Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Thực hiện pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.53 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÌN

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ THõA PH¸T L¹I
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÌN

THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ THõA PH¸T L¹I
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thìn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
TÔI XIN CAM ĐOAN LUẬN VĂN LÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA
RIÊNG TÔI. CÁC KẾT QUẢ NÊU TRONG LUẬN VĂN CHƯA ĐƯỢC CÔNG
BỐ TRONG BẤT KỲ CÔNG TRÌNH NÀO KHÁC. CÁC SỐ LIỆU, VÍ DỤ VÀ
TRÍCH DẪN TRONG LUẬN VĂN ĐẢM BẢO TÍNH CHÍNH XÁC, TIN CẬY
VÀ TRUNG THỰC. TÔI ĐÃ HOÀN THÀNH TẤT CẢ CÁC MÔN HỌC VÀ ĐÃ
THANH TOÁN TẤT CẢ CÁC NGHĨA VỤ TÀI CHÍNH THEO QUY ĐỊNH CỦA
KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI........................................................1
VẬY TÔI VIẾT LỜI CAM ĐOAN NÀY ĐỀ NGHỊ KHOA LUẬT XEM XÉT ĐỂ
TÔI CÓ THỂ BẢO VỆ LUẬN VĂN........................................................................1
TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN!.......................................................................1

NGƯỜI CAM ĐOAN...............................................................................................1
NGUYỄN THỊ THÌN................................................................................................1
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1...............................................................................................................6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỪA
PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM.........................................................................................6
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................35
CHƯƠNG 2.............................................................................................................36
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI......................36
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................................................36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................70
CHƯƠNG 3............................................................................................................. 71
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỪA
PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM.......................................................................................71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3........................................................................................98
KẾT LUẬN.............................................................................................................99


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................101


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TAND:

Tòa án nhân dân

THADS:

Thi hành án dân sự


TPL:

Thừa phát lại

UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế định TPL đã tồn tại từ rất lâu và ở nhiều nước trên thế giới như, Pháp,
Đức, Úc. Ở nước ta, chế định TPL bắt đầu xuất hiện ở Nam kỳ (miền Nam) thời
Pháp thuộc. Sau ngày giải phóng, nước ta tồn tại cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới, thực hiện phân phối theo
đầu người. Bộ máy Nhà nước quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, các cơ quan
hành chính Nhà nước can thiệp quá sâu vào các giao dịch dân sự, kinh tế, hoạt động
sản xuất, kinh doanh trong xã hội. Hiện nay, Nhà nước ta thực hiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng hội nhập quốc tế, do đó các quan hệ
trong xã hội phát triển mạnh mẽ, cùng với đó là những tranh chấp xảy ra ngày càng
nhiều với tính chất ngày càng đa dạng, phức tạp, qua đó nhu cầu về các dịch vụ
pháp lý cũng được tăng cao.
Từ những nhu cầu thực tiễn trong xã hội, nhận thức được tầm quan trọng của
công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, góp phần làm nền hành chính tư

pháp đáp ứng tốt hơn sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần
đây, cùng với việc phát triển các dịch vụ pháp lý như luật sư, công chứng… pháp
luật về TPL tiếp tục được nghiên cứu thực hiện, góp phần đáng kể trong việc hỗ trợ
giảm thiểu các công việc và thủ tục hành chính cho hoạt động tố tụng và THADS.
Kết quả thực hiện pháp luật TPL thời gian qua cho thấy việc triển khai thực
hiện chế định TPL đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần bảo đảm tốt hơn
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong đời sống dân sự, trong quan hệ
với cơ quan nhà nước và trong các quá trình tố tụng, góp phần ổn định các quan hệ
xã hội, an ninh trật tự. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, do TPL nhìn
chung vẫn là một chế định mới đối với người dân, doanh nghiệp và cả các cơ quan
nhà nước, vì vậy hiểu biết của các đối tượng liên quan đến hoạt động của TPL và việc
thực hiện TPL tại các địa phương tuy đã hình thành nhưng còn khá hạn chế; các quy

1


định pháp luật còn chưa đầy đủ, hiệu lực chưa cao, chưa đồng bộ, có những điểm
thiếu và thậm chí là chồng chéo, mâu thuẫn... nên việc thực hiện pháp luật về TPL
còn nhiều lúng túng; việc thực hiện các hoạt động của TPL như tống đạt các văn bản
theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan THADS, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi
hành án, tổ chức thi hành án của TPL còn xảy ra một số sai phạm; kết quả hoạt động
của một số Văn phòng TPL còn chưa cao, chưa đồng đều ở các địa phương và ở các
mảng công việc, trong đó việc xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi
hành án còn hạn chế, chiếm tỷ lệ thấp trong kết quả hoạt động.
Với mong muốn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận thực
hiện pháp luật về TPL, đồng thời góp phần tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật
về TPL trong thời gian tới, tạo điều kiện ổn định các quan hệ xã hội, phát triển kinh
tế, tác giả chọn chủ đề “Thực hiện pháp luật TPL ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề thực hiện pháp luật TPL, tác giả nhận
thấy vấn đề này đã được một số cơ quan, nhà luật học ở trong nước quan tâm, dành
thời gian nghiên cứu, như:
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định TPL” (đề tài nghiên cứu cấp Bộ
năm 1998) của tác giả Nguyễn Đức Chính.
- “Hoạt động của tổ chức TPL” Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật năm 2013
của tác giả Trần Khắc Qui.
- “TPL trong THADS” Luận văn thạc sỹ luật học năm 2014 của tác giả Phạm
Phúc Thịnh.
- “Pháp luật về hoạt động của TPL từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”
Luận văn thạc sỹ luật học năm 2017 của tác giả Huỳnh Hữu Nam.
- “TPL - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” Luận văn
thạc sỹ luật học năm 2011 của tác giả Nguyễn Minh Thùy.
- “Chế định TPL: Lịch sử ra đời và đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp”
(Tạp chí dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp năm 2006) của tác giải Nguyễn Văn Nghĩa.
- “Từ nhu cầu xã hội đến chủ trương và kết quả bước đầu của việc thực hiện

2


thí điểm TPL” (Tạp chí dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp năm 2011) của tác giả
Lê Xuân Hồng.
- “Xu hướng xã hội hóa THADS từ việc thí điểm hoạt động TPL tại thành
phố Hồ Chí Minh” (Tạp chí dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp năm 2012) của tác
giả Nguyễn Công Bình.
- “Tổ chức và hoạt động của TPL ở Việt Nam hiện nay” (Nhà xuất bản Tư
pháp) của tác giả Vũ Hoài Nam.
- “Mô hình tổ chức và hoạt động của TPL” (Tạp chí dân chủ và pháp luật Bộ Tư pháp năm 2014) của tác giả Lê Xuân Hồng.
- “TPL - chặng đường thí điểm 4 năm nhìn lại” (Tạp chí dân chủ và pháp

luật - Bộ Tư pháp năm 2014) của tác giả Trần Thị Hồng Việt.
- “Đào tạo, bồi dưỡng TPL - Hiện tại và tương lai” (Tạp chí dân chủ và
pháp luật - Bộ Tư pháp năm 2014) của tác giả Nguyễn Thị Phíp và Bùi Nguyễn
Phương Lê.
- “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TPL” (Tạp chí dân chủ và pháp luật
- Bộ Tư pháp năm 2014) của tác giả Nguyễn Tiến Pháp.
- “Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện thí điểm chế định TPL và
hướng giải quyết” (Tạp chí dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp năm 2015) của tác
giả Lê Xuân Hồng.
- “Thực hiện thí điểm chế định TPL theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 tại
khu vực phía Nam” (Tạp chí dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp năm 2015) của tác
giả Mai Thị Thùy Dung.
- “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động TPL”
(Tạp chí dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp năm 2016) của tác giả Chu Văn Khanh.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác được công bố trên sách,
báo, tạp chí như: Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp
chí luật học.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu ở những góc độ, khía
cạnh và mức độ khác nhau về TPL. Nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào
đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về thực hiện pháp luật về TPL ở

3


Việt Nam từ góc độ nghiên cứu, tiếp cận của chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, tổng kết một số vấn đề có tính lý luận về thực hiện pháp luật về
TPL; khảo sát, đánh giá thực tiễn và đề xuất những giải pháp nhằm bảo đảm thực

hiện pháp luật về TPL trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về thực hiện pháp
luật TPL ở Việt Nam.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về TPL ở Việt
Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
TPL ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận về TPL và thực
hiện pháp luật về TPL; thực trạng thực hiện pháp luật về TPL ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là nghiên cứu dưới góc độ lý luận pháp
luật về thực hiện pháp luật TPL; phân tích, đánh giá kết quả đạt được và những hạn
chế, nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về xây dựng và thực
hiện pháp luật, cũng như các phương pháp, các cách tiếp cận về pháp luật khách
quan, khoa học khác.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp,
thống kê, logic, so sánh và tổng kết thực tiễn để phân tích làm sáng tỏ vấn đề cần
nghiên cứu. Đề tài kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu của

4


các tác giả khác có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu như: luận án, luận văn, đề
tài nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí, báo...
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

Về mặt lý luận: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam tập
trung nghiên cứu về thực hiện pháp luật về TPL, qua đó Luận văn đã phân tích và
chỉ ra những tồn tại, hạn chế qua quá trình thực hiện pháp luật về TPL, trên cơ sở đó
đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.
Về mặt thực tiễn: Những phân tích, đánh giá và đề xuất cụ thể mà tác giả đưa
ra nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TPL có giá trị tham khảo hữu ích cho
các nhà lập pháp vận dụng vào công tác xây dựng pháp luật, công tác nghiên cứu
khoa học, giảng dạy và là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan quản lý nhà
nước trong tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, ổn định trật tự xã hội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của đề tài bao gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về thực hiện pháp luật về TPL ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về TPL ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về TPL ở
Việt Nam.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM
1.1. Thừa phát lại và pháp luật về Thừa phát lại
1.1.1. Khái niệm Thừa phát lại
TPL được phát triển từ rất sớm, được hình thành từ thời trung cổ tại các nước
ở Châu Âu như Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan và các nước Châu Mỹ như Canada,
Mỹ. Đến nay, có khoảng 78 nước là thành viên của Liên minh TPL quốc tế (UIHJ).
Tại Việt Nam, TPL tồn tại từ thời kỳ phong kiến và thực sự được phát triển, áp dụng

khi Thực dân Pháp áp dụng nguyên mô hình TPL của Cộng hòa Pháp ở nước ta và
mô hình này đã tồn tại trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và dưới chế độ Ngụy quyền
Sài Gòn đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975. Ở miền Bắc gọi là
Chưởng tòa, miền Trung gọi là Mõ tòa, miền Nam là TPL. Thời kỳ này TPL chỉ một
người công lại, một người không phải nhân viên nhà nước nhưng lại mang trong
mình quyền lực nhà nước vì người đó được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Vì
nhiều lý do nên sau năm 1975, chế định TPL không duy trì nữa. Theo nghĩa Hán Việt, Thừa có nghĩa là thừa ủy quyền, thừa hành; phát nghĩa là phát ra, đưa đến; lại
là làm việc của thư lại, một viên chức thực hiện lệnh của quan.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày
24/7/2009 của Chính phủ quy định: “TPL là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm
các công việc về THADS, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo
quy định của Nghị định và pháp luật có liên quan”. Đến Nghị định số
135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của
Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về TPL đã xác định: “TPL là người có các tiêu chuẩn,
được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc theo quy định của
Nghị định này và pháp luật có liên quan”.
Từ quy định trên, TPL là người được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để
tham gia thực hiện những công việc hỗ trợ Tòa án, cơ quan THADS trong tống đạt

6


các văn bản giấy tờ; hoạt động xác minh điều kiện thi hành án; tổ chức thi hành án
và lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức. TPL hành nghề tự do và chịu sự
giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
So với TPL ở một số nước trên thế giới thì phạm vi hoạt động của TPL ở Việt
Nam bó hẹp hơn. Công việc của TPL của các nước trên thế giới là công việc độc
quyền. Bên cạnh đó, TPL còn được thực hiện một số công việc khác như: bán đấu
giá tài sản; đại diện khách hàng; hòa giải; tham gia hỗ trợ phiên tòa… Ví dụ: Ở
Pháp, Điều 1 Pháp lệnh số 452592 ngày 02/11/1945, quy định thẩm quyền theo nội

dung của TPL và tổ chức nghề TPL quy định:
TPL là người sở hữu một tước vị, có độc quyền trong việc tống
đạt văn bản và văn bản tố tụng, tiến hành các thủ tục thông báo được
pháp luật quy định trong trường hợp không quy định rõ phương thức
thông báo, và thi hành các bản án, quyết định của tòa án và các văn bản
có hiệu lực thi hành khác.
TPL có thể tiến hành thu hồi mọi khoản nợ theo thỏa thuận của các
bên hoặc theo quyết định của tòa án, và ở những nơi không có nhân viên
bán đấu giá, có thể tiến hành bán đấu giá, theo quyết định của tòa án hoặc
theo yêu cầu của các cá nhân, các tài sản là động sản và tài sản hữu hình.
TPL có thể được tòa án yêu cầu tiến hành xác nhận thuần túy về
mặt sự việc và không được cho ý kiến về các hệ quả thực tế hoặc pháp lý
có thể phát sinh từ việc xác nhận đó.
TPL có thể tiến hành xác nhận với cùng tính chất như trên theo
yêu cầu của các cá nhân; trong cả hai trường hợp, việc xác nhận này chỉ
có giá trị thông tin đơn thuần.
TPL tham gia hỗ trợ phiên tòa.
TPL có thể tiến hành một số hoạt động bổ trợ.
Danh sách các hoạt động và chức năng này của TPL và các điều
kiện thực hiện các hoạt động và chức năng này do Chính phủ quy định
bằng nghị định thông qua tại Tham chính viện với điều kiện các quy định
này không được trái với các luật chuyên ngành.

7


Như vậy, có thể thấy rằng điều 1 của Pháp lệnh quy định rất cụ thể các chức
năng, nhiệm vụ của TPL. Một số hoạt động thuộc thẩm quyền chuyên biệt của TPL,
một số hoạt động thuộc thẩm quyền đồng thời của TPL và các nghề khác. Bên cạnh
các hoạt động được coi là hoạt động truyền thống của TPL, gắn trực tiếp với lịch sử

phát triển của nghề, TPL có thể tiến hành một số hoạt động bổ trợ không có mối liên
hệ trực tiếp nào với hoạt động tư pháp.
Ở châu Âu và trên thế giới từ lâu đã tồn tại các TPL hành nghề tự do và độc
lập. Ở các nước như Anh, xứ Galles, Bỉ, Hy Lạp, Luých-xăm-bua, Hà Lan TPL luôn
có quy chế nghề độc lập.
Từ khi Liên bang Xô viết tan rã, nhiều nước Trung Âu đã đi theo mô hình tự
do. Các nước Estonia, Hungary, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Slovakia, Slovenia đã thừa
nhận nghề TPL là nghề tự do, độc lập với quyền lực nhà nước. TPL có thể sử dụng
phương thức tống đạt kết hợp với phương thức thông báo bằng đường bưu điện
nhưng về nguyên tắc, phải sử dụng phương thức tống đạt trong đại đa số các trường
hợp để thông báo cho đương sự và thi hành bản án, quyết định của tòa án. Ngoài ra,
nhiều nước trong số các nước này đã quy định thẩm quyền vi bằng của TPL và cho
phép sử dụng văn bản vi bằng của TPL như một loại chứng cứ như Estonia,
Hungary và Ba Lan.
Ở các nước khác như Áo, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Phần Lan, Ai-len, Italia
và Bồ Đào Nha, Chấp hành viên là công chức nhưng dường như cũng hoạt động
theo phương thức nghề tự do, cụ thể: Chấp hành viên độc lập với các tòa án; Chấp
hành viên chịu trách nhiệm về tài chính, nghề nghiệp và kỷ luật; Nhà nước không
trả lương dưới bất kỳ hình thức nào cho những người hành nghề độc lập này.
Ở nhiều nước châu Phi, TPL có quy chế nghề tự do và độc lập, có cơ cấu
tổ chức giống như ở Pháp và các nước khác ở châu Âu, gồm: các hội đồng kỷ
luật và một hội đồng quốc gia; bảo hiểm trách nhiệm dân sự; trách nhiệm kỷ luật
và dân sự của TPL.
1.1.2. Khái niệm pháp luật về Thừa phát lại
Khái niệm pháp luật về TPL bắt nguồn từ khái niệm pháp luật nói chung.
Theo Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật:

8



Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân,
được nhà nước đảm bảo thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
vì mục tiêu bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con người và sự phát
triển bền vững của xã hội [50, tr.295].
Pháp luật là những quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, nó luôn phản ánh
những quan điểm, đường lối chính sách của lực lượng nắm quyền lực trong Nhà
nước đó và bảo đảm cho các quan điểm, đường lối đó được triển khai thực hiện hiệu
quả, sâu rộng trong toàn xã hội.
Nhà nước ta hiện nay là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Pháp luật trong nhà nước pháp quyền nước ta hiện nay thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, pháp luật phải tôn trọng, thừa nhận, bảo vệ, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân, mọi mặt trong đời sống xã hội phải dân chủ,
công khai, minh bạch và tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong mọi
hoạt động của nhà nước và trong đời sống xã hội được đề cao.
Có thể nói, pháp luật về TPL ở nước ta xuất hiện từ rất sớm, thời kỳ phong
kiến, tuy nhiên việc áp dụng còn chưa được thống nhất trong cả nước, trong một
thời gian dài pháp luật TPL không được nhắc đến và triển khai thực hiện. Ngày nay,
thực hiện chủ trương cải cách tư pháp cùng với xu hướng hội nhập quốc tế, pháp
luật về TPL ở nước ta được tập trung khôi phục trở lại và nhu cầu hình thành một hệ
thống pháp luật về Thừa phát được Đảng, Nhà nước ta quan tâm đẩy mạnh.
Trong khoa học pháp lý, pháp luật về TPL là lĩnh vực pháp luật chuyên
ngành bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh
các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong tổ chức và thực hiện các công việc của
TPL trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo đảm tốt
hơn quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân trong đời sống dân sự, góp
phần ổn định các quan hệ trong xã hội.
Với cách hiểu như trên, pháp luật về TPL bao gồm các quy định pháp lý điều


9


chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong tổ chức và thực hiện các công
việc của TPL trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo
đảm tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân trong xã hội. Đồng
thời, Nhà nước cũng ban hành các quy định điều kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm các
TPL, thành lập các Văn phòng TPL; nhiệm vụ, quyền hạn của TPL; phạm vi, thẩm
quyền, trình tự, thủ tục thực hiện các công việc của TPL; những việc TPL không
được làm; trách nhiệm quản lý nhà nước về TPL.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, hình thức và nội dung thực hiện pháp luật về Thừa
phát lại
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về Thừa phát lại
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước ban hành pháp luật nhằm
điều chỉnh các quan hệ trong xã hội, bảo đảm xã hội vận hành theo một trật tự nhất
định. Xuất phát từ tầm quan trọng hàng đầu của pháp luật trong quản lý xã hội, Điều
12 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Kế thừa và bổ sung quan điểm trên,
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ”.
Với tư cách là chủ thể quản lý, Nhà nước đã sử dụng pháp luật làm phương
tiện quan trọng nhất để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Khi ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật Nhà nước mong muốn các văn bản đó phải được tôn
trọng và thực thi có hiệu quả trong thực tế. Nếu pháp luật được ban hành nhiều nhưng
ít đi vào cuộc sống, hiệu quả điều chỉnh các quy phạm pháp luật không cao, chứng tỏ
quản lý Nhà nước kém hiệu quả. Do đó, thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật là một yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật - Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện

thực hóa các quy định pháp luật vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế,
hợp pháp của các chủ thể pháp luật”.

10


Thực hiện pháp luật là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, do nhiều chủ thể khác
nhau tiến hành với nhiều cách thức khác nhau. Đó có thể là hành vi của mỗi cá nhân,
nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội,...Thực
hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của các chủ thể pháp
luật phù hợp với những quy định của pháp luật. Dưới góc độ pháp lý thì thực hiện
pháp luật là hành vi hợp pháp, hành vi đó không trái, không vượt ra ngoài các quy
định của pháp luật. Hành vi hợp pháp này có thể được các chủ thể tự giác thực hiện
trên cơ sở nhận thức là cần thiết phải xử sự theo đúng quy định của pháp luật, có thể
do bị ảnh hưởng của những người xung quanh, do sợ bị áp dụng các biện pháp cưỡng
chế hoặc là kết quả của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
Trong xã hội hiện nay, cùng với sự phát triển năng động của nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế, các mối quan hệ phát sinh cũng ngày càng đa dạng, phức
tạp, các tranh chấp vi phạm cũng xảy ra nhiều, gây áp lực không nhỏ đối với cơ
quan tư pháp, đặc biệt là Tòa án, cơ quan THADS. Trong những năm gần đây Đảng,
Nhà nước ta đã chủ trương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp. Thực hiện chủ
chương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, hệ thống pháp luật về TPL đã được ban hành cơ bản đầy đủ, tạo hành lang
pháp lý bảo đảm cho việc thực hiện các công việc của TPL, qua đó bảo đảm tốt hơn
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Tuy nhiên, để những quy định pháp luật
về TPL đi vào cuộc sống và trở thành những hành vi xử sự, hợp pháp của các chủ
thể pháp luật phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện pháp luật của các chủ thể.
Từ khái niệm chung về thực hiện pháp luật, có thể đưa ra khái niệm thực
hiện pháp luật về TPL như sau: “Thực hiện pháp luật về TPL là hoạt động có mục
đích của các cơ quan Nhà nước, tổ chức và các cá nhân làm cho các quy phạm pháp

luật về TPL trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp”.
1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về Thừa phát lại
Để hiểu rõ hơn bản chất của thực hiện pháp luật về TPL, tác giả đi phân tích
một số đặc điểm chủ yếu của thực hiện pháp luật về TPL như sau:

11


- Thực hiện pháp luật về TPL là một quá trình hoạt động có mục đích. Thực
hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về TPL nói riêng luôn là hoạt động
có mục đích của các chủ thể. Khi thực hiện các hành vi trên thực tế, trong nhận thức
các chủ thể pháp luật luôn mong muốn, xác định đạt được một kết quả cụ thể. Kết
quả này có trong nhận thức của các chủ thể pháp luật trước khi thực hiện hành vi.
Trong thực hiện pháp luật về TPL, trong nhận thức các chủ thể mong muốn đạt
được kết quả nhất định khi thực hiện pháp luật TPL. Để thực hiện được mục đích
đó, các chủ thể thực hiện pháp luật TPL có thể phải thực hiện trong một thời gian
ngắn, hoặc phải thực hiện trong một quá trình lâu dài được xác định theo từng nội
dung cụ thể. Chẳng hạn, đối với chủ thể thực hiện pháp luật về TPL là nhân viên
TPL, phải trung thực, khách quan khi thực hiện các công việc nghề nghiệp của
mình; nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; quy chế tổ chức, hoạt động và đạo đức
nghề nghiệp của TPL; chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện công việc
của mình (khoản 1, Điều 5 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009). Hoạt
động tuân thủ pháp luật này của nhân viên TPL nhằm mục đích kiểm soát, bảo đảm
sự khách quan, bình đẳng trong thực hiện công việc của TPL, góp phần bảo đảm
quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
- Chủ thể thực hiện pháp luật TPL là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và
cá nhân trong xã hội, trong đó nhân viên TPL là chủ thể đặc biệt quan trọng. Cũng
như các lĩnh vực pháp luật khác, thực hiện pháp luật về TPL phải thông qua hành vi
của một chủ thể nhất định. Tùy thuộc vào quan hệ pháp luật cụ thể về TPL mà chủ
thể đó có thể là cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân nào đó trong xã hội. Ví dụ

trong quan hệ quản lý nhà nước về TPL thì chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về TPL; Sở Tư pháp giúp
UBND quản lý nhà nước về TPL tại địa phương), trong quan hệ tổ chức, cá nhân sử
dụng dịch vụ của TPL với Văn phòng TPL cung cấp dịch vụ. Do tính chất đặc thù
nên chủ thể thực hiện công việc TPL là nhân viên TPL. Theo quy định của pháp luật
hiện hành thì TPL là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về tống
đạt văn bản của Tòa án và cơ quan THADS, lập vi bằng, xác minh điều kiện
THADS và tổ chức THADS.

12


- Thực hiện pháp luật về TPL là thực hiện các quy phạm cụ thể quy định trong
những văn bản pháp luật trong lĩnh vực TPL - do nhà nước ban hành. Hệ thống các
văn bản pháp luật liên quan đến TPL tập trung trong một số văn bản cụ thể: Luật
THADS (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS; Nghị định số
61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của TPL thực hiện thí điểm
tại thành phố Hồ Chí Minh; Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi,
bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/ 2009 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của TPL thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí
Minh; Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày
28/2/2014 hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định TPL theo Nghị quyết số
36/2012/QH13; Thông tư số 12/2014/TT-BTP ngày 26/4/2014 quy định về mẫu;
nguyên tắc sử dụng trang phục; nguyên tắc cấp phát, sử dụng thẻ TPL; Thông tư liên
tịch số 03/2014/TTLT-BTP-NHNNVN ngày 17/01/2014 hướng dẫn việc xác minh
điều kiện thi hành án của TPL tại các tổ chức tín dụng. Ngoài những văn bản này,
cũng có nhiều văn bản khác là nguồn quy phạm cho thực hiện pháp luật về TPL, như:
Bộ luật dân sự, Luật công chứng, Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Luật tố tụng hành
chính 2015; Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 về chứng thực; Luật các tổ

chức tín dụng; Nghị quyết số 107/2015/QH13; Luật tố cáo năm 2011; Nghị định số
76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật tố cáo; Thông tư số 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra
Chính phủ quy định quy trình giải quyết tố cáo. Có thể nói nguồn pháp luật về TPL
khá phong phú, sở dĩ có sự phong phú đó là do các văn bản thực hiện về TPL
thường dẫn chiếu sang các văn bản khác trong một lĩnh vực liên quan. Pháp luật
TPL muốn phát huy hiệu lực, hiệu quả trên thực tế đòi hỏi các chủ thể pháp luật
TPL phải thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật. Thông qua các hành vi của
mình (hành động hoặc không hành động), các chủ thể đã hiện thực hóa các quy định
của pháp luật về TPL vào trong đời sống. Ví dụ: pháp luật TPL quy định trong khi
thực hiện nhiệm vụ của mình TPL không được nhận làm những việc liên quan đến

13


quyền, lợi ích của bản thân và những người là người thân thích của mình, nhằm bảo
đảm sự khách quan trong khi thực hiện công việc của TPL.
- Thực hiện pháp luật về TPL bao gồm các hình thức thực hiện pháp luật
truyền thống: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng
pháp luật. Các hình thức thực hiện pháp luật này đan xen, logic, gắn bó chặt chẽ và
tác động lẫn nhau. Giữa các quy định pháp luật luôn có sự gắn bó, liên hệ, ràng
buộc lẫn nhau nên không thực hiện quy định này sẽ không thực hiện được các quy
định pháp luật khác. Do đó, các chủ thể thông thường phải đồng thời tiến hành thực
hiện các quy định pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau. Qua nghiên cứu các
văn bản cũng như xuất phát từ thực tiễn, tác giả cho rằng đối với việc thực hiện
pháp luật trong lĩnh vực TPL, các hình thức thực hiện pháp luật được thực hiện chủ
yếu ở hình thức áp dụng pháp luật (đối với chủ thể là nhân viên TPL) và sử dụng
pháp luật (đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức).
1.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật về Thừa phát lại
Các quy phạm pháp luật về TPL được quy định trong nhiều văn bản pháp luật của

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với nội dung khá rộng, liên quan đến tất cả
các mặt của TPL. Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung đi sâu vào các vấn
đề sau: thực hiện quy định của pháp luật về bổ nhiệm TPL; thực hiện các quy định
của pháp luật về thành lập các Văn phòng TPL; thực hiện các quy định của pháp
luật về thủ tục thực hiện các công việc của TPL; thực hiện các quy định pháp luật về
về hoạt động tuyên truyền, phổ biến và kiểm tra, kiểm sát, giám sát hoạt động TPL.
- Thực hiện các quy định của pháp luật về bổ nhiệm TPL: Hiện nay Nghị định
số 61/2009/NĐ-CP quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền bổ nhiệm TPL trên
cơ sở đề nghị của Sở Tư pháp. Người muốn được bổ nhiệm TPL phải đáp ứng các tiêu
chuẩn theo quy định và phải có hồ sơ gửi Sở Tư pháp bao gồm: đơn xin bổ nhiệm làm
TPL; giấy chứng nhận sức khỏe; lý lịch cá nhân và phiếu lý lịch tư pháp; bản sao các
văn bằng, chứng chỉ và các giấy tờ cần thiết. Giám đốc Sở Tư pháp xem xét hồ sơ
trong thời hạn không quá 15 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, nếu thấy đủ điều kiện thì đề
nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét bổ nhiệm TPL
trong thời hạn không quá 30 ngày.

14


- Thực hiện các quy định của pháp luật về thành lập các Văn phòng TPL:
Văn phòng TPL là tổ chức hành nghề của TPL. Tên gọi của Văn phòng TPL phải
bao gồm cụm từ “Văn phòng TPL” và phần tên riêng liền sau. Văn phòng TPL có
trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính.
Ngoài ra, các Văn phòng TPL có quyền tự chủ về nhân sự, điều hành, duy trì hoạt
động của Văn phòng, xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động...
Tổ chức của Văn phòng TPL gồm: Trưởng Văn phòng TPL là người đứng đầu,
phải là TPL và là người đại diện theo pháp luật của Văn phòng TPL, chịu trách nhiệm
về toàn bộ hoạt động của Văn phòng TPL; có thể có các TPL là thành viên sáng lập và
làm việc theo hợp đồng tại Văn phòng TPL; thư ký nghiệp vụ TPL là nhân viên Văn
phòng TPL giúp TPL thực hiện các công việc nghiệp vụ pháp lý; nhân viên kế toán;

nhân viên hành chính khác (nếu có). Theo quy định tại khoản 5, Điều 2 Nghị định số
135/2013/NĐ-CP, để được bổ nhiệm làm Thư ký TPL phải đáp ứng các tiêu chuẩn như:
là công dân Việt Nam, có sức khỏe, có phẩm chất đạo đức tốt; không có tiền án; không
kiêm nhiệm hành nghề Công chứng, Luật sư và những công việc khác theo quy định
của pháp luật; phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên.
Để thành lập Văn phòng TPL phải có trụ sở bảo đảm diện tích cho hoạt động và
cơ sở vật chất cần thiết; có tổ chức bộ máy theo quy định. Hồ sơ thành lập Văn phòng
TPL gửi Sở Tư pháp để trình UBND gồm: đơn đề nghị thành lập Văn phòng TPL; đề
án thành lập Văn phòng TPL; bản sao quyết định bổ nhiệm TPL. Trong thời hạn 15
ngày Sở Tư pháp phải thẩm định trình UBND xem xét, quyết định thành lập Văn
phòng TPL. Sau khi được thành lập, Văn phòng TPL đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp
tỉnh, thành phố nơi đặt Văn phòng; làm thủ tục cấp Thẻ hành nghề TPL cho các TPL
làm việc tại Văn phòng; đăng báo nội dung hoạt động của Văn phòng TPL.
- Thực hiện các quy định của pháp luật về công việc của TPL: Các công việc
của TPL gồm: thực hiện tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan THADS;
Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện thi
hành án theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết đinh
của Tòa án theo yêu cầu của đương sự.

15


+ Thực hiện tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan THADS: Việc
tống đạt của các Văn phòng TPL được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận bằng hợp
đồng dịch vụ ký kết giữa Văn phòng TPL với Cơ quan THADS hoặc Tòa án. Hợp
đồng dịch vụ tống đạt được lập theo mẫu và gồm các nội dung chính như: văn bản
cần tống đạt; thời gian thực hiện hợp đồng; thủ tục việc tống đạt; quyền, nghĩa vụ
của các bên; phí thực hiện tống đạt. Về thủ tục tống đạt, theo quy định tại Điều 23,
Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì Trưởng Văn phòng TPL có thể giao thư ký nghiệp
vụ TPL thực hiện việc tống đạt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận việc tống đạt

phải do chính TPL thực hiện. Thủ tục thực hiện thông báo về THADS thực hiện
theo quy định của pháp luật về THADS. Thủ tục thực hiện việc tống đạt văn bản
của Tòa án thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng. Văn phòng TPL phải
chịu trách nhiệm trước Tòa án, Cơ quan THADS về việc tống đạt thiếu chính xác,
không đúng thủ tục, đúng thời hạn của mình; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định.
+ Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức: TPL có quyền lập
vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ các trường hợp
theo quy định pháp luật TPL không được làm. Về trình tự, thủ tục, vi bằng được lập
sau khi cá nhân, tổ chức muốn lập vi bằng thỏa thuận được với Trưởng Văn phòng
TPL về việc lập vi bằng về: nội dung cần lập vi bằng; địa điểm, thời gian lập vi
bằng; chi phí lập vi bằng; các thỏa thuận khác (nếu có). Vi bằng phải do chính TPL
thực hiện. Thư ký nghiệp vụ TPL có thể giúp TPL thực hiện việc lập vi bằng, nhưng
TPL phải chịu trách nhiệm về vi bằng do mình thực hiện. Vi bằng chỉ ghi nhận
những sự kiện, hành vi mà TPL trực tiếp chứng kiến, việc ghi nhận phải khách
quan, trung thực. Nếu thấy cần thiết, khi lập vi bằng TPL có quyền mời người làm
chứng chứng kiến việc lập vi bằng. Vi bằng lập thành 03 bản chính, trong đó một
bản giao cho người yêu cầu, một bản lưu trữ tại Văn phòng TPL theo quy định và
một bản phải gửi Sở Tư pháp để đăng ký.
Về hình thức, nội dung chủ yếu của vi bằng, theo quy định tại Điều 27, Nghị
định số 61/2009/NĐ-CP, thì vi bằng được lập thành văn bản, viết bằng tiếng việt và

16


phải có các nội dung: tên, địa chỉ Văn phòng TPL; họ, tên TPL lập vi bằng; địa
điểm, giờ, ngày, tháng, năm lập vi bằng; người tham gia khác (nếu có); họ, tên, địa
chỉ người yêu cầu lập vi bằng và nội dung yêu cầu lập vi bằng; nội dung cụ thể của
sự kiện, hành vi được ghi nhận; lời cam đoan của TPL về tính trung thực và khách
quan trong việc lập vi bằng; chữ ký của TPL lập vi bằng và đóng dấu Văn phòng

TPL, chữ ký của những người tham gia, chứng kiến (nếu có) và có thể có chữ ký
của những người có hành vi bị lập vi bằng. Kèm theo vi bằng có thể có hình ảnh,
băng hình và các tài liệu chứng minh khác.
+ Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự: Theo quy định
của pháp luật hiện hành, TPL được quyền xác minh điều kiện trên cơ sở yêu cầu của
đương sự (theo hợp đồng dịch vụ về xác minh điều kiện thi hành án) hoặc xác minh
khi trực tiếp tổ chức thi hành án. Trước khi tiến hành xác minh thì người được thi
hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi
hành án trong các vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án của các Cơ quan THADS
trên địa bàn cấp tỉnh nơi đặt Văn phòng TPL có quyền thỏa thuận với Văn phòng
TPL về việc xác minh điều kiện thi hành án. Thỏa thuận về xác minh điều kiện thi
hành án giữa người yêu cầu và Văn phòng TPL được ký kết dưới hình thức hợp
đồng dịch vụ có các nội dung chính: nội dung cần xác minh, trong đó nêu cụ thể
yêu cầu xác minh về điều kiện tài sản hay các điều kiện khác của đương sự; t hời
gian thực hiện việc xác minh; quyền, nghĩa vụ của các bên; chi phí xác minh; các
thỏa thuận khác (nếu có). Hợp đồng xác minh điều kiện thi hành án lập theo mẫu số
B06/HĐDV.THA.TPL ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLTBTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/2/2014 của Bộ Tư pháp, TAND tối cao,
VKSND tối cao và Bộ Tài chính.
Sau khi thỏa thuận xác minh điều kiện thi hành án, Trưởng Văn phòng TPL
ra quyết định xác minh. Việc xác minh được tiến hành bằng văn bản yêu cầu hoặc
trực tiếp. Khi trực tiếp xác minh, TPL xuất trình Thẻ TPL, công bố quyết định và
phải lập biên bản về việc xác minh. Trong trường hợp cần thiết, TPL có quyền mời
cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh. Các

17


quy định khác của pháp luật về THADS cũng được áp dụng trong việc xác minh
điều kiện thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện yêu
cầu của TPL về xác minh điều kiện thi hành án và chịu trách nhiệm về nội dung

thông tin đã cung cấp.
Xác minh điều kiện THADS là một trong những hoạt động nghiệp vụ chính
của TPL được pháp luật quy định, do đó khi thực hiện xác minh, TPL cũng có thẩm
quyền như Chấp hành viên của cơ quan THADS được quy định tại khoản 4, Điều
20 Luật THADS năm 2008.
Người được thi hành án có quyền dùng kết quả xác minh điều kiện thi hành
án của TPL để yêu cầu thi hành án. Cơ quan THADS, Văn phòng TPL có thẩm
quyền thi hành án vụ việc căn cứ kết quả xác minh để tổ chức thi hành án. Trong
trường hợp có căn cứ xác định kết quả xác minh không khách quan, chính xác thì
Cơ quan THADS, Văn phòng TPL khác có quyền không sử dụng kết quả đó nhưng
phải trả lời bằng văn bản có nêu rõ lý do (Điều 32, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP).
+ Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của
đương sự: Theo quy định tại Điều 34 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ
sung tại khoản 12, Điều 2 Nghị định 135/2013/NĐ-CP) TPL được quyền tổ chức thi
hành theo đơn yêu cầu của đương sự đối với các bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu
lực của Tòa án cấp huyện nơi TPL đặt văn phòng; bản án, quyết định phúc thẩm của
Tòa án cấp tỉnh đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi TPL đặt
văn phòng; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện nơi TPL đặt văn phòng.
TPL thực hiện các thủ tục về thi hành án theo quy định của Nghị định số
61/2009/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 135/2013/NĐ-CP. Trong trường
hợp Nghị định không quy định thì áp dụng theo quy định của pháp luật về THADS.
Việc thi hành án của Văn phòng TPL được thực hiện sau khi người yêu cầu
và Văn phòng TPL thỏa thuận được việc thi hành án dưới hình thức một hợp đồng.
Sau khi đã ký kết thỏa thuận tổ chức thi hành án, trừ trường hợp có thỏa thuận khác,
trong thời hạn 05 ngày làm việc, Trưởng Văn phòng TPL phải ra quyết định thi

18



hành án. Quyết định thi hành án phải được gửi cho Cơ quan THADS cấp huyện tại
nơi có Văn phòng TPL để phối hợp thi hành.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, các Văn phòng TPL có quyền áp dụng
các biện pháp bảo đảm thi hành án quy định tại khoản 3, Điều 66 của Luật THADS
gồm: phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển
dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản. Khi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án,
TPL có quyền và nghĩa vụ như Chấp hành viên, thực hiện các thủ tục quy định tại
Điều 66, Điều 67, Điều 68 và Điều 69 của Luật THADS.
Bên cạnh đó, Theo quy định tại Điều 39, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì
TPL được áp dụng biện pháp cưỡng chế trong trường hợp sau khi hết thời hạn tự
nguyện đã được ấn định trong quyết định thi hành án, TPL có quyền ra quyết định
áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quy định tại Điều 71 của Luật THADS.
Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, TPL có quyền, nghĩa vụ như Chấp hành viên và
thực hiện theo quy định của pháp luật về THADS.
Đối với trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế trong trường hợp huy động
lực lượng bảo vệ, Văn phòng TPL phải báo cáo, xin ý kiến của Trưởng Ban Chỉ đạo
THADS cấp huyện nơi đặt Văn phòng TPL. Trên cơ sở ý kiến của Ban Chỉ đạo
THADS, Văn phòng TPL lập kế hoạch cưỡng chế, báo cáo Cục trưởng Cục THADS,
kèm theo hồ sơ thi hành án để Cục trưởng Cục THADS xem xét, phê duyệt kế hoạch
cưỡng chế và ra quyết định cưỡng chế thi hành án.
Việc thi hành án của TPL chấm dứt trong các trường hợp: người phải thi
hành án đã thực hiện xong các nghĩa vụ thi hành án theo văn bản yêu cầu thi hành
án hoặc người phải thi hành án, người được thi hành án là cá nhân chết, tổ chức,
doanh nghiệp bị phá sản, giải thể mà không có ai kế thừa quyền, nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật; vụ việc bị đình chỉ theo quy định của pháp luật; theo thỏa thuận
giữa TPL và đương sự (Điều 43 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP).
Việc chấm dứt thi hành án của TPL dẫn đến hậu quả: Văn phòng TPL và
người yêu cầu thi hành án phải thanh lý văn bản yêu cầu thi hành án; đối với số tiền,
tài sản còn tồn đọng không có người nhận, thì Văn phòng TPL xử lý theo quy định
của Luật THADS và pháp luật về tài sản vắng chủ.


19


×