Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Hoàn thiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.9 KB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH XUÂN GIÁP

HOµN THIÖN PH¸P LUËT §¶M B¶O NGUY£N T¾C
TRANH TôNG
TRONG XÐT Xö ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2018


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

INH XUN GIP

HOàN THIệN PHáP LUậT ĐảM BảO NGUYÊN TắC
TRANH TụNG
TRONG XéT Xử ở VIệT NAM HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 8380101.01

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS.TSKH HONG TH KIM QU



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ đều có trích dẫn nguồn cụ thể và các
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đinh Xuân Giáp


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ........7
1.1.


Lịch sử hình thành và phát triển nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng...................................................................................................7

1.2.

Khái niệm, bản chất, phạm vi, nội dung tranh tụng trong xét xử........9

1.3.

Pháp luật và hoàn thiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng
.............................................................................................................16

1.3.1. Khái niệm, phạm vi điều chỉnh của pháp luật đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng.............................................................................................16
1.3.2. Hoàn thiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng.........................20
1.4.

Vai trò của Tòa án trong tổ chức áp dụng và đảm bảo nguyên
tắc tranh tụng....................................................................................25

1.5.

Tranh tụng trong xét xử ở một số nước trên thế giới.....................28

1.5.1. Tố tụng tranh tụng tại một số nước theo hệ thống Common law...........28
1.5.2. Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong mô hình tố Civil law................29
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ
Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN.......................................31

2.1.

Thực trạng pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử..................................................................................................31

2.1.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tranh tụng trong xét xử


trước 2003...........................................................................................31
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tranh tụng được quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015........................................................................32
2.1.3. Cơ sở bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng...........................35
2.2.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử ở tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An........................42

2.2.1. Một số đặc điểm tình hình kinh tế - Xã hội và tổ chức bộ máy của
Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An............................................................42
2.2.2. Tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân tỉnh nghệ An..................................45
2.2.3. Tình hình xét xử từ năm 2013 – 2017 trên địa bàn Tỉnh Nghệ An.........47
2.2.4. Tình hình tham gia tranh tụng của luật sư tại phiên tòa ở Nghệ An.........49
2.2.5. Thực tiễn thực hiện tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự...........50
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
XÉT XỬ..............................................................................................57
3.1.

Những vấn đề tồn tại trong việc áp dụng nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử...............................................................................57


3.2.

Nguyên nhân của những hạn chế về đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử...............................................................................63

3.3.

Những giải pháp cơ bản về hoàn thiện pháp luật đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.................................................68

KẾT LUẬN....................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

HSST:

Hình sự sơ thẩm

KSV:


Kiểm sát viên

TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Bảng 2.1

Tên bảng

Trang

Thống kê số liệu Cán bộ Công chức TAND tỉnh Nghệ
An tính đến ngày 10/07/2017


46

Bảng 2.2

Số vụ án được xét xử

47

Bảng 2.3

Số bị cáo được xét xử

48

Bảng 2.4

Các đối tượng là người chưa thành niên và bị truy tố
đến khung hình phạt đến tử hình

49

Bảng 2.5

Số vụ, việc do cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu

49

Bảng 2.6

Số lượng tham gia của luật sư tại phiên tòa


49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến
bộ quan trọng. Nhiều bộ luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ
pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng…
Những năm qua, cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến
hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong công tác tư pháp, góp phần quan trọng
vào việc giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất
lượng công tác tư pháp nói chung và công tác xét xử nói riêng còn chưa
ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, còn bộc
lộ nhiều yếu kém trong tất cả các lĩnh vực từ hình sự, dân sự, hành chính. Một
trong những nội dung cơ bản của các hạn chế đó là chưa đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử về các nguyên tắc tố tụng, cũng như sự có mặt của
người bào chữa tại phiên tòa, quyền bào chữa của bị cáo chưa thực sự được
đảm bảo… Đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Luật sư và các
cán bộ tư pháp khác chưa được chuẩn bị đầy đủ về kỹ năng nghề nghiệp theo
yêu cầu cải cách tư pháp; kinh nghiệm thực tiễn về tranh tụng còn hạn chế
nên không tránh khỏi khó khăn, lúng túng trong thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình theo quy định của pháp luật. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới” và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị ra đời trở thành định hướng chiến lược
cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị quyết này đề cập nhiều nội
dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho

đến việc đào tạo cán bộ tư pháp, trong đó tăng cường tranh tụng trong quá
1


trình xét xử vụ án hình sự được coi là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết. Theo
đó, các quy định trong tố tụng hình sự (TTHS) phải đảm bảo tính khách quan,
phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa, phải đảm bảo để bản án, quyết định của Tòa án là hiện thân của công lý,
công bằng xã hội. Như vậy, một vấn đề cấp bách được đặt ra đối với các cơ
quan tư pháp là làm thế nào để đạt được những yêu cầu cải cách tư pháp liên
quan đến vấn đề tranh tụng. Với vai trò quan trọng như vậy, việc hoàn thiện
pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tranh tụng luôn luôn là một nhu cầu,
một đòi hỏi cấp thiết khách quan. Đảm bảo nguyên tắc tranh tụng có vai trò đặc
biệt quan trọng trong công tác xét xử nhằm đưa ra phán quyết thấu tình đạt lý,
đúng người đúng tội, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của những người tham gia tố
tụng, qua đó thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ công bằng, lẽ phải, bảo vệ công lý [1, tr.25]. Tuy nhiên,
trên thực tiễn, nguyên tắc tranh tụng được đảm bảo trong xét xử hiện nay
đang có nhiều bất cập dẫn đến việc thực hiện, áp dụng pháp luật về tranh tụng
gặp nhiều khó khăn, gây ra nhiều hoài nghi, bức xúc đối với các chủ thể tham
gia tranh tụng; hiệu quả tranh tụng chưa cao, qua đó ảnh hưởng đến chất
lượng các phán quyết của Tòa án.
Với lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học với mong muốn góp phần làm rõ thêm những khía cạnh lý
luận, thực tiễn trong vấn đề này, qua đó góp phần hoàn thiện pháp luật đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng ở Việt nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoàn thiện pháp luật về đảm bảo nguyên tắc trong xét xử không còn là
một vấn đề mới, nhưng luôn là đề tài có tính thời sự và cũng không kém phần

phức tạp trên diễn đàn cải cách tư pháp. Trong những năm gần đây, đã có

2


nhiều nhà khoa học, nhiều nhà nghiên cứu với nhiều công trình nghiên cứu về
nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nhất là từ
khi Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị ra đời ngày 02/01/2002 mở
đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Nghị quyết 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Đến nay, đã có nhiều công trình được công bố dưới những góc độ, mức độ,
hình thức thể hiện khác nhau đã được đăng tải trên một số sách, báo, tạp chí ở
Trung ương và địa phương, tiêu biểu là các công trình sau đây:
- Lê Cảm (2003), “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên
tắc cơ bản của luật TTHS”, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp, tr. 23 - 25
- Hoàng Thị Quỳnh Chi (2015), “Bàn về tranh tụng trong tố tụng hình
sự”, Tạp chí Kiểm sát, tr. 11 – 12.
- Trần Văn Độ (2004), “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa”, Tạp chí
Khoa học pháp lý.
- Dương Thanh Hiếu (2017), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb
Tư pháp.
- Đỗ Đình Hòa (2013), “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện pháp luật, bảo
đảm “tranh tụng” trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự”, Tạp chí Tòa án.
- Phan Trung Hoài (2006), “Thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp
luật nhằm bảo đảm quyền của Luật sư tham gia tranh tụng trong vụ án hình
sự”, Tạp chí nghề Luật.
- Phan Lan (2013), “Mỹ, tranh tụng khi xét xử tại tòa”, Tạp chí Luật học.
- Nguyễn Đức Mai (2014), “Đặc điểm của mô hình TTHS và phương
hướng hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát

- Nguyễn Đức Mai, “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và
phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam”, Kỳ 1, Tạp
chí Tòa án.

3


- Tôn Thiện Phương (2014), “Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng
trong Tố tụng Hình sự”, Tạp chí Kiểm sát.
- Hồ Nguyễn Quân (2013), “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa Hình sự” Tạp chí Khoa học pháp lý,
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng về
đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay,
từ thực tiễn địa bàn tỉnh Nghệ An, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử ở Việt Nam, nâng
cao chất lượng tranh tụng trong hoạt động xét xử.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc tranh
tụng trong hệ thống pháp luật hiện nay.
Hai là, phân tích mức độ hoàn thiện đảm bảo nguyên tắc tranh tụng
trong hệ thống pháp luật hiện nay, thực trạng đảm bảo nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử từ thực tiễn địa bàn tỉnh Nghệ An, để chỉ ra những kết quả, hạn
chế và phân tích những nguyên nhân của kết quả và hạn chế đó.
Ba là, xác định quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng trong xét xử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống pháp luật hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu đảm bảo nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử hiện nay, đặc biệt đi sâu nghiên cứu đảm bảo

4


nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự kể từ khi bộ luật Tố tụng
hình sự 2015 có hiệu lực thi hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn này là quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật biện chứng lịch
sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản - Nhà nước Việt
Nam về nhà nước, pháp luật. Các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp
quyền, về cải cách tư pháp.
Hệ thống lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, pháp luật TTHS,
pháp luật tố tụng của một số nước trên thế giới và Việt Nam, thể hiện trong
quá trình chỉ đạo đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung
và cải cách tư pháp nói riêng theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn
dịch và phương pháp thực chứng để phân tích làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Kế thừa có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả khác có
liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu như: Luận án, luận văn, đề tài nghiên
cứu, bài viết đăng trên các tạp chí, báo…
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện
về đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trước yêu cầu cải cách tư pháp
hiện nay nên có những đóng góp khoa học như sau:

5


Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận,
đề xuất một số quan điểm, giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm mục đích đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
Về thực tiễn: Luận văn phân tích, đánh giá khá toàn diện về hoàn thiện
nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử, thực trạng đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử từ thực tiễn địa bàn tỉnh Nghệ An (từ năm 2013 đến
2017), để trên cơ sở đó phát hiện những điểm chưa hợp lý và đề xuất những
quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
trong giai đoạn hiện nay nên sẽ cung cấp thêm luận cứ khoa học và thực tiễn
cho hoạt động nghiên cứu và xây dựng văn bản pháp luật trong tố tụng hình
sự hiện nay.
Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng dạy
trong các trường đào tạo luật, đào tạo nghiệp vụ ngành công an, Viện kiểm sát,
Tòa án, nghề luật sư, cơ quan điều tra; có thể áp dụng trong các trường đào tạo
nghiệp vụ xét xử như Học viện tư pháp, Học viện Tòa án, để nâng cao chất
lượng xét xử.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật đảm bảo nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật đảm bảo nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử ở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Chương 3: Một số giải pháp cơ bản về hoàn thiện pháp luật đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐẢM BẢO
NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển nguyên tắc tranh tụng trong
tố tụng
Tố tụng tranh tụng (hình thành từ kiểu "xét xử bằng phép thử tội qua
cuộc đấu”) được sơ khai ở nhà nước Hy Lạp cổ đại, sau đó được áp dụng ở La
Mã và phổ biến sang một số nước Châu âu trong thời kỳ trung cổ (Thế kỷ 10 13). Ngày nay, mô hình tố tụng tranh tụng được áp dụng ở nhiều nước nhưng
chủ yếu ở các nước thuộc hệ thống luật án lệ (như Mỹ, Anh, Úc, Singapo,...)
với mức độ và phạm vi khác nhau tuỳ thuộc vào quan niệm và truyền thống
của mỗi nước. Tuy nhiên, có thể rút ra một số đặc điểm chung của mô hình tố
tụng này, cụ thể sau đây:
Tố tụng tranh tụng cho rằng, sự thật sẽ được mở ra thông qua sự tranh
luận (cuộc tranh đấu) tự do và cởi mở giữa hai bên (một bên là Nhà nước và
bên kia là nguời bị buộc tội) có các dữ kiện chính xác về vụ việc. Tố tụng
tranh tụng đề cao luật hình thức (thủ tục tố tụng) hơn luật nội dung (hay nói
cách khác là trọng chứng hơn trọng cung). Thủ tục tố tụng tại phiên toà được
thực hiện công khai, bằng miệng và tuân thủ triệt để nguyên tắc tranh tụng.
Mọi chứng cứ viết (như biên bản của cảnh sát tư pháp) đều không được công
nhận là chứng cứ. Bên buộc tội và bên bào chữa tham gia phiên tòa với tư
cách là hai đối thủ có trách nhiệm chứng minh về sự có tội hay vô tội của bị
cáo. Mỗi bên đều bình đẳng với nhau trong việc sử dụng pháp luật (đặc biệt là
các quy tắc tố tụng và các quyền năng tố tụng) để có thể đạt được ưu thế của
mình trước bên đối phương [8, tr.39].

Tố tụng tranh tụng không có giai đoạn điều tra, mọi chứng cứ hoàn

7


toàn do các bên tự thu thập và chỉ được đưa ra tranh luận tại phiên xét xử. Bên
buộc tội và bên bào chữa sử dụng quyền kiểm tra chéo đối với người làm
chứng để xác định tính trung thực hay sự thiên vị trong các lời khai của họ
(chỉ ra cái mà người làm chứng biết thực chứ không phải cái mà họ nghĩ rằng
họ biết). Vì vậy, ngay cả các sự việc diễn ra tại phiên tòa cũng có thể được các
bên dùng làm chứng cứ chống lại nhau. Mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực
tiếp cho bên kia cũng như những người làm chứng, giám định viên,... thậm
chí có quyền ngắt lời bên kia để phản bác.
Tố tụng tranh tụng quan tâm đặc biệt đến lợi ích của các bên và đặt lợi
ích của xã hội xuống hàng thứ yếu; quyền lực được chia xẻ cho cả công tố
viên, luật sư và Thẩm phán. Trách nhiệm chứng minh được phân đều cho hai
bên buộc tội và bào chữa. Tại phiên toà, Công tố viên đại diện cho Nhà nước
chỉ đóng vai trò của một chủ thể thuộc bên buộc tội để thực hiện chức năng
buộc tội đối với bị cáo (chứng minh tội phạm của bị cáo và những thiệt hại
mà tội phạm đã gây ra cho xã hội). Luật sư bào chữa tranh luận về sự vô tội
hay giảm nhẹ tội để bảo vệ thân chủ của mình về mặt pháp lý. Toà án (Thẩm
phán) chỉ đóng vai trò là người trọng tài có trách nhiệm bảo đảm để các bên
tuân thủ các quy tắc tố tụng. Trên cơ sở các chứng cứ đã được các bên đưa ra
xem xét, kiểm tra tại phiên tòa, Thẩm phán đưa ra phán quyết về vụ án (mà
không có trách nhiệm tìm ra sự thật, không có quyền được biết về các chứng
cứ của vụ án trước khi mở phiên tòa).
Tại phiên toà, các bên có thể sử dụng tất cả các phương tiện, phương
pháp mà pháp luật cho phép để tranh tụng với nhau. Việc lựa chọn phương
pháp, phương tiện cụ thể nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố (thời điểm tranh
tụng, từng vụ án cụ thể, sở trường, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm

thực tiễn,... của mỗi chủ thể). Phương tiện tranh tụng mà các bên sử dụng
trước hết là các chứng cứ, vật chứng được đưa ra xem xét tại phiên toà, các

8


quy phạm pháp luật (hình sự, TTHS, dân sự, lao động,...), các giải thích pháp
luật, án lệ, phân tích, lập luận và phản bác quan điểm, kết luận của bên đối
phương, đồng thời đề nghị Toà án chấp nhận quan điểm của mình về hướng
giải quyết các vấn đề trong vụ án.
1.2. Khái niệm, bản chất, phạm vi, nội dung tranh tụng trong xét xử
Trên thế giới, hiện đang tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng khác nhau,
trong đó đặc trưng nhất của tố tụng hình sự gồm: Tố tụng tranh tụng, tố tụng
thẩm vấn và tố tụng hỗn hợp. Mô hình tố tụng tranh tụng được hiểu: là mô hình
tố tụng hình sự mà trong đó xuất hiện bên buộc tội và bên gỡ tội có địa vị pháp
lý ngang bằng nhau trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án và
toà án sẽ ra phán quyết dựa trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên toà.
- Khái niệm tranh tụng
Khái niệm tranh tụng được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của
xã hội loài người. Loại tố tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy lạp cổ đại.
Ở thời đấy, nguyên cáo bị cáo đã được nhờ người thân của mình bào chữa
trước tòa án. Sau đó nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên
tục”. Cùng với thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và từng
bước được khẳng định và đến nay nó được áp dụng hầu hết ở các nước thuộc
hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ. Ở Việt Nam, có thể nhận
xét tranh tụng trên các bình diện dưới đây:
Về mặt lập pháp: khái niệm tranh tụng chưa được chính thức ghi nhận
hoặc giải thích trong các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta được ban
hành từ năm 1945 đến nay.
Về mặt ngôn ngữ: theo Đại từ điển tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng

có nghĩa là “kiện tụng”; còn theo Hán - Việt từ điển thì tranh tụng có nghĩa là
“cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”.
Theo cách giải thích này, thì tranh tụng chính là quá trình giải quyết vụ

9


kiện dân sự theo đó các đương sự được tranh luận về các yêu cầu, các chứng
cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Đặc thù của tố tụng dân sự là các chủ thể tham gia tố tụng và chủ thể
tiến hành tố tụng cùng nhau xác định sự thật khách quan trên cơ sở xem xét
đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết
khác nhau của vụ án và đối chiếu với các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự. Để có thể tìm ra chân lý, xác định sự thật khách quan về vụ án thì các chủ
thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự phải phát huy tính chủ động, tích
cực trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá các chứng cứ, tài
liệu, các tình tiết liên quan một cách chính xác, khách quan và đầy đủ; đưa ra
các lý lẽ, các quan điểm khác nhau, viện dẫn các quy định của pháp luật để
giải quyết vụ án. Tất cả các hoạt động như cung cấp chứng cứ, đưa ra các yêu
cầu và phản yêu cầu, đối chất giữa các bên… trong giai đoạn trước khi xét xử
cũng như tại phiên tòa đều có thể hiểu là quá trình tranh tụng. Như vậy, tranh
tụng được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ khi các
đương sự thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của
Tòa án. Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì quá trình tranh tụng này sẽ bao
gồm toàn bộ các giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm và cả giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm. Theo nghĩa
hẹp: tranh tụng là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên đương sự với nhau về
chứng cứ, yêu cầu và phản đối yêu cầu của mỗi bên để từ đó nhằm chứng
minh cho đối phương và Tòa án rằng yêu cầu và phản đối yêu cầu của mình

là có căn cứ và hợp pháp.
- Bản chất tranh tụng trong tố tụng
Bản chất của tố tụng tranh tụng Theo Từ điển Tiếng Việt, thì "tranh
tụng” có nghĩa là "sự kiện cáo nhau” giữa hai bên (bên nguyên và bên bị) có

10


lập trường tương phản yêu cầu Toà án phàn xử. Tranh tụng luôn gắn liền với
hoạt động tài phán (ở đâu có xét xử thì ở đó có tranh tụng) và tồn tại không
chỉ trong TTHS mà cả trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính.
Mặc dù tư pháp hình sự ở các nước được tổ chức rất khác nhau (tố tụng thẩm
vấn hay tố tụng tranh tụng), thì phiên toà hình sự đều là cách thức tổ chức
hoạt động xét xử của Toà án, là thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng của
các bên và Toà án nhằm xác định sự thật về vụ án. Mục đích chính của tố tụng
thẩm vấn là tìm ra sự thật và đạt được sự công bằng trong tố tụng (bao gồm
các giai đoạn: điều tra, truy tố và xét xử). Trong khi đó mục đích của hệ tố
tụng tranh tụng lại khác ở chỗ việc tìm ra sự thật chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét
xử. Mọi thông tin thu thập được trong quá trình điều tra đều chưa được xem
xét cho đến khi được trình bày trước Toà. Mỗi bên sẽ trình Toà "sự thật của
phía mình” và Hội đồng xét xử (HĐXX) sẽ xem "sự thật” nào có tính thuyết
phục hơn... Hệ thẩm vấn chú trọng đến khía cạnh thực tế, còn hệ tranh tụng
lại đánh giá cao khía cạnh pháp lý.
Mô hình tố tụng tranh tụng được xây dựng và vận hành trên cơ sở áp
dụng triệt để nguyên tắc tranh tụng - một trong những nguyên tắc cơ bản
xuyên suốt toàn bộ quá trình TTHS đồng thời là cơ sở để xây dựng mọi chế
định khác của TTHS (như: Phân loại các chủ thể tham gia tranh tụng; quyền
hạn và nghĩa vụ của các chủ thể; thủ tục xét xử tại phiên toà;...). Nguyên tắc
này bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
Tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội (bào chữa) là cơ sở vận

hành của TTHS.
Chức năng buộc tội, gỡ tội (bào chữa) và xét xử là độc lập với nhau và
do các chủ thể khác nhau thực hiện.
Tòa án giữ vai trò trọng tài trung lập và có trách nhiệm bảo đảm các
điều kiện cần thiết để các bên buộc tội và bào chữa thực hiện chức năng của
mình; Bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trước Tòa án.

11


Về bản chất, quá trình tranh tụng tại phiên toà là cuộc điều tra và tranh
luận công khai giữa hai bên nhằm xác định sự thật khách quan làm cơ sở để
Toà án ra phán quyết về vụ án. Quá trình này có một số đặc điểm sau đây:
Đây là cuộc điều tra công khai với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể
thuộc bên buộc tội, bên gỡ tội và những người tham gia tố tụng khác dưới sự
điều khiển của chủ toạ phiên toà và giám sát HĐXX. Tại đây các chứng cứ,
tài liệu về vụ án được các chủ thể của.các bên và HĐXX kiểm tra, đánh giá
công khai trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Hoạt động tranh tụng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nghiêm
ngặt, phức tạp và bị hạn chế về mặt không gian (chỉ có thể thực hiện tại phiên
toà) và thời gian (trong thời gian diễn ra phiên toà) do pháp luật quy định.
Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra, xác minh tại phiên
toà và quan điểm của các bên về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án, Toà án
xác định sự thật khách quan và ra phán quyết về vụ án.
Kết quả tranh tụng về vụ án được thể hiện bằng phán quyết (bản án
hoặc quyết định) của HĐXX. Phán quyết của Toà án là hình thức pháp lý ghi
nhận kết quả tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa về vụ án.
Quá trình tranh tụng tại phiên toà diễn ra ở những mức độ với các hình
thức khác nhau. Trong giai đoạn điều tra công khai tại phiên toà, hoạt động
tranh tụng giữa các bên diễn ra ở mức độ thấp (mang tính chất cảm tính).

Thông qua việc xét hỏi trực tiếp đối với bị cáo, những người tham gia tố tụng
khác, xem xét vật chứng,... bên buộc tội và bên bào chữa tiến hành kiểm tra
chéo và đánh giá các chứng cứ mà các bên đưa ra tại phiên toà nhằm xác định
tính hợp pháp và độ tin cậy của chúng, xác nhận có hay không có sự kiện này,
tình tiết kia của vụ án làm cơ sở để đưa ra đánh giá và quan điểm pháp lý của
mình về vụ án ở phần tiếp theo.
Phần tranh luận tại phiên toà thể hiện tập trung và rõ nét nhất hoạt động

12


đối tụng của các bên. Dựa vào kết quả điều tra công khai tại phiên toà, các
bên đưa ra đánh giá về mặt pháp lý lập luận của mình về sự tồn tại hay không
tồn tại mối liên hệ khách quan giữa các sự kiện, các tình tiết của vụ án đã
được kiểm tra, xác minh ở phần xét hỏi. Trên cơ sở các quy định của pháp
luật (hình sự, TTHS, dân sự,...), bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra kết luận
của mình nhằm khẳng định hoặc bác bỏ các nội dung buộc tội, đưa ra các yêu
cầu, đề nghị cụ thể về tội danh, điều khoản, mức hình phạt... hoặc đề nghị về
sự vô tội hay giảm nhẹ tội của bị cáo. Sự tranh tụng ở đây đã chuyển sang
mức độ cao hơn dưới hình thức tư duy, lôgíc của các chủ thể của cả hai bên.
Hai mức độ tranh tụng tại phiên toà nêu trên của hai bên buộc tội và
bào chữa có mối liên hệ hữu cơ và biện chứng với nhau. Lời buộc tội của
Kiểm sát viên hay lời bào chữa của luật sư chỉ có sức thuyết phục và được
Toà án chấp nhận khi và chỉ khi nó dựa trên cơ sở các sự kiện, tình tiết và các
chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra, xác minh công khai tại phiên toà và chỉ ra
được mối liên hệ lôgíc khách quan giữa các sự kiện, tình tiết của vụ án. Ví dụ:
Để kết luận bị cáo phạm tội giết người, Kiểm sát viên phải chỉ ra được trong
hành vi của bị cáo có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội giết người, trong đó lỗi
của bị cáo phải là cố ý. Ngược lại, muốn chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ
tội cho thân chủ thì luật sư bào chữa phải chỉ ra được không có quan hệ nhân

quả giữa giữa hành vi của bị cáo và cái chết của nạn nhân hoặc lỗi của bị cáo
khi gây ra cái chết cho nạn nhân là vô ý.
- Phạm vi tranh tụng
Tranh tụng chủ yếu chỉ có thể tiến hành tại phiên toà nên quá trình này
bị giới hạn bởi chính phiên toà. Nó được bắt đầu từ khi khai mạc phiên toà và
kết thúc sau khi Toà án công bố phán quyết, trong đó tranh luận của các bên
tại phiên toà chi là giai đoạn thể hiện đậm nét nhất, tập trung rõ nét nhất của
quá trình tranh tụng giữa các bên về vụ án. Tại phiên toà, dưới sự điều khiển

13


của HĐXX, với sự tham gia đầy đủ nhất của bên buộc tội, bên bào chữa và
các chủ thể tham gia tố tụng khác (Người làm chứng, giám định viên, phiên
dịch,...), cả ba chức năng cơ bản trong TTHS (buộc tội, bào chữa và xét xử)
được thực hiện. Toàn bộ các hoạt động tố tụng tại phiên toà được tiến hành
với sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật TTHS về trình tự, thủ
tục cũng như về không gian và thời gian. Đây chính là những điều kiện cần
thiết để bảo đảm cho các bên và Toà án thực hiện có hiệu quả chức năng của
mình nhằm đạt được mục đích đặt ra là xác định sự thật về vụ án.
Căn cứ vào nội dung hoạt động của các chủ thể tại phiên toà sơ thẩm,
quá trình tranh tụng tại phiên toà được phân thành các giai đoạn sau (tương
ứng với các giai đoạn xét xử vụ án tại phiên toà):
Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng (tương ứng với phần chuẩn bị của phiên
toà): Đây là giai đoạn Toà án và các bên tiến hành các thủ tục cần thiết để
chuẩn bị cho các hoạt động tranh tụng ở các giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn kiểm tra chứng cứ, tài liệu về vụ án (tương ứng với phần điều
tra công khai tại phiên toà): ở giai đoạn này, dưới sự điều khiển và giám sát
của HĐXX, các bên tiến hành kiểm tra chéo lời khai của những người làm
chứng, các tài liệu về vụ án mà các bên xuất trình trước Toà.

Giai đoạn tranh luận giữa các bên (tương ứng với phần tranh luận tại
phiên toà): Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng.
Tại đây, trên cơ sở phân tích các chứng cứ, tài liệu về vụ án (đã được kiểm tra,
xác minh ở giai đoạn điều tra công khai tại phiên toà) và viện dẫn các quy
phạm pháp luật cần thiết, bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra sự đánh giá pháp
lý đối với hành vi phạm tội của bị cáo và quan điểm của mình về các vấn đề
cần giải quyết trong vụ án đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận hay bác bỏ.
Giai đoạn đánh giá kết quả tranh tụng (tương ứng với phần nghị án):
Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình tranh tụng vì

14


đây là giai đoạn mà Toà án (HĐXX) thực hiện chức năng xét xử - ra phán
quyết (chấp nhận hoặc bác bỏ quan điểm của các bên) về vụ án.
Giai đoạn công bố kết quả tranh tụng (tương ứng với phần tuyên án
cồng khai): HĐXX công bố công khai phán quyết về vụ án và kết thúc quá
trình tranh tụng giữa các bên.
- Nội dung tranh tụng
Về mặt nội dung, quá trình tranh tụng tại phiên toà chính là quá trình
chứng minh tính có căn cứ và hợp pháp nội dung buộc tội đối với bị cáo. Mọi
hoạt động của các chủ thể diễn ra tại phiên toà đều xoay quanh các nội dung
của quyết định truy tố (cáo trạng) - cơ sở pháp lý tồn tại của giai đoạn xét xử
và cũng là trung tâm chi phối toàn bộ hoạt động của các chủ thể thuộc bên
buộc tội và bên bào chữa ở giai đoạn này.
Thực chất đây là quá trình kiểm tra tính xác thực và hợp pháp của các
chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập mà Viện kiểm sát đã dựa vào đó để buộc
tội đối với bị cáo. Tại đây toàn bộ các chứng cứ về vụ án hình sự (đã được thu
thập trong quá trình điều tra cũng như được các bên xuất trình tại phiên toà)
được kiểm tra về tính hợp pháp, tính liên quan và khách quan thông qua hoạt

động của các chủ thể và của HĐXX nhằm xác định sự thật khách quan về vụ án.
Nội dung buộc tội này cũng là cơ sở để xác định sự tham gia của các
chủ thể tại phiên toà cũng như giới hạn, nội dung mà các bên cần chứng
minh trong quá trình tranh tụng tại phiên toà để làm cơ sở cho Toà án ra
phán quyết về vụ án:
Có hành vi phạm tội xảy ra hay không? thời gian, địa điểm và những
tình tiết khác của hành vi phạm tội?
Ai là người thực hiện hành vi phạm tội? có lỗi hay không có lỗi? do cố
ý hay vô ý? có năng lực trách nhiệm hình sự hay không?
Mục đích, động cơ phạm tội?

15


Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
1.3. Pháp luật và hoàn thiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng
1.3.1. Khái niệm, phạm vi điều chỉnh của pháp luật đảm bảo nguyên
tắc tranh tụng
- Khái niệm
Theo quan niệm chung, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng
chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt
động nhất định “là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các
chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó
là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự
và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận” [6, tr.11-12].
Nguyên tắc tranh tụng thể hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch,
khách quan, bình đẳng trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong phiên tòa xét xử
vụ án hình sự.

Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tố tụng sử dụng
các phương pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nguyên
tắc tranh tụng đề cao vai trò của Luật sư, của cá nhân và đề cao các quyền cơ
bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công
minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên
tòa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công
khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát của Kiểm sát viên và Thẩm phán
luôn phải chịu trách sức ép từ bên đối tụng. Vì vậy, mục đích của các bên trong
tranh tụng là phải tự chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu không họ sẽ
là người thua cuộc.
Như đã nêu ở trên, vai trò của tranh tụng được thể hiện thông qua ba quy

16


×