Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

BAI THAO LUAN TRUNG CẤP CHÍNH TRỊ MÔN KTCT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.26 KB, 34 trang )

Câu 6: Phân tích nội dung ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Liên hệ vận dụng quy luật này trên đất nước
ta?
Phân tích nội dung ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ của lực lượng sản xuất
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương thức
sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Mà lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất la hai mặt
của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một
cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển của xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến, tác động trong toàn tiến trình lịch sử của nhân loại.
Sự vận động, phát triển cùa lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Ngược lại, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương và tác
động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, khi quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với
trình độ phát triển củ lực lượng sản xuất sẽ lại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Do đó, việc giải quyết mâu thẫu giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không phải là
đơn giản.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây chúng ta đã không có được sự
nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của quan hệ sản xuất, kìm hãm lực lượng
sản xuất, kết quả của sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã làm
cho mâu thẫu giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải ở
trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời gian dài.
Chính vì vậy, việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại
lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là
trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay.
1. Các khái niệm cơ bản



a) Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định, ở
một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con người
với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người và năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với tri thức, phương
pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong các yếu tố hợp thành
lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể và bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản,
quyết định nhất của xã hội.
Ngày nay, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì nội dung khái niệm
lực lượng sản xuất được bổ sung, hoàn thiện hơn. Các cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã làm xuất hiện những khu vực sản xuất mới và làm cho năng suất lao động tăng lên
gấp bội. Năng suất lao động được xem như là tiêu chí quan trọng trọng nhất để đánh giá
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và suy cho cùng cũng là yếu tố quyết định sự chiến
thắng của một trật tự xã hội này đối với một trật tự xã hội khác.
b) Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động vào
giới tự nhiên, mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, chỉ có trong quan hệ
tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và mới có sản xuất.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa con
người với con người trên ba mặt chủ yếu sau:
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa con người với con người
trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
- Quan hệ trong tổ chức và quản lý là quan hệ giữa con người với con người trong
việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau.
- Quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa con người với con người trong phân
phối và lưu thông sản phẩm xã hội.



Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn
nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong xã hội
có giai cấp, giai cấp nào chiếm hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó là giai cấp thống trị; giai
cấp ấy đứng ra tổ chức, quản lý sản xuất và sẽ quyết định tính chất, hình thức phân phối,
cũng như quy mô thu nhập. Ngược lại, giai cấp, tầng lớp nào không có tư liệu sản xuất thì sẽ
là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột vì buộc phải làm thuê và bị bóc lột dưới nhiều
hình thức khác nhau.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động
trở lại quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý chí,
pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu diễn thành các phạm trù, quy luật kinh tế.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
người. Sự thay đổi của các kiểu quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.
c) Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của cải vật chất (tư liệu
sản xuất và tư liệu sinh hoạt) cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển của xã hội trong
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản
xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định
sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất
ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
2 - Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất
a) Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất



Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (quy
luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội).
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất
là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan
hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là,
nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất
và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản
xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi
đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay
thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của
lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương
thức sản xuất mới ra đời thay thế.
b) Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của
lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất không hoàn
toàn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất có
thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái
độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát
triển và ứng dụng khoa học và công nghệ... và do đó tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là

động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu


hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển
của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của
hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
II/ Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là nền kinh tế đang thực hiện những cuộc
cải biến cách mạng toàn diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế đó là việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
xã hội chủ nghĩa gắn liền với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa, từng bước chuyển nền kinh tế nhiều thành phần, sản
xuất nhỏ là chủ yếu lên nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế quá độ, kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh
tế hợp tác làm nền tảng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện vai trò ấy, theo Nghị quyết Đại hội VIII, kinh tế nhà nước
phải được tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả, nắm vững những vị trí then chốt, những
lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng. Các doanh
nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn, phát huy được ưu thế về kỹ thuật và công nghệ,



nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, giá thành
hạ, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở
chỗ “làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở
đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật
chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã
hội mới”.
1 - Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Từ khi hoà bình được lập lại năm 1954, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đặc điểm to nhất
của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách
mạng dân tộc - dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta nói rõ hơn thực trạng kinh tế
và chính trị của đất nước: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ
một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua
hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong kiến
còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và
nền độc lập dân tộc của nhân dân ta”.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội
cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở
các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây
dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc
loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể diễn ra ngắn hơn. Đối
với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.



Theo Củ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời
lỳ lịch sử mà: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội,…tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hoá, khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng
ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà trong đó xây dựng là nhiệm
vụ chủ chốt và lâu dài”.
Tuy vậy, sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, bằng sự nỗ lực sáng
tạo của quần chúng, các ngành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng, đạt được
những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị ổn định, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội
lực đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bộ mặt kinh tế - xã hội thay da đổi
thịt hàng ngày, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt lõi thuộc về
đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng và nhà nước ta đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách: phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý điều tiết của nhà nước.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
cho phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.

2 - Những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được
Trong những năm qua, Đảng và toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những
thành tựu quan trọng theo tổng cục thống kê Việt Nam đến năm 2018
Thành tựu kinh tế
a) Tăng trưởng kinh tế: (1)Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV năm 2018 ước
tính tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản



tăng 3,90%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,65% và khu vực dịch vụ tăng 7,61%.
Tăng trưởng quý IV/2018 thấp hơn tăng trưởng quý IV/2017 nhưng cao hơn tăng trưởng quý
IV các năm 2011-2016. Trên góc độ sử dụng GDP quý IV năm 2018, tiêu dùng cuối cùng
tăng 7,51% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 9,06%; xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ tăng 10,69%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 9,50%. (2) GDP cả năm 2018
tăng 7,08%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 trở về đây. Mức tăng trưởng năm nay vượt
mục tiêu 6,7% đặt ra là kết quả sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
và nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước.
Trong mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng 7,03%, đóng góp 42,7%. Xét về
góc độ sử dụng GDP năm 2018, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,17% so với năm 2017; tích lũy
tài sản tăng 8,22%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,27%; nhập khẩu hàng hóa và dịch
vụ tăng 12,81%. (3) Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức tăng trưởng cao nhất
trong 7 năm qua, khẳng định chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, đặc biệt trong
lĩnh vực nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Cơ cấu cây trồng được chuyển dịch theo hướng
tích cực, giống lúa mới chất lượng cao đang dần thay thế giống lúa truyền thống, phát triển
mô hình theo tiêu chuẩn VietGap cho giá trị kinh tế cao. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa trên
cả nước năm nay giảm nhưng năng suất tăng cao nên sản lượng lúa cả năm 2018 ước tính
đạt 43,98 triệu tấn, tăng 1,24 triệu tấn so với năm 2017. Nuôi trồng thủy sản tăng khá, sản
lượng thủy sản nuôi trồng ước tính cả năm đạt 4,2 triệu tấn, tăng 6,7%. (4) Trong khu vực
công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là điểm sáng đóng
góp chính cho tăng trưởng kinh tế với mức tăng cao 12,98%, tuy thấp hơn mức tăng của năm
2017 nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng các năm 2012-2016, đóng góp 2,55 điểm phần
trăm vào mức tăng trưởng chung. Kết quả tăng trưởng cho thấy nền kinh tế đã thoát khỏi sự
phụ thuộc vào khai thác khoáng sản và tài nguyên khi năm 2018 là năm thứ ba liên tiếp công
nghiệp khai khoáng tăng trưởng âm (giảm 3,11%), làm giảm 0,23 điểm phần trăm mức tăng
tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. (5) Khu vực dịch vụ năm 2018 tăng 7,03%, cao
hơn mức tăng các năm giai đoạn 2012-2016, trong đó các ngành dịch vụ thị trường có tỷ



trọng đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP như bán buôn, bán lẻ; hoạt động tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm; dịch vụ lưu trú và ăn uống; vận tải, kho bãi... đều đạt mức tăng trưởng
khá. Hoạt động thương mại dịch vụ năm 2018 có mức tăng trưởng khá, sức mua tiêu dùng
tăng cao, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm nay đạt 4.395,7
nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với năm 2017.
(6) Chất lượng tăng trưởng và hiệu quả kinh tế được cải thiện rõ nét.
- Tăng trưởng kinh tế dần chuyển dịch theo chiều sâu, tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân
tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP năm 2018 đạt 43,5%, bình quân giai đoạn 20162018 đạt 43,3%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,6% của giai đoạn 2011-2015. Tỷ lệ
vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện/GDP năm 2018 đạt 33,5%, đảm bảo mục tiêu Quốc hội đề
ra từ 33-34%.
- Năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng
đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. NSLĐ
toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 102 triệu đồng/lao động (tương
đương 4.512 USD), tăng 346 USD so với năm 2017. Tính theo giá so sánh, NSLĐ năm 2018
tăng 5,93% so với năm 2017, bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 5,75%/năm, cao hơn mức
tăng 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015.
- Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thể hiện qua chỉ số ICOR đang dần được cải thiện, từ mức
6,42 năm 2016 giảm xuống còn 6,11 năm 2017 và ước tính năm 2018 là 5,97, bình quân giai
đoạn 2016-2018 hệ số ICOR ở mức 6,17, thấp hơn mức 6,25 của giai đoạn 2011-2015.
- Độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn, năm 2018 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ so với GDP đạt 208,6%, điều này chứng tỏ Việt Nam khai thác được thế mạnh
của kinh tế trong nước đồng thời tranh thủ được thị trường thế giới.
- Quy mô nền kinh tế ngày càng được mở rộng nhờ duy trì tốc độ tăng trưởng khá. GDP theo
giá hiện hành năm 2018 đạt 5.535,3 nghìn tỷ đồng, gấp 2 lần quy mô GDP năm 2011. GDP
bình quân đầu người năm 2018 ước tính đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587 USD, tăng
198 USD so với năm 2017.



- Cơ cấu kinh tế của Việt Nam tiếp tục chuyển dịch tích cực theo xu hướng giảm tỷ trọng
nông, lâm nghiệp và thủy sản; tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và ngành dịch vụ.
Năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,57% GDP; khu vực
công nghiệp và xây dựng chiếm 34,28%; khu vực dịch vụ chiếm 41,17%; thuế sản phẩm trừ
trợ cấp sản phẩm chiếm 9,98%.
(7) Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu kinh tế khác đã cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh
tế: Theo báo cáo của Nikkei, tâm lý kinh doanh vẫn rất lạc quan khi chỉ số nhà quản trị mua
hàng (PMI) luôn ở mức mở rộng. Chỉ số này tăng từ mức 51,6 điểm trong tháng 3, tăng cao
55,7 điểm trong tháng 6 và đạt đỉnh 56,5 điểm trong tháng 11. Kết quả này báo hiệu sự cải
thiện mạnh mẽ sức khỏe của lĩnh vực sản xuất và các điều kiện kinh doanh đã tăng suốt từ
tháng 1/2016. Cũng theo Nikkei, số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới tiếp tục tăng trong
tháng 11, khuyến khích các nhà sản xuất tăng sản lượng, tạo thêm nhiều việc làm mới.
b). Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2018 ước tính đạt 244,7 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm
2017 (vượt mục tiêu Quốc hội đề ra là tăng 7%-8% và Nghị quyết 01 của Chính phủ là tăng
8%-10%), trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 69,2 tỷ USD, tăng 15,9% so với năm
2017, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (kể cả dầu thô) đạt 175,5 tỷ USD, tăng 12,9%, chiếm 71,7% (giảm 0,6 điểm phần trăm
so với năm 2017). Năm 2018, khu vực kinh tế trong nước chuyển biến tích cực khi đạt tốc
độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với tỷ trọng
trong tổng kim ngạch xuất khẩu tăng lên so với năm 2017[1]. Trong năm 2018 có 29 mặt
hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tới 91,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của
cả nước, trong đó có 5 mặt hàng đạt trên 10 tỷ USD, chiếm 58,3%.
Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2018 ước tính đạt 237,5 tỷ USD, tăng 11,5% so với
năm trước, trong đó có 36 mặt hàng ước tính kim ngạch nhập khẩu đạt trên 1 tỷ USD, chiếm
90,4% tổng kim ngạch, trong đó có 4mặt hàng trên 10 tỷ USD.


Ước tính cả năm 2018, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa thiết lập mức kỷ lục mới
với 482,2 tỷ USD. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 7,2 tỷ USD, là năm có giá trị xuất

siêu lớn nhất từ trước đến nay, cao hơn rất nhiều mức xuất siêu 2,1 tỷ USD của năm 2017,
vượt xa mục tiêu Quốc hội đề ra là tỷ lệ nhập siêu dưới 3%.
c). Thu hút đầu tư nước ngoài
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/12/2018 thu hút 3.046 dự án
cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 17.976,2 triệu USD, tăng 17,6% về số dự án và giảm
15,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017. Bên cạnh đó, có 1.169 lượt dự án đã cấp
phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 7.596,7 triệu
USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn
tăng thêm trong năm 2018 đạt 25.572,9 triệu USD, giảm 13,9% so với cùng kỳ năm 2017.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2018 ước tính đạt 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so
với năm 2017.
d) Hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch trong năm 2018 đạt được kết quả ấn tượng với số khách quốc tế đến nước
ta đạt mức kỷ lục 15,5 triệu lượt người, tăng 19,9% so với năm 2017 (tăng hơn 2,6 triệu lượt
khách). Khách từ châu Á đạt 12.075,5 nghìn lượt người, tăng 23,7% so với năm trước; khách
đến từ châu Âu đạt 2.037,9 nghìn lượt người, tăng 8,1%; khách đến từ châu Mỹ đạt 903,8
nghìn lượt người, tăng 10,6% so với năm 2017; khách đến từ châu Úc đạt 437,8 nghìn lượt
người, tăng 4%; khách đến từ châu Phi đạt 42,8 nghìn lượt người, tăng 19,2%.
e). Lạm phát được kiểm soát
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2018 giảm 0,25% so với tháng trước; CPI bình quân
năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017, dưới mục tiêu Quốc hội đề ra; CPI tháng
12/2018 tăng 2,98% so với tháng 12/2017.
Lạm phát cơ bản tháng 12/2018 tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 1,7% so với cùng kỳ
năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2018 tăng 1,48% so với bình quân năm 2017.


Văn hoá, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
- Đời sống dân cư năm nay nhìn chung được cải thiện. Năm 2018, thu nhập bình quân
một người một tháng ước tính đạt 3,76 triệu đồng (tăng 660 nghìn đồng so với năm 2016),
bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 10,2%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm

2018 ước tính là 6,8%, giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 2017.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2018 ước tính 54,3 triệu
người, tăng 579,7 nghìn người so với năm 2017. Tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước năm
2018 là 2,00%, trong đó khu vực thành thị là 2,95%; khu vực nông thôn là 1,55%. Tỷ lệ
thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 1,46%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm
khu vực thành thị là 0,69%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,85%.
Những thành tựu đạt đạt được trong những năm qua đã tăng cường sức mạnh tổng
hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc
lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường
quốc tế.
Những vấn đề còn tồn tại
Cùng với những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn có
những nhược điểm:
Một là, trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.
Đó là do các nguyên nhân:
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ
sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế máy
móc, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ
lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2 - 3 thế hệ (có lĩnh vực 4 - 5 thế hệ). Lao
động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất
lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn thấp so với khu vực và thế giới (năng suất lao động
của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới).
- Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên
lạc… còn lạc hậu, kém phát triển (mật độ đường giao thông/km bằng 1% với mức trung bình


của thế giới; tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn của thế giới 30 lần). Hệ thống
giao thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do
đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai thác, các địa phương
không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.

- Do cơ sỏ vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém
phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh
tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ
sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.
- Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng như thị
trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, năng suất
lao động thấp, do đó khối lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất
lượng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
Hai là, thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa
đồng bộ.
- Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong
nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất.
- Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện
tượng tiêu cực (hàng giả, hàng lậu, hàng nhái vẫn làm rối loạn thị trường).
- Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc
làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét
nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong
khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động
không tìm được việc làm.
- Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở,
như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân thiếu vốn nhưng không vay được vì
vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà
không thể cho vay để ứ đọng trong két, dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã
đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng chưa có nhiều “hàng hoá” để mua
- bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này.


Ba là, có nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường, do vậy nền kinh tế ở nước ta
có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá
nhỏ phân tán còn phổ biến.

Bốn là, sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội
nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kỹ
thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.
- Toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra chung cho các nước cũng như
nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan,
nên không đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách sử xự
với xu hướng đó như thế nào? Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để tham gia vào khu vực
hoá và toàn cầu hoá, tìm ra “cái mạnh tương đối” của ta, thực hiện đa phương hóa, đa dạng
hóa kinh tế đối ngoại để tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã nhận định về vấn đề này như sau: “Hệ thống luật pháp, cơ
chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân
hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, thủ tục
hành chính … chậm đổi mới. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng,
chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở,
tiêu cực, một số trường hợp gâ tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều
bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa
vững chắc”.
Những giải pháp và mục tiêu phát triển trong thời gian tới
1 - Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Để phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng bộ nhiều
giải pháp. Dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhất:
a) Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.


Trước đây, khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường, chúng ta đã thiết
lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì
vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, cần

phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa
đến sự hình thành các chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong
những cơ sở của kinh tế hàng hoá.
Trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao
hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo
tinh thần đó, tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến
khích phát triển.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vật
cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng
yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần
hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp nhà nước không cần nắm 100% vốn.
Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có
sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong
các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh có vốn của nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị
trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng
cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã và đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh
doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo luật hợp tác xã.
Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Nhà
nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả. Khuyến khích
kinh tế tư bản tư nhân phát triển trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật
không cấm. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa
kinh tế tư nhân trong và ngoài nước; tạo điều kiện kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng


vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn
với thu hút công nghệ hiện đại.

b) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học - công
nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Vì vậy,
để phát triển kinh tế hàng hoá, phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự phát
triển của phân công lao động do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, cho
nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại.
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian
so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt, gắn công
nghiệp hoá với hiện đại hoá, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về
khoa học và công nghệ; ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu
công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của
nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến hành phân công lại lao động
và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cũng như ở từng vùng, từng địa phương; hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên
sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
c) Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường
mà được phân bố vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải
hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Trong những năm tới chúng ta cần phải:
- Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản xuất, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển hệ thống giao thông và phương tiện vận tải để mở
rộng thị trường. Hình thành thị trường sức lao động có tổ chức để tạo điều kiện cho sự di
chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.


- Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường chứng
khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.

- Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng và phát triển thị trường
thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng
khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước, để thị trường
hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành
mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có biện pháp hữu
hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
d) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế
giới, mới thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác tiềm năng và thế
mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế.
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng, cùng có
lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng
đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.
Hiện nay, cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại.
Giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ sản xuất. Tranh thủ mọi
khả năng và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, việc thu hút
đầu tư nước ngoài cần hướng vào những lĩnh vực, những sản phẩm có công nghệ tiên tiến,
có tỷ trọng xuất khẩu cao. Việc sử dụng vốn vay phải có hiệu quả để trả được nợ, cải thiện
được cán cân thanh toán. Chủ động tham gia tổ chức thương mại quốc tế, các diễn đàn, các
định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp.
e) Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp.
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là
điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và ngoài nước yên tâm đầu tư. Muốn
giữ vững sự ổn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.


Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Nó tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế, buộc các

doanh nghiệp chấp nhận sự điều tiết của nhà nước.
f) Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh
tế của nhà nước.
Việc xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và vận
hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, cần nâng cao năng lực của
các cơ quan lập pháp, hành pháp cà tư pháp, thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia.
Nhà nước thực hiện định hướng sự phát triển kinh tế, có hệ thống chính sách nhất quán để
tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt động kinh tế, hạn chế, khắc phục những mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh
doanh để các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước sử dụng
các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy,
phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tiền
lương và giá cả.
2 - Quan điểm phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước ta
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta không nằm ngoài mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã
hội. Đảng ta luôn khẳng định mục tiêu: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước
đi lên chủ nghĩa xã hội”. Mục tiêu ấy chính là đã hàm chứa nội dung vừa có tăng trưởng
kinh tế cao, vừa có tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy vậy, để đạt được mục tiêu kép này
không phải dễ dàng và lịch sử cho thấy đã có nhiều trường hợp xảy ra sự đối lập giữa tăng
trưởng, phát triển kinh tế và công bằng xã hội. Các chính sách dựa trên mục tiêu công bằng
có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng, phát triển kinh tế và ngược lại, một chính
sách chỉ nhằm vào tăng trưởng có thể làm cho bất bình đẳng tăng lên. Mối quan hệ hợp lý


giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế và công bằng xã hội phụ thuộc vào quan điểm, chính

sách của nhà nước về vấn đề này và sự thực thi nó trong cuộc sống.
Trong thời kỳ trước đổi mới, chúng ta đã có cách hiểu chưa đầy đủ về công bằng và
bình đẳng xã hội, đồng nhất công bằng với bình đẳng, dẫn đến chủ nghĩa bình quân trong
phân phối, làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Chủ nghĩa bình quân
chứa đựng nhiều yếu tố bất hợp lý đến mức làm cho người lao động thờ ơ với sở hữu xã hội,
không quan tâm đến kết quả lao động.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã nêu ra nhiều tư duy mới,
quan điểm mới về tăng trưởng, phát triển kinh tế và công bằng xã hội. Tất nhiên những quan
điểm mới đó đều bắt nguồn và dựa trên cơ sở đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng
cộng sản Việt Nam, thể hiện rõ trong cương lĩnh của Đảng.
Đại hội Đảng VIII của Đảng ta (tháng 6/1996) ra nghị quyết tiếp tục nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Đại hội VIII cũng xác định rõ, nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng,
tranh thủ thời cơ, đối mặt với thách thức, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện
và đồng bộ; tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế mạnh,
hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an
ninh, quốc phòng, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của
nhân dân.
=> Tóm lại: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động không chỉ tới một hình thái kinh tế xã
hội nào đó, mà tác động tới toàn bộ lịch sử phát triển của nhân loại.


Ở Việt Nam, việc duy trì tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan

trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà nước là đa dạng hoá các loại hình sở hữu, cải
thiện căn bản quan hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển. Điều này
phù hợp với quá trình đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn của Việt Nam. Chúng ta đã vận
dụng hợp lý quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất vào thực tại ở Việt Nam.
Tuy vậy, thực tế đặt ra vấn đề nan giải là làm thế nào để có thể phát triển trình độ lực
lượng sản xuất ở Việt Nam bắt kịp với các nước trên thế giới? Điều này đặc biệt có ý nghĩa
khi Việt Nam đi từ một nước phong kiến bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, mà thiếu cái “cốt vật chất” hiện đại của lực lượng sản xuất tư bản chủ
nghĩa, trong khi đó các nước khác phải mất hàng chục thậm chí hàng trăm năm phát triển
mới có được lực lượng sản xuất hiện đại.
Mấu chốt ở đây là các biện pháp, thủ tục hành chính, các điều kiện, hành lang pháp lý
thuận lợi cho các hoạt động giao lưu, hội nhập với kinh tế thế giới. Mong rằng với những nỗ
lực và quyết tâm đúng hướng của mình, Đảng ta sẽ sớm đưa được con tàu đất nước đến cái
đích “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đại hội VIII đã đề ra.
Câu 7
Phân tích MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG
1 Khái niệm
1.1 Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Kết cấu của cơ sở hạ tầng gồm 3 bộ phận
-Quan hệ sản xuất tàn dư
-Quan hệ sản xuất thống trị
-Quan hệ sản xuất mầm mống
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị. Quan hệ sản xuất
tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội mới. Trong đó quan hệ sản
xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo , chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy



định xu hướng chung của đời sống kinh tế- xã hội. Bới vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ
thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên, quan hệ sản
xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
1.2. Kiến trúc thượng tầng
Là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của
kiến trúc thượng tầng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Trong kết cấu kiến trúc thượng tầng thì Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất. Bởi vì, Nhà
nước nắm trong tay sưc mạnh kinh tế và bạo lực, nó chi phối mọi bộ phận khác của kiến trúc
thượng tầng và các bộ phận này phải phục ting nó.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội.
2.1 Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quyết định nội dung, tính chất kết cấu của kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ
tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó
như thế nào thì hệ thống thiết chế chính trị pháp quyền, đạo đức, triết học v..v.. và quan hệ
của các thể chế tương ứng với các thiết chế ấy cũng như vậy. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng thể hiện ở những mặt sau:
-Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định sự hình thành kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng
nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy.
-Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng trong một hình thái kinh tế
xã hội nhật định, khi cơ sở hạ tầng biến đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi theo.
-Cơ sở hạ tầng quyết định sự thay đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng
nào mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ tầng mới xuất
hiện thì nó lại sản sinh ra kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó.
Ví dụ cơ chế bao cấp tương ướng với nó là Nhà nước xơ cứng, mệnh lệnh quan liêu
Cơ chế thị trường tương ứng với nó là Nhà nước năng động, hoạt động có hiệu quả
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến của mọi hình thái
KTXH.
2.2 Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng
Kiến trúc thượng tầng củng cố, bảo vệ duy trì CSHT sinh ra nó và đấu tranh chóng lại CSHT

và KTTT đối lập với nó.
Kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra nhưng sau khi xuất hiện nó có tính độc lập
tương đối do đó nó tác động lại cơ sở hạ tầng thể hiện ở những mặt sau:


-Chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì củng cố và hoàn thiện cơ sở
hạ tầng đã sinh ra nó vàtìm cách xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ, kiến trúc thượng tầng cũ. Nó luôn
luôn giữ lại và kế thừa những cái cũ đã làm tiền đề cho cái mới.
Ví du: Nhà nước tư sản hiện đại củng cố, bảo vệ, phát triển sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất.
Còn Nhà nước vô sản thì bảo vệ, phát triển sở hữu xã hội (tập thể).
Trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng thì Nhà nước là yếu tố cơ bản có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với cơ sở hạ tầng. Vai trò của Nhà nước tác động đối với cơ sở hạ tầng thể
hiện ở 3 chiều hướng. Bằng công cụ pháp luật, bằng sức mạnh kinh tế và sức mạng bạo lực
của Nhà nước có thể tác động làm cho kinh té phát triển theo chiều hướng tất yếu.
Nhà nước là yếu tố tác động trở lại mạnh mẽ nhất đối với CSHT vì nó là công cụ bạo lực tập
trung trong tay giai cấp thống trị.
Nó không chỉ thực hiện chức năng kinh tế bằng hệ thống chính sách kinh tế - xã hội đúng,
nó còn có tác dụng trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Các bộ phận khác của
kiến trúc thượng tầng cũng phải thông qua thì mới có hiệu lực đối với CSHT.
Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại CSHT theo hai chiều
-Tích cực: Khi KTTT tác động cùng chiều với những quy luật vận động của CSHT thì nó
thúc đẩy CSHT phát triển. Do đó, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
-Tiêu cực: Khi KTTT tác động ngược chiều với những quy luật vận động của CSHT, khi nó
là sản phẩm của quan hệ kinh tế lỗi thời thì nó cản trỏ, kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ
tầng. Do đó, nó kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Ý nghĩa phương pháp luận, liên hệ:
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa không hình thành tự phát trong
xã hội cũ, mà hình thành tự giác sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền và phát triển
hoàn thiện “Suốt thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản ”.
Muốn có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cộng sản chủ nghĩa. Trước hết giai cấp vô

sản phải dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước cũ, lập nên nhà nước vô sản. Sau khi
giành được chính quyền, giai cấp vô sản tiến hành quốc hữu hoá, tịch thu, trưng thu nhà
máy, xí nghiệp của giai cấp tư sản nhằm tạo ra cơ sở kinh tế ban đầu của chủ nghĩa xã hội.
Việc nhà nước chuyên chính vô sản phải ra đời trước để tạo điều kiện và làm công cụ,
phương tiện cho quần chúng nhân dân, tiến hành triệt để quá trình ấy hoàn toàn phù hợp với
qui luật khách quan của xã hội. Đó là sự phát triển khách quan trong quá trính sản xuất vật
chất của xã hội, đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tiến bộ hơn thay
thế cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa lỗi thời phản động. Tuynhiên,
nhà nước chuyên chính vô sản có thật sự vững mạnh hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào
sự phát triển của sự phát triển của cơ sở hạ tầng cộng sản chủ nghĩa.


Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thuần nhất và
thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao hàm
những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể,
hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không
còn chế độ bóc lột .
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy
mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu
mới: của dân do dân và vì dân. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ để cải tạo xã hội cũ và
xây dựng xã hội chủ nghĩa tiến bộ, khoa học trở thành động lực cho sự phát triển xã hội.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp. Cho nên cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng với đầy đủ những đặc trưng của nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ
với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác
nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tuởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính

cách mạng lâu dài, phức tạp mà thực chất là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa hai con
đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chính vì những lý do đó mà nước ta từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến với nền kinh tế lạc hậu sản xuất nhỏ là chủ yếu, đi lên chủ
nghĩa xã hội (bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa ) chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm
các thành phần kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở
hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, lại vừa thống nhất với
nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất , chúng vừa cạnh tranh nhau, vừa liên kết
với nhau, bổ xung với nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng
tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục. Trong đó biện pháp kinh tế có vai trò
quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp
theo hướng: kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành
nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình
phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp
lý.


Trong văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đảng ghi rõ “phải tập
chung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và một số
công trình công nghiệp then chốt đã được chuẩn bị vốn và công nghệ. Nâng cấp và xây dựng
mới hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo, y tế ”.
Đồng thời văn kiện Đảng cũng ghi rõ:”Tư nay tới cuối thập kỷ, phải quan tâm tới công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm,
ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu”.

Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người
khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.
Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, việc giáo dục truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởnh chủ đạo trong đời sống
tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng
cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực
của xã hội thuộc về nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả
năng sáng tạo, tích cực chủ động của mọi cá nhân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh
đạo ”. Như vậy, tất cả các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội kkhông tồn
tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền
lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu
thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các bộ
phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.
Một số kiến nghị
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế
quốc doanh , tập thể và nhiều thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành phần
kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền
kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tính chất phức tạp trong quá trình thực hiện định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú, được phản chiếu



lên kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra
đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi
của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới có sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi
của cơ sở hạ tầng
Tuy nhiên, việc đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là việc rất phức tạp. Điều
quan trọng trước hết là cần sớm hình thành và thống nhất những quan điểm sử lý thiết yếu.
Thứ nhất:
Cần một phương pháp tiếp cận vấn đề một cách cụ thể không làm theo cách “cháy đâu chữa
đấy” từ đó tìm ra nguyên nhân chủ yếu của vấn đề để đưa ra những luận chứng có tính khả
thi.
Thứ hai: Cần theo dõi chặt chẽ, khai thác sàng lọc và sử lý các loại tín hiệu của nền kinh tế
một cách kịp thời trên cơ sở chủ chương chính sách thích hợp khuyến khích các hoạt động
kinh tế lành mạnh . đồng thời phải xây dựng một cơ chế điều hành kinh tế cho phép thâu
lượm đánh giá, sử lý kịp thời mọi tín hiệu kinh tế trong phạm vi cả nước.
Thứ ba: Hoàn thiện các thủ tục tài chính, tăng cường kỷ cương pháp luật trong điều hành tài
chính quốc gia từ trung ương đến từng người sản xuất.
Câu 8: Đấu tranh giai cấp là gì ? Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của
xã hội có giai cấp ? Liên hệ cuộc đấu tranh giai cấp của Việt Nam hiện nay .
1.Khái niệm đấu tranh giai cấp
Giai cấp: theo Lenin: " Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những
nguồi khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
khác nhau về quan hệ của họ( được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu
sản xuât, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách
thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là
những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ
tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ KTXH nhất định.
Giành chính quyền nhà nước là vấn đề trọng tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu
tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại một bộ phận khác, cuộc

đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền,
đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
2. Nguyên nhân của cuộc đấu tranh giai cấp


×