Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.81 KB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN CẨM TÚ

VAI TRß CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N TèI CAO
TRONG HO¹T §éNG T¦¥NG TRî T¦ PH¸P VÒ H×NH


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN CẨM TÚ

VAI TRß CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N TèI CAO
TRONG HO¹T §éNG T¦¥NG TRî T¦ PH¸P VÒ H×NH

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY GIẢNG

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

NGUYỄN CẨM TÚ


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn..................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!....................................................................................................................1



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CQTƯ

Cơ quan trung ương

ĐƯQT

Điều ước quốc tế

HTQT

Hợp tác quốc tế

THTT

Tiến hành tố tụng


TTHS

Tố tụng hình sự

TTTP

Tương trợ tư pháp

TTTPHS

Tương trợ tư pháp về hình sự

UNCAC

Công ước chống tham nhũng của Liên hợp quốc

UNTOC

Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia của Liên hợp quốc

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC


Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Vụ 13

Vụ Hợp tác quốc tế và Tương trợ tư pháp hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với những bước tiến của thời đại toàn cầu hoá và thông tin hoá, tội
phạm không chỉ diễn ra trong phạm vi biên giới lãnh thổ của một quốc gia mà có xu
hướng diễn tiến theo phương thức có tổ chức xuyên quốc gia. Các hình thức tội
phạm xuyên quốc gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là tội phạm liên quan đến mua bán
ma túy và các loại tội phạm mang lại lợi nhuận cao như các loại tội phạm mua bán
người, rửa tiền, tội phạm công nghệ cao... Các nhóm tội phạm xuyên quốc gia lợi
dụng những kẽ hở của pháp luật và sử dụng những tiến bộ vượt bậc về khoa học
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin để tăng cường hoạt động. Tội phạm
trong nước cũng tăng cường móc nối với tội phạm ở nước ngoài để tiến hành các
hoạt động phạm tội. Thực trạng đó đặt ra nhiều thách thức to lớn cho các cơ quan
thực thi pháp luật trong việc trấn áp và xử lý tội phạm nói chung, tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia nói riêng, thực tế cho thấy nếu chỉ dựa vào quy định của pháp
luật trong nước để đối phó với tội phạm có tổ chức thì không đủ sức răn đe, không
đủ mạnh để có thể điều tra, truy tố, xét xử tội phạm có yếu tố nước ngoài, chính vì
vậy cơ quan có thẩm quyền THTT của các nước cần phải tăng cường hợp tác với
nhau; HTQT trong đấu tranh chống tội phạm trở thành xu thế tất yếu, trong đó hoạt
động TTTPHS được xác định là một trong những hoạt động HTQT hiệu quả để đấu
tranh, xử lý tội phạm.
Tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược của Đảng ta nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Nghị quyết Đại hội XII của

Đảng đã khẳng định chủ trương về mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước như
sau: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế”. Tăng cường HTQT cũng là một trong những nội dung lớn
của cải cách tư pháp, được quy định tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị:
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã xác định:

1


... Tăng cường HTQT về công tác tư pháp, nghiên cứu tham khảo có
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp, về đào tạo cán bộ tư pháp, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về
giải quyết các loại tranh chấp trên cơ sở độc lập, chủ quyền, an ninh quốc
gia. Phổ biến rộng rãi và tổ chức thực hiện tốt các Công ước quốc tế, Hiệp
định TTTP và các Hiệp định hợp tác phòng chống tội phạm mà Đảng và
Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập; tiếp tục nghiên cứu việc ký kết Hiệp
định TTTP với các nước khác, trước hết là với các nước láng giềng, các
nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống [5].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020" nhấn mạnh:
... Tổ chức thực hiện tốt các ĐƯQT mà Nhà nước đã tham gia.
Tiếp tục ký kết Hiệp định TTTP với các nước khác, trước hết là với các
nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền
thống. Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với một
số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học tập [7].
Trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, việc phát triển các hoạt

động hợp tác kinh tế, đầu tư và giao lưu giữa công dân các nước tạo cơ sở thuận lợi cho
phát triển kinh tế xã hội, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ gia tăng tội phạm. Do đó, việc tăng
cường HTQT trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia thông qua hoạt động TTTPHS là nhu cầu khách quan và cấp thiết.
Ở Việt Nam, TTTPHS được thực hiện theo quy định của Luật TTTP, BLTTHS và các
ĐƯQT đa phương và song phương mà Việt Nam là thành viên.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, VKSNDTC được xác định là CQTƯ
của Việt Nam trong TTTPHS. Thực tiễn của hoạt động TTTPHS cho thấy còn nhiều
vấn đề khó khăn như: các cơ quan có thẩm quyền THTT nhận thức chưa đúng, chưa
đầy đủ về ý nghĩa của hoạt động TTTP trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự,
do đó không yêu cầu ủy thác tư pháp đối với những vấn đề cần phải xác minh trong
vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài hoặc có yêu cầu ủy thác nhưng không đúng quy
định của Luật TTTP năm 2007 như thông qua kênh ngoại giao (Sở Ngoại vụ, Đại sứ

2


quán hoặc Lãnh sự quán…), dẫn đến hệ quả là tài liệu thu thập thập được không có
giá trị chứng cứ vì không được thu thập theo đúng trình tự thủ tục được quy định tại
BLTTHS. Vì vậy việc nghiên cứu nâng cao vai trò của VKSNDTC trong TTTPHS
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTTPHS cũng như công tác đấu tranh chống
tội phạm đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước
ngoài là vô cùng cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hoạt động HTQT trong TTHS của VKSNDTC đã thu hút sự quan tâm, chú ý
của nhiều học giả, nhiều nhà khoa học trong và ngoài ngành Kiểm sát nhân dân, một
số công trình khoa học và được công bố trong một số Luận án Tiến sỹ, Luận văn Thạc
sỹ, đề tài cấp bộ và trên các tạp chí chuyên ngành tập trung nghiên cứu về các khía
cạnh khác nhau của hoạt động HTQT trong TTHS, trong đó ít nhiều có đề cập đến
hoạt động TTTPHS. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu sau:

- "Những vấn đề về HTQT của VKS trong qúa trình thực hiện thẩm
quyền và trách nhiệm của VKS trong BLTTHS năm 2003 và Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004, những kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện quá trình hoạt
động này" của Tiến sỹ Vũ Văn Mộc.
- "Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TTTPHS"
của Tiến sỹ Mai Thế Bày.
- "HTQT của Việt Nam trong TTHS - Những vấn đề lý luận và thực tiễn "
của Nguyễn Quốc Cường.
- "HTQT đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân
dân Việt Nam" của Bùi Anh Dũng.
- "Một số vấn đề về HTQT trong đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia’’ của các tác giả Tiến sỹ Đinh Xuân Nam và Tiến sỹ Nguyễn
Xuân Hưởng.
- "Hoàn thiện các quy định về HTQT trong BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp" của tác giả Lại Hợp Việt.
Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ
thống và toàn diện về vấn đề: "Vai trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS",
bản thân TTTPHS là một hoạt động còn khá mới mẻ ở Việt Nam, các cơ quan có

3


thẩm quyền THTT nước ta còn nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan
trọng của hoạt động TTTPHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có yếu tố
nước ngoài và đặc biệt là vai trò của VKSNDTC trong hoạt động này. Chính vì
vậy, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật Việt Nam về vai trò của VKSNDTC trong TTTPHS, quy định liên quan
của pháp luật quốc tế, phân tích thực trạng pháp luật có liên quan cũng như thực
tiễn phát huy vai trò của VKSNDTC trong TTTPHS, từ đó đề xuất giải pháp
hoàn thiện pháp luật và giải pháp hỗ trợ khác nhằm tăng cường vai trò của

VKSNDTC trong TTTPHS, nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của VKSNDTC trong hoạt động
TTTPHS, đồng thời nghiên cứu thực trạng của việc phát huy vai trò của VKSNDTC
trong hoạt động TTTPHS để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường vai trò
của VKSNDTC là CQTƯ trong TTTPHS, từ đó nâng cao hiệu quả công tác
TTTPHS, góp phần giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng người, đúng tội các vụ
án hình sự có yếu tố nước ngoài.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về TTTPHS và vai trò của VKSNDTC trong
hoạt động TTTPHS.
- Phân tích những quy định của pháp luật trong nước và các ĐƯQT có liên
quan đến TTTPHS và vai trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS.
- Phân tích thực tiễn hoạt động TTTPHS kể từ khi Luật TTTP năm 2007 có
hiệu lực cho đến nay, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc của thực tiễn hoạt động
TTTPHS từ góc độ của VKSNDTC là CQTƯ của Việt Nam trong TTTPHS.
- Nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật quốc tế về vai trò của VKS, Viện Công tố,
Cơ quan Tổng Chưởng lý của một số nước trên thế giới trong hoạt động TTTPHS.
- Giới thiệu xu thế mới trong hoạt động TTTPHS trên thế giới hiện nay.
- Kiến nghị giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về TTTPHS và
các giải pháp hỗ trợ khác để VKSNDTC phát huy tốt vai trò là CQTƯ của Việt Nam
trong TTTPHS nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTTPHS trong giải quyết vụ

4



án hình sự và đấu tranh chống tội phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò của VKSNDTC trong hoạt
động TTTPHS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về TTTPHS và vai trò
của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS, những quy định của pháp luật về
TTTPHS và thực tiễn phát huy vai trò là CQTƯ của Việt Nam trong TTTPHS của
VKSNDTC; ngoài ra luận văn còn nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật quốc tế về
vai trò của VKS/Viện Công tố/Cơ quan Tổng Chưởng lý của một số nước trên thế
giới trong hoạt động TTTPHS, giới thiệu xu thế mới trong hoạt động TTTPHS trên
thế giới hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và
giải pháp hỗ trợ khác nhằm phát huy tối đa vai trò của VKSNDTC trong TTTPHS
và nâng cao hiệu quả của công tác TTTPHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm và tư tưởng
chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung, về
cải các tư pháp nói riêng, chính sách pháp luật của nhà nước Việt Nam trong lĩnh
vực hình sự, tố tụng hình sự và hợp tác quốc tế.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận gắn với thực tiễn,
thống kê, phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh về những kết quả đạt được.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Về mặt khoa học, từ những nghiên cứu về cơ sở lý luận và quy định của pháp
luật có liên quan đến TTTPHS, luận văn sẽ đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định về
TTTPHS ở Việt Nam nhằm tạo cơ sở cho việc phát huy tốt vai trò là CQTƯ trong
hoạt động TTTPHS của VKSNDTC.

Về mặt thực tiễn, từ những nghiên cứu về thực tiễn của hoạt động TTTPHS
kể từ khi Luật TTTP năm 2007 có hiệu lực đến nay, luận văn sẽ chỉ ra những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn và đề xuất một số giải pháp tháo gỡ khó khăn,

5


vướng mắc để VKSNDTC phát huy tối đa vai trò CQTƯ trong hoạt động TTTPHS
của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRONG HOẠT ĐỘNG
TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm hoạt động TTTPHS
1.1.

Quá trình hình thành và phát triển của hoạt động TTTPHS

Trong tác phẩm “Luận cương về Phơ-bách” (năm 1845) Các Mác chỉ rõ:
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội [11, tr.11]. Như vậy, bản chất con người chỉ có thể được hình
thành, được nhận thức thông qua các quan hệ xã hội của nó. Bản chất con

người không phải là thần bí, trừu tượng, bất biến, tách rời khỏi những mối
quan hệ xã hội khách quan, nó có thể được nhận thức thông qua các tổ
chức, thể chế chính trị, các mối quan hệ xã hội hiện thực, xác định [23].
Trong xã hội loài người, không chỉ giữa con người với con người, giữa con
người với xã hội mà suy rộng ra giữa các quốc gia với nhau cũng đều tồn tại những
mối liên hệ, hợp tác chặt chẽ để cùng tồn tại và phát triển. Điều đó làm cho khoảng
cách không gian và thời gian giữa các quốc gia thu hẹp lại, các quốc gia xích lại gần
nhau hơn để cùng chung tay đối phó với những thách thức chung, trong đó có tội
phạm. Ngay từ thế kỷ XIX khi các quốc gia phát triển Phương Tây đẩy mạnh hợp tác
kinh tế, chính trị, quân sự với nhau và tăng cường xâm lược thuộc địa sang các quốc
gia châu Á và châu Phi, dòng người di chuyển giữa các quốc gia tăng cao kéo theo sự
xuất hiện của tội phạm xuyên biên giới, xuyên quốc gia, Chính phủ các nước đã bắt
đầu dành cho nhau sự giúp đỡ, hỗ trợ trong việc đưa người phạm tội ở nước mình bỏ
trốn sang nước khác về nước để chịu sự trừng phạt của pháp luật nước mình. Đây có
thể coi là hoạt động TTTPHS sơ khai nhất mà các quốc gia dành cho nhau. Tuy nhiên,
ở thời điểm này, phạm vi của hoạt động TTTPHS vẫn còn hẹp, chỉ dừng lại ở việc dẫn
độ tội phạm và điều tra thu thập một số thông tin, tài liệu, tống đạt văn bản để phục vụ
cho việc phối hợp dẫn độ tội phạm. Theo tác giả Thành Lương Văn:
Bước sang thế kỷ XX, đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
một loạt Công ước quốc tế, ĐƯQT song phương và đa phương được ký

7


kết, một số quốc gia xây dựng pháp luật trong nước về TTTPHS đánh
dấu sự hình thành chính thức của hoạt động TTTPHS với 06 lĩnh vực
hoạt động chủ yếu như ngày nay, đó là: 1) Tống đạt văn bản; 2) Trao đổi
thông tin; 3) Thu thập chứng cứ; 4) Dẫn độ; 5) Chuyển giao truy cứu
TNHS; 6) Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định hình sự của
nước ngoài, làm cho hoạt động TTTPHS trải khắp các giai đoạn điều tra,

truy tố, xét xử và thi hành án [66, tr.84].
Khẳng định quan hệ mật thiết giữa hoạt động TTTPHS giữa các quốc gia và
tình hình quan hệ ngoại giao giữa nước yêu cầu và nước được yêu cầu, tác giả
Thành Lương Văn cho rằng:
TTTPHS được coi là một trong những nội dung quan trọng của
quan hệ HTQT của một quốc gia, từ việc soạn thảo, đàm phán, ký kết
Hiệp định cho đến việc thực hiện những hoạt động tương trợ cụ thể đều
có quan hệ mật thiết với quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia. Quan hệ
đối ngoại giữa các quốc gia tốt hay xấu đều có ảnh hưởng trực tiếp đế
việc triển khai hoạt động TTTPHS [66, tr.87].
Xét về lịch sử phát triển của TTTPHS hiện đại, có thể chia làm 03 giai
đoạn như sau:
Thứ nhất, giai đoạn trước năm 1970: trong giai đoạn này hoạt động TTTPHS
chủ yếu diễn ra giữa các quốc gia gần nhau về mặt địa lý, có nhiều điểm tương đồng
về nguồn gốc văn hóa và chế độ xã hội. Đây cũng là giai đoạn cao trào của việc ký
kết các ĐƯQT về TTTPHS khu vực châu Âu, châu Mỹ. Châu Âu được đánh giá là
lục địa có tốc độ phát triển về lĩnh vực TTTPHS nhanh nhất, đánh dấu bằng việc
thông qua một loạt Công ước điều chỉnh hoạt động TTTPHS như: Công ước của
châu Âu về dẫn độ năm 1957, Công ước của châu Âu về TTTPHS năm 1959, Công
ước của châu Âu về hiệu lực quốc tế của bản án hình sự năm 1970. Ở châu Mỹ, năm
1902, 17 quốc gia châu Mỹ trong đó có Hoa Kỳ đã ký Công ước của châu Mỹ về
dẫn độ; năm 1971, các quốc gia châu Mỹ ký Công ước của tổ chức các quốc gia
châu Mỹ về phòng ngừa và đấu tranh chống hành động khủng bố.
Thứ hai, giai đoạn những năm 1970 đến năm 1990: cùng với sự trỗi dậy của
các quốc gia thuộc thế giới thứ ba trên vũ đài quốc tế, quan hệ giữa Phương Đông

8


và Phương Tây phát triển tích cực, quan hệ giữa các quốc gia không ngừng phát

triển tốt đẹp trên cơ sở nguyên tắc chung sống hòa bình. Quan hệ ngoại giao giữa
các quốc gia phát triển tốt đẹp cũng kéo theo sự phát triển của hoạt động TTTPHS
giữa các quốc gia. Đến giai đoạn này, các quốc gia có sự khác biệt về chế độ xã hội,
hình thái ý thức, nguồn gốc văn hóa đã tiến hành đàm phán, ký kết các Hiệp định
TTTPHS và triển khai các hoạt động tương trợ cho nhau. Ví dụ: Hiệp định Dẫn độ
và TTTPHS giữa Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1979; Hiệp định TTTPHS giữa Hoa
Kỳ và Thụy Điển năm 1977; Hiệp định TTTPHS giữa Hoa Kỳ và Hà Lan năm
1983; Hiệp định TTTPHS giữa Hoa Kỳ và Italia năm 1985; Hiệp định TTTP về các
vấn đề dân sự và hình sự giữa Séc và Việt Nam năm 1982; Hiệp định TTTP về các
vấn đề dân sự, hôn nhân – gia đình và hình sự giữa Séc và Cuba năm 1980... Bên
cạnh đó, các điều ước đa phương cũng được ký kết, như: Công ước của châu Âu về
chuyển giao truy cứu TNHS năm 1972, Công ước của châu Âu về chuyển giao
người đang chấp hành án phạt tù năm 1983…
Thứ ba, giai đoạn từ sau năm 1990 đến nay: Sau khi chiến tranh lạnh kết
thúc, hòa bình và phát triển trở thành dòng chảy chính của thời đại, sự mở rộng của
quan hệ hợp tác và giao lưu giữa các quốc gia kéo theo sự phát triển tích cực của
hoạt động TTTPHS giữa các quốc gia. Quan hệ trong lĩnh vực TTTPHS cũng tác
động trở lại và trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia. Đặc biệt là sau sự kiện 11-9 tại Hoa
Kỳ, các quốc gia ngày càng nhận thức rõ ràng hơn tầm quan trọng của việc tăng
cường hợp tác đấu tranh chống tội phạm, không chỉ đẩy mạnh đàm phán, ký kết và
tham gia các ĐƯQT đa phương, các Hiệp định TTTPHS, thúc đẩy vai trò của các tổ
chức quốc tế trong hoạt động TTTPHS như Cơ quan Phòng chống ma túy và tội
phạm của Liên hợp quốc (UNODC), Hội nghị thượng đỉnh APEC...mà còn tích cực
hoàn thiện khung pháp lý trong nước nhằm phù hợp với các ĐƯQT về TTTPHS.
Hiện nay, pháp luật quốc gia về TTTPHS chủ yếu được xây dựng và hoàn thiện theo
03 hình thức: Một là xây dựng Chương riêng trong BLTTHS điều chỉnh lĩnh vực
TTTPHS, đây là phương thức được đa số các quốc gia trên thế giới sử dụng; Hai là
xây dựng các đạo luật riêng để điều chỉnh từng lĩnh vực cụ thể của TTTPHS, ví dụ:
một số quốc gia đã ban hành Luật dẫn độ; Ba là xây dựng một đạo luật điều chỉnh


9


tất cả các lĩnh vực của TTTPHS, Luật TTTPHS quốc tế của Đức năm 1982 là một
ví dụ điển hình.
1.2.

Đặc điểm của hoạt động TTTPHS

TTTPHS đóng vai trò là một trong những hình thức quan trọng của HTQT
trong TTHS, phát huy vai trò ngày một quan trọng trong phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Qua nghiên cứu, có
thể rút ra một số đặc điểm của hoạt động TTTPHS như sau:
Thứ nhất, bản chất của hoạt động TTTPHS chính là sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các quốc gia trong việc điều tra, truy tố vụ án hình hoặc các thủ tục
TTHS khác. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài
trong đó hành vi phạm tội được thực hiện ở nước ngoài, vụ án hình sự có bị can,
bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến vụ án ở nước
ngoài...các cơ quan có thẩm quyền THTT trong nước xét thấy cần thiết phải đề
nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hỗ trợ thực hiện các hành vi tố tụng
riêng biệt như: thực hiện uỷ thác điều tra, tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu, triệu
tập người làm chứng, người giám định, trao đổi thông tin, thu thập chứng cứ, tài
liệu trong quá trình điều tra, truy tố hoặc các thủ tục tố tụng khác về hình sự thì
lập hồ sơ yêu cầu gửi cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hỗ trợ thực hiện.
Các hoạt động trợ giúp lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền THTT của các
quốc gia trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được thực hiện dưới danh nghĩa
quốc gia chứ không phải danh nghĩa của các cơ quan THTT.
Thứ hai, cơ sở pháp lý của việc thực hiện TTTPHS là ĐƯQT song phương
hoặc đa phương giữa các quốc gia; trong trường hợp giữa các quốc gia chưa có

ĐƯQT, hoạt động TTTPHS vẫn được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại,
đây được coi là nguyên tắc phổ biến trong quan hệ quốc tế được nhiều nước áp dụng.
Thứ ba, CQTƯ về TTTPHS (chịu trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết yêu
cầu TTTPHS của nước ngoài và lập yêu cầu TTTPHS gửi cho phía nước ngoài)
về nguyên tắc đều do pháp luật của mỗi quốc gia quy định hoặc được chỉ định cụ
thể trong ĐƯQT về TTTP song phương đã ký kết và có hiệu lực, song thông
thường là cơ quan VKS/Viện công tố hoặc Bộ Tư pháp. Ở Việt Nam, CQTƯ về
TTTPHS là VKSNDTC, có trách nhiệm làm đầu mối tiếp nhận, chuyển giao,

10


theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các ủy thác tư pháp về hình sự; xem xét, quyết
định việc thực hiện; thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động TTTPHS
theo thẩm quyền; hướng dẫn thực hiện TTTPHS. VKSNDTC đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm thực hiện TTTPHS theo đúng quy định của các Hiệp
định TTTP, Luật TTTP, BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ tư, mục đích của hoạt động TTTPHS là nhằm hỗ trợ cho việc giải
quyết vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài kịp thời, chính xác, đúng người đúng
tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân và pháp nhân của
các quốc gia trên lãnh thổ của nhau, đóng góp tích cực vào hoạt động phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm; củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp
tác về nhiều mặt giữa các quốc gia. Hoạt động TTTPHS giúp các cơ quan có
thẩm quyền THTT thu thập các thông tin, tài liệu toàn diện, đầy đủ, bảo đảm giá
trị chứng cứ của các thông tin, tài liệu được thu thập, góp phần chứng minh sự
thật khách quan của vụ án, giải quyết triệt để tội phạm kể cả khi tội phạm đã lẩn
trốn ra nước ngoài nhằm trốn tránh việc bị các cơ quan có thẩm quyền trong
nước truy cứu TNHS.
1.3.


Khái niệm hoạt động TTTPHS

Theo nguyên tắc chủ quyền giữa các quốc gia – một trong những nguyên tắc cơ
bản của công pháp quốc tế, “trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên
ngoài” [43, tr.41]. Theo đó, “các hành vi TTHS của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chỉ có thể được thực hiện trong phạm vi giới hạn lãnh thổ của quốc gia” [43, tr.342]
Tuy nhiên, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự cho thấy, trong
nhiều trường hợp hoạt động TTHS của một quốc gia chỉ có thể được thực hiện hiệu
quả khi có sự trợ giúp của cơ quan có thẩm quyền của một quốc gia khác.
TTTPHS được coi là cánh tay nối dài hiệu quả của quyền tư pháp của một quốc
gia ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia đó, có ý nghĩa quan trọng cả về quan hệ ngoại giao
giữa các quốc gia và quan hệ hợp tác trong lĩnh vực tư pháp. UNODC cho rằng
“TTTPHS là quá trình trong đó các quốc gia tìm kiếm và dành cho nhau sự hỗ trợ
trong việc thu thập chứng cứ để sử dụng trong các vụ án hình sự” [20, tr.19]. Khái
niệm TTTPHS của UNODC tuy đơn giản nhưng đi vào bản chất của hoạt động này,

11


đó là việc các quốc gia dành cho nhau sự trợ giúp để thu thập chứng cứ phục vụ cho
việc điều tra, giải quyết vụ án hình sự. Chia sẻ quan điểm nêu trên của UNODC về
khái niệm TTTPHS, các tác giả Joon Gyu Kim (Tổng Công tố trưởng thứ 37 của
Hàn Quốc, Phó chủ tịch Hiệp hội Công tố viên quốc tế) và Cheol-Kyu Hwang (Phó
Tổng Công tố trưởng Hàn Quốc, Ủy viên thường trực Hiệp hội Công tố viên quốc
tế, Cố vấn pháp luật của Phái đoàn thường trực Hàn Quốc tại Liên hợp quốc) cho
rằng: “Mục đích chính của TTTPHS là nhằm có được sự trợ giúp của nước ngoài
trong việc thu thập chứng cứ...Vì vậy, TTTPHS có thể được hiểu là quá trình các
quốc gia hỗ trợ nhau thu thập chứng cứ sử dụng trong vụ án hình sự” [64, tr.24-25].
Qua nghiên cứu pháp luật về TTTP một số quốc gia điển hình trên thế giới có

thể nhận thấy: ở Cộng hòa Liên bang Đức, TTTPHS được hiểu là việc các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của các quốc gia trợ giúp lẫn nhau trong việc tống đạt giấy
tờ, tài liệu tư pháp và thực hiện các hành vi tố tụng riêng biệt khác để thu thập
chứng cứ nhằm giải quyết vụ án hình sự. Pháp luật các quốc gia châu Á như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapore và pháp luật Hoa Kỳ cũng chia sẻ cách hiểu về TTTPHS
tương tự như cách hiểu của Cộng hòa liên bang Đức, Liên bang Nga, Cộng hòa
Pháp, Cộng hòa Italy và một số nước khác thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục
địa. Australia quan niệm TTTPHS là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trợ
giúp lẫn nhau trong một số hoạt động TTHS như: thu thập chứng cứ của người làm
chứng tại Australia phục vụ quá trình tố tụng ở nước ngoài; sắp xếp cho người làm
chứng (nếu tự nguyện) ra nước ngoài để cung cấp chứng cứ; xin phê chuẩn và thực
hiện lệnh tạm giữ và tịch thu tài sản do phạm tội mà có [2]. Tùy thuộc vào phạm vi
nội dung các vấn đề được quy định trong pháp luật về TTTPHS của các quốc gia và
các ĐƯQT có liên quan, TTTPHS được hiểu là việc các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của các quốc gia trợ giúp lẫn nhau trong việc thực hiện hành vi tố tụng riêng
biệt để thu thập chứng cứ nhằm giải quyết vụ án hình sự. Có thể nói, đây là cách
hiểu mà phần lớn các quốc gia trên thế giới thừa nhận.
Khác với quan niệm nêu trên về hoạt động TTTPHS của các quốc gia trên
thế giới, các học giả Trung Quốc lại tiếp cận TTTPHS theo hai cách: theo nghĩa hẹp
và theo nghĩa rộng. Theo PGS. Vương Tĩnh của Trường Đại học cảnh sát nhân dân
Trung Quốc:

12


TTTPHS có thể được lý giải theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, TTTP hiểu
theo nghĩa hẹp chủ yếu bao gồm các nội dung: tống đạt văn bản, thu thập
chứng cứ, trao đổi thông tin và kết quả tố tụng... Đây là những hình thức hợp
tác nhiều nhất giữa các quốc gia. TTTP theo nghĩa rộng là ngoài những nội
dung của TTTP theo nghĩa hẹp còn bao gồm hoạt động dẫn độ [69].

Cùng quan điểm này, tác giả Lương Ngọc Hà, Tiến sĩ Luật học, Giáo sư Viện
Luật học Đại học Ký Nam Trung Quốc cho rằng:
Căn cứ quy định của các ĐƯQT và Luật dẫn độ, hoạt động TTTPHS
giữa Trung Quốc với nước ngoài bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1) Tống đạt văn bản TTHS; 2) Điều tra, thu thập chứng cứ; 3) Trao đổi
thông tin TTHS; 4) Dẫn độ; 5) Chuyển giao truy cứu TNHS; 6) Chuyển
giao người đang chấp hành án phạt tù; 7) Chuyển giao tài sản do phạm
tội mà có [68, tr.47-48-49].
Bằng việc thừa nhận khái niệm TTTPHS theo nghĩa rộng, các học giả Trung
Quốc cho rằng TTTPHS phải là tất cả các hoạt động HTQT trong TTHS giữa các
quốc gia nhằm đưa người phạm tội ra xét xử. Quan niệm này làm cho phạm vi của
hoạt động TTTPHS mà Trung Quốc thực hiện rộng hơn nhiều so với các quốc gia
khác, đây cũng là lý do để lý giải cho việc VKSNDTC Trung Quốc được chỉ định là
CQTƯ của nước này trong hoạt động TTTPHS và hoạt động dẫn độ theo nhiều
ĐƯQT mà nước này đã ký kết.
Tại Việt Nam, mặc dù hoạt động TTTPHS được điều chỉnh bởi quy định của
BLTTHS năm 2015 và Luật TTTP năm 2007 nhưng cả hai đạo luật này cũng chưa
đưa ra khái niệm về TTTPHS. Phần thứ tám của BLTTHS năm 2015 có đưa ra khái
niệm “HTQT trong TTHS” tại cụ thể như sau: “HTQT trong TTHS là việc các cơ
quan có thẩm quyền của nước CHXHCN Việt Nam và các cơ quan có thẩm quyền
của nước ngoài phối hợp, hỗ trợ nhau để thực hiện hoạt động phục vụ yêu cầu điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [38, Điều 491, Khoản 1]; đồng thời quy
định phạm vi HTQT trong TTHS tại như sau: “HTQT trong TTHS gồm TTTPHS;
dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và các hoạt động
HTQT khác được quy định tại Bộ luật này, pháp luật về TTTP và ĐƯQT mà
CHXHCN Việt Nam là thành viên” [38, Điều 491, Khoản 2]. Như vậy, BLTTHS đã

13



chỉ rõ TTTPHS là một trong những nội dung hoạt động của HTQT trong TTHS bên
cạnh các hoạt động dẫn độ, tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và
các hoạt động HTQT khác trong TTHS. Điều này cũng cho thấy cách tiếp cận của Việt
Nam về TTTPHS là tương đồng với đa số các quốc gia trên thế giới. BLTTHS năm
2015 tuy có đề cập đến một số hoạt động cụ thể của TTTPHS như: tiếp nhận, chuyển
giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án và giá trị pháp lý của tài liệu, đồ vật thu thập
được qua HTQT trong TTHS; việc THTT của người có thẩm quyền của Việt Nam ở
nước ngoài và người có thẩm quyền của nước ngoài ở Việt Nam; sự có mặt của người
làm chứng, người giám định, người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam ở nước
ngoài; người làm chứng, người giám định, người đang chấp hành án phạt tù tại nước
ngoài ở Việt Nam, nhưng chưa có quy định về khái niệm TTTPHS. Luật TTTP năm
2007 cũng chỉ mới có quy định về phạm vi, thủ tục TTTPHS và trách nhiệm của
VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS chứ đưa ra khái niệm TTTPHS.
Theo Tiến sỹ Trần Công Phàn, Phó Viện trưởng VKSNDTC:
TTTPHS là việc các quốc gia giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong việc
điều tra, truy tố hoặc các thủ tục tố tụng khác trong các vấn đề hình sự
thông qua CQTƯ của mỗi quốc gia trên cơ sở ĐƯQT song phương
hoặc đa phương mà các quốc gia ký kết hoặc tham gia hoặc nguyên
tắc có đi có lại [53, tr.11].
Khái niệm này đã chỉ ra bản chất của hoạt động TTTPHS chính là sự giúp
đỡ, hỗ trợ lẫn nhau giữa các quốc gia trong quá trình điều tra, truy tố và thực hiện
các thủ tục tố tụng khác về hình sự, sự giúp đỡ, trợ giúp này là trên danh nghĩa quốc
gia chứ không phải danh nghĩa của cơ quan THTT; chủ thể chính phát huy vai trò
đầu mối trong hoạt động TTTPHS là CQTƯ do mỗi quốc gia chỉ định mà thông
thường là cơ quan Kiểm sát, cơ quan Công tố; cơ sở pháp lý của hoạt động
TTTPHS là các ĐƯQT song phương hoặc đa phương mà các quốc gia ký kết hoặc
tham gia hoặc nguyên tắc có đi có lại.
Thực tiễn của công tác TTTPHS cho thấy giờ đây các quốc gia không chỉ giới
hạn phạm vi đối tác triển khai quan hệ TTTP ở chủ thể cơ bản nhất của luật quốc tế đó
là những quốc gia đã được công nhận mà đã mở rộng sang các thực thể đặc biệt khác là

các vùng lãnh thổ như Đài Loan, Ma Cao, Hồng Kông, Palestine… Phạm vi hoạt động

14


TTTP ngày càng được mở rộng, không chỉ dừng lại ở hoạt động thu thập chứng cứ,
tống đạt văn bản, tài liệu phục vụ việc giải quyết một vụ án hình sự đơn lẻ mà còn
hướng tới trao đổi thông tin mở rộng điều tra nhằm đáp ứng những yêu cầu của việc
tăng cường HTQT trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Trong tác phẩm “Những
sáng kiến mới về HTQT trong tư pháp hình sự”, các tác giả Joon Gyu Kim, CheolKyo Hwang cũng đưa ra nhận định về xu hướng mở rộng phạm vi TTTPHS như
sau: “Một xu thế mới xuất hiện theo hướng mở rộng liên tục phạm vi của TTTPHS.
Điều này cũng được thể hiện trong Hiệp định TTTPHS mẫu của Liên hợp quốc,
theo đó các bên dành cho nhau sự trợ giúp lớn nhất có thể” [64, tr.25].
Qua nghiên cứu quan điểm của một số nước trên thế giới và Việt Nam về
TTTPHS và thực tiễn phát triển của hoạt động TTTPHS, dưới góc độ khoa học, theo
người viết có thể hiểu: hoạt động TTTPHS là việc các quốc gia, vùng lãnh thổ giúp
đỡ, hỗ trợ nhau thực hiện việc tống đạt văn bản, tài liệu, triệu tập người làm chứng,
người giám định, thu thập, cung cấp chứng cứ, chuyển giao truy cứu TNHS, trao đổi
thông tin và các hoạt động khác thông qua CQTƯ của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ,
trên cơ sở ĐƯQT song phương hoặc đa phương mà các quốc gia, vùng lãnh thổ ký
kết hoặc tham gia hoặc nguyên tắc có đi có lại nhằm giải quyết vụ án hình sự có yếu
tố nước ngoài và phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
1.2. Khái niệm, đặc điểm vai trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS
1.2.1. Khái niệm vai trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS
Thuật ngữ “vai trò” được định nghĩa là: “tác dụng, chức năng trong sự hoạt
động, sự phát triển của cái gì đó” [33, tr.1095]. Thuật ngữ “vai trò” trong tiếng Anh là
“role”, theo giải thích của Từ điển tiếng Anh Oxford Advanced Learner’s Dictionary,
danh từ “role” được hiểu là “the function or position that some body has or is expected
to have in an organization, in society or in a relationship” [65, tr.1268] (tạm dịch là:

chức năng hoặc vị trí mà một người có được hoặc mong muốn có được trong một tổ
chức, xã hội hoặc trong một mối quan hệ). Như vậy, có thể hiểu một cách ngắn gọn,
“vai trò” chính là vị trí, chức năng của một chủ thể trong một lĩnh vực hoặc một tổ
chức nhất định. Khi nói đến vai trò của một chủ thể trong một lĩnh vực hoặc một tổ
chức nhất định, cũng có thể hiểu là nói đến vị trí của chủ thể trong lĩnh vực hay tổ

15


chức đó là như thế nào, và ở vị trí đó chủ thể thực hiện những chức năng, nhiệm vụ
gì hoặc phát huy tác dụng như thế nào để đóng góp vào việc thực hiện chức năng
chung của lĩnh vực hoặc tổ chức đó.
Điều 493 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về CQTƯ trong HTQT về
TTHS, tức là đã chỉ ra những cơ quan chịu trách nhiệm chính trong từng lĩnh vực cụ
thể của hoạt động HTQT trong TTHS. Theo đó, “VKSNDTC là CQTƯ của nước
CHXHCN Việt Nam trong hoạt động TTTPHS và những hoạt động HTQT khác theo
quy định của pháp luật” [38]. Mặc dù vậy, đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp
lý hay công trình nghiên cứu khoa học nào của Việt Nam đưa ra khái niệm về vai
trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS.
Dưới góc độ khoa học, theo tác giả thì: vai trò của VKSNDTC trong hoạt
động TTTPHS là vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSNDTC trong việc thực hiện
tống đạt văn bản, tài liệu, triệu tập người làm chứng, người giám định, thu thập,
cung cấp chứng cứ, chuyển giao truy cứu TNHS, trao đổi thông tin và các hoạt
động khác giữa Việt Nam với quốc gia, vùng lãnh thổ khác trên cơ sở ĐƯQT song
phương hoặc đa phương mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc nguyên
tắc có đi có lại nhằm giải quyết vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài và phục vụ
công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
1.2.2. Đặc điểm vai trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS
Khái niệm vai trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS nêu trên phản
ánh những đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, VKSNDTC là CQTƯ của CHXHCN Việt Nam trong hoạt động
TTTPHS.
Đặc điểm này đã chỉ rõ vị trí của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS.
Thuật ngữ “CQTƯ” (Central Authority) đã được sử dụng rộng rãi trong các ĐƯQT
về TTTP và đấu tranh chống tội phạm cũng như các Hiệp định TTTPHS mà Việt
Nam ký kết hoặc tham gia. Theo quy định tại Khoản 13 Điều 18 của UNTOC, “Mỗi
quốc gia thành viên phải chỉ định CQTƯ có trách nhiệm và thẩm quyền tiếp nhận
yêu cầu TTTP, thực hiện yêu cầu hoặc chuyển yêu cầu cho cơ quan có thẩm quyền
để thực hiện”[29], nội dung tương tự cũng được quy định tại Khoản 13 Điều 46
UNCAC. Việc chỉ định CQTƯ trong TTTPHS của mỗi quốc gia thực chất là nhằm

16


giải quyết khó khăn trong thực tiễn, trước đây các yêu cầu TTTP được gửi qua cơ
quan ngoại giao thường mất rất nhiều thời gian mới đến được cơ quan tố tụng có
thẩm quyền giải quyết, nhiều trường hợp kết quả thực hiện yêu cầu không còn đáp
ứng yêu cầu về mặt tiến độ để phục vụ việc giải quyết vụ án hình sự. Với ý nghĩa đó
các quốc gia đều chỉ định CQTƯ của nước mình trong hoạt động TTTPHS và biến
nó trở thành kênh chính thống, chủ đạo để nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt
động TTTPHS với các quốc gia khác.
Vị trí CQTƯ của Việt Nam trong TTTPHS của VKSNDTC đã được khẳng
định trong nhiều Hiệp định TTTPHS mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, như:
Hiệp định TTTP và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Liên
bang Nga năm 1998, Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt
Nam và Trung Quốc năm 1998, Hiệp định TTTPHS giữa Việt Nam và Hàn Quốc
năm 2005, Hiệp định giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-Len
năm 2009, Hiệp định TTTPHS giữa Việt Nam và Australia năm 2017... Đối với
pháp luật trong nước, Luật TTTP Việt Nam năm 2007 mặc dù có quy định về trách
nhiệm của VKSNDTC trong TTTPHS, nhưng chưa có một điều luật cụ thể nào quy

định rõ ràng về vị trí CQTƯ của VKSNDTC trong lĩnh vực này. Vị trí CQTƯ trong
TTTPHS của VKSNDTC chính thức được khẳng định thông qua quy định tại Khoản
2 Điều 493 của BLTTHS năm 2015: “VKSNDTC là CQTƯ của nước CHXHCN Việt
Nam trong hoạt động TTTPHS và những hoạt động HTQT khác theo quy định của
pháp luật” [38]. Từ những phân tích trên có thể khẳng định, với vị trí CQTƯ trong
TTTPHS, VKSNDTC thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về TTTPHS dưới danh
nghĩa nước CHXHCN Việt Nam đối với các quốc gia, vũng lãnh thổ khác chứ
không phải dưới danh nghĩa VKSNDTC.
Thứ hai, VKSNDTC thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động TTTPHS.
Đặc điểm này chỉ rõ chức năng chủ yếu của VKSNDTC trong hoạt động
TTTPHS. Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động TTTPHS của
VKSNDTC bắt nguồn từ chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp của VKSND được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và được thể
chế hóa tại Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, theo đó: “VKSND là cơ quan
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước CHXHCN Việt

17


Nam” [36]. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là hai chức
năng hiến định của ngành Kiểm sát nhân dân, trong đó “thực hành quyền công tố là
hoạt động của VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội” [36], “kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức cá nhân
trong hoạt động tư pháp” [36].
Bàn về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND, TS. Lê Hữu Thể, Phó
Viện trưởng VKSNDTC khẳng định: “VKSND là một hệ thống độc lập, thống nhất
từ trung ương đến địa phương. VKSND được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc
tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc
vào các cơ quan nhà nước ở địa phương” [40, tr.13]. Đó là tiền đề quan trọng để

VKSND nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, bảo
đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ, đúng người đúng tội, đồng thời kiến nghị, yêu
cầu khắc phục khi phát hiện vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng. Theo TS.
Nguyễn Hải Phong, Nguyên Phó Viện trưởng thường trực VKSNDTC, “VKS là chủ
thể duy nhất được giao nhiệm vụ truy cứu TNHS đối với người phạm tội, nên VKS
phải được trao đầy đủ quyền năng và thực hiện triệt để quyền năng của mình để
bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội” [34, tr.14]. Để thu thập đầy đủ,
toàn diện chứng cứ cần thiết cho việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình
sự, bảo đảm “phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội” [38], VKSND trong quá trình thực hiện chức năng hiến định của mình có
quyền quyết định việc chuyển yêu cầu TTTPHS của nước ngoài cho Cơ quan điều
tra có thẩm quyền của Việt Nam để khởi tố, điều tra; yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài triệu tập người làm chứng, người giám định; thu thập, cung
cấp chứng cứ, tài liệu; truy cứu TNHS đối với người phạm tội, đồng thời VKSND
cũng có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người tiến hành và
người tham gia hoạt động TTTPHS, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị khi phát
hiện vi phạm trong hoạt động TTTPHS. Với ý nghĩa đó, thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động TTTPHS được xác định là một khâu công tác của VKSND trong
việc thực hiện chức năng chung của ngành Kiểm sát nhân dân.

18


Bên cạnh chức năng chủ yếu là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động TTTPHS, VKSNDTC còn thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ khác liên
quan đến TTTPHS được quy định cụ thể trong Luật TTTP năm 2017, Luật tổ chức
VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015 và các ĐƯQT song phương và đa phương
về TTTP hình sự mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, như: hướng dẫn VKSND các
cấp thực hiện TTTPHS; đề xuất việc ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT về TTTP;

kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về TTTP; báo cáo định
kỳ hoạt động TTTPHS.
Thứ ba, cơ sở pháp lý của vai trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS
là các ĐƯQT về TTTPHS mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và pháp luật trong
nước như: Luật TTTP năm 2007, Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS năm
2015 và một số văn bản dưới luật khác.
Thứ tư, mục đích của vai trò của VKSNDTC trong hoạt động TTTPHS là
nhằm tạo điều kiện cho hoạt động TTTPHS giữa Việt Nam với các quốc gia, vùng
lãnh thổ trên thế giới được thực hiện hiệu quả, kịp thời, đúng trình tự, thủ tục theo
quy định, phục vụ việc giải quyết vụ án hình sự đúng người, đúng tội, góp phần
nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của Việt Nam,
đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
1.3. Vai trò của VKS/cơ quan công tố một số nước trên thế giới trong
hoạt động TTTPHS
1.3.1. Vai trò của Cơ quan Tổng Chưởng lý Singapore trong hoạt động TTTPHS
* Chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan Tổng Chưởng lý Singapore
Cơ quan Tổng Chưởng lý (Attorney-General Chamber) của Cộng hòa
Singapore là một cơ quan thuộc Chính phủ Singapore. Thiết chế Cơ quan Tổng
Chưởng lý và việc bổ nhiệm Tổng Chưởng lý được quy định tại Điều 35 Chương II
của Hiến pháp Cộng hòa Singapore. Theo đó, “Tổng Chưởng lý do Tổng thống bổ
nhiệm trên cơ sở phù hợp với ý kiến của Thủ tướng, trong số các ứng cử viên bổ
nhiệm Thẩm phán của Tòa án tối cao” [12]. Điều 35 Hiến pháp Singapore quy
định:
Nhiệm vụ của Tổng Chưởng lý là cố vấn các vấn đề pháp luật cho
Chính phủ và thực hiện các nhiệm vụ pháp lý khác, trong thời gian đã

19


được Tổng thống hoặc nội các bổ nhiệm, chỉ bị tước bỏ các chức năng,

nhiệm vụ khi có quy định của Hiến pháp hoặc một đạo luật thành văn
khác, Tổng Chưởng lý có quyền tùy nghi trong việc khởi động hoặc tạm
đình chỉ tiến trình tố tụng đối với mọi loại tội phạm [12].
Với chức năng, nhiệm vụ cố vấn pháp luật trong đó có các vấn đề pháp
luật quốc tế của Chính phủ Singapore, chủ trì soạn thảo luật và các ĐƯQT trong
đó có các Hiệp định TTTPHS, thực hành quyền công tố và chỉ đạo hoạt động
điều tra các vụ án hình sự, Cơ quan Tổng Chưởng lý Cộng hòa Singapore được
giao nhiệm vụ là CQTƯ của Singapore trong TTTPHS, tiếp nhận và giải quyết
các yêu cầu TTTPHS của nước ngoài, đề ra các yêu cầu TTTPHS với nước ngoài
nhằm thu thập chứng cứ, xác minh các vấn đề của vụ án hình sự, đặc biệt là
những vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài.
* Căn cứ pháp lý của vai trò CQTƯ trong TTTPHS của Cơ quan Tổng
Chưởng lý Cộng hòa Singapore
- ĐƯQT song phương và đa phương về TTTPHS: Nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho việc triển khai hoạt động TTTPHS với nước ngoài, Cơ quan Tổng Chưởng
Singapore đại diện cho Chính phủ Singapore ký kết các Hiệp định TTTPHS song
phương với các quốc gia và Hiệp định TTTPHS của ASEAN. Các Hiệp định
TTTPHS đã ký kết và có hiệu lực đều chỉ định Cơ quan Tổng Chưởng lý Cộng hòa
Singapore là CQTƯ của nước này trong TTTPHS. Ví dụ: Singapore đã ký Hiệp
định TTTPHS với Hồng Kông, Trung Quốc năm 2004, với Ấn Độ năm 2005. Năm
2004 tại thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia, Tổng Chưởng lý Cộng hòa Singapore
đã cùng đại diện Chính phủ các nước Brunei Darussalam, Campuchia, Indonesia,
Lào, Malaysia, Philippines, Việt Nam ký Hiệp định TTTPHS giữa các quốc gia
ASEAN. Đến năm 2006, Myanmar và Thái Lan mới ký kết, tham gia Hiệp định
này. Hiện nay, Hiệp định TTTPHS ASEAN là khuôn khổ pháp lý chính thức để các
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á trong đó có Singapore và Việt Nam tiến hành
các hoạt động TTTPHS, là công cụ pháp lý quan trọng để các quốc gia ASEAN hợp
tác trực tiếp với nhau trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia trong khu vực, đóng góp thiết thực vào việc duy trì
hòa bình, ổn định và an ninh của từng quốc gia thành viên ASEAN và khu vực


20


×