đa
nghĩa và luôn chuyển nghĩa trong văn cảnh. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm; quan
điểm, thái độ, tình cảm của tác giả càng được bộc lộ kín đáo bao nhiêu thì tác
phẩm càng trở nên ý nhị, sâu sắc bấy nhiêu.
Ngược lại, đặc điểm cơ bản của văn nghị luận ở lớp 8 là: các tư tưởng,
quan điểm, thái độ của người viết được xác lập, thể hiện một cách rõ ràng, trực
tiếp qua ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu. Thông tin trong văn bản nghị luận chủ
yếu là thông tin, lí lẽ. Ngôn ngữ trong văn bản nghị luận có tính khách quan,

chính xác, tính đơn nghĩa tương đối. Vì vậy mà mục đích chính, yêu cầu cơ bản,
hình thức biện pháp chủ yểu, yêu cầu về giọng đọc, yêu cầu và thái độ, tình cảm
của việc đọc văn bản nghị luận là khác so với đọc các văn bản văn chương hình
tượng. Có thể thấy rõ qua bảng so sánh sau:
Loại văn bản Văn bản văn chương hình
Văn bản nghị luận
tượng
Nội dung
Mục đích chính
Thu nhận thông tin, hình ảnh, Thu nhận thông tin, lí lẽ, tư
của việc đọc
cảm xúc, tư tưởng.
tưởng, quan điểm
Yêu cầu cơ bản
Đọc đúng, đọc hay, có khả Đọc đúng, dõng dạc, có khả
năng truyền cảm đến người năng thuyết phục người
nghe.
nghe.
Hình thức, biện
Đọc diễn cảm, đọc phân vai, Đọc thành tiếng, đọc thầm
pháp chủ yếu
đọc kết hợp với bình giảng từ gắn với việc phát hiện luận
ngữ, hình ảnh, biểu tượng, ... điểm, luận cứ, luận chứng.
Yêu cầu về giọng Phát huy tối đa ưu thế về chất Giọng đọc dõng dạc, mạch
đọc
giọng, sức vang ngân của lạc, làm sáng rõ thông tin,
ngôn từ; thay đổi linh hoạt lí lẽ, quan điểm của tác giả.
ngữ điệu đọc theo sự biến đổi
giọng điệu của tác giả.
Yêu cầu về thái

Bộc lộ tình cảm, cảm xúc chủ Giữ thái độ khách quan, sắc
độ, tình cảm khi quan trong khi đọc; có khả thái trung hòa; khi đọc để
đọc
năng truyền cảm đến người có thể chuyển tải đúng nội
8


nghe.
dung thông tin của văn bản.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm, thể loại của từng văn bản nghị luận mà tôi xác
định, lựa chọn hình thức đọc, biện pháp đọc phù hợp. Việc hướng dẫn đọc tốt
văn bản và giáo viên đọc mẫu thật tốt là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đặc
biệt đối với sự tiếp nhận của học sinh.
Ví dụ:
* Dạy văn bản Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu), tôi hướng dẫn học sinh đọc:
Giọng dõng dạc, khoan thai, hùng hồn; Làm rõ những câu văn biền ngẫu, đối
xứng nhau (ví dụ: “Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông
tựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng”... làm cho lời văn cân
xứng, nhịp nhàng.
* Dạy văn bản Thuế máu (trích Bản án chế độ thực dân Pháp), tôi hướng dẫn
học sinh đọc: Thể hiện giọng mỉa mai, châm biếm, đả kích khi vạch trần thủ
đoạn của thực dân; Thể hiện giọng xót xa, thương cảm khi phơi bày nỗi thống
khổ của người dân nô lệ.
Khi có học sinh đọc không đúng yêu cầu, tôi cho nhận xét, sau đó tôi chỉ
rõ đúng sai, hướng dẫn để học sinh nắm vững cách đọc để đọc tốt văn bản.
Như vậy, đọc tốt vừa gợi được không khí, vừa tạo được sự truyền cảm,
gây hứng thú cho học sinh, xoá đi trong các em cảm tưởng văn cổ khó hiểu, ít
hấp dẫn.

3.3. Giảng bình trong giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận.

Giảng bình là một phương pháp giảng văn truyền thống lâu đời trong nhà
trường Việt Nam. Giảng bình là phương pháp đặc thù của cảm thụ và giảng dạy
văn học. Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả một giờ
giảng văn là khả năng truyền cảm, là cảm xúc, sự rung động thẩm mĩ ở học sinh
được gợi lên từ bài học, giờ học. Phương pháp giảng bình đóng vai trò quyết
định trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Trong giảng văn truyền thống, giảng
bình là một bí quyết. Cho đến nay, bí quyết ấy vẫn còn nguyên giá trị. Cái hay
của một giờ giảng văn không chỉ phụ thuộc vào bài văn mà còn phụ thuộc vào
lời giảng, bài giảng, giọng giảng, nghệ thuật giảng. Giảng bình vừa có tác dụng
khơi gợi cảm xúc, sự rung động mạnh mẽ trong tâm hồn, tình cảm của học sinh,
vừa có tác dụng khắc sâu ấn tượng, hình ảnh; lắng đọng cảm xúc, khắc sâu kiến
thức. Giảng bình hay là làm cho học sinh yêu văn, thích văn, đồng thời là cơ sở
cho sự cảm thụ sáng tạo ở học sinh phát triển.
Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp giảng bình tôi luôn ý thức về mức
độ: gợi dẫn, tạo đường viền, định hướng hoặc tổng kết, khắc sâu và mở rộng
kiến thức chứ không lạm dụng. Bởi lẽ, lạm dụng phương pháp này sẽ rơi vào

9


dạy học văn truyền thụ – tiếp nhận thụ động. Việc lựa chọn phương pháp bình
phải căn cứ vào đặc điểm; tùy vào giá trị nội dung, nghệ thuật, đặc trưng thể loại
của từng văn bản mà sử dụng lời bình cho phù hợp.
Ví dụ: Dạy văn bản Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn.
Khi kết thúc phần tìm hiểu chung văn bản, để khắc sâu về tác giả Lí Công
Uẩn tôi có lời bình như sau: “Hơn một 1.000 năm đã trôi qua, kể từ ngày Lí
Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La “Mưu toan việc lớn,
tính kế muôn đời cho con cháu”. Quyết định táo bạo, sáng suốt đó của ông
không chỉ đặt nền móng vững chắc cho sự tồn tại và phát triển rực rỡ của tám
vương triều nhà Lý kéo dài suốt 214 năm trong lịch sử nhà nước phong kiến Việt

Nam. Quyết định ấy của ông còn là một cống hiến vĩ đại cho dân tộc, đất nước
và có giá trị tới hàng nghìn năm sau. Bởi từ Năm Canh Tuất 1010 đến nay,
Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
của cả nước, luôn vững vàng trước những thử thách của lịch sử. Phải là người
có tầm nhìn xa trông rộng, một tầm nhìn thấu cả tương lai mới có thể có được
quyết định đúng đắn đến như vậy!”
Ví dụ: Dạy văn bản Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi.
Sau khi hướng dẫn học sinh nắm được những yếu tố mà Nguyễn Trãi đưa
ra để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc và so sánh với “Sông núi nước
Nam” của Lí Thường Kiệt vì có sự kế thừa và phát triển, tôi có lời bình như sau
để khắc sâu kiến thức, thấy được quan niệm của Nguyễn Trãi là đúng đắn, toàn
diện, sâu sắc và mới mẻ: Ngoài chủ quyền và lãnh thổ, để khẳng định nền độc
lập của một dân tộc, Bình Ngô Đại Cáo còn bổ sung thêm ba phương diện quan
trọng: Văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Với những yếu tố căn bản này,
Nguyễn Trãi đã phát biểu một cách khá hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia, dân
tộc. So với thời Lí, nhận thức về vấn đề dân tộc đã phát triển cao hơn nhiều bởi
tính toàn diện và sâu sắc của nó. Văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử là linh
hồn của một quốc gia. Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, sâu sắc và rất mới so
với đương thời.
Như vậy, phương pháp giảng bình mà tôi vận dụng đã khuyến khích, gây
dựng được niềm đam mê, sự hứng khởi cho học sinh khi tiếp nhận kiến thức của
văn bản.

3.4. Liên hệ với thực tế.
Để xóa bỏ khoảng cách quá xa giữa văn học nhà trường và đời sống xã
hội, gắn tác phẩm với đời sống của cá nhân học sinh là một quan điểm lớn của
chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn. Cùng với các văn bản nhật dụng, các văn
bản nghị luận được chọn đọc – hiểu góp phần quan trọng vào việc hiện thực hoá
quan điểm trên. Kể cả các văn bản nghị luận trung đại đã cách xa chúng ta nhiều
10



thế kỉ, song những vấn đề mà tác phẩm đặt ra vẫn có ý nghĩa thời sự đối với thời
đại chúng ta.
Để giờ học thực sự sinh động và có ý nghĩa giáo dục, giáo viên cần hướng
mối quan tâm của học sinh vào những vấn đề có ý nghĩa thiết thực với đời sống
hôm nay, tổ chức cho học sinh trao đổi, tranh luận về những vấn đề phức tạp.
Ví dụ:
- Từ lối học xưa, em có liên tưởng, suy nghĩ gì về mục đích và phương pháp học
của chúng ta ngày nay? (Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp)
- Từ việc đọc – hiểu văn bản, em hãy bày tỏ suy nghĩ của bản thân về việc bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta hiện nay? (Nước Đại Việt ta của Nguyễn
Trãi).
Liên hệ như vậy vừa giúp học sinh hiểu tác phẩm hơn, vừa gắn với thực
tế, vừa tạo điều kiện cho học sinh bộc lộ quan điểm, tư tưởng, chính kiến riêng,
qua đó góp phần hình thành kĩ năng sống, bản lĩnh đối mặt với những vấn đề
đang đặt ra trong cuộc sống.
3.5. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm khi dạy đọc – hiểu văn bản
Hoạt động nhóm hay học hợp tác là biện pháp tích cực hóa hoạt động
nhận thức của học sinh, một hình thức dạy học phổ biến ở các môn học. Trong
dạy học Ngữ văn nói chung, văn bản nghị luận lớp 8 nói riêng hoạt động nhóm
là hình thức tổ chức cho học sinh đọc, cảm thụ tác phẩm theo từng nhóm, cùng
nhau trao đổi, thảo luận về một yếu tố, hình tượng, chi tiết phức tạp trong tác
phẩm; cùng nhau giải quyết một câu hỏi, một tình huống có vấn đề đặt ra từ văn
bản, qua đó giúp các em tự khám phá, chiếm lĩnh các giá trị văn học, phát triển
các kĩ năng học văn một cách sáng tạo dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo
viên.
Căn cứ vào mục tiêu, bản chất, quy trình thực hiện của phương pháp hoạt
động nhóm, tôi đã áp dụng vào trong dạy đọc – hiểu văn bản nghị luận lớp 8.
Hoạt động nhóm được tôi tổ chức dưới nhiều hình thức: Giải thích, cắt nghĩa,

phân tích theo nhóm; luyện tập theo nhóm; ngoại khoá theo nhóm …
Tổ chức cho học sinh học theo nhóm có ý nghĩa nhiều mặt, học sinh sẽ
thấy có thể có nhiều câu trả lời, nhiều giải pháp, nhiều ý kiến, nhiều quan điểm
khác nhau cho cùng một vấn đề. Từ đó sẽ khuyến khích phát triển tư duy độc
lập, sáng tạo của học sinh. Ngoài ra, hoạt động nhóm dựa trên nguyên tắc dân
chủ và tương hỗ nên tất cả học sinh từ giỏi, khá, trung bình, yếu và kém đều có
thể tham gia.
Cách thức, biện pháp chủ yếu để tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm là
thông qua một hệ thống câu hỏi, bài tập, tình huống có vấn đề. Có rất nhiều dạng
câu hỏi, bài tập cho học sinh hoạt động nhóm tuỳ thuộc vào mục tiêu bài học,
11


đặc trưng thể loại, giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản, phân phối thời gian
của giờ học, năng lực của học sinh, … Số lượng học sinh trong nhóm tuỳ thuộc
vào mức độ yêu cầu của câu hỏi, bài tập, có nhóm từ 3 – 4 học sinh trở lên, có
nhóm đôi (từng cặp). Nhưng nhóm đôi sử dụng thường xuyên hơn, vừa tạo được
môi trường học tích cực, vừa gìn giữ được mạch cảm xúc của một giờ văn.
Ví dụ: Dạy văn bản Chiếu dời đô tôi đưa ra câu hỏi yêu cầu học sinh thảo luận:
* Thảo luận theo nhóm lớn: Lẽ ra, kết thúc bài chiếu phải là một mệnh lệnh, vì
chiếu là để ban bố mệnh lệnh. Nhưng kết thúc Chiếu dời đô lại là một câu hỏi.
Cách kết thúc như vậy có làm hỏng giá trị và chức năng của bài chiếu không? Vì
sao?
* Thảo luận theo nhóm đôi (từng cặp): Vì sao nói Chiếu dời đô ra đời đã phản
ánh ý chí độc lập, tự cường và sự phát triển lớn mạnh của dân tộc Đại Việt?
Ngoài hình thức thảo luận nhóm trên lớp, tôi còn tổ chức cho học sinh
ngoại khóa theo nhóm về vấn đề đặt ra trong tác phẩm để hình thành năng lực tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh
Ví dụ: Sau khi dạy xong văn bản Đi bộ ngao du, tôi tổ chức cho các em đi bộ
ngao du theo nhóm (nhóm học sinh ở theo làng) và ghi chép về những điều tâm

đắc nhất mà các em thu nhận được.
Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm khi dạy đọc – hiểu văn bản, việc
học trở nên nhẹ nhàng mà thú vị, sâu sắc, hiệu quả hơn.

3.6. Kiểm tra, đánh giá trong dạy học đọc – hiểu văn bản nghị luận
Kiểm tra, đánh giá là khâu then chốt cuối cùng của quá trình dạy học, là
“lực nắn” hữu hiệu cách dạy cách học. Theo tinh thần đổi mới, việc kiểm tra,
đánh giá cần đa dạng hoá về hình thức, cách thức ra đề theo hướng vừa kiểm tra
được kiến thức cơ bản, vừa tạo điều kiện cho người học bày tỏ được cảm xúc,
suy nghĩ, ý kiến, quan điểm riêng của mình trước vấn đề đặt ra. Để đạt được yêu
cầu đó, phải sử dụng cả hình thức trắc nghiệm khách quan và tự luận.
Mỗi giờ học tôi đều hướng đến ba mục tiêu cụ thể về kiến thức, kĩ năng
và thái độ. Mục tiêu kiến thức của giờ đọc – hiểu văn bản nghị luận là những giá
trị cơ bản về nội dung và nghệ thuật mà học sinh cần ghi nhớ và thông hiểu.
Trắc nghiệm khách quan chính là hình thức hữu hiệu để kiểm tra kiến thức văn
học đảm bảo tính toàn diện, chính xác và khách quan hơn.
Ví dụ: Học văn bản Chiếu dời đô, học sinh cần nắm vững nội dung chủ đề, phép
lập luận chính, … Trắc nghiệm khách quan giúp tôi có thể kiểm tra được các
đơn vị kiến thức này một cách dễ dàng, chính xác. Cụ thể:
1. Nhận định nào trong các nhận định sau đây thể hiện khái quát nhất giá trị tư
tưởng của Chiếu dời đô?

12


A. Chiếu dời đô phản ánh khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập,
thống nhất, vững mạnh và phồn thịnh.
B. Chiếu dời đô đã chứng minh việc dời đô của nhà Lí cần thiết và đúng đắn.
2. Những lí do nào khiến Chiếu dời đô có sức thuyết phục người nghe?
A. Chiếu dời đô có sự kết hợp hài hoà giữa lí lẽ chặt chẽ và tình cảm chân thành.

B. Chiếu dời đô có nhiều hình ảnh, hình tượng đẹp.
C. Chiếu dời đô là một lời răn dạy phải – trái, nên – không nên hết sức xác đáng.
Tuy nhiên, để đánh giá được năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; khả năng
giải quyết vấn đề; kĩ năng lập luận, thuyết trình, kĩ năng diễn đạt của học sinh
thì hình thức tự luận có khả năng cung cấp những thông tin phản hồi đáng tin
cậy hơn cả.
Ví dụ: Tại sao nói, Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận xuất sắc?
Bên cạnh những đề văn tự luận như ở trên, tôi còn đưa ra các dạng đề cho
phép học sinh được bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ, quan điểm của riêng mình.
Ví dụ:
- Đề 1: Chiếu dời đô là một bài văn nghị luận đặc sắc. Ý kiến của em về vấn đề
này như thế nào?
- Đề 2: Có ý kiến cho rằng, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn “xứng đáng là
một mẫu mực bất hủ của văn nghị luận muôn đời”. Ý kiến của em về vấn đề này
như thế nào?
Trong quá trình tổ chức dạy – học, tôi đánh giá học sinh trên ba mặt: sự
hiểu biết, khả năng vận dụng, kĩ năng và thái độ từ đó giúp bản thân tôi đánh giá
mức độ đạt được so với yêu cầu, mục tiêu bài học đã đề ra để phấn đấu, để khắc
phục. Không chỉ có mình bản thân tôi đánh giá kết quả học tập của học sinh mà
tôi còn tổ chức cho học sinh tự kiểm tra đánh giá với nhận xét của tập thể học
sinh và của giáo viên. Có như vậy mới tạo được sự hứng thú trong giờ học cho
học sinh, tạo nên sự bình đẳng tập trung làm việc và hiểu bài từ phía học sinh.
Từ đó việc đọc – hiểu văn bản mới đạt được hiệu quả cao.
Qua nghiên cứu, thử nghiệm và tuỳ từng đối tượng học sinh mà tôi đã lựa
chọn các giải pháp, biện pháp tổ chức phù hợp không máy móc, áp đặt. Sau đây,
tôi xin minh hoạ một tiết dạy để cụ thể hoá các biện pháp tôi đã lựa chọn:

BÀI 25 TIẾT 101

BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC

(Luận học pháp)
Nguyễn Thiếp

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC: Qua bài học, HS đạt được

13


1. Kiến thức: Thấy được mục đích, tác dụng của việc học chân chính: học để
làm người, học để biết và làm cho đất nước hưng thịnh, đồng thời thấy được tác
hại của lối học chuộng hình thức, cầu danh lợi.
2. Kĩ năng: Rèn kĩ năng đọc – hiểu văn bản tấu, học tập cách lập luận của tác
giả.
3. Thái độ: Nhận thức và lựa chọn được phương pháp học tập đúng, kết hợp học
với hành.
II. CHUẨN BỊ CỦA THẦY VÀ TRÒ:
HS: SGK Ngữ văn 8, vở ghi, tài liệu tham khảo, đồ dùng học tập
GV: SGK, chuẩn kiến thức – kĩ năng Ngữ văn 8, máy chiếu, …
III. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐÔNG DẠY HỌC

1. Hoạt động khởi động
- Kiểm tra bài cũ: Yêu cầu học sinh nêu những điểm giống nhau và khác nhau
giữa ba thể loại chiếu, hịch, cáo.
- Giới thiệu bài: Tôi sử dụng giải pháp tái hiện tình huống tạo nên tác phẩm:
Vua Quang Trung từng mời Nguyễn Thiếp ra hợp tác với triều Tây Sơn
nhưng vì nhiều lí do Nguyễn Thiếp chưa nhận lời. Ngày 10 tháng 7 niên hiệu
Quang Trung năm thứ tư (1791), vua lại viết chiếu thư mời Nguyễn Thiếp vào
Phú Xuân hội kiến vì “có nhiều điều bàn nghị”. Lần này La Sơn Phu Tử bằng
lòng vào Phú Xuân và chịu bàn quốc sự. Ông làm bài tấu bàn về ba việc mà bậc
quân vương nên biết: Một là bàn về “quân đức”; hai là bàn về “dân tâm”; ba là

bàn về “học pháp”. Bài học hôm nay, cô cùng các em tìm hiểu về việc thứ ba:
Luận học pháp (Bàn luận về phép học)…
2. Dạy học bài mới:
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung cần đạt
I. Tìm hiểu chung
H: Nêu hiểu biết của em về tác giả 1. Tác giả
Nguyễn Thiếp?
- Nguyễn Thiếp (1723 – 1804)
HS làm việc độc lập, trả lời, nhận xét.
- Là người thông minh sáng suốt,
GV: nhận xét, nhấn mạnh những nét học rộng hiểu sâu.
chính.
- Được vua Quang Trung rất trọng
dụng.
- Khi vua Quang Trung mất, ông về
ở ẩn, không hợp tác với nhà
Nguyễn.
- Ông luôn được người dân kính
trọng gọi là La Sơn Phu Tử.
H: Nêu xuất xứ của văn bản?
2. Tác phẩm:
H: Xác định vấn đề nghị luận của đoạn a. Xuất xứ: Văn bản là phần trích
trích?
(phần 3) từ bài tấu của Nguyễn
14


HS trả lời, nhận xét. GV nhận xét, chuẩn
kiến thức: Vấn đề nghị luận: Phương

pháp học tập.
GV hướng dẫn HS đọc tốt văn bản: đọc
dõng dạc, rắn rỏi, làm rõ âm hưởng,
nhịp điệu của câu văn biền ngẫu.
GV đọc mẫu một đoạn, yêu cầu HS đọc,
nhận xét.
GV kiểm tra sự hiểu nghĩa các từ khó
của học sinh.
H: Xác định thể loại của văn bản?
Tóm tắt đặc điểm của thể tấu, so sánh
với chiếu, hịch?
HS: Trả lời, nhận xét
GV: Nhận xét, chuẩn kiến thức:
+ Tấu là một loại văn thư của bề tôi,
thần dân gửi lên vua chúa để trình bày
sự việc, ý kiến, đề nghị.
+ Tấu có thể được viết bằng văn xuôi
hay văn vần, văn biền ngẫu.
GV tổ chức HS thảo luận nhóm (nhóm
cặp): Tìm bố cục, nội dung chính của
từng phần và đặt tiêu đề cho mỗi phần?
HS: Đại diện nhóm trả lời, nhận xét
GV: Nhận xét, chuẩn kiến thức:
- Phần 1: Ba câu đầu: Mục đích chân
chính của việc học.
- Phần 2: Tiếp theo đến “tệ hại ấy”: Phê
phán lối học lệch lạc, sai trái đương thời
- Phần 3: Tiếp theo đến “học mà làm”:
Quan điểm và phương pháp học tập
đúng đắn.

- Phần 4: Đoạn còn lại: Ý nghĩa của việc
học chân chính.

Thiếp gửi vua Quang Trung vào
tháng 8 – 1971.
b. Đọc văn bản

c. Từ khó: Lưu ý chú thích (2), (3)
d. Thể loại: Thể tấu

e. Bố cục:
Bốn phần

II. Tìm hiểu chi tiết văn bản
H: Mục đích chân chính của việc học 1. Mục đích chân chính của việc
được tác giả lí giải và diễn đạt như thế học
nào?
HS: Trả lời cá nhân, nhận xét
- Dùng câu châm ngôn có hình ảnh
GV: Nhận xét, tổng kết, phân tích: Ví đẹp, hai vế tương xứng: Ngọc không
việc học giúp con người thành tài với mài không thành đồ vật, / người
việc ngọc được mài sẽ thành vật hữu ích không học không biết rõ đạo.
là một cách ví von đẹp, giản dị và cụ thể
15


nên tác dụng của việc học được nêu lên
một cách dễ hiểu, dễ chấp nhận.
H: Đạo, theo quan niệm của Nguyễn
Thiếp là gì?

- Em hãy khái quát mục đích chân chính
của việc học? (Luận điểm 1)

- Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa
mọi người.
* Mục đích chân chính của việc học
là học để làm người.
2. Phê phán lối học lệch lạc, sai
GV yêu cầu HS thảo luận theo cặp:
trái đương thời
H: Tác giả đã phê phán những lối học - Lối học chuộng hình thức, cầu
lệch lạc, sai trái nào?
danh lợi, không còn biết tam cương,
H: Theo em, Nguyễn Thiếp quan niệm ngũ thường.
thế nào là lối học chuộng hình thức, cầu
danh lợi?
HS: Trả lời, nhận xét
GV: Nhận xét, chuẩn kiến thức
- Lối học chuộng hình thức: học thuộc
lòng câu chữ mà không hiểu nội dung,
chỉ có cái danh mà không có thực chất.
- Lối học cầu danh lợi: học để có danh
tiếng, được trọng vọng, được nhàn nhã,
được nhiều lợi lộc,…
H: Tác hại của lối học lệch lạc, sai trái - Tác hại:
đó được tác giả diễn đạt như thế nào?
+ Chúa tầm thường, thần nịnh hót.
- Nhận xét về phép lập luận của đoạn + Nước mất, nhà tan
văn này?
HS: trả lời, nhận xét.

GV: Bình giảng, định hướng
Tác giả không liệt kê, phân tích dài
dòng. Chỉ bằng hai hình ảnh điển hình:
“Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước
mất, nhà tan” người đọc có thể tưởng
tượng rõ những tác hại xâu chuỗi của
lối học ấy đưa lại: Người trụ cột của
triều đình mà học theo cách ấy thì
không thể trở thành vua sáng. Chúa tầm
thường cũng tức là mở đường cho lối
ứng xử luồn cúi, xu nịnh của triều thần;
người hiền tài không được trọng dụng,
thậm chí bị sát hại; vua chúa xa đà vào
lối sống hưởng lạc; đời sống nhân dân
cơ cực; mọi luôn thường đạo lí bị rạn
nứt; rường cột xã tắc lung lay, … và
cuối cùng nước mất, nhà tan là điều tất
16


yếu.
H: Em hãy cho biết thái độ của tác giả
khi phê phán những lối học lệch lạc?
GV yêu cầu HS liên hệ:
H: Từ lối học xưa, em có liên tưởng và
suy nghĩ gì về mục đích, phương pháp
học của chúng ta ngày nay?
- HS trả lời, lớp nhận xét.
- GV nhận xét, liên hệ: Ngày nay, những
lối học hình thức, thực dụng như vậy

vẫn còn khá phổ biến trong nhà trường
Việt Nam. Học mà không hiểu, khả năng
thực hành kém; bệnh chạy theo thành
tích, bằng cấp; nạn học tủ, học lệch,
chọn trường, chọn ngành học thiên về
lợi ích kinh tế, … tất cả đang là vấn đề
bức xúc của xã hội ta. Vì vậy, niềm
mong mỏi của tác giả về một “sự học”
chân chính cũng là niềm mong mỏi của
tất cả chúng ta ngày nay.
H: Khái quát luận điểm 2?
HS: trả lời, lớp nhận xét
GV: Nhận xét, bổ sung, kết luận

* Thái độ của tác giả: lo âu, trăn trở
đầy trách nhiệm.

* Lối học hình thức, thực dụng đem
lại những hậu quả nặng nề, cần phải
phê phán.

3. Quan điểm và phương pháp học
?Nguyễn Thiếp đã cúi xin vua Quang đúng đắn
Trung thực hiện chính sách gì?
- Việc học phải được phổ biến rộng
HS: trả lời, lớp nhận xét
khắp: mở thêm trường, mở rộng
GV: Nhận xét, bổ sung, liên hệ với tinh thành phần người học, tạo điều kiện
thần hiếu học của nhân dân ta, chính cho người đi học.
sách khuyến học của Nhà nước ta như:

cấp học bổng cho HS học giỏi, học sinh
nghèo vượt khó; hỗ trợ khinh phí học
tập cho học sinh có hoàn cảnh khó khắn,
tàn tật, …
- Về phương pháp:
? Theo tác giả, cần phải có phương pháp + Việc học phải có hệ thống, tuần tự
học như thế nào để việc học có hiệu từ thấp lên cao, từ những kiến thức
quả?
cơ bản, nền tảng đến những kiến
HS: Trả lời, nhận xét
thức khái quát.
GV: Nhận xét, chuẩn kiến thức
+ Học rộng, nghĩ sâu, biết tóm lược
những điều cơ bản, cốt yếu nhất.
GV yêu cầu HS trao đổi theo cặp.
+ Học phải biết kết hợp với hành
H: - Theo em, quan niệm về phép học
của Nguyễn Thiếp có còn phù hợp với
17


chúng ta ngày nay không?
- Em hãy khái quát luận điểm 3
HS trao đổi, liên hệ; GV nhận xét, khẳng
định: Tư tưởng khuyến học và phương
pháp học của Nguyễn Thiếp là rất đúng * Học rộng, hiểu sâu và biết vận
đắn, tiến bộ và vẫn còn nguyên ý nghĩa dụng sáng tạo vào thực tế là phương
đối với chúng ta ngày nay.
pháp học đúng đắn.
4. Ý nghĩa của việc học chân chính

H: Theo tác giả, ý nghĩa của việc học - Học cho mình, học để trở thành
chân chính là gì?
“người tốt”, có ích cho “nhà nước”
- Khái quát luận điểm 4?
- Học để đất nước có nhiều nhân tài,
HS: làm việc cá nhân, trả lời
nhà nước vững yên, quốc gia hưng
GV nhận xét, định hướng
thịnh
* Học chân chính là học để cho
mình và để trở thành người tốt, có
ích cho đất nước.
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật:
H: Qua phân tích ở trên, em nêu khái - Trình tự lập luận lôgíc, lời văn
quát giá trị nghệ thuật đặc sắc của đoạn ngắn gọn, cô đúc, giàu hình ảnh.
trích.
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết
phục.
1. Nội dung:
H: Từ nghệ thuật trên, văn bản thể hiện - Mục đích, tác dụng của việc học là
nội dung gì?
để làm người có đạo đức, có tri
HS trả lời, GV nhận xét, tổng kết.
thức, có năng lực vận dụng tri thức
GV yêu cầu HS đọc phần Ghi nhớ SGK vào cuộc sống góp phần làm hưng
thịnh đất nước.
- Muốn học tốt phải đọc rộng, hiểu
sâu và nắm vững được cốt lõi của
vấn đề.

3. Luyện tập, củng cố (kiểm tra, đánh giá việc học của HS)
Bài 1: Dạng trắc nghiệm (Trình chiếu): Em hãy đọc kĩ bài Bàn luận về phép
học và dựa vào các từ ngữ cho sẵn để trả lời câu hỏi:
1. Học cái gì? …………………………………………………………………….
2. Không học theo lối học nào? ………………………………………………….
3. Ai cần học? …………………………………………………………………….
4. Phương pháp học như thế nào là đúng? ……………………………………….
5. Tác dụng của việc học tập đúng đắn? ………………………………………….
Các từ ngữ:
A. Thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ,
thuộc lại ở các trấn cựu triều.
18


B. Đạo học hành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà
thiên hạ thịnh trị.
C. Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người; kẻ đi học là học điều ấy
D. Lối học hình thức, hòng cầu danh lợi
E. Học tiểu học để bồi lấy gốc; tuần tự tiến lên học đến thứ tư, ngũ kinh, chư sử;
học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.
HS: trả lời, nhận xét. GV nhận xét, chuẩn kiến thức:
1 -> C
2 -> D
3 -> A4 -> E
5 -> B
Bài 2: Dạng tự luận: Mục đích việc học của em là gì?
HS trình bày quan điểm của mình về mục đích của việc học.
IV. HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC BÀI Ở NHÀ VÀ CHUẨN BỊ BÀI MỚI
- Học bài, nắm vững nội dung bài học
- Chuẩn bị bài mới: Luyện tập xây dựng và trình bày luận điểm

V. RÚT KINH NGHIỆM GIỜ DẠY: ……………………………………………………

4. Kiểm nghiệm:
Nhờ áp dụng một số giải pháp đã nêu ở trên một cách linh hoạt trong
dạy học nên tôi đã khơi dậy ở các em hứng thú học tập, lòng ham hiểu biết, tích
cực, chủ động trong việc nắm bắt, lĩnh hội tri thức mới và đã biết vận dụng. Khi
học xong phần văn bản nghị luận (hết tiết 109), tôi đã tiến hành thử nghiệm,
thăm dò thái độ của học sinh lớp 8A, 8C, kết quả có sự thay đổi và chênh lệch.
- Phiếu trắc nghiệm đối với số học sinh là: 65 em
- Nội dung thăm dò: Trong sáu kiểu văn bản các em đã được học: miêu tả, tự sự,
biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, hành chính – công vụ. Em thích, không thích
học những kiểu văn bản nào? Đánh dấu (x) vào các cột tương ứng trong bảng
sau:
Kiểu văn bản
Thích học Có giờ thích học, có Không thích
giờ không thích học
học
Miêu tả
Tự sự
Biểu cảm
Nghị luận
Thuyết minh
Hành chính – công vụ
- Kết quả thăm dò:
Mức độ hứng thú
Tổng
Thích học Có giờ thích học, có
Không
Kiểu văn bản
HS

giờ không thích học thích học
SL
%
SL
%
SL %
19


Miêu tả
45 69,2
18
27,7
2
3,1
Tự sự
50 76,9
15
23,1
0
0
Biểu cảm
46 70,8
17
26,1
2
3,1
65
Nghị luận
41 63,1

19
29,2
5
7,7
Thuyết minh
40 61,5
23
35,4
2
3,1
Hành chính – công vụ
24 36,9
37
56,9
4
6,2
Từ mức độ hứng thú học tập của học sinh, sau khi học hết sáu văn bản
nghị luận trong chương trình, tôi tiến hành khảo sát chất lượng học tập của các
em. Đề khảo sát của tôi đưa ra như sau:
Em nắm được những nội dung và đặc điểm nghệ thuật gì của các văn
bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn lớp 8?
- Cụ thể kết quả:
Mức độ hiểu biết
Chưa nắm
Lớp Sĩ số
Nắm vững
Nắm khá
Không hiểu
vững
SL

%
SL
%
SL
%
SL
%
8A
33
5
15,2
13
39,4
12
36,3
3
9,1
8C
32
4
12,5
11
34,4
13
40,6
4
12,5
So với khi chưa thực hiện đề tài, kết quả có thay đổi rõ rệt, tỉ lệ học sinh
thích học tăng lên, học sinh không thích học giảm nhiều; tỉ lệ học sinh nắm
vững, nắm khá kiến thức theo đó cũng tăng lên, tỉ lệ học sinh chưa nắm vững,

không hiểu giảm.
Với mức độ hứng thú học như trên nên chất lượng dạy và học phần văn
bản nghị luận nói riêng, môn Ngữ văn nói chung của lớp 8 đạt kết quả cao hơn
so với những năm học trước. Đặc biệt là trong kì thi học sinh giỏi cấp huyện
năm học 2013- 2014, kết quả đạt được cao hơn nhiều. Cụ thể: có ba em dự thi
thì đạt ba giải (hai giải Ba, một giải Khuyến khích). Trong ba em đó, có hai em
được chọn tham gia học đội tuyển học sinh giỏi cấp Tỉnh tại trường THCS Lê
Thánh Tông. So với trường bạn, kết quả là chưa cao, nhưng với thực tế trường
tôi đang trực tiếp giảng dạy kết quả này là điều đáng tự hào, là sự cố gắng nỗ lực
của bản thân và học sinh.

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn lớp 8 lâu nay vẫn cho
là khó, nhất là các văn bản nghị luận trung đại, nhưng từ khi áp dụng nghiên cứu
20


đề tài, chịu khó tìm hiểu kiến thức nên các tiết dạy loại văn bản nghị luận trở
nên hấp dẫn, hứng thú cho học sinh, học sinh đã thích học, giáo viên cảm thấy
dễ dạy hơn và hiệu quả mang lại cũng tốt hơn trước nhiều. Các kỹ năng làm văn
nghị luận của học sinh cũng được củng cố và rèn luyện thêm, học sinh biết cách
nêu luận điểm, triển khai luận điểm, biết cách lập luận chặt chẽ, mạch lạc, nhiều
em có kỹ năng viết văn nghị luận tốt. Từ thực tế giảng dạy và nghiên cứu, học
hỏi, tôi đã rút ra được vài kinh nghiệm dạy học văn bản nghị luận trong chương
trình Ngữ văn lớp 8 đó là:
Dạy văn bản nghị luận một cách có hiệu quả trước hết tôi cần phải có vốn
tri thức về văn nghị luận, tri thức hiểu biết về các vấn đề chính trị, thời sự, xã
hội, lịch sử có liên quan; chuẩn bị bài dạy một cách công phu: chuẩn bị hệ thống
tư liệu tham khảo, hệ thống các hoạt động dạy học các đơn vị kiến thức cần

truyền đạt. Khi dạy các văn bản nghị luận, tôi phải đảm bảo được đặc trưng của
phân môn Văn, đảm bảo đặc trưng từng thể loại của văn bản nghị luận. Ngoài ra,
tôi cần phải biết tích hợp liên môn với các phân môn, môn học khác như phân
môn Tiếng việt, môn Lịch sử, Địa lí,…
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi thấy có hiệu quả tích cực.
Vì vậy, trong những năm học tiếp theo tôi tiếp tục áp dụng các giải pháp và cách
thức thực hiện vào dạy các văn bản nghị luận cho toàn bộ học sinh khối 8 của
trường và tôi sẽ không ngừng trau dồi kiến thức, nghiên cứu tìm ra các giải pháp
tối ưu để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
2. Đề xuất:
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 8 nói chung, văn
bản nghị luận nói riêng, tôi xin được đề xuất với Phòng giáo và đào tạo huyện:
- Thường xuyên mở lớp chuyên đề để giáo viên có cơ hội học hỏi, nâng
cao chuyên môn nghiệp vụ.
- Hàng năm, những sáng kiến kinh nghiệm có giá trị nên được tập hợp
xuất bản và triển khai học tập trong toàn thể cán bộ giáo viên để những sáng
kiến ấy được nhiều người áp dụng trong giảng dạy và giáo dục.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của tôi góp phần vào kho tàng kinh
nghiệm chung của đồng nghiệp, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.
Bản thân tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 02 tháng 4 năm
2015

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
21



của người khác.

22



×