Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

THỰC TRẠNG và KIẾN THỨC, THỰC HÀNH của cán bộ y tế về QUẢN lý CHẤT THẢI rắn y tế tại BỆNH VIỆN tâm THẦN TỈNH VĨNH PHÚC năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.3 KB, 60 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ

LÊ GIANG LINH

THỰC TRẠNG VÀ KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CỦA
CÁN BỘ Y TẾ VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI
BỆNH VIỆN TÂM THẦN TỈNH VĨNH PHÚC NĂM 2018
Chuyên ngành : Quản lý bệnh viện
Mã số
: 60720701
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS VŨ KHẮC LƯƠNG
2. TS. TRẦN QUỲNH ANH

HÀ NỘI - 2018


2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CT

: Chất thải


CTR

: Chất thải rắn

CTRYT

: Chất thải rắn y tế

CTYT

: Chất thải y tế

CTYTNH

: Chất thải y tế nguy hại

CBYT

: Cán bộ y tế


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC BẢNG



5

DANH MỤC SƠ ĐỒ


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, kinh tế xã hội phát triển thì nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của
người dân càng ngày càng được nâng cao. Để đáp ứng nhu cầu đó, các cơ sở y
tế cũng gia tăng một cách nhanh chóng cả về số lượng lẫn quy mô. Tính đến
2012, trên cả nước có 35 226 cơ sở y tế (trong đó có 1065 bệnh viện, 1081
trung tâm y tế, 998 phòng khám đa khoa và ngoài ra còn có các trạm y tế) [1].
Từ các hoạt động chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế, lượng rác thải y tế
phát sinh tại đây cũng ngày càng tăng theo thời gian. Theo thống kê, mức tăng
chất thải y tế hiện nay là 7,6%/năm. Ước tính đến năm 2020 lượng chất thải
rắn y tế (CTRYT) phát sinh sẽ là 800 tấn/ngày. Trong đó có từ 10 – 25% là
chất thải nguy hại [2], nó chứa các tác nhân vi sinh, chất phóng xạ, hóa chất,
các kim loại nặng và các chất độc gây đột biến tế bào là dạng chất thải có thể
gây những tác động tiềm tàng tới môi trường và sức khỏe cộng đồng, đặc biệt
là cán bộ y tế, nhưng người phải tiếp xúc trực tiếp hàng ngày[1].
Tại Việt Nam, nhận thức của cộng đồng nói chung và cán bộ y tế nói
riêng về những nguy cơ tiềm ẩn trong chất thải bệnh viện còn kém. Phương
tiện thu gom, vận chuyển chất thải còn thiếu, chưa đồng bộ, hầu hết chưa đạt
tiêu chuẩn, chỉ có 53% số bệnh viện sử dụng xe có nắp đậy khi vận chuyển
chất thải y tế nguy hại [3].
Bệnh viện tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập và đi vào hoạt động
từ năm 2006. Năm 2017, bệnh viện đã khám, điều trị cho 12000 lượt bệnh
nhân, trong đó có 11000 bệnh nhân nằm nội trú. Đồng thời bệnh viện thường

xuyên tổ chức các chương trình y tế cộng đồng tới 137 xã, phường, thị trấn,
trên 5000 bệnh nhân. Hiện nay, bệnh viện đang tập trung phát triển chuyên
môn, nâng cấp cơ sở hạ tầng của các khu điều trị nên trang bị và cơ sở vật
chất, hạ tầng phục vụ quản lý CTRYT còn nhiều hạn chế như: Kho lưu giữ


7
chất thải chưa được đảm bảo; các thùng đựng chất thải còn thiếu về màu sắc.
Vẫn còn tồn tại tình trạng CBYT chưa thực hiện đúng quy định về quản lý
chất thải như: Phân loại sai; xử lý ban đầu chưa đúng; thu gom, vận chuyển
chưa đảm bảo. Trong khi đó, các khoa lâm sàng là nơi trực tiếp khám và điều
trị cho bệnh nhân, môi trường khám chữa bệnh cần phải đảm bảo sạch sẽ, vệ
sinh, không lan truyền. Xử lý chất thải y tế tốt sẽ góp phần giảm thiểu được
sự lãng phí về kinh tế cho bệnh viện và đồng thời giảm được nguy cơ rủi do
cho CBYT liên quan. Để xử lý chất thải rắn y tế tốt thì CBYT cần có kiến
thức, thực hành tốt về vấn đề đó. Vậy câu hỏi đặt ra là thực trạng kiến thức,
thực hành của CBYT trong bệnh viện về xử lý CTRYT ra sao? Có những y tế
tố nào tác động đến kiến thức, thực hành của CBYT về vấn để đó. Để trả lời
cho câu hỏi đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và kiến
thức, thực hành của cán bộ y tế về quản lý chất thải rắn y tế tại Bệnh viện
Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018”.Với 2 mục tiêu:
1.

Mô tả thực trạng quản lý CTRYT tại Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh
Phúc năm 2018.

2.

Mô tả kiến thức, thực hành của CBYT bệnh viện về quản lý CTRYT
và một số yếu tố liên quan.



8

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm về chất thải y tế
Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa chất thải y tế là tất cả các loại chất thải
phát sinh trong các cơ sở y tế, bao gồm cả các trung tâm nghiên cứu, phòng
thí nghiệm và các hoạt động y tế tại nhà.
Chất thải y tế (CTYT) là chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động
của các cơ sở y tế, bao gồm chất thải y tế nguy hại, chất thải y tế thông
thường và nước thải y tế [4].
Chất thải y tế nguy hại (CTYTNH) là chất thải y tế chứa yếu tố lây
nhiễm hoặc có đặc tính nguy hại khác vượt ngưỡng chất thải nguy hại, bao
gồm chất thải lây nhiễm và chất thải nguy hại không lây nhiễm [4].
Quản lý chất thải y tế (QLCTYT) là quá trình giảm thiểu, phân định,
phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải y tế và giám
sát quá trình thực hiện [4].
Giảm thiểu chất thải y tế là các hoạt động làm hạn chế tối đa sự phát
thải chất thải y tế [4].
Thu gom chất thải y tế là quá trình tập hợp chất thải y tế từ nơi phát
sinh và vận chuyển về khu vực lưu giữ, xử lý chất thải y tế trong khuôn viên
cơ sở y tế [4].
Vận chuyển chất thải y tế là quá trình chuyên chở chất thải y tế từ nơi
lưu giữ chất thải trong cơ sở y tế đến nơi lưu giữ, xử lý chất thải của cơ sở xử
lý chất thải y tế cho cụm cơ sở y tế, cơ sở xử lý chất thải y tế nguy hại tập
trung hoặc cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung có hạng mục xử lý chất
thải y tế [4].



9
1.2. Phân loại chất thải y tế
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều cách phân loại với các quan điểm
khác nhau của các nhà quản lý.Tuy nhiên tất cả các cách phân loại đều dựa
vào tính chất vật lý, hóa học, sinh học nguy hại của chất thải gây ảnh hưởng
tới sức khỏe và môi trường sống.
1.2.1. Phân loại chất thải y tế
Theo WHO, CTYT được chia làm 8 loại [5]:
Chất thải lây nhiễm: Là chất thải bị nghi ngờ chứa mầm bệnh và nguy
cơ làm lây truyền bệnh (như chất thải dính máu và chất dịch cơ thể khác; chất
hải và các vật dụng đã tiêp xúc với bệnh nhân mắc các bệnh lây nhiễm cao
trong khu cách ly).
Chất thải bệnh lý: Các mô của con người, bộ phận cơ thể hoặc chất
lỏng, bộ phận cơ thể và xác động vật bị bệnh.
Chất thải sắc nhọn: Bao gồm ống tiêm, kim tiêm, dao mổ dùng một lần
và lưỡi……
Hóa chất: Các dung môi được sử dụng để chuẩn bị phòng thí nghiệm,
thuốc khử trùng và các kim loại nặng có trong các thiết bị y tế ( như thủy
ngân) và pin.
Chất thải phóng xạ: Như các sản phẩm bị nhiễm chất phóng xạ bao
gồm các dụng cụ chẩn đoán phóng xạ hoặc vật liệu xạ trị.
Chất thải không nguy hại chung: Những chất thải mà không chứa bất
kỳ yếu tố lây nhiễm sinh học, hóa học, phóng xạ hoặc chất gây nnguy hiểm.
1.2.2. Phân loại chất thải y tế tại Việt Nam
Theo thông tư liên tịch số 58 (2015) Quy định về quản lý chất thải y tế
thì chất thải y tế bao gồm 3 nhóm là: chất thải lây nhiễm, chất thải nguy hại
không lây nhiễm và chất thải thông thường [4].



10
Chất thải lây nhiễm : Chất thải lây nhiễm là loại chất thải chứa các
mầm bệnh (vi khuẩn, virus, kí sinh trùng hoặc nấm) có khả năng gây bệnh
cho con người.
Chất thải lây nhiễm được phân thành 4 loại, bao gồm:
Chất thải lây nhiễm sắc nhọn là chất thải lây nhiễm có thể gây ra các
vết cắt hoặc xuyên thủng bao gồm: kim tiêm; bơm liền kim tiêm; đầu sắc
nhọn của dây truyền; kim chọc dò; kim châm cứu; lưỡi dao mổ; đinh; cưa
dùng trong phẫu thuật và các vật sắc nhọn khác.
Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn bao gồm: Chất thải thấm, dính,
chứa máu hoặc dịch sinh học của cơ thể, các chất thải phát sinh từ buồng bệnh
cách ly.
Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao bao gồm: Mẫu bệnh phẩm, dụng cụ
đựng, dính mẫu bệnh phẩm, chất thải dính mẫu bệnh phẩm phát sinh từ các
phòng xét nghiệm an toàn sinh học cấp III trở lên theo quy định tại Nghị định
số 92/2010.NĐ – CP ngày 30 tháng 8 năm 2010 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm về bảo đảm an toàn sinh
học tại phòng xét nghiệm ;
Chất thải giải phẫu bao gồm: Mô, bộ phận cơ thể người thải bỏ và xác
động vật thí nghiệm.
Chất thải nguy hại không lây nhiễm bao gồm:
Hóa chất thải bỏ bao gồm hoặc có các thành phần nguy hại;
Dược phẩm thải bỏ thuộc nhóm gây độc tế bào hoặc có cảnh báo nguy
hại từ nhà sản suất.
Thiết bị y tế bị vỡ, hỏng, đã qua sử dụng thải bỏ có chứa thủy ngân và
các kim loại nặng,
Chất hàn răng amalgam thải bỏ.


11

Chất thải nguy hại khác theo quy định tại Thông tư số 36/2015/TT –
BTNMT ngày 30 tháng 6 năm 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về
quản lý chất thải nguy hại .
Chất thải y tế thông thường bao gồm:
Chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trong sinh hoạt thường ngày của con
người và chất thải ngoại cảnh trong cơ sở y tế.
Chất thải rắn thông thường phát sinh từ cơ sở y tế không thuộc Danh
mcuj chất thải y tế nguy hại hoặc thuộc Danh mục chất thải y tế nguy hại
nhưng có yếu tố nguy hại dưới ngưỡng chất thải nguy hại.
1.3. Thực trạng kiến thức, thực hành về quản lý chất thải rắn y tế
1.3.1. Kiến thức, thực hành trong quản lý chất thải y tế trên thế giới
Trên thế giới, công tác quản lý, xử lý CTYT được nhiều quốc gia quan
tâm và tiến hành một cách triệt. Về quản lý, xử lý CTYT họ có một loạt
những chính sách quy định, đã được ban hành nhằm kiểm soát chặt chẽ loại
chất thải này. Các hiệp ước quốc tế, các nguyên tắc, pháp luật và quy định về
loại chất thải nguy hại, trong đó có cả chất thải y tế cũng đã được công nhận
và thực hiện hầu hết các quốc gia trên thế giới bởi CTYT có nguy cơ tiềm ẩn
có thể gây hại tới môi trường và con người.
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về
lĩnh vực chất thải y tế như quản lý nguồn phát sinh, phân loại, thu gom, vận
chuyển và xử lý chất thải y tế, hay các biện pháp làm giảm thiểu, tái sử dụng
chất thải y tế [9].
Tại một cơ sở giảng dạy nha khoa ở Ấn Độ, khi đánh giá kiến thức và
nhận thức việc quản lý chất thải y tế của nhân viên y tế (NVYT) và sinh viên
y khoa cho thấy không có nhiều người chú ý đến việc quản lý chất thải nhưng
hầu hết các đối tượng đồng ý với thực tế rằng việc tiếp xúc với chất thải y tế
nguy hại có thể gây bệnh hoặc nhiễm trùng. Các kết quả kiểm tra cho thấy


12

kiến thức và trình độ nhận thức của các đối tượng là không đầy đủ và có sự
thayđổi đáng kể trong thực tế quản lý liên quan đến chất thải y sinh khi được
hỗ trợ về kiến thức. Vì vậy việc cung cấp kiến thức quản lý chất thải y sinh là
một nhu cầu rất lớn để tiếp tục giáo dục và đào tạo trong các chương trình tại
các cơ sở giảng dạy y khoa.
Theo Sarma RK, Shyama S Nagarajan và cộng sự khi nghiên cứu khác
về thái độ và hành vi xử lý chất thải y tế viện khoa học y tế Ấn Độ cho thấy:
Kiến thức đạt của nhà khoa học 86%, y tá 80%, nhân viên vệ sinh 71%. Thái
độ đúng của nhà khoa học 95%, y tá 100%, nhân viên vệ sinh 76%. Thực
hành tốt của nhà khoa học 82%, y tá 100%, nhân viên vệ sinh 48% [10].
Nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành của phân loại chất thải y
sinh học trong cán bộ y tế của bệnh viện cấp đại học ở Ấn Độ do Sanni và
cộng sự năm 2005 cho thấy: Kiến thức đúng của bác sỹ là 61%, điều dưỡng là
57%, thái độ đúng của bác sỹ là 70%, điều dưỡng là 98%, thực hành đúng của
bác sỹ là 77%, điều dưỡng là 100% [11].
Kết quả nghiên cứu của Viện chăm sóc sức khỏe Johannesburg về Kiến
thức, thực hành của các bác sỹ và y tá do Basu Debashis, Ramokate Tuduetso
[12] cho thấy: Kiến thức đạt 98,5%, thực hành tốt đạt 95%.
Một nghiên cứu khác của Kishose J và cộng sự năm 2014 với đối tượng
là cán bộ y tế tại 116 viện dưỡng lão ở hai vùng phía Nam và phía Đông Ấn
Độ đã cho thấy 41,7% CBYT có kiến thức đúng về thu gom RTYT để đảm
bảo sức khoẻ, ngăn ngừa lây nhiễm cho cộng đồng. Nghiên cứu phân tích sâu
về kiến thức, thái độ, thực hành của cán bộ y tế đối với thu gom rác thải [13].
Một nghiên cứu kiến thức, nhận thức và thực hành tiêm an toàn và quản lý,
xử lý chất thải y tế trong giảng dạy nhân viên bệnh viện ở phía Đông nam Nigeria
do Enwere, Diwe [14] cho thấy: Chỉ có 45% vẫn đậy nắp kim tiêm sau sử dụng


13
nhưng không phân loại, 54% đã nghe hoặc nhìn thấy mầu hoặc mã thùng. Chỉ có

25% với chấn thương châm kim có điều trị dự phòng sau phơi nhiễm.
Với một nghiên cứu về kiến thức và thái độ, thực hành của nhân viên y tế
hướng tới quản lý chất thải tại Bệnh viện Đại học Cairo do tác giả Hakin,
Mohsen, Bakr [15] kết quả cho thấy tỷ lệ thực hành đạt của: Y tá là 84%, bác sỹ
là 63%. Nghiên cứu nhận thức và thực hành về quản lý chất thải chăm sóc sức
khỏe giữa các nhân viên bệnh viện tại một bệnh viện Đại học y tế Bangalore do
Suwarna, Madhukumar, Ramesh và cộng sự [16] kết quả cho thấy: Nhận thức
đạt của bác sỹ 76,8%, của y tá 81,9%, nhận thức chung đạt là 95,8%.
Nghiên cứu phát triển một giao thức quản lý chất thải dựa trên đánh giá
về kiến thức và thực hành của nhân viên y tế tại các khoa phẫu thuật do
Mostafa, Shaly, Sharief [17] kết quả cho thấy: Chỉ có 27,4% y tá, 32,1% quản
gia và 36,8% các bác sỹ có kiến thức thỏa đáng. Liên quan đến thực hành
18,9% của các y tá, 7,1% của các quản gia và không ai trong các bác sỹ đã
thực hành đầy đủ.
Các kết quả của việc xem xét hiện tại cho thấy kiến thức và trình độ
nhận thức của các đối tượng là không đầy đủ và có sự thay đổi đáng kể trong
thực tế và quản lý, xử lý chất thải giữa các nghiên cứu khác nhau. Quản lý an
toàn và hiệu quả chất thải không chỉ là một điều cần thiết hợp pháp mà là một
trách nhiệm xã hội. Tiếp tục chương trình giáo dục và đào tạo các khóa học
ngắn hạn về lây nhiễm chéo và quản lý chất thải y sinh học là phương tiện
thích hợp của việc nâng cao kiến thức. Quản lý chất thải y sinh học phải được
thực hiện nghiêm túc và giám sát có hệ thống [25].
1.3.2. Kiến thức, thực hành trong quản lý chất thải y tế tại Việt Nam
Việc quản lý chất thải y tế ngày càng được xã hội quan tâm đặc biệt là
các chất thải có chứa mầm bệnh.Chất thải y tế nếu khôngđược quản lý, xử lý


14
tốt sẽ là nguồn lây nhiễmnguy hiểm cho con người. Để quản lý hiệu quản chất
thải y tế, cần thực hiện đồng bộ nhiều khâu từ khi chất thải phát sinh cần được

phân loại, thu gom, vận chuyển đến xử lý ban đầu và xử lý triệt để chất thải y
tế. Việc thu gom, phân loại ngay tại nguồn phát sinh chất thải và xử lý ban
đầu, đặc biệt là chất thải y tế nguy hại sẽ giảm thiểu được nguy cơ lây bệnh
cho NVYT và tiết kiệm rất lớn chi phí cho các cơ sở y tế. Để thực hiện được
điều này, giải pháp hiệu quả là tăng cường nhận thức và thực hành của nhân
viên y tế trong quản lý và xử lý chất thải y tế.
Thời gian gần đây qua thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà
nước về môi trường đã phát hiện một số bệnh viện chưa làm tốt công tác quản
lý, xử lý đã để một số nhân viên lợi dụng sơ hở đưa một số vật tư y tế đã qua
sử dụng bán ra bên ngoài để tái sử dụng dẫn đến không đảm bảo chất lượng,
vệ sinh gây ra những hậu quả khôn lường cho người tiêu dùng… Để xảy ra
điều này là do nhân viên y tế một phần do lợi ích cá nhân trước mắt, công tác
quản lý CTYT chưa được chặt chẽ, vấn đề tuyên truyền phổ biến chính sách
pháp luật về quản lý chất thải y tế cho cán bộ công nhân viên bệnh viện chưa
được thường xuyên. Để tăng cường công tác quản lý chất thải y tế trong bệnh
viện Bộ Y tế đã ra chỉ thị số 05/CT-BYT ngày 6/7/2015 về việc tăng cường
quản lý chất thải y tế trong bệnh viện.
Một nghiên của Sở y tế Hà Nội tiến hành từ năm 2009 đến 2010 với 74
bệnh viện tại Hà Nội về thu gom, phân loại chất thải y tế cho thấy, nhìn chung
phần lớn các bệnh viện đều đã triển khai theo yêu cầu của quy chế quản lý
chất thải y tế về việc sử dụng bao bì, túi, thùng đựng theo mã màu quy định,
một số bệnh viện chưa thực hiện với lý do: nguồn kinh phí hạn chế…


15
Bảng 1.1. Hiện trạng thu gom, phân loại chất thải y tế tại các bệnh viện
trên địa bàn Thành phố Hà Nội năm 2010
Các yêu cầu theo quy chế quản lý chất thải y tế

Tỷ lệ tuân thủ


(%)
Túi đựng chất thải đúng quy cách về bề dày và dung tích
66,67
Túi đựng chất thải đúng quy cách về màu sắc
30,67
Túi đựng chất thải đúng quy cách về buộc đóng gói
81,33
Hộp đựng sắc nhọn đúng quy cách
93,9
Thùng đựng có nắp đậy
58,33
Thùng đựng có ghi nhãn
66,67
Hộp đựng vật sắc nhọn đúng quy cách
93,9
Nguồn: Số liệu thống kê trung bình của Sở y tế từ kết quả khảo sát 74
bệnh viện Hà Nội năm 2009- 2010.
Một nghiên cứu khác về kiến thức, thái độ hành vi của NVYT trong
thực hiện quy chế quản lý chất thải tại Bệnh viện Nhi đồng 2 năm 2008 do
Khúc Thị Kim Nguyệt và cộng sự [18] cho thấy: Kiến thức chung đạt 79,5%.
Thái độ đúng 83,1%. Hành vi tốt là 82,9%.
Kết quả nghiên cứu về thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và kiến
thức, thực hành của NVYT Bệnh viện đa khoa Đông Anh năm 2011 do Hoàng
Thị Thúy và cộng sự [19] cho thấy: Kiến thức chung đạt về quản lý chất thải
86.6%. Thực hành tốt phân loại chất thải 82.4%.Những người có kiến thức tốt
hơn thì thực hành tốt hơn.
Nghiên cứu thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành của NVYT trong
quản lý và xử lý chất thải y tế tại 10 bệnh viện khu vực phía Bắc do Nguyễn
Văn Chuyên và cộng sự năm 2012 cho thấy: Kiến thức đạt chiếm 79,4%, tỷ lệ

này ở bác sỹ là 82,4%, ở điều dưỡng là 76,8%. Thái độ đúng chiếm 75,6%, tỷ
lệ này ở bác sỹ là 79,2%, ở điều dưỡng 72,4%. Thực hành đạt là 71,9%, trong
đó ở bác sỹ là 76,8%, điều dưỡng là 67,8% [20].
Theo nghiên cứu của Trần Thị Kiệm năm 2012 về đánh giá thực trạng
thu gom và phân loại CTRYT tại bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, Hải Phòng


16
cho thấy 91,7% CBYT thực hành phân loại CTRYT, 91,6% thực hành đúng
về thu gom rác thải [21].
Một nghiên cứu khác về kiến thức, thái độ và thực hành của điều
dưỡng, hộ lý trong công tác phân loại và thu gom CTRYT tại bệnh viện II
Lâm Đồng của tác giả Hoàng Trung Lập và cộng sự năm 2013 cho thấy: Kiến
thức đạt của điều dưỡng là 99,4%, hộ lý là 97,4% [22]
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hồng Điệp năm 2013 về
thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và một số yếu tố liên quan đến kiến thức,
thực hành của nhân viên y tế Bệnh viện đa khoa Thành phố Vinh cho thấy:
98,3% các khoa, phòng phân loại chất thải theo đúng quy định của Bộ Y tế,
96,7% thực hiện thu gom chất thải y tế đạt. Toàn viện chỉ có 13,3% sử dụng
dụng cụ bao bì đạt, 61% nhân viên hiểu được các khâu phân loại, 76,4% thực
hành phân loại đạt [23].
Qua kết quả nghiên cứu kiến thức, thực hành về phân loại, thu gom chất
thải rắn y tế của cán bộ điều dưỡng Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa năm
2014 của tác giả Hoàng Thị Định cho thấy 84% và 78,3% cán bộ điều dưỡng
có kiến thức và thực hành đạt về phân loại, thu gom chất thải rắn y tế [24].
Theo nghiên cứu của Chu Thị Luyến tại bệnh viện Tim Hà Nội cho
thấy có 89,5% CBYT có kiến thức đạt về quản lý chất thải nhưng chỉ có
81,5% thực hành đúng về phân loại rác thải khi tiêm, thay băng, có 6,9% thực
hành đúng khi phân loại chai, lọ đựng thuốc và chỉ có 75% CBYT thực hành
đúng thu gom chất thải [25].

Theo thông tin từ Cục quản lý môi trường - Bộ Y tế đưa ra tại Hội nghị
tập huấn công tác Quản lý chất thải y tế (tháng 4/2015). Theo đó tại 35 bệnh
viện tuyến Trung ương thì có 22 bệnh viện có hợp đồng với Công ty xử lý
chất thải rắn, còn 13 bệnh viện (37%) tự xử lý, có 6 bệnh viên chưa có hệ
thống xử lý nước thải mà xả trực tiếp ra môi trường đặc biệt số bệnh viện này
đều nằm trong nội thành và ở nơi đông dân cư ẩn họa trong đó là rất nhiều
mầm bệnh ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân [6].


17
1.4. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành trong quản lý chất
thải y tế:
Hầu hết các bệnh viện 90,9% chất thải rắn được thu gom hàng ngày, một
số bệnh viện có diện tích chật hẹp nên gây khó khăn trong việc thiết kế lối đi
riêng để vận chuyển chất thải. Chỉ có 53% số bệnh viện chất thải được vận
chuyển trong xe có nắp đậy. Có 53,4% bệnh viện có nơi lưu giữ chất thải có
mái che, trong đó có 45,3% đạt yêu cầu theo quy chế quản lý chất thải […]
* Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo
Quá trình phân loại, thu gom, xử lý CTYT ở các bệnh viện chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ sự quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo bệnh viện.

Khi có

sự quan tâm, ủng hộ của lãnh đạo bệnh viện thì việc đề xuất các khóa học, tập
huấn, việc trang bị những phương tiện làm việc cùng với trang bị bảo hộ lao
động được đầu tư hơn. Từ đó đảm bảo đầy đủ về nhân lực, vật lực và chi phí
để đảm bảo công tác xử lý đó sẽ đảm bảo đạt kết quả cao.
Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh
viện xây dựng đường lối, chính sách phát triển và vận hành hệ thống xử lý rác
thải tại bệnh viện. Mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn với các thành viên phần

lớn là cán bộ điều dưỡng trưởng các khoa, phòng có nhiệm vụ giám sát, đề
xuất các biện pháp quản lý chất thải y tế.
* Công tác kiểm tra, giám sát
Công tác kiểm tra giám sát có vai trò quan trọng trong công tác xử lý
rác thải tại bệnh viện. Việc giám sát phải diễn ra liên tục và thường xuyên, từ
nơi phát sinh, phân loại, thu gom và xử lý. Bộ phận được giao giám sát làm
tốt sẽ đảm bảo quá trình xử lý đó được diễn ra thuận lợi và hiện quả. Khoa
Kiểm soát nhiễm khuẩn của bệnh viện có nhiệm vụ chính trong công tác kiểm
tra, giám sát. Khoa có trách nhiệm phối hợp với điều dưỡng trưởng các khoa


18
kiểm tra, giám sát công tác quản lý và xử lý chất thải y tế… định kỳ báo cáo
lên Sở Y tế theo quy định.
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát không chỉ làm quá trình thực
hiện tốt hơn mà từ đó còn rút ra được những mặt thuận lợi và hạn chế trong
công tác xử lý rác thải để xây dựng kế hoạch tập huấn, bổ sung kiến thức,
thực hành nhằm đạt kết quả tốt hơn […].
* Công tác tổ chức đào tạo, tập huấn
Do đặc thù ngành y tế, việc học tập, cập nhật kiến thức mới trong công
tác luôn được chú trọng và khích lệ. Nếu việc đào tạo, tập huấn không hoặc
chưa được triển khai sẽ có thể dẫn đến thiếu hụt kiến thức cho nhân viên y tế,
cũng như ảnh hưởng đến kết quả điều trị chăm sóc cho bệnh nhân.
Bên cạnh đó việc tập huấn kiến thức về phân loại, thu gom và xử lý rác
thải cho CBYT mới và các đối tượng học sinh, sinh viên đang học tập và công
tác tại viện cũng rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả công việc xử lý CTYT.
* Trình độ học vấn
Trình độ học vấn liên quan đến thời gian học tập và chương trình học
tập tại các cơ sở đào tạo về y tế. Theo đó, mỗi cấp học, mỗi trình độ học được
tiếp cận với mức độ kiến thức về y học nói chung và kiến thức xử lý CTYT

nói riêng. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành của CBYT trong việc
xử lý rác thải.
Theo nghiên cứu của Trần Thị Kiệm năm 2012 về đánh giá thực trạng
thu gom và phân loại CTRYT tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp, Hải Phòng
trước đây cho thấy, tỷ lệ người trong nhóm có trình độ học vấn từ cao đẳng
trở lên có kiến thức và thực hành đúng trong phân loại, thu gom cao hơn
nhóm có trình độ học vấn là trung cấp [21].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Định năm 2015 về kiến thức,
thực hành về phân loại, thu gom CTRYT của cán bộ điều dưỡng Bệnh viện đa


19
khoa tỉnh Thanh Hóa và một số yếu tố liên quan năm 2014 cho thấy có sự liên
quan rõ rệt giữa trình độ học vấn và kiến thức, thực hành trong xử lý CYYT
[24].
* Giới tính
Do đặc thù, tính chất công việc của nghề điều dưỡng đòi hỏi người cán
bộ y tế phải nhẹ nhàng, tỷ mỉ, chu đáo nên công việc này thường thích hợp
với nữ giới hơn là nam giới
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Chuyên và cộng sự năm 2012,
nghiên cứu cho thấy nữ giới có tỷ lệ kiến thức đạt cao gấp 1,4 lần nam giới [23].
* Bộ phận công tác
Mỗi một bộ phận khác nhau sẽ liên quan khác nhâu đến sự phát sinh
CTYT. Từ đó thái độ với CBYT với xử lý rác thải cũng khác nhau.
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tĩnh năm 2012 về
kiến thức, thái độ, thực hành về xử lý chất thải y tế của nhân viên bệnh viện
huyện, tỉnh Kiên Giang và một số yếu tố liên quan cho thấy nhân viên y tế
thực hành đúng ở khối lâm sàng và cận lâm sàng chiếm tỷ lệ tương đối cao
tương ứng 76,8% và 89,5% so với khối hành chính là 66% [26].
* Thâm niên công tác

Thâm niên công tác trong ngành y tế cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến
kiến thức, thực hành của cán bộ y tế trong công tác phân loại, thu gom CTYT.
Theo nghiên cứu về thực trạng quản lý chất thải rắn y tế và kiến thức
thực hành của nhân viên Bệnh viện đa khoa Đông Anh năm 2011 do Hoàng
Thị Thúy và cộng sự cho thấy: cán bộ y tế có thâm niên công tác trên 10 năm
thì có kiến thức không đạt cao gấp 2,08 lần so với cán bộ y tế có thâm niên
công tác từ 10 năm trở xuống [19].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Lại Thu Trang về thực trạng và một số
yếu tố liên quan đến công tác quản lý chất thải y tế tại Bệnh viện Hữu Nghị


20
Việt Tiệp, Hải Phòng năm 2012 cho thấy kiến thức về phân loại, thu gom chất
thải có mối liên quan chặt chẽ tới thời gian công tác tại bệnh viện. Người có
thời gian công tác càng lâu thì có kiến thức cao hơn so với những người có
thời gian công tác ít hơn [27].
* Tham gia các khóa đào tạo chuyên môn
Sự tham gia vào các khóa đào tạo, tập huấn về quản lý CTYT dẫn đến
những thay đổi về nhận thức, thực hành của cán bộ y tế trongcông tác phân
loại, thu gom rác thải. Các nghiên cứu trước đây đều cho một phát hiện giống
nhau, đó là các nhân viên y tế tham gia các khóa đào tạo thì có kiến thức và
thực hành đạt cao hơn.
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Chuyên và cộng sự năm
2011 tại 10 bệnh viện khu vực phía bắc trên đối tượng là bác sỹ, dược sỹ, y sỹ
và y tá, hộ lý cho thấy nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thiếu kiến thức,
thực hành quản lý và xử lý chất thải y tế sai của nhân viên y tế là trình độ học
vấn, thâm niên công tác, tập huấn, số lần tập huấn và thời gian tập huấn.
Những đối tượng có thâm niên công tác lâu năm, trình độ học vấn cao, được
tập huấn thường xuyên thì có kiến thức và thực hành về quản lý và xử lý chất
thải tốt hơn [23].

Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Văn Tĩnh năm 2012 tại ba
bệnh viện đa khoa: huyện Hòn Đất, huyện Châu Thành, huyện An Biên của
tỉnh Kiên Giang cho thấy có mối liên quan giữa tập huấn về CTYT với kiến
thức. Những NVYT chưa tập huấn quản lý CTYT có kiến thức không đạt cao
gấp 2,09 lần so với NVYT tham gia tập huấn [26].
1.5. Đặc điểm của Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc
Bệnh viện tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập theo quyết định số:
5058/QĐ-UBND ngày 30 tháng 12 năm 2003 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc.
Trải qua nhiều năm khó khăn và chính thức thu dung điều trị người bệnh từng


21
bước đi vào hoạt động từ năm 2006 . Là một bệnh viện chuyên khoa của tỉnh
Vĩnh Phúc, bệnh viện được xếp hạng III với quy mô 120 giường bệnh, tổng
số CBYT
Năm 2017, bệnh viện đã khám, điều trị cho 12000 lượt bệnh nhân,
trong đó có 11000 bệnh nhân nằm nội trú. Đồng thời bệnh viện thường xuyên
tổ chức các chương trình y tế cộng đồng tới 137 xã, phường, thị trấn, trên
5000 bệnh nhân.


22

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu

Sơ đồ 2.1. Khung lý thuyết của nghiên cứu



23
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
-

Địa điểm: Các khoa lâm sàng, cận lâm sàng, khối hành chính và khoa Dược
thuộc Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc.

-

Thời gian nghiên cứu: Từ 1/3/2018 đến 30/5/2019, trong đó thu thập số liệu từ
tháng 9 năm 2018 đến tháng 5/2019.
2.3. Đối tượng nghiên cứu:

-

Đối tượng nghiên cứu: Cán bộ y tế đang làm việc tại các khoa, phòng của
Bệnh viện Tâm thần tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Tiêu chuẩn lựa chọn: Toàn bộ cán bộ y tế đang công tác tại các khoa,
phòng của bệnh viện tại thời điểm nghiên cứu.
. Đồng ý tham gia nghiên cứu
+ Tiêu chuẩn loại trừ:
CBYT không có mặt tại bệnh viện trong thời gian nghiên cứu.
Không đồng ý tham gia nghiên cứu
- Các cấp quản lý: Đại diện ban giám đốc, lãnh đạo khoa Kiểm soát
nhiễm khuẩn, khoa lâm sàng, khoa cận lâm sàng, hành chính, khoa dược.
(phỏng vấn sâu)
- Sổ sách, tài liệu, hồ sơ có liên quan tới quản lý và xử lý chất thải y tế
+Tiêu chuẩn lựa chọn: các sổ sách, tài liệu, bệnh án, bài báo, báo cáo có
liên quan tới nội dung và chủ đề nghiên cứu.
+ Tiêu chuẩn loại trừ: Tài liệu, thông tin, số liệu không có độ tin cậy cao.

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1.Thiết kế nghiên cứu:

-

Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp nghiên cứu định tính và định
lượng


24
2.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu:
Đối tượng
TT nghiên
Cỡ mẫu
cứu
1
2

CBYT

Toàn bộ

Cán bộ
quản lý

Cách chọn mẫu

Phương pháp
Công cụ thu
thu thập

thập thông tin
thông tin
Phát vấn/tự Bộ câu hỏi tự
điền
điền
Phỏng vấn sâu Biên bản ghi
chép/Ghi âm.

Chọn chủ Ban giám đốc;
đích, đại Khoa Kiểm soát
diện
nhiễm khuẩn
Khoa lâm sàng
Khoa cận lâm sàng
Hành chính
Khoa Dược
3 Sổ sách,
Chủ đích Liên quan
Thống kê
tài liệu,
trong 5 năm
hồ sơ
từ năm 2012
đến 2017
2.5. Biến số và chỉ số nghiên cứu

Bảng trống

Bảng 2.1: Các biến số và chỉ số nghiên cứu
Nhóm

biến số
Thông tin
chung

Các biến số

Tuổi
Giới
Chức danh
chuyên môn
Trình độ học
vấn
Thâm niên công
tác

Chỉ số/ định nghĩa/
phân loại

Phương
pháp
thu thập

Là tính theo năm dương
lịch (= năm 2018 trừ đi
Tự điền
năm sinh dương lịch)
Là giới tính nam hây nữ
Tự điền
của đối tượng nghiên cứu
Là lĩnh vực chuyên môn Tự điền

được căn cứ để trả lương
Là bằng cấp chuyên môn Tự điền
cao nhất được căn cứ để
xếp ngạch lương
Là thời gian tính từ lúc
Tự điền
đối tượng nghiên cứu bắt
đầu làm việc trong lĩnh

Phương
pháp
thu thập
Bộ câu
hỏi
Bộ câu
hỏi
Bộ câu
hỏi
Bộ câu
hỏi
Bộ câu
hỏi


25

Tập huấn quy
chế QLCTRYT
Thực trạng
tập huấn

Số lần tập huấn
quy chế
Đơn vị tập huấn
Mục tiêu 1: Mô tả thực trạng
Phúc năm 2018.
Kiến thức về
những nguy hại
của CTRYT đối
với sức khỏe
Kiến thức về đối
tượng dễ bị ảnh
hưởng bởi
CTRYT
Kiến thức về đối
tượng phân loại
Mô tả kiến CTRYT
Kiến thức về
thức về
thời điểm phân
quản lý
loại CTRYT
CTRYT
Kiến thức về
của CBYT
màu sắc của túi/
thùng đựng
CTRYT
Kiến thức của
CBYT về phân
loại CTRYT

Kiến thức của

vực chuyên môn đến
hiện tại.
Đối tượng nghiên cứu đã Tự điền
được phổ biến, hướng
dẫn về quy chế
QLCTRYT
Số lần đối tượng tham
Tự điền
gia tập huấn quy chế
Đơn vị làm công tác tập Tự điền
huấn quy chế cho đối
tượng
quản lý CTRYT tại Bệnh viện Tâm thần
Là hiểu biết của đối
tượng nghiên cứu về
những ảnh hưởng của
CTRYT đối với sức khỏe
Là hiểu biết của đối
tượng nghiên cứu về
những người dễ bị ảnh
hưởng bởi CTRYT.
Là hiểu biết của đối
tượng về số nhóm và tên
các nhóm CTRYT
Là hiểu biết của đối
tượng về thời điểm phân
loại CTRYT
Là hiểu biết của đối

tượng về các màu sắc
của túi/ thùng đựng
CTRYT
Là hiểu biết của đối
tượng về quá trình tác
riêng từng loại CTYT
Là hiểu biết của đối

Bộ câu
hỏi
Bộ câu
hỏi
Bộ câu
hỏi
tỉnh Vĩnh

Tự điền
Bộ câu
hỏi
Tự điền
Bộ câu
hỏi
Tự điền

Tự điền

Bộ câu
hỏi
Bộ câu
hỏi


Tự điền
Bộ câu
hỏi
Tự điền

Tự điền

Bộ câu
hỏi
Bộ câu


×